Song Nhị

Công chúa Huyền Trân trong hành Trình Ðại Việt





CÔNG CHÚA HUYỀN TRÂN

TRONG HÀNH TRÌNH ĐẠI VIỆT



Chiêm quốc hay Chiêm Thành, theo sử liệu, có lãnh thổ từ Quảng Bình vào tới Phan Rang, Ninh Thuận. Năm 875, xuất hiện lần dầu tiên trong biên niên sử Trung Hoa dưới cái tên Chiêm Thành, viết theo tiếng Phạn là Champapura (có nghĩa là “Thành của người Chàm”). Chiêm quốc đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới sau cuộc Nam tiến ồ ạt của lân quốc phía Bắc, kéo dài trong sáu thế kỷ. Khởi đầu, vào năm 1069 người Việt tràn qua đèo Ngang tiến vào tiếp nhận Quảng Bình do vua Chế Củ dâng để chuộc tội. Chế Củ (Rudra Varman III) bị bắt sau khi vua Lý Thánh Tông tiến quân tiêu hủy hoàn toàn Phật Thệ (Chà Bàn). Đến năm 1306 người Việt tới Huế. Hơn ba trăm năm sau, năm 1697, cuộc Nam tiến đã kéo dài tới Ninh Thuận, Phan Thiết.

Cũng kể từ năm đó đất nước Chiêm Thành đã hoàn toàn thuộc về Đại Việt.

Lịch sử vong quốc của người Chiêm Thành được đánh dấu bằng hành động của vua Chế Củ dâng Đại Việt ba châu Bố Chinh, Địa Lý và Ma Linh để cầu cin hữu nghị. Tiếp đến là một sự kiện trọng đại kháx xảy ra dưới thời vua Chiêm khi Chế Mân, vào năm 1306 dân Đại Việt hai Châu Ô Lý làm sính lễ để cưới một giai nhân nước Việt, đó là công chúa Huyền Trân. Nàng công chúa yêu kiều ấy là sứ giả trọng yếu, mở đầu thời kỳ bang giao hữu nghị lâu đài nhất giữa hai quốc gia Đại Việt - Chiêm Thành.

Chế Mân tên nữ Phạn là Sinhavarman, vị vua Chiêm quốc vào đầu thế kỷ thứ mười bốn, đã có vợ là Hoàng Hậu Tapasi, người xứ Lava, trước khi cầu hôn công chúa nước Đại Việt.

Vào đầu năm 1301, Thượng Hoàng của Đại Việt là Trần Nhân Tôn sau khi đaã thoái vị, truyền ngôi cho con là Trần Anh Tôn, nhân dịp có một phái bộ Chiêm thành sang thăm nước Việt để kết tình giao hảo, Thượng Hoàng đã đi theo phái bộ đến thăm Chiêm Quốc. Ở lại chín tháng trong cung điện của vua Chiêm, ngài được Chế Mân trong vọng, kính nể và hậu đãi. Khi cáo biệt ra về, Thượng Hoàng cảm động đã hứa gã công chúa cho Chế Mân.

Sau đó, Chế Mân cử một phái đoàn gồm một trăm người mang theo vàng bạc, châu báu, hương liệu quý báu, vậ lạ sang dân biểu và xin làm lễ cầu hôn.

Cuộc hôn nhân không xuôi chèo mái mát vì triều thần Đại Việt kẻ đồng tình, người phản đối. Quan niệm và thành kiến của người Đại Việt thời bấy giờ vẫn coi thường xứ Hời Chiêm Tộc. Trong thởi gian năm năm liền, cả hai triều đình Chiêm Việt liên tiếp phái các sứ giả qua lại ý kiến nhà vua của mỗi nước để thương thuyết về cuộc hôn nhân. Đoàn Nhữ Hài, vị đặc sứ Đại Việt lúc bấy giờ do bất phục vua Chàm, Khi yết kiến Chế Mân đã đặt quốc thư trước mặt mà lạy, tỏ ý vua Chàm biết là không lạy vua nước Việt chứ không phải lạy vua Chàm.

Những gì đã có khởi đầuphải có kết thúc. Cuộc hôn nhân mở đầu thời vận huy hoàng của Chế Mân đã báo hiệu một kết cuộc bi thảm của Chiêm Thành hôn ba trăm năm sau đó.

Tháng sáu năm Bính Ngọ 1306, Chế Mân đem dâng châu Ô và Châu Lý là sính lễ và vua Trần Anh Tôn ban chiếu chỉ quyết định gả em gái là Công Chúa Huyền Trân cho Chế Mân. Từ đó Hai Châu Ô Lý Không những mãi mãi thuộc về đất Việt mà còn đi vào tình tự Việt Nam qua ca dao và văn học.



“Hai Châu Ô Lý vuông nghìn dặm

Một gái Huyền Trâncủa mấy mươi?”

Châu Ô và Châu Lý là phần đất từ Cửa Viêt kéo dài tới quận Hòa Vang thuộc tnh Quảng Nam. Theo sử liệu, Châu Ô tức là Châu Thuận và Châu Lý tức là Châu Hóa. Châu Thuận thuộc phần đất của tỉnh Quảng Trị kéo dài tới quận Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên. Châu Hóa là phần đất thuộc tỉnh Thừa Thiên bao gồm quận Hòa Vang Thuộc Quảng Nam.

Lịch sử Trung Hoa có ghi lại, Tây Thi, gái nước Việt, sắc nước hương trời, chim sa cá lặn, đã được đem dând vua Phù Sai của nước Ngô để vua nước Việt (bên Tàu) là Câu Tiễn mưu đồ quốc sự. Nhan sắc của Tây Thi đã làm cho triều đại nhà Ngô cáo chung, vong quốc. Sử Đại Việt không nói nhiều đến nhan sắc của Huyền Trân, nhưng sử sách có ghi lại người anh của Huyền Trân là vua Anh Tôn nổi tiếng là đẹp như tiên. Các sứ thần Trung Quốc thời đó cứ muốn được yết kiến để chiêm ngưỡng sắc đẹp thần tiên của vua Anh Tôn. Các nhà viết sủ đã góp nhặc các wsự kiện mà cho rằng hẳn nhiên Huyền Trân là một công chúa diễm kiều tuyệt mỹ, nhansắc lẫy lừng, tiéng tăm đồn đại vang dội bốn phương khiến trong dân dã đã ví nàng: “Tiếc thay cây quế Châu Thường”... Khiến Chế Mân đã biến cuộc hôn nhân ấy thành quốc sự, đã dày công theo đuổi trong năm năm trời, đã dâng một phần lãnh thổ của Chiêm quốc để cưới bằng được một gái “Tây Thi” Đại Việt.

Sau hôn lễ, khi về đến Chiêm Thành, nàng công chúa Đại Việt đã được phong làm Hoàng Hậu Paramecvari của Chiêm quốc.

Phận gái mười hai bến nước. mà thuyền tình của Công Chúa Huyền Trân đã cặp bến vinh hoa. Thói thường, các cô dâu khi về nhà chồng dù tâm trạng thế nào đôi mắt cũng rưng rưng nhỏ lệ. Nàng Huyền Trân dù trước mắt là cuộc đăng quang tuyệt đỉnh huy hoàng, nhưng làm sao người công chúa thoát ra khỏi cái tình cảm thường tình; nhớ thương, bịn rịn, lolắng, bâng khuâng. Do đó người đời đã truyền tụng hai câu ca dao nói lên tâm sự Huyền Trân khi qua đèo Hải

Vân:



“Chiều chiều gió thổi Hải Vân

Chim kêu ghềnh đá gẫm thân em buồn.”



Thế là nàng công chúa nhà Trần đã về làm dâu Chiêm quốc, đã trở thành Hoàng Hậu. Thì lúc đó, trong nước Đại Việt, giới văn nhân thi sĩ xầm xì, chế giều. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên đã ví cuộc hôn nhân này tương tự như việc nhà Tiền Hán Trung Hoa 33 năm trước Tây lịch đã đem Chiêu quân cống Hồ Hoàng là vua Hung Nô để mưu cầu hòa bình cho trăm họ. Ông cho rằng vua Anh Tôn vì để giữ lời hứa Thượng Hoàng mà gả Huyền Trân, chứ cuộc hôn nhân không tương xứng.

Trong dân gian người ta truyền tụng những câu hát ví von để mỉa mai như:



Tiếc thây cây quế Châu Thường

Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo.”

Hoặc:

“Con vua lấy thằng bán than

Nó đưa lên ngàn cũng phải đi theo.”



Nhưng thương thay, cuộc hương lửa vừa nồng thì chỉ một năm sau, vào mùa Hạ, thàng 5 năm 1307 vua Chế Mân Băng hà. Huyền Trân giờ là một góa phụ lẻ loi trong cung điện thành Đồ Bàn nhìn về cố quốc mà thấy lẻ sắc sắc không không mầu nhiệm.

Dư âm của cuộc tìn vương giả ấy đã phảng phất đến muôn đời tưởng như là huyền thoại.

Ngày Chế Mân băng hà, theo tục lệ Chiêm Thành, Hoàng Hậu phải lên giàn hóa táng để chết theo chồng. Vua Trần Anh Tôn đã cử vị quan Nhập Nội Hành Khiển Tượng Thư Tả Bộc Sạ là Trần Khắc Chung sang Chiêm quốc để điếu tang với mưu sự cứu ông chúa thoát nạn. Các cung nữ của Huyền Trân trong cung điện Đồ Bàn khi thấy Trần Khắc Chung đã hát lên:

“Đàn kêu tích tịch tình tang

Ai đem công chúa lên thang mà ngồi.”



Trần Khắc Chung bày kế giải cứu được công chúa khỏi phải lên giàn hỏa táng, đem công chúa về nước bằng đường biển. Cuộc hải hành đó đã kéo dài đến một năm. Trong một năm ấy, Khắc Chung đã tư thông với công chúa. Dư luận trong dân gian xầm xì:

Tiếc thay hột gạo trắng ngần

Đã vò nước đục lại vần lửa rơm”

Cuối cùng Huyền Trân đã được trả về cho nước Việt và hai Châu ô Lý cũng vĩnh viễn là lãnh thổ Việt Nam. Từ đó lại có hai câu cao dao:

“Của trời, trời lại lấy đi

Giương hai con mắt làm chi được trời.”



Đến nay xấp xỉ bảy trăm năm, một trăng sữ bang giao quốc tế đã mờ dần theo bóng thời gian. Đất nước Chiêm Thành và dân tộc Chàm ngày nay chỉ còn là một số di tích mờ nhạt, mong manh. Những ngọn tháp Chàm rải rácđâu đó từ Quảng Nam vào tới Phan Rang, Phan Thiết, trong nhiều thế kỷ đã là nơi để những lớp thế hệ người Chàm thưa thớt tìm về hội tụ, bái vọng tổ tiên của họ. Nền văn minh cổ kính ấy đã nói lên một trình độ vật chất và tinh thần tiên tiến của một dân tộc mà định mệnh không cho họ được trường tồn.

Về phía nước Đại Việt, vua Anh Tôn của đời nhà Trần đã bất chấp mọi lời dè bỉu dèm pha trong thiên hạ, dùng người em gái của mình như một mỹ nhân kế vào một nghị trình quốc sự, thu về cho Tổ Quốc một lãnh thổ trải hàng nghìn dặm, khời đầu bằng sự tự giác, thuận tình của Chế Mân dâng vua Đại Việt hai Châu Ô Lý.

Có ai biết được tâm sự của người công nữ đài các ấy. Nàng đã ra đi và nàng đã trở về tưởng chừng như trong im lặng, để lại hàng trăm năm sau những tình cảm bịn rịn, tưởng nhớ, biết ơn của hàng bao thế hệ con người Việt Nam.

Ngoài số lượng văn chương bình dân, nhiều văn thân thi sĩ đã chạnh lòng xúc cảm về cuộc tình lâm ly bất hủ ấy để dệt thành những khúc nhạc, bài thơ, để lại với thời gian.

Cách đây trong ba chục năm có bài “Vịnh Huyền Trân Công Chúa” của thi sĩ Thái Xuyên:



Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười

Vốn đà không mất lại thêm lời

Hai Châu Ô Lý vuông nghìn dặm

một gái Huyền Trân của mấy mươi?

Lòng đỏ khen ai lo việc nước

Môi son phải giống mãi trên đời

Châu đi rồi lại Châu về đó

Ngơ ngẩng trông nhau mấy chú Hời

(Trích trong “Đất Việt Trời Nam” của Học giả Thái Văn Kiểm)

Gần đây, thi sĩ Hà Thượng Nhân khi đi qua đèo Ngang đã không khỏi chạnh lòng nhớ người, nhớ nước. Nỗi nhớ ấy da diết vô hạn. Bởi tâm cảm đó, nhà thơ không khác gì Bà Huyện Thanh Quan, một Huyền Trân Công Chúa cũng một lần đi qua đèo Ngang, đi qua một chặng đường lịch sử của dân tộc Việt mà ngó lại lòng mình để thấy một nỗi sầu man mác, đó là nỗi sầu chung của thế sự và nổi niềm riêng của con người. Từ đó tác giả đã viết bài thơ “Qua Đèo Ngang Nhớ Bà Huyện Thanh Quan” sau đây:



Qua đỉnh Đèo Ngang chạnh nhớ người

Cỏ hoa này vẩn cỏ hoa tươi

Trên trăm năm trước đòi cơn mộng

Mấy áng thơ xưa mấy trận cười

Đất nước nếu như thương lấy một

Tâm tư thôi đã khổ bằng mười

Tài hoa dù khác, tình không khác

Tóc bạc soi vào luống hổ ngươi



Luống hổ ngươi mà luống mỉa mai

Nghiệp thơ ai chắc cũng như ai

Biển xanh lớp lớp chim bay mỏi



Mây bạc giăng giăng gió thở dài

Bống xế, đèo cao hồn Thục Đế

Rừng xa, bãi vắng mộng Thiên Thai

Người ơi! Tôi nhớ người vô hạn

Tuy chẳng chung nhau một chữ tài



Chữ tài đã trót lụy vào thân

Non nước đã mang mãi nợ nần

Tiếng cuốc vẫn đau tình cố quận

Ruột tằm thêm rối nghĩa phù vân

Bắc Nam dù cách chưa hề lạ

Kim cổ tuy xa cũng vẫn gần

Lồng lộng trời cao muôn dấu hỏi

Hai châu Ô, Lý một Huyền Trân



Một gái Huyền Trân đổi mấy châu

Người xưa cảnh cũ biết tìm đâu

Ngôi vàng chỉ cốt ngôi vua vững

Phận bạc ai lo mảnh má đào

Son phấn thương nhau càng khắc khoải

Núi sông nghoảnh lại hẳn bền lâu

Giờ đây qua đỉnh đèo Ngang ấy

Bỗng nhớ người xưa bát ngát sầu

(Trích Tuyển Tập “Gửi Người Dưới Trăng”,

Cội Nguồn xuất bản tháng 12.1995)



Người viết trong khi đọc tài liệu và biên soạn bài khảo luận “bỏ túi” này, cả một quá khứ xa xăm hiện về, tâm hồn như chìm vào dĩ vãng xôn xao của tổ tiên thời kỳ dựng nước. Nghĩ về non nước Chiêm Thành, nghĩ về cuộc tình vương giả ấy, lòng không khỏi trắc ẩn, ngậm ngùi mà xuất ý viết bài thơ sau đây. Xin được mượn bài thơ để kết thúc trang biên khảo.



LỜI CẦU HÔN CỦA CHẾ



Nàng hỡi Huyền Trân Đại Việt ơi

Nước non Chiêm quốc đợi mong người

Mỹ nhân dẫu phải là khuynh quốc

Trẫm của Chiêm và trẫm của ngươi



Chiêm Việt đôi bờ nghìn dặm ấy

Tiền duyên hò hẹn mấy nghìn sau

Đồ Bàn cung điện ngôi Vương Hậu

Để có khanh và để có nhau



Ô Lý hai châu về xứ ngoại

Bao đời xử sở một quân vương

Là đây tình sử trong thiên hạ

Rồi có nghìn sau hậu thế lường



Rồi có nghìn sau đời kể lại

Cơ đồ Chiêm Quốc một Công Nương

Một trang sử viết thời Chiêm Việt

Một cõi sơn hà cũng khói sương



Tiếng trống Đồ Bàn khai yến tiệc

Cung nghinh gái Việt mở Hoàng thành

Xin mời Công Chúa về cung điện

Chế của Chiêm và Chế của khanh...

sn.