Du Sĩ

Tản Mạn Một Mùa Trăng



Đêm hôm nay, trăng tròn, sáng, ánh vàng trãi khắp cõi

lung linh huyền nhiệm. Tiết Trung Thu ! Trăng rằm tháng Tám.

Rung rinh cảm xúc như phiến lá nhỏ, tắm trong mớ vàng óng ả

Mùa thu ! Lá thu ! Trăng thu ! là nguồn cảm hứng cho thi

ca vô tận. Tôi sinh ra vào mùa thu, lại là lúc trăng tròn

vành vạnh, có lẽ từ dạo đó, thu và trăng đã đi liền với

cuộc đờị..

Đã bảy năm rồi, tôi khoác lên người tủi nhục, cúi

gầm đầu sống kiếp tha hương. Mỗi độ thu về, mỗi độ

trăng tròn, lòng tôi lại xót xa, vô bờ !



Trung Thu, đất khách trăng thật lạ

Một khối lạnh lùng tựa thây ma

Ôi đâu rồi mảnh trăng đêm qua

Trăng ơi hỡi, lòng tôi run rẩỵ..



Tôi nhìn quanh, ánh vàng vung vãi

Những hoang vu, đổ nát tâm hồn

lẫn cùng trong hoang phế càn khôn

rền rỉ những cuồng âm, thảm thiết



Gió than vãn những lời nuối tiếc

Vóc liễu gầy, xỏa trắng tóc xưa

Lũ côn trùng mặc niệm, tiễn đưa

Sao lụy tắt. Giọt nào lạnh ngắt !



Trăng xưa ấy, đời tôi đã mất

Trên trời kia giả tạo vầng quang !

Dòng thơ buồn, trên mãnh khăn tang

Tôi đem cả đời tôi tẩm liệm...



Chết cùng trăng, chết cùng hoài niệm

Trong đáy mồ lồ lộ đôi thân

Với trăng thề giữ đạo tình nhân

Trăng xưa chết, đời tôi cũng chết



Đôi lúc, cắn bút viết những dòng nhật ký, tôi lại

nhớ đến những mùa trăng xưạ Đêm nay trung thu, trăng sáng,

có thằng bạn từ Việt Nam mới trở về, đem tặng tôi một

hộp bánh hiệu Soái Kình Lâm và vài hộp trà Đà Lạt. Khung

cửa sổ mở rộng, chờ nàng trăng xuất hiện, tôi vừa nhâm

nhi trà, thưởng thức mùi vị bánh dẻo hột sen ngon lành vừa

viết tháo vài dòng để tặng cho nhị ca của mình nhân ngày

sinh nhật của anh...

Tôi không biết viết những gì cho anh, nặn đầu bóp

trán nghĩ ra được hai câu đốị..khá xoàng, sợ tặng anh

chỉ làm anh cười, cho nên đêm nay đành ngồi viết thêm

vài dòng cho anh.

Tặng phẩm quí nhất của người họa sĩ là những bức

tranh. Món quà ý vị nhất của kẻ viết nhạc là một bài

hát. Tôi tin rằng đối với một kẻ cầm bút, thì có lẽ

chữ chính là quà tặng của tâm hồn. Khổ nổi, thi sĩ,

nhạc sĩ hay họa sĩ, tôi đây đều không phải, nên không

biết tặng nhị ca cái chi đâỵ Thôi thì sẵn đêm nay tâm sự

đầy tràn, hai anh em mình cùng chia sẻ nhị ca hở

Không biết anh có những kỷ niệm về trung thu như

thế nàọ Nhưng riêng tôi, lúc còn bé, trong một năm, tôi

thích nhất là hai mùa lễ: đó là lễ Nguyên Đán và Tết

Trung Thụ..Đêm nay, tiết Trung Thu, tôi xin ngồi đây, ôn lại

cùng anh và các bạn những muà trăng qua của mình. Với vài

dòng thô thiển này, mong anh vui và các bạn có cái chi để

đọc cho gợi nhớ về những mùa trăng năm nào trên quê

hương yêu dấu Việt Nam.



Thủa sáu bảy tuổi, trong đêm trung thu, tôi thường

được nghe cậu tôi kể nhiều truyện cổ tích thật hay về

thằng Cuộị Cậu còn chỉ cho bọn tôi xem vóc dáng của thằng

cuội và cây đa trên cung trăng. Tôi thích lắm, cứ tin là

thật, đôi khi còn ao ước phải chi mình được bay lên đó

nhìn xem mặt mủi chú Cuội ra thế nàọ

Lớn tí, tôi đọc được truyền thuyết Ngưu Lang

Chức Nữ. Một chuyện tình xây bằng nước mắt, của những

âu yếm say sưa, vồ bờ bến, khiến cả nhà Trời còn phải

ghen tị, lo sợ Họ bị cách chia, vì tình yêu của họ dám

vượt qua mọi giới hạn, giữa con người và thần thánh, dám

mạo hiểm, dám chấp nhận mọi thương đau để yêu nhau, bên

nhau, cho nhau và vì nhau ! Để rồi cứ mỗi độ thu về, khi

vòm trời thắp lên ngọn đèn Nguyệt Đăng to tròn, soi sáng

khắp cõi, cùng những tinh tú chợt bừng giấc, xôn xao, họ

lại gặp nhaụ Chiếc cầu Ô Thước, và dòng Ngân Hà..từ đó

đã trở thành những đề tài được nhân gian truyền tụng

như là biểu hiện của đỉnh cao lãng mạn, và tình yêu ! Cứ

đến tết Trung Thu, tôi lại mang chiếc kính viễn vọng của

cậu ra mà ngắm các vì sao và mặt trăng. Tôi ngây thơ hỏi

cậu:

- Cậu à ? sao cháu đâu thấy chiếc cầu Ô Thước, Ngưu

Lang và Chức Nữ ?

Cậu cười:

- Chừng nào cháu học cho thiệt giỏi, thì cháu mới có khả

năng nhìn thấy được tất cả..đừng nói chi là chiếc cầu

Ô thước hay chàng Ngưu tội nghiệp nọ mà cháu còn có thể

nhìn thấy cả vũ trụ

Cậu nói vậy, và tôi đây tin vậy, cho nên càng cố

gắng học sao cho giỏi để mong sớm ngày nhìn thấy thằng

Cuội, chị Hằng, cầu Ô Thước, và Chức Nữ Ngưu Lang....



Tôi còn nhớ lúc bé, đó là vào những năm đầu của

sự xụp đổ của miền Nam. Cả thành đô , một " hòn ngọc

Viễn đông " đã bị vùi dập, chà nát, thê lương. Những

thân phận nghèo nàn, cơm gạo không đủ ăn thì lấy đâu ra

tiền để vui cái tết Trung Thu ! Đám con nít trong khu phố

tôi được phát mỗi đứa một cây đèn cầy, cũng là do

tiền quyên góp của từng nhà mà thôị Đêm trung thu, rước

đèn bằng ngọn nến nhỏ bé, gầy guộc đó. Không lồng

đèn, không quà bánh chi cả. Một lũ con nít xếp thành hàng

dài, trên tay cầm nến đi vòng quanh...trông giống đưa tang

hơn là..rước đèn. Chúng tôi lúc đó, thường dùng những

ngọn nến đó và những chiếc lon sửa bò bắt lên làm

những cái bếp nho nhỏ cho trò chơi nhà chòị

Sau vài năm, vì cưng chìu anh em bọn tôi, mỗi dịp tết

Trung Thu đến, me tôi lại dẫn chúng tôi đi mua lồng đèn.

Tôi vẫn còn nhớ rõ cái cảm xúc vui mừng hơn hở lúc đó,

trước quyết định của mẹ Bọn anh em chúng tôi không màng

đến bữa cơm chiều, kháo nhau mình sẽ chọn cái đèn hình

gì, sẽ mua bao nhiêu cái đèn cầy và còn dự định đêm

rước đèn sẽ rũ bọn con nít cùng xóm vui chơi ra saọ..

Người ta thường nói, thế giới con nít, thế giới

của tuổi thơ thật là muôn màu sắc xinh tươi đẹp

đẻ..Nhưng đối với tôi lúc đó, đứng trước hàng chục

cái lồng đèn đủ màu, đủ cỡ, đủ hình loại mới thật

là thế giới thần tiên. Tôi mê tít, không còn biết lựa

cho mình cái nào, vì cái nào đối với tôi cũng lôi cuốn,

cũng đẹp vô cùng. Mấy anh em chúng tôi nhao nhao lên, chỉ trọ

bên này bên nọ hơn cả tiếng mà vẫn chưa chọn cho mình

được cái mà từng đứa đã định sẵn từ buổi cơm chiềụ

Cuối cùng thì tôi cũng chọn cho mình một cái lồng đèn

hình chiếc Trực Thăng. Sở dĩ tôi chọn nó thay vì chọn cái

đèn hình con cá như tôi đã tính là vì tôi chợt nhớ đến

người cha của mình hiện còn đang bị giam cầm trong các trại

cải tạọ Trước 75, cha tôi là một thiếu tá lái trực

thăng. Tôi chọn mô hình chiếc trực thăng là muốn khi cậu

chụp hình để gởi cho cha, cha sẽ biết rằng tôi đây luôn

nhớ đến ngườị..

Vài năm sau, tôi tự học cách làm lồng đèn, để có

thể có được đèn mà chơi trong tiết Trung thu cùng đám

bạn. Làm lồng đèn cũng là một công phụ Có nhìn thấy các

tay thợ làm rồi thì mới biết giá trị của một cái đèn

như thế nàọ Tôi thích các loại đèn kéo quân. Vì theo tôi,

chiếc đèn ấy rất đặc biệt, có hình ảnh di động, có hoa

văn rất đặc sắc, và có thể dùng trong mọi lúc. Chiếc

đèn kéo quân đầu tiên của tôi làm vào năm tôi 13 tuổi,

với sự giúp đỡ của một vị thầy dạy Vật Lý. Trên chiếc

đèn đó, tôi vẽ lại những tích truyện Tàu như Tiết Nhơn

Quí, hay Phàn Lê Huê, những hình ảnh mà tôi rất thích, nhìn

ngắm không chán mỗi lần đi ăn mì tại các xe bán ven chợ

Tân Định. Tôi đem khoe cùng mọi người, hí hửng trước

những lời khen thưởng của mẹ và cậụ..Mãi cho đến bây

giờ, tôi vẫn còn thích cái thú chơi lồng đèn. Nhưng không

còn là những chiếc đèn hình thù con vật này hay đồ vật

nọ mà tôi thích những chiếc đèn có mang tư tưởng và

triết lý trong đó. Năm 16 tuổi, tôi được cái may mắn

diện kiến một vị cư sĩ. Ông ta đã tặng tôi một chiếc

đèn hình hoa sen rất tinh tế. Khi thắp ngọn nến lên, và thả

vào hồ bán nguyệt trước sân nhà, trông chiếc đèn như

một đoá sen vô thường, sáng trong làm nổi bật lên những

câu kinh biên chép trên từng cánh hoạ Sang đến trại tị nạn,

đã 19, 20 tuổi đầu rồi mà tôi vẫn mê cái đèn hoa sen

đó. Tiết Trung thu tôi đã làm một cái, tuy không tinh tế

bằng cái đèn của vị cư sĩ nọ nhưng tôi thích lắm. Cắm

trên nó một ngọn nến rồi đem thả trên mặt hồ quanh

tượng đức Phật Bà Quan Thế Âm..Thằng em trai tôi thì

gấp những chiếc tàu bằng giấy, cũng cắm trên mỗi chiếc

một cây đèn cầy rồi cũng thả vào trong cái hồ đó.

Dưới ánh trăng rằm vằng vặc, chiếc đèn hoa sen và những

chiếc tàu giấy trên mặt nước trông thật đẹp, thật thanh

thoát, nhẹ nhỏm mọi phiền muộn trong lòng.

Hồi đó, trước sân nhà tôi ngoài một hồ bán

nguyệt với hòn non bộ do chính tay tôi dựng nên, còn có

một giàn hoa lan rất đẹp do cậu tôi sưu tầm và chăm sóc.

Cái thú chơi cây cá chim kiểng này, tôi đã học được từ

cậu và những người bạn của cậụ..Có lẽ, đây cũng là

một trong những lý do đưa tôi đến gần hơn với thế giới

thơ. Trong những đêm trăng sáng, nhất là những lúc hoa

quỳnh nở, bạn của cậu tôi thường đến tụ họp dưới giàn

hoa lan, cạnh hồ bán nguyệt, vừa ngắm trăng, ngắm hoa, vừa

nhâm nhi tách trà thơm bàn chuyện thi phú văn chương...Tôi

lúc ấy không khác gì một đứa Trà Đồng. Lăng xăng, với

bình trà trên tay, châm bên này, rót bên nọ nhưng ra chiều

thích thú lắm vì được nghe các bậc tiền nhân kể tích củ

truyện xưa, bàn luận với nhau nhiều điều đặc sắc.

Tôi đọc Tam Quốc Diễn Nghĩa, Thuỷ Hử, Đông Châu

Liệt Quốc, hoặc các pho chưởng của Kim Dung như Cô Gái

Đồ Long, Thần Điêu Đại hiệp..từ những năm học tiểu

học. Đọc rất say mê nhưng không hiểu gì cả. Nay được nghe

sự bàn luận của các đấng chú bác tôi đây thích thú vô

cùng, tâm thần chừng như ngộ ra rất nhiều điều. Sau đó,

tôi còn được giới thiệu vào thế giới thơ của Nguyễn Du

qua Truyện Kiều, của Đoàn thị Điểm qua Chinh Phụ Ngâm, và

của nhiều thi sĩ lừng danh khác...Từ đó tôi đã bắt đầu

yêu thích thơ, bắt đầu muốn lẩn thẩn bước vào vườn

thi ca, muốn thử cầm lấy " cây đàn muôn điệu " mà dạo

nên vài khúc...

Năm học lớp 10, tôi lập ra một thi xã. Gọi là thi xã

cho oai chứ thực ra đó chỉ là một nhóm bạn qui tụ những kẻ

yêu và viết thơ. Thế là cái vườn lan và hồ bán nguyệt

trước sân nhà tôi, lại trở nên điểm hẹn cho những lãng

nhân trẻ tuổi qui tụ. Tôi vẫn còn nhớ, trong một đêm Trung

Thu trăng sáng vằng vặc, bên cạnh ấm trà thơm lừng, bọn

chúng tôi quây quần bên nhau để cùng ngâm cho nhau nghe những

bài thơ mới hoặc thách nhau làm thơ liên hoàn. Một người

bạn của tôi lên tiếng đề nghị tôi ngâm một bài thơ về

trăng, nhưng tôi đã kiên quyết từ chốị Bạn bè hỏi nguyên

do, tôi nói:

- Tôi đã được đọc qua những bài thơ về Trăng của Hàn

Mặc Tử....đọc xong rồi, tôi không còn muốn viết về

Trăng nữa. Bởi lẽ, trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử đã

đạt đến đỉnh cao tột bực rồị Nếu muốn tả trăng, cứ

mang thơ của họ Hàn ra đọc. Còn kêu tôi làm, dĩ nhiên tôi

cũng có thể viết vài dòng nguệch ngoạc nhưng e rằng

những dòng thơ thô thiển đó sẽ làm hạ thấp cái giá trị

vô bờ của Trăng trong thơ của Hàn Mặc tử

Phải, phần lớn trong thơ của Hàn Mặc Tử, hình bóng

của trăng luôn luôn hiện diện. Tôi nghe một người nói

rằng, sở dĩ Hàn Mặc Tử viết nhiều về Trăng, vì mỗi

lần muà trăng sáng, thì căn bệnh của Hàn Mặc Tử bị bộc

phát. Tôi không biết, điều này có đúng không, nhưng xuyên

xuốt những thi tập như Gái Quê, Đau Thương, hay hai vỡ

kịch Quần Tiên Hội và Chơi Giữa Muà Trăng, người thĩ tài

hoa nhưng bạc mệnh đó luôn đem trăng vào trong từng dòng

thơ, từng nhịp thở...Bài thơ đầu tiên về Trăng mà tôi

đọc được là bài Bẽn Lẽn, trong tập Gái Quê:



Trăng nằm xóng xoãi trên nhành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi

Hoa lá ngây tình không muốn động

Lòng em hồi hộp, chị Hằng ơi !



Trong khóm vi vu rào rạt mãi

Tiếng lòng ai nói ? Sao im đi ?

Ôi kìa, bóng nguyệt trần truồng tắm

Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe



Khi tôi đọc bài thơ này rồi thì tôi yêu ngay thơ của

Hàn Mặc Tử và tôn vinh người lên bậc thầy của nghệ

thuật nhân cách hoá ngay. Tôi có đọc thơ về Trăng của Đỗ

Phủ, của Lý Bạch, của các thi sĩ khác như Xuân Diệu, Huy

Cận, Nguyễn Bính, nhưng không ai làm tôi bồi hồi bằng

những vần thơ rất thần của Hàn Mặc Tử. Chẳng hạn như

trong bài Uống Trăng, ông viết:



Bóng Hằng trong chén ngã nghiêng

Lả lơi tắm mát làm duyên gợi tình

Gió lùa mặt nước lung linh

Lòng ta khát miếng chung tình từ lâu



Trăng trên trời thì ta thường ngắm. Trăng trên mặt

sông, mặt hồ thì Lý Bạch cũng đã từng say, nhưng trăng

trong chén thì chắc chỉ có mỗi Hàn Mặc Tử là cảm nhận

được với tất cả nét đẹp của nó. Đọc những câu thơ

tài hoa đó, chúng ta sẽ phát họa ra ngay trong đầu, hình ảnh

một ả Hằng Nga, thướt tha, yểu điệu, trong làn nước

mát, lả lơi thoáng hé tấm thân ngọc làm mê hồn thi sĩ. Cái

tài của Hàn Mặc Tử là ông đưa trăng xuống với đời như

một con người phàm tục, cũng hỉ nộ, ái ô’ sân si, nhưng

rất thanh, rất thoát, Không ô uế nhưng cũng không thần

thánh xa lìa nhân loại.

Viết về thơ của Hàn Mặc tử, nhất là về hình ảnh

Trăng trong thơ của ông, tôi nghĩ, viết dài cả trăm trang

cũng chưa thể nói đủ những cái hay, cái tuyệt của ngòi

bút tài hoa đó. Tôi đây lại vốn không có khả năng này

mặc khác, tôi vốn không ưa thích bình luận thơ của một ai

cả. Vì theo tôi nghĩ, chỉ có tác giả mới thật sự hiểu rõ

những cảm xúc khi viết ra một bài thơ. Người đọc chỉ

ngộ được cao lắm là 90 phần trăm cái xúc tác đó, thì

làm sao có thể mổ xẻ hay phân tích bài thơ cho đúng

được. Huống hồ, thơ là một bản nhạc không cần nốt,

không cần nhạc cụ để chơị Tự thơ đã có thể thốt lên

tất cả không cần ai phải chú thích hay dẫn giảị..

Trời đêm nay lại tự dưng đổ mưa phùn lất phất.

Đám mây đen ô uế đã che khuất đi vầng trăng đẹp mà tôi

đây đang mong chờ...Không biết rằng nhị ca và các bạn bè

khác, có ai đang chờ ngắm trăng như tôi hay không. Nếu có,

thì tôi tin rằng, các bạn cũng sẽ có cùng cái xúc cảm bồi

hồi, chờ đợi như tôi vào lúc nàỵ

Không khác gì chờ sự xuất hiện của một đóa hoa

hậu mỹ miềụ Trăng đêm nay, là trăng tròn tuổị Trăng dậy

thì của tuổi mười lăm. Tôi như bị cái ý thơ của Hàn Mặc

Tử bám lấy mãi, cho nên, tôi chờ Trăng, như đang chờ sự

xuất hiện của người yêu. Một cô gái tuổi vừa mười

lăm, dại khờ, hiền dịu, trắng trong diệu lạ

Tôi đang dọn lòng cho nàng thơ về bầu bạn, chiếu hoa

đã trãi sẵn, cung đàn đã so dây, chờ đợi cô Trăng đến

chung vui trong đêm Trung Thụ Mong rằng đám mây đen kia và cơn

mưa buồn không mong nọ sớm tan đi, để cho tôi lại có

được những mùa trăng thanh bình mãi mãị..



( kính tặng Nhị Ca QC )

Sun, 10 Sep 1995