Sưu Tập

THI VĂN

ĐỨC HỘ-PHÁP PHẠM CÔNG TẮC

---------------------

Tại Đế Thiên Đế Thích

Thổ võ xiêm quan tức Việt triều,

Đế Thiên hồn nước vẫn còn nêu.

Mảnh tâm Hồng Lạc đề thiên sứ,

Giọt máu Nam phong định quốc thiều.

Để mắt trông dò xem thế cuộc,

Ngắm cây ngó cảnh vẫn đìu hiu.

Ví đem gang tấc nâng hồn nước,

Xiêm rạp là nơi đến điếu kiều.

 

 

 

 

Thần Đồng Vấn Nguyệt 
(Không rõ tác giả) 
* Đức Hộ Pháp ngâm nhân một đêm trăng tỏ và đêm ấy Ngài về chầu Chí Tôn.

Thu thiên da thanh quang vân tĩnh,

Chốn lữ đình thức tỉnh canh khuya.

Tai nghe văng vẳng bốn bề,

Gương nga vằng vặc dựa kề quế lan.

Thấy trăng thêm động lòng vàng,

Ngâm câu vấn nguyệt cho đang mấy lời.

Hỏi dì nguyệt mấy lời sau trước,

Duyên cớ sau mà được thảnh thơi ?

Nguyệt rằng : vật đổi sao dời,

Thân nầy Trời để cho người soi chung.

Làm cho mỏi mệt anh hùng,

Ngàn thu sương tuyết một lòng thanh quang.

Hỏi dì nguyệt có đàng lên tới,

Chốn thiềm cung phỏng mấy mươi xa ?

Nguyệt rằng ta lại biết ta,

Có cây đơn quế ấy là nhà em.

Anh hùng thử đến mà xem,

Kìa gương ngọc thỏ nọ rèm thủy tinh.

Hỏi dì nguyệt có tình chăng tá ?

Chữ xuân thu phỏng đã nhường bao ?

Nguyệt rằng : yếu liễu thơ đào,

Càng lên càng tỏ, càng cao càng tròn.

Gương nga vằng vặc chẳng mòn,

Bao nhiêu tinh đẩu là con cái nhà.

Nguyệt lại hỏi đến người quân tử,

Buổi vân lôi ai giữ  kinh luân ?

Ta rằng : có Đấng thánh quân,

Ra tay dẹp loạn nên thân trị bình.

Nguyệt hỏi ta ngẩn ngơ ngơ ngẩn,

Ta hỏi nguyệt thơ thẩn thẩn thơ.

Liễu qua trước gió phất phơ,

Hương đưa bát ngát phòng thơ ngạt ngào ./.

 

 

 

 

10-4- Kỷ Hợi, lúc 22g45 ( 1959 ) 
Đức Ngài giáng cơ

Ba năm xa cách đã chờ may,

Vạn sự do Thiên khéo sắp bài.

Chí muốn cao bay trong một kiếp,

Giờ đây nhờ cậy sức anh tài.

Đã đành danh phận còn xa thẳm,

Nhưng đấng mày râu chẳng mảy may.

Một kiếp vì đời tua gắng trả,

Cho rồi nợ thế khỏi ai hoài.

 

 


13-4-Kỷ Hợi ( 1959 ) 
Đức Hộ Pháp giáng cơ

Trót đã bao năm ở xứ người,

Đem thân đổi lấy phút vui tươi.

Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,

Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.

Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,

Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.

Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,

Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.

( Bài thi nầy được thài cúng trong Lễ Hội Yến

hàng năm ngày 15-8 và ngày 10-4 )

 

 


Đàn cơ đêm 15-10- Giáp Thìn ( 1964 ) 
Tại Hiệp Thiên Đài, lúc 23 g
Phò Loan : Hiến Pháp & Thượng Sanh

Hộ  quyền cực lạc định tà chơn,

Pháp  ấn nêu cao sáng Đạo huờn.

Phạm  tử Di Đà ra phép mật,

Công  môn kim khuyết định thần ngươn.

Tắc  quyền di lập xong đàn tịnh,

Giáng  thế khai cơ độ vĩ nhơn.

Mừng  sắp nên hình cho vạn chủng,

Đàn  cao vui hưởng phép thường chơn.

( Đạo đức vuông tròn trọng nghĩa nhơn.)

 

 

 

 

Đàn đêm 6-2- Ất Tỵ ( 8-3-1965) 
Tại Giáo Tông Đường lúc 20 g30p

Quyền uy nhờ bởi giữ chơn truyền,

Chưởng đức dụng hiền mộ Thánh Tiên.

Quản quán chúng sanh tu cội phúc,

Hiệp hào nhân sĩ hưởng tiền duyên.

Thiên môn mở rộng nguyên nhân đến,

Đài nội tuyển thăng thánh đức lên.

Thừa thế chuyển nguy an thánh địa,

Mạng trời đâu để quỉ hành quyền.

 

Description: https://www.daotam.info/booksv/tvdhp/hline1.gif


Trích bài diễn văn ĐHP 
15-8- Quí Dậu ( 1933 )

Kiếp sống con người xem nên vắng vỏi,

Sống trăm năm ước đặng bấy nhiêu người.

Phước trọn kiếp độ chừng xem mấy kẻ,

Khổ thì nhiều, vui vốn ít.

Sống càng lâu khổ chất càng dầy,

Khổ nội thân tứ khổ không sai.

Cầu bất tử là cầu đày thân khỏi tội.

…………………………………………………

…………………………………………………

Thắng nổi quyền vật dục,

Xứng đáng mặt khách trần.

Gánh đau thương tay đỡ tay nâng,

Khối thiện ác sửa cân Tạo Hóa.

Giữa khổ hải đưa thuyền Bát Nhã,

Giúp tinh thần giải quả trừ căn.

Sấn tay trau đẹp vẻ đạo hằng,

Lượm giảm bớt nẻo trần gai gốc.

Đem cười để vào nơi cảnh khóc,

Lấy lòng lành trừ nọc đau thương.

Chốn lầm than rảy nước nhành dương,

Dứt trái chủ trao gươm thần huệ.

Chịu khổ thế tìm phương giác thế,

Lấy nhọc đời làm kế dìu đời.

Biến lợi danh ra cuộc trò chơi,

Làm phú quí thành mồi hại thế.

Sửa bác ái ra nên câu kệ,

Chế từ bi như thể bài kinh.

Noi vận hành quảng đại chí linh,

Góp nhơn loại vào tình cốt nhục.

Kẻ sầu thảm cho vui hạnh phúc,

Người vô duyên hưởng chút ân hồng.

Trọng mạng sanh gầy phép đại đồng,

Kỉnh vật loại đặng mong cứu thế.

………………………………………………………

………………………………………………………

Hễ cơ đời càng khó,

Quyền vật dục lại càng nhiều.

Phận làm người đã khó biết bao nhiêu,

Giữa võ trụ phải chìu theo thời thế.

Nợ cơm áo sanh lời ra tệ,

Đạo nhơn luân thêm thế dục hư.

Mảnh thi phàm đã dễ chi từ,

Trong cuộc thế thân như bèo bọt.

Dở thì chịu ăn thừa uống mót,

Phải toan lo sống sót cùng đời.

Một mảnh tâm chia để mấy nơi,

Đâu dư rảnh hỏi Trời căn sống.

Luật tạo hóa rõ chi khinh trọng,

Nhẫng gởi thân theo bóng tang thương.

Cùng khổ xem sống chết ra thường,

Sống nhờ thế chết nương tay thế.

Giải ách cậy kim tiền làm kế,

Thích tình xem khanh tể là mưu.

Bước công danh quen lẽ nghịch thù.

Bả quyền lộc nhuộm màu cừu hận,

Vòng cương tỏa ra vào lẩn bẫn.

Lấy oan gia làm phấn dồi mình,

Tên tuổi đây nhục nhục vinh vinh.

Nào còn nhớ tâm linh “ bổn thiện”

 

 

 

 

Hạc và Gà

Một bữa nọ trời vừa rựng sáng,

Ánh nhựt hồng chói rạng phương đông.

Anh gà vừa nhảy xuống lồng,

Trương mình đập cánh vang đông oai hùng.

Gà tự nhủ vô cùng sung sướng,

Lợi danh tình ta hưởng quanh năm.

Mặc cho thế cuộc thăng trầm,

Ta vui con vợ ta tầm mồi ngon.

Cùng thuở ấy có con bạch hạc,

Thấy sự đời chua chát đau thương.

 Chúng sanh mê mết mộng trường,

Sắc tài danh lợi vấn vương buộc mình.

Nghĩ chán kiếp phù sinh giả dối,

Hạc vội vàng tìm kế thóat thân.

Núi rừng thủ phận thanh bần,

Tịnh thanh một cõi phong trần mặc ai.

Nay nhằm lúc xuân lai đông mãn,

Bình minh vế ánh sáng đẹp tươi.

Hạc liền vỗ cánh tung trời,

Năm châu bốn biển đồng thời xem qua.

Bỗng chợt thấy anh gà bạn cũ,

Đắm chìm trong lạc thú xa hoa.

Vui theo nẻo vạy đường tà,

Vợ con khám ngục cửa nhà xiềng gông.

Hạc thấy thế động lòng trắc ẩn,

Muốn tìm phương dẫn dắt bạn gà.

Nhánh cây đáp xuống là đà,

Vội vàng chào hỏi gọi là bạn thân.

Gà thấy hạc chẳng cần thủ lễ,

Giả lơ là dường thể khinh khi.

Bởi gà là đứa vô suy,

Tưởng đâu mình bảnh nên thì tự cao.

Giọng kiêu hảnh hỏi sao anh hạc,

Bấy lâu nay trôi giạt nơi nào.

Gia đình sự nghiệp ra sao,

Trông anh có vẻ khổ lao nghèo nàn.

Hạc thong thả dịu dàng đáp lại,

Nầy anh gà anh hảy nghe đây.

Thời gian tôi cách chốn nầy,

Tìm nơi thanh vắng am mây tu trì.

Nay tôi đã thoát ly sự thế,

Khắp năm châu bốn bể là nhà.

Mỗi ngày một bữa ngọ qua,

Không lương không bổng cũng là an thân.

Gà nghe nói chẳng cần suy nghĩ,

Mĩm môi cười ngỏ ý chê bai.

Đời anh hạc chẳng bằng ai,

Thua thằng thất nghiệp tương lai mịt mù.

Anh coi tôi võng dù ngang dọc,

Sớm tới chiều chẳng nhọc công lao.

Tôi nay tột bực sang giàu,

Nhà cao cửa rộng ra vào thảnh thơi.

Còn anh lại tìm nơi vắng vẻ,

Chôn cuộc đời son trẻ  tài hoa.

Vui chi kiếp sống không nhà,

Không lương không bổng thật là nguy vong.

Tôi toại hưởng phước hồng dào dạt,

Lúa đầy kho tiền bạc đầy rương.

Dạo chơi gác tía lầu hường,

Vinh sang phú quí gia đường ấm no.

Còn anh mãi bo bo chác khổ,

Giam cuộc đời vào chỗ quạnh hiu.

Chỉ nghe vượn hú chim kêu,

Buồn teo vắng vẻ sớm chiều thân côi.

Gà mặc sức khua môi múa mỏ,

Tôi như vầy mấy có ai hơn.

Áo quần hàng lụa bóng dờn,

Năm thê bảy thiếp tình nhơn cũng nhiều.

Thê cùng thiếp sớm chiều hầu hạ,

Phán một lời kẻ dạ người thưa.

Rượu ngon sắc tốt say sưa,

Con ngoan vợ đẹp sớm trưa vui vầy.

Anh là kẻ bất tài vô dụng,

Tôi là người anh dũng tài ba.

Anh thời bộ dạng xấu xa,

Tôi thì như một đóa hoa vẹn mười.

Nghe vừa dứt mĩm cươi hạc đáp,

Cái sự đời cao thấp tự nhiên.

Tôi nay bạc phước vô duyên,

Không nhà không cửa gạo tiền cũng không.

Anh được hưởng phúc hồng sang cả,

Anh là người vương giả công hầu.

Của đời anh quyết tóm thâu,

Con ngoan vợ đẹp nhà lầu xe hơi.

Còn tôi mãi đội trời đạp đất,

Một chữ bần nhứt vật cũng không.

Đói thời rau trái đỡ lòng,

Khát thì nước suối cội tòng dựa nương.

Chốn tịch mịch lòng thường khỏe dạ,

Khác hơn là những kẻ mang gông.

Lợi danh ví thể chim lồng,

Sắc tài như cá giữa vòng mắc câu.

Cá mắc câu biết đâu mà gỡ,

Chim vào lồng biết thuở nào ra.

Nay anh phú quí vinh hoa,

Lợi danh trói buộc khó mà thoát thân.

Khuyên anh sớm lánh lần hậu hoạn,

Tránh những điều tai nạn về sau.

Dầu anh quyền lực thế nào,

Cũng không tránh khỏi đường vào Diêm Vương.

Khi anh được người thương kẻ mến,

Thì anh nên nhớ đến thớt dao.

Nhớ khi dao khứa máu trào,

Nhớ khi bầm xắt nấu xào hầm kho.

Khi anh được nhà to cửa rộng,

Thì phòng khi kiếp sống bể dâu.

Trăm năm rồi có gì đâu,

Chỉ hai tay trắng về chầu Diêm Vương.

Khi anh được tiền rương bạc vựa,

Thì phòng khi tắm lửa xé phai.

Khi anh sặc sỡ đẹp trai,

Thì anh nên nhớ những ngày rên la.

Khi gia đạo hiệp hòa hạnh phúc,

Thì anh nên ngừa lúc quạnh hiu.

Khi nào con vợ mến yêu,

Thì anh phòng lúc gặp điều bội ân.

Khi anh được phỉ thân mạnh bạo,

Thì anh nên ngừa chảo nước sôi.

Khi nào anh được cao ngôi,

Thì anh nên nhớ những hồi xương tan.

Khi anh được giàu sang vinh hiển,

Thì phòng khi nạn biến tai to.

Khi nào lúa đựng đầy kho,

Thì anh phòng lúc lửa lò đốt thiêu.

Khi anh được tưng tiu quí trọng,

Thì phòng khi thất vọng khổ nguy.

Khi nào anh được kiên vì,

Thì anh nên nhớ những khi tan hình.

Tôi từ lúc tách mình thoát tục,

Không ra tay tiếp xúc với đời.

Vì đời vốn thiệt trò chơi,

Hết khi răng trắng tới hồi mang râu.

Tôi không thích ngựa trâu ruộng đất,

Chán sắc tài vật chất lợi danh.

Là vì biết chữ bại thành,

Say mê chung đỉnh tử sanh quay cuồng.

Đời giả tạm như luồng chớp nhóang,

Mọi sự đều ảo mộng vô thường.

Sao bằng chánh đạo dựa nương,

Rảo chân thẳng bước con đường siêu nhân,

Tuy phải chịu đầu trần mưa nắng.

Mà tinh thần trong trắng thanh cao,

Tôi không nhiễm bợn trần lao.

Thạnh suy vinh nhục nghèo giàu khỏi lo,

Còn anh được lúa kho phía trước.

Thì cũng đành chảo nước phía sau,

Rồi đây có lẽ lâu mau.

Nươc sôi chẳng vị thớt dao không từ,

Vui chi cảnh một cười mười khóc.

Vui để rồi tang tóc đau thương,

Vui mà chịu luật vô thường.

Có ngày rồi sẽ sụp mương té hầm,

Kìa những kẻ sơn lâm ẩn trú.

Một chữ nhàn vui thú thanh cao,

Khi thì rảo bước động đào.

Khi thì tịnh luyện nhập vào cảnh tiên,

Một kiếop sống vô duyên vô vị.

Tuy nghèo mà tâm trí nhàn du,

Sớm chiều hai buổi công phu.

Lánh xa cuộc sống võng dù đua bơi,

Nghe hạc tỏ bày lời chân lý.

Gà thấy mình ích kỷ tối tăm,

Vừa hối hận vừa hổ thầm.

Từ lâu gà đã nghĩ lầm tưởng sai,

Bèn cất tiếng thưa ngay anh hạc.

Tôi vô tình đi lạc không hay,

Mùi đời tôi đã mê say.

Xa hoa trụy lạc sắc tài lợi danh,

Nay tôi muốn theo anh về núi.

Nhưng ngặt vì tội lỗi lỡ vương,

Vợ con nhà cửa ruộng vườn.

Làm sao dứt bỏ tầm đường thoát thân,

Phương pháp chi giải lần oan nghiệt.

Nhờ ơn anh trực tiếp chỉ dùm,

Làm sao mọc cánh đại hùng.

Bay ra khỏi chốn gông cùm trói trăng,

Gà tự nguyện ăn năn sám hối.

Hạc sẵn sàng chỉ lối huyền vi,

Chỉ rành chữ hiệp và ly.

Chỉ rành tất cả cái chi vô thường,

Và chỉ rõ tình thương rộng hẹp.

Thương thế nào tốt đẹp cao xa,

Tình thương ai cũng gọi là.

Rộng suy một chút thì ra đại đồng,

Lời Phật dạy mênh mộng bể khổ.

Ai là người tỉnh ngộ quay về,

Tức thì bờ giác cận kề.

Tức nhiên nghiệp chướng lầm mê chẳng còn,

Nay anh quyết vào non dưỡng tánh.

Muốn nhẹ mình cất cánh bay cao,

Tôi nguyền dẫn dắt cho nhau.

Dìu anh ra khỏi bốn rào thế gian,

Vừng đông rạng ánh vàng chói rực.

Lời pháp lành đánh thức chơn tâm,

Bấy lâu gà đã lạc lầm.

Nay đà thưc tỉnh thâm tâm nhẹ nhàng,

Quơ gươm huệ trái oan dứt tuyệt.

Dốc một lòng gà quyết vào non,

Đoạn lìa sự nghiệp vợ con.

Theo cùng anh hạc núi non ẩn mình,

Từ độ ấy bóng hình biệt dạng.

Hạc với gà đôi bạn đồng tâm,

Cùng nhau nướng bóng sơn lâm.

Sớm chiều dưỡng tánh tu tâm tháng ngày,

Gà cùng hạc vui say mùi Đạo.

Chẳng bao lâu huờn đáo bổn nguyên,

Thần thông tự toại diệu huyền.

Toàn năng toàn giác Phật Tiên đắc thành ./.

 

CHUNG