CHÍNH KHÍ CA 01 : NGUYỄN TRÃI


================
NGUYỄN TRÃI



bài thơ QUAN HẢI


-Hàn Sĩ Nguyên-

================


Trong dân gian, thường thì Nguyễn Trãi được biết đến như là tác giả tập GIA HUẤN CA dạy vợ, dạy con giữ cho trọn đạo nhà, đồng thời tiếng nổi như cồn trên cương vị là tác giả của bài thơ “Chiếu gon” đối đáp cùng Thị Lộ, người phụ nữ tài sắc sau này trở thành nội tướng của ông :


***Thơ Nguyễn Trãi (ghẹo cô hàng chiếu)

Ả ở đâu mà bán chiếu gon

Chẳng hay chiếu ấy hết hay còn

Xuân thu phỏng độ bao nhiêu tuổi

Đã có chồng chưa, được mấy con ?



***Thơ đối đáp hoạ nguyên vận của Nguyễn Thị Lộ :

Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gon

Can chi ông hỏi hết hay còn ?

Xuân thu phỏng độ trăng tròn lẻ

Chồng còn chưa có, có chi con !



Nhưng thật ra, tài năng của Nguyễn Trãi “kinh thiên động địa” hơn thế nhiều :


-Ông là anh hùng dân tộc, giữ cương vị quân sư hoạch định kế sách, vận trù mưu lược giúp Bình Định Vương Lê Lợi đánh bại quân Minh

-Ông là một vị tướng giỏi, đã đề ra quyết sách “mưu phạt công tâm” (đánh vào lòng người), giương cao ngọn cờ “đại nghĩa, chí nhân”, chủ trương “lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” dựa chủ yếu vào nhân dân mà chiến đấu

-Ông là một danh nhân văn hoá của cả thế giới , được tổ chức UNESCO ngày nay công nhận. Tác phẩm tiêu biểu của ông không phải là Gia huấn ca, mà là BÌNH NGÔ ĐẠI CÁOQUÂN TRUNG TỪ MỆNH TẬP

-Ông là con hiếu, tôi trung, nhưng cuối đời phải chịu án oan, bị thảm sát cả gia tộc


Có thể nói trong lịch sử VN cổ đại, không có nhân vật nào có thể sánh bằng Nguyễn Trãi vậy. Tiếc thay ! Các tác phẩm của ông đa phần đều viết bằng Hán văn, sức phổ biến không rộng, nên công lao, tài đức của ông còn quá ít người biết đến.


Khi giặc Minh bắt cha ông là Nguyễn Phi Khanh đưa về phương Bắc, Nguyễn Trãi đã vì hiếu theo chân cha đến tận ải Nam Quan. Nguyễn Phi Khanh bảo ông trở về lo việc quang phục lại nước Đại Việt, đánh đuổi ngoại xâm, như thế mới là “đại hiếu”, còn theo cha phục dịch, chia sẻ cuộc sống tù đày chẳng qua chỉ là “chữ hiếu tầm thường” mà thôi.


Nguyễn Trãi vâng lệnh, khóc mà trở về, khi đi ngang qua cửa biển Bạch Đằng, nơi ngày xưa hai lần quân ta dùng cọc nhọn đại phá quân Nam Hán và quân Nguyên Mông, ông bùi ngùi ngắm biển, suy gẫm việc hưng suy, tồn vong của các triều đại trước, xúc cảm mà viết nên bài “QUAN HẢI”, một bài thơ nguyên tác bằng Hán văn, lời lẽ, ý tứ vô cùng uyên thâm, khiến cho người đời sau khi đọc lại, cảm xúc bỗng trào dâng lai láng.

***Thơ NGUYỄN TRÃI :


QUAN HẢI


Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền

Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên

Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ

Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên

Hoạ phúc hữu hồi phi nhất nhật

Anh hùng di hận kỷ thiên niên

Càn khôn kim cổ vô cùng ý

Khước tại thương lương viễn thụ yên


NGUYỄN TRÃI


----------------------------------------


***Dịch nghĩa : NGẮM BIỂN (cảm thán)


Cọc gỗ hàng hàng lớp lớp đứng trơ trơ trước làn sóng biển

Xích sắt giăng ngang dưới sông (để chặn thuyền chiến giặc) cũng chỉ uổng công mà thôi

Lật thuyền mới chịu tin rằng dân như nước (nước chở thuyền đi, nhưng cũng chính nước làm lật thuyền)

Cậy thế hiểm yếu, chẳng qua được số Trời đã định

Chuyện hoạ hay phúc có thời có vận, đâu phải tự dưng bỗng chốc mà xảy đến

(Khiến nên) anh hùng phải ôm hận hàng ngàn năm

Trời đất xưa nay thiên ý vô cùng

Xa xa mây khói (tụ) trên đầu ngọn cây xanh làn sóng bạc

-------------------------------------------------------------


***Dịch thơ bài QUAN HẢI của NGUYỄN TRÃI

- Bản dịch của HƯỞNG TRIỀU -

CỬA BIỂN


Lớp lớp cọc ngăn giữa sóng nhồi

Thêm ngầm dây sắt - uổng công thôi !

Lật thuyền, thấm thía dân như nước

Cậy hiểm, mong manh : mệnh ở trời

Hoạ phúc có nguồn, đâu bỗng chốc ?

Anh hùng để hận, dễ gì nguôi ?

Xưa nay trời đất vô cùng ý

Nơi sóng xanh cây khói tuyệt vời


HƯỞNG TRIỀU

---------------------------------------


***Bản dịch thoát của Hàn Sĩ Nguyên :

NGẮM BIỂN CẢM THÁN


Sóng biển mênh mang cọc điệp trùng

Ngăn sông xích sắt luống toi công

Lật thuyền mới biết dân như nước

Cậy hiểm không xong trách Hoá công

Hoạ phúc phải đâu trong phút chốc

Anh hùng ôm hận với non sông

Ý dân muôn thuở là thiên ý

Khói toả cây xa sóng chập chùng


HÀN SĨ NGUYÊN

-----------------------------------------


***Bài họa ngược (Nghịch ngôn thi) của Hàn Sĩ Nguyên :

NGẮM BIỂN CẢM THÁN 02

- Thượng hạ Nghịch họa -


Chập chùng sóng bạc khói chơi vơi

Dân ý xưa nay vốn ý trời

Tráng sĩ thiên thu đành nuốt hận

Sơn hà chìm đắm lỗi nơi ai ?

Lật thuyền chớ trách trời quay mặt

Cậy hiểm sao bằng nước chảy xuôi

Cọc gỗ trùng trùng, trơ sóng biển

Chăng sông xích sắt, chỉ mua cười !


HÀN SĨ NGUYÊN

-------------------------------------------


***Bài cảm tác của Chu Hà :

CHIỀU QUAN ẢI

(HẬN NGUYỄN TRÃI)


Quan ải chiều buông cánh nhạn sa

Hắt hiu gió lạnh khóc tình nhà

Trời Ngô dõi mắt đau lòng trẻ

Đất Việt dời chân nát dạ cha

Lệ nén lưng tròng, thù quyết trả

Gan căm dằn bụng, hận khôn tha

Núi cao trùng điệp, thân cô lẻ

Nỗi nước, tình riêng ... ruột xót xa


Chu Hà


=================================
Cuộc sinh ly của cha con

NGUYỄN PHI KHANH & NGUYỄN TRÃI


=================================


***Nguyễn Phi Khanh bị Trương Phụ bắt giải sang Tàu. Nguyễn Trãi vì chữ hiếu theo cha đến tận ải Nam Quan. Nguyễn Phi Khanh bảo con hãy trở về, đem tài năng ra lo việc khôi phục, đánh đuổi quân Minh, dựng lại nước Đại Việt ấy mới là đại hiếu !!!

NGUYỄN PHI KHANH DẠY CON


Trung thần vì chúa phải quên thân

Hiếu tử theo cha trí bất phân

Tao loạn biết ai người nghĩa dũng

Trị bình trông cậy kẻ lương thần

Hồng kỳ dựng nước nên hiếu tử

Bảo kiếm diệt thù đuổi ác nhân

Hà tất bo bo lo phụng dưỡng

Chu toàn đại hiếu, giúp muôn dân !


HÀN SĨ NGUYÊN

-cảm thán-

---------------------------------


***Tương truyền rằng lúc cha con Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi nâng chén ly biệt ở cửa ải Nam Quan trời đất cũng cảm động : mây mù vần vũ, giông gió nổi lên đùng đùng, trời không mưa mà sấm dậy sét vang.

NAM QUAN TỐNG BIỆT


Ngàn dặm xông pha chí chẳng dời

Tận cùng quan tái lệ hồng rơi

Sinh thành nghĩa cả chưa đền đáp

Dưỡng dục ơn sâu há thoái lui

Những muốn theo cha cho tận hiếu

Cũng đành vì nước phải quy hồi

Nam Quan gạt lệ dâng ba chén

Tống biệt rưng rưng cảm đất trời


HÀN SĨ NGUYÊN

-cảm thán-

-----------------------

VÔ SONG NGUYỄN TRÃI


Vốn là tài tử, vốn văn nhân

Thao lược tinh thông khiếp quỷ thần

Pháp tựa Tiêu Hà, binh Tôn Vũ

Mưu như Gia Cát, thuyết Tô Tần

Chí nhân diệt bạo bình cường địch

Đại nghĩa vì dân trợ quả quân

Báo quốc thư sinh thành trí tướng

Bình Ngô phá lỗ ấy lương thần


HÀN SĨ NGUYÊN

-đề thơ-


***Tiêu Hà : Danh thần đời Tây Hán , phò Hán Cao Tổ Lưu Bang lập nên nghiệp đế, nổi tiếng nhờ bộ luật Tiêu Hà ( Quân pháp bất vị thân, quân lệnh như sơn. )

***Tôn Vũ : Tôn Vũ tử nước Ngô ( thời Chiến quốc ), tác giả bộ binh pháp 13 thiên bất hủ “Tôn tử binh pháp”, làm tướng cầm quân diệt được nước Sở

***Gia Cát : Khổng Minh Gia Cát Lượng thời Tam quốc, làm Thừa tướng nước Thục, mưu trí như thần

***Tô Tần : Tướng quốc 6 nước thời Chiến quốc, nổi danh vì tài năng thuyết khách, du thuyết khắp thiên hạ bày ra kế Hợp tung, liên kết lục quốc chống lại nước Tần

--------------------

TỐNG TAM UYỂN 01

(Tiễn ba chén)


Sương rơi mờ ải Nhạn

Khói toả cửa Nam quan

Rưng rưng người ly biệt

Thảm thiết chim lìa đàn

Một chén lòng dào dạt

Hai chén nát tâm can

Nghẹn ngào tống tam uyển

Anh hùng lệ chứa chan


Hàn Sĩ Nguyên

--------------------------------

TỐNG TAM UYỂN 02

(Tiễn ba chén)


Chập chùng khói toả Nam quan

Sương rơi hiu hắt miên man nỗi sầu

Rưng rưng ba chén nghẹn ngào

Lá đau lìa cội, chim đau xa đàn

Rừng thu lá đổ bạt ngàn

Trời thu phai sắc ngỡ ngàng biệt ly

Một lạy này, tiễn cha đi

Con về phất ngọn hồng kỳ bình Ngô

Nhất bôi trời đất âm u

Nhị bôi gió nổi, mịt mù mây giăng

Tam bôi sấm nổ sét vang

Một lần ly biệt bàng hoàng thiên thu


Hàn Sĩ Nguyên

-cảm thán-

_________________


Ngày tháng đong đưa đời gió bụi

Mặc ai xa mã chốn gian trần



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả