PHẠM KHANG

TẢN MẠN VỀ “GIAI ĐIỆU THÁNG NĂM” CỦA VŨ DUY HÒA

Hôm gặp anh Vũ Duy Hòa ở Hội thơ Nguyên tiêu thấy anh háo hức và như trẻ ra rất nhiều. Ấy là do cái tình thơ, cái duyên thơ đã gắn kết anh với công chúng qua hình ảnh bình dị và gần gủi nhất. Té ra, người ta ở đời đến với thơ trước hết là vì tình, vì nghĩa, vì những giao cảm muôn đời tuôn chảy nơi những trái tim nhiệt huyết. Mới đây, anh lại đưa cho tôi xem tập thơ của anh mới xuất bản “Giai điệu tháng năm”, chọn lọc nhiều bài anh viết rải rác trong một thời gian dài với nhiều cung bậc khác nhau. Đời sống lúc nào mà chẳng đa đoan, muôn mặt. Người làm thơ không thể tự mình đứng ngoài đời sống ấy. Không thể vô cảm và lại càng không thể vô trách nhiệm trước hiện thực đời sống với những biến động muôn mặt của nó.

“Giai điệu tháng năm” được dàn trải trên một không gian thời gian rộng lớn, ở đó tác giả hóa thân vào những trang nhật ký bằng thơ với cảm xúc và rung động thật trong sáng, thân thiện. Vũ Duy Hòa nhận ra đất nước là cái nôi bất tử để anh lớn lên, trưởng thành và phụng sự: “Đất nước của hát xoan, quan họ/ Của mái nhà, vọng cổ, ca dao”(Đất nước). Cái nôi ấy đương nhiên là hồn dân tộc, là truyền thống bất khuất, anh hùng của cha ông trong lịch sử dựng nước và giữ nước:

Em có về nghe trống đồng vang vọng
Cánh hạc bay lên bát ngát ruộng đồng 
Từ Ngàn Nưa, Triệu Trinh Nương đuổi giặc
Đến Lam Sơn, Lê Lợi chống quân thù
(Em có về Thanh Hóa)

Người thơ khó tránh được cái phong tình gió bụi, cái giang hồ trước thiên cảnh của trần gian. Ấy là bởi người thơ phải say thì mới có thể thả thơ được. Thơ tự ép, tự đè ra để mà tìm câu tìm chữ phải chăng là phi thơ, là thơ đặt hàng, thơ đóng hộp? “Giai điệu tháng năm” cho thấy Vũ Duy Hòa không phải là người làm thơ như vậy. Thơ anh thật từ cảnh cho tới tình. Mà cái tình mới là cái khó cưỡng nhất, khó che đậy, rất dễ lộ ra thật giả. Non nước, quê hương luôn theo anh trong cuộc hành trình của cuộc đời, lúc thì “Một dải Ba Vì xanh ngát màu mây”, khi lại “Hoa phượng đỏ Tràng Tiền lộng gió-Hương Giang xanh thăm thẳm câu hò” (Chiều Huế).

Nhận ra “ Ba vì xanh ngát màu mây” là do thức cảm trong sáng mà ra vậy. Còn nghe được, ý thức được cái tình sâu lắng, mặn nồng của người xứ Huế thì phải đổ Hương Giang vào “Thăm thẳm câu hò”. Ý tình đều đạt, con chữ có hồn, không gò bó mà tự nhiên như non nước này, quê hương này đã khắc ghi cõi lòng nhân thế, nghĩa tình nhân thế vậy.

Qua “Giai điệu tháng năm” rất dễ nhận ra là Vũ Duy Hòa là người đi nhiều. Âu cũng phải thôi, chiến tranh và người lính, rồi những năm làm công chức, làm Đại biểu Quốc hội không đi sao được. Không gần dân, không đi thực tế sao có thể biết được dân cần gì, đói no, công ăn việc làm, ước nguyện của họ ra sao. Thế mới thấy đời người là dâu bể, là cái càn khôn của tạo hóa không chừa một ai. Xin gửi những Hà Bắc, Tản Viên, Ba Vì, Ba La Bông Đỏ, sông Mã, Hương Giang, Ngàn Phố, Bi Mốt, Tây Ninh, Miền Đông Nam Bộ…mối tình thâm khắc cốt ghi tâm của tác giả với lòng biết ơn và nỗi nhớ:

Năm tháng trôi qua mỗi mùa huấn luyện
Chúng tôi lớn lên theo nhịp quân hành 
Thắm đượm nghĩa tình quân dân Hà Bắc 
Dẫu xa rồi vẫn nhớ mãi u ơi!

Ngày ra đi, chiến trường chia nhiều ngả 
Họ lên đường giữ trọn niềm tin 
Lại gặp nhau giữa Miền Đông gian khổ 
Bi Mốt, Tây Ninh…bom đạn tơi bời
(Thiên Thai ngày ấy)

Thơ của Vũ Duy Hòa nghiêng hẳn một mảng lớn viết về kỷ niệm chiến tranh và nghĩa tình đồng đội. Nhớ về họ thơ anh trào dâng sự cảm phục, ngưỡng mộ, tự hào: 
Chúng tôi ra đi, Trường Sơn Đông nắng lửa 
Trường Sơn Tây mưa lũ quét rừng già 
Sốt rét rừng chống từng cơn bom đạn 
Mà chiến trường phơi phới niềm tin 
(Hoài niệm một thời quân ngũ)

Nhớ về đồng đội, thơ Vũ Duy Hòa ngân lên khúc giao cảm thao thiết, tiếc thương những người đã ngả xuống. Đó là một khúc đàn tình tri ân mà người ta sẽ cầm lòng mãi mãi cho dù cho hôm nay đã ở tuổi xế chiều:

Chiến tranh đã qua đi 
Lùi sâu vào dĩ vãng
Chúng tôi cũng già nua
Mỗi người đi mỗi ngả 
Chiến trường xưa, đồng đội gọi nhau về
(Trở lại Miền Đông)

Tinh thần ấy, dáng đứng Việt Nam ấy, một lần nữa lại được tác giả tái hiện sống động qua hình ảnh của những người lính ngày đêm canh giữ biển trời Trường Sa nơi tuyến đầu Tổ quốc:

Anh đứng đó nơi Trường Sa lộng gió
Canh đất trời cho đất nước bình yên 
Cây phong ba qua bao mùa bão táp 
Vẫn hiên ngang nơi đảo nhỏ kiên cường
(Gửi người lính đảo)

Tôi nhận thấy Vũ Duy Hòa biết nói được cả những điều tưởng như khô khan nhất, cứng nhắc nhất, cái điều mà nhiều người làm thơ thường hay né tránh: đó là trách nhiệm công dân và nghị trình đất nước. Nhiều người cho đó là việc của chính trị, việc của các nhà hành pháp và luật pháp, thơ chả dại gì mà liên quan. Đấy là lối suy nghĩ tùy tiện, thậm chí không đúng tí nào cả. Thơ không chối bỏ và trốn trách nhiệm phục thiện, chống cái ác. Nghĩ cho cùng ở thời đại nào thì thơ cũng là khuôn mặt tinh thần của thời đại đó, không có cái gì là xa lạ với nhà thơ cả. Vũ Duy Hòa tự nhận thức về trách nhiệm nặng nề của mình trong tư cách của một vị Đại biểu Quốc hội trước nhân dân, đất nước:

Chúng tôi do nhân dân bầu ra 
Lắng nghe nguyện vọng của dân
Nói cho nhân dân hiểu 
Làm cho dân theo, khó biết chừng nào

Chúng tôi đi sớm lại về khuya 
Trăn trở cùng đói nghèo, gian khó
Phản ánh kịp thời tâm tư, ý nguyện
Từ khắp mọi miền: tiếng nói của nhân dân
(Đại biểu của nhân dân)

Làm người xưa nay là việc khó. Con người lại càng không phải là một thứ roobot được lập trình của văn minh công nghệ. Trái tim và những rung động của nó mới tạo nên con người đúng nghĩa. Vũ Duy Hòa cũng đã nhiều khi đi qua, va đập với sự đa cảm, những khúc tình và anh lắng nghe rất rõ những rung động ấy từ trái tim mình:

Ngày trở lại anh tìm về chốn cũ 
Trời Ba Vì xanh ngắt một màu mây
Trên Tản Viên một dáng hình thấp thoáng 
Vẫn như hờn, như dỗi với người xưa
(Duyên phận)

Chùm thơ về OSIC có nhiều trạng huống, cung bậc tình cảm da diết của nỗi nhớ và tình yêu. Người đọc rất dễ cảm thông và gần như có thể cùng với tác giả nhớ về cô gái này. Một cô gái chưa rõ họ tên nhưng chắc là dễ thương qua nét phác thảo dịu dàng của những câu thơ biết nói:

Thắp lửa cho nhau qua gian khó
Sống tốt hơn cho suốt cuộc đời 
Nhớ không em một chiều xa ấy 
Thư hồng mang nắng ấm về theo
(Nhận thư em từ Tokio)

“Giai điệu tháng năm” đậm đặc và tâm huyết những bài thơ tác giả dành riêng cho cha mẹ, ông bà, cháu con và thơ cho vợ. Gia đình là nơi neo đậu hồn thơ. Bội bạc với gia đình, dòng tộc người ta đâu có thể thành người. Mãi còn đây hình ảnh người mẹ hiền một nắng hai sương, tần tảo, áo bạc, lưng còng nuôi anh nên người:

Bố và con thay nhau đi chiến đấu 
Hết nuôi con, mẹ lại chăm chồng
Bố đã đi trong đoàn quân Vệ quốc
Trấn thủ sờn vai qua khắp chiến trường 
Đôi dép lốp trên đường dài kháng chiến 
Kết vành hoa Điện Biên Phủ lẫy lừng
(Bố tôi)

Với vợ anh dành tất cả thương yêu và sự cảm thông sâu sắc nhất cho chị. Vợ anh cũng là

Ngày hôn lễ áo tôi cài miếng vá 
Dăm lá trầu vài bao thuốc đơn sơ 
Hai người lính thành vợ chồng từ đấy 
Với ba lô con cóc gối đầu giường
(Vợ tôi)

“Giai điệu tháng năm” của Vũ Duy Hòa có cách nghĩ và cách cảm rất tự nhiên. Những bài thơ trong tập này chưa vươn tới độ sắc sảo, cách lập tứ, cách thả lời hiện đại nhưng bù lại nó cho ta ân huệ được thưởng thức một thứ thơ dung dị, thật thà, là bản sao lý lịch của tâm hồn tác giả. Thơ nếu đi được đến tận cùng của dung dị thì cũng là thơ hay đấy thôi. Hãy thật lòng với đời và với thơ. Có thể đấy là thông điệp mà người đọc dễ nhận ra qua tập thơ này.

Những câu thơ đẹp rồi sẽ chết. Chỉ có những câu thơ được viết bằng sự rung động chân thành, bằng máu, bằng hồn, bằng sự kết bạn với muôn phương sẽ sống mãi. Nghĩ về “Giai điệu tháng năm” là nghĩ về một người bạn đã biết sống hết mình một cách có trách nhiệm cho đời và cho thơ. 
PK…


Ảnh

Ảnh



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả