Nguyên nhơn - Hóa nhơn - Quỉ nhơn

Nguyên: Khởi đầu, thứ nhứt, cái đầu, to lớn. Nhơn: Nhân: người. Hóa: tiến hóa. Quỉ: ma quỉ, linh hồn bị đọa vào quỉ vị.

■ Nguyên nhơn là những người mà linh hồn được sanh ra từ lúc Khai Thiên.

■ Hóa nhơn là những người mà linh hồn do sự tiến hóa từ loài thú cầm đi lên.

■ Quỉ nhân là những người mà linh hồn đã bị đọa vào quỉ vị, nay đầu kiếp lên làm người.

Nhơn loại được chia ra làm ba hạng người theo nguồn gốc của linh hồn: Nguyên nhơn, Hóa nhơn và Quỉ nhơn.

I. Nguyên nhơn:

Nguyên nhơn là người mà chơn linh được Đức Chí Tôn sanh ra từ lúc Khai Thiên, tức là lúc mới tạo dựng Trời Đất, những linh hồn nầy rất trong sạch vì chưa nhiễm bụi trần.

Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, trong bài giải thích Thuyền Bát Nhã, có một đoạn nói về 100 ức Nguyên nhơn đầu kiếp xuống trần như sau:

"Đức Diêu Trì Kim Mẫu vâng lịnh Đức Thượng Đế nhóm ngự triều, đại hội nơi Kim Bàn, phòng định cho 100 ức Nguyên nhơn xuống trần, dùng Ngọc Lộ Kim Bàn trụ các Nguyên nhơn cho xuống thế.

Trước khi ấy, Đức Diêu Trì Kim Mẫukêu toàn cả linh căn chơn tánh dự Hội Yến Bàn Đào, và ban cho mỗi vị một cái túi gọi là Vạn Bửu Nang, trong đó có 8 món báu là: Hiếu, Để, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, và căn dặn khi xuống trần thế, rủi mất một món thì không trở về cùng Mẹ đặng.

Đức Phật Mẫu dùng Bát Nhã thuyền chở toàn linh căn và 8 món báu ấy đưa xuống lập đời. Có bài Kệ rằng:

Linh căn ngày đó xuống trần ai,

Cái cái vui mừng nhập mẫu thai.

Vì mất bửu nang, mê nghiệp hải,

Làm sao tỉnh đặng trở hồi lai?

Bên kia có Đại Tiên Cù Tán Đởm hay là Kim Quang Sứ, thấy Đức Phật Mẫu cho chơn linh xuống trần thì ông cũng xuống trần, dẫn theo năm chơn linh quỉ vị biến thành:

1.    Kim là tiền bạc,

2.    Mộc là sắc đẹp,

3.    Thủy là rượu ngọt,

4.    Hỏa là sự nóng giận,

5.    Thổ là nha phiến.

Mỗi chơn linh quỉ vị đều biến ra năm mùi vị khác nhau cho các nguyên căn say mê mà quên cả Bửu nang.

Con người lớn lên, thấy tiền thì ham, thấy sắc lịch thì mê, thấy rượu ngọt thì ưa, mà nó giục cho con người nóng giận và say mê nha phiến, chước quỉ mưu tà hằng xúi giục, bày ra muôn sự khoái lạc nơi cõi trần chẳng xiết, nên chất linh căn, vì lưu luyến hồng trần, vui say mùi vị thế gian mà quên nguồn cội.

Bởi thế cho nên Thánh nhân ra đời lập Tam Giáo đạo, cũng qui tụ căn bản trong 8 món báu để tỉnh giấc.

Phật giáo dạy phải trọn Tam qui Ngũ giới,

Tiên giáo dạy phải phải vẹn Tam bửu Ngũ hành.

Thánh giáo dạy phải gìn Tam cang Ngũ thường.

Để thức tỉnh các linh căn nhớ nguồn cội và gìn giữ 8 món báu ấy mà trở về, ai được may duyên sớm ngộ đạo mới lên thuyền Bát Nhã mà trở về cựu vị, đúng như bài thi của Đức Chí Tôn đã dạy:

Khuôn thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm.

Nổi quá như bông, nặng quá kim.

Có Đạo trăm muôn ngồi cũng đủ,

Vô duyên một đứa cũng là chìm.

- Thời kỳ Thánh đức: Sơ khai Long Hoa Đại Hội, Đức Di-Lạc kiếp Tiên vị mệnh danh là Hoàng Cực chủ nhân, lãnh lịnh đức Diêu Trì Kim Mẫu hay là Thiên Hậu buổi nọ, Ngài làm chủ thuyền Bát Nhã chở các Nguyên nhơn xuống thế, lần đầu 24 chuyến thuyền, hai lần sau, mỗi lần 6 chuyến, đúng như quyển kinh thứ nhứt và thứ nhì của Ngọc Lộ Kim Bàn.

■ Nguơn Thánh đức gọi là Nhứt Kỳ Phổ Độ có:

1.Giáo chủ Đạo Phật: Nhiên Đăng Cổ Phật.

2.Giáo chủ Đạo Tiên: Thái Thượng Lão Quân.

3.Giáo chủ Đạo Thánh: Văn Tuyên Đế Quân.

Các vị Giáo chủ đã sáng khai nền Đạo, lập thành qui điều luật pháp, an ninh trật tự cho nhơn loại tiến bước trên đường tu tỉnh. Đức Chí Tôn dạy khai Long Hoa Đại Hội Nhứt Kỳ, nên có câu:

"Sơ Hội Long Hoa Thanh Vương Đại Hội, Nhiên Đăng Cổ Phật Chưởng giáo Thiên Tôn."

Đức Nhiên Đăng làm chủ Hội, điểm đạo chỉ có 6 ức Nguyên nhơn đắc đạo.

■ Nhị Kỳ Phổ Độ: thời văn minh tiến hóa ấy mới nổi danh trong Tam giáo:

1.Phật giáo thì có Đức Thích Ca làm Giáo chủ.

2.Tiên giáo thì có Đức Lão Tử làm Giáo chủ.

3.Thánh giáo thì có Đức Khổng Tử làm Giáo chủ.

Sau 551 năm, Đức Chí Tôn cho Đức Chúa Jésus giáng sanh, cũng thời Nhị Kỳ. Sau khi thành lập luật pháp qui điều, Đức Chí Tôn khai Long Hoa Nhị Kỳ Phổ Độ, nên có câu:

"Nhị Hội Long Hoa Hồng Vương Đại Hội Di-Đà Cổ Phật Chưởng giáo Thiên Tôn,"

Đức Di-Đà làm chủ Hội, điểm Đạo được 2 ức Nguyên nhơn, đoạt pháp phần nhiều là môn đồ của Lão Tử đắc đạo.

Còn 92 ức Nguyên nhơn luống chịu đọa trần.

■ Đến thời kỳ Hạ nguơn mạt kiếp, tức là thời kỳ qui cổ, chính mình Đức Chí Tôn giáng trần dùng huyền diệu cơ bút, để Tam Trấn Oai Nghiêm thay Tam Giáo Đạo chủ, lập Đạo Vô Vi, không hình thể như trước, gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

1.Đức Phật Quan Âm chưởng quản Phật giáo.

2.Đức Lý Thái Bạch Đại Tiên Trưởng chưởng quản Tiên giáo.

3.Đức Quan Thánh Đế Quân chưởng quản Thánh giáo, gọi là Nho Tông chuyển Thế.

Nhơn thời Hạ nguơn nầy, do cơ bút mà biết được số Nguyên nhơn đắc đạo trong hai kỳ trước, những Nguyên nhơn đắc đạo đến tình nguyện nơi Ngọc Hư Cung giáng trần, chịu mạng lịnh nơi Đức Di-Lạc Vương Phật lo cứu rỗi 92 ức Nguyên nhơn còn say đắm nơi cõi trần."

Đây là thời kỳ phổ độ chót, trước khi chấm dứt một chu kỳ tiến hoá của nhơn loại, nên Đức Chí Tôn đại khai Ân Xá cho toàn cả nhơn sanh, nếu ai biết ngộ kiếp một đời tu thì đủ trở về cùng Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu.

Nói tóm lại: Đức Phật Mẫu cho 100 ức Nguyên nhơn giáng trần để khai hóa cho nhơn loại thuở nhơn loại còn sơ khai. Số 100 ức Nguyên nhơn nhiễm trần, do Quỉ vương cám dỗ nên làm mất Vạn Bửu nang, không thể trở về cõi thiêng liêng.

Đức Chí Tôn cho mở Nhứt Kỳ Phổ Độ cứu giúp được 6 ức Nguyên nhơn trở về ngôi vị cũ.

Đức Chí Tôn mở tiếp Nhị Kỳ Phổ Độ, cứu giúp được thêm 2 ức Nguyên nhơn trở về cõi thiêng liêng.

Còn lại 92 ức Nguyên nhơn đang trầm luân nơi cõi trần.

Đức Chí Tôn và Đức Phật Mẫu lại mở lòng đại từ đại bi, khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu số 92 ức Nguyên nhơn còn lại. Đây là kỳ phổ độ chót, nếu ai không chịu tu hành để trở về thì không còn kêu nài vào đâu được nữa.

II. Hoá nhơn.

Hóa nhơn là những người do sự tiến hóa của vật loại lên đến phẩm nhơn loại mà thành.

Họ bắt đầu đi từ Kim Thạch, tiến hóa dần lên Thảo mộc, rồi lên Thú cầm, rồi sau rốt tiến hóa lên phẩm Người để thành Hóa nhân, khi đó hưởng được hồng ân của Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh hồn để dự vào Trường thi công quả.

Phần lớn nhơn loại đều là Hóa nhân.

Nguyên nhơn và Hóa nhơn khác nhau ở điểm nào?

- Nguyên nhơn có linh hồn từ lúc Khai Thiên,có sẵn ngôi vị nơi cõi thiêng liêng, trực tiếp đi từ cõi thiêng liêng giáng sanh xuống cõi phàm trần, nên Nguyên nhân rất khôn ngoan sáng suốt, có nhiệm vụ hướng dẫn nhơn sanh (tức là hướng dẫn các Hóa nhân) tiến hóa trên đường đạo đức và văn minh, lập được nhiều công quả hầu được trở về ngôi vị cũ và gia tăng phẩm vị nơi cõi thiêng liêng.

- Hóa nhân là do Thú cầm tiến hóa đi lên phẩm Người, nên còn rất khờ ngây, và còn ít nhiều thú tánh. Nhờ Đức Chí Tôn ban cho một điểm linh hồn nên mới dần dần được khôn ngoan, từ từ tiến hóa, sau rất nhiều kiếp thì cũng được khôn ngoan như các Nguyên nhơn, và nếu giác ngộ tu hành thì cũng đắc đạo, đạt được ngôi vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng. Khi đó, Hóa nhân cũng giống như Nguyên nhân, đều có ngôi vị.

Theo lời dạy của Bát Nương trong Luật Tam Thể thì:

Các Nguyên nhân phạm Thiên điều thì bị đọa Tam Đồ Bất Năng Thóat Tục, còn Hóa nhơn phạm tội nặng thì bị đọa vào Quỉ vị.

"Kiếp Hóa nhơn thì về quỉ vị, còn kiếp Nguyên nhơn phải bị đọa đày như vậy mới sánh với quỉ vị được chớ. Đó là Luật Thiên điều đã định, dầu cho Nguyên nhơn hay Hóa nhơn cũng đồng hình phạt, lẽ công bình là đó."

III. Quỉ nhơn:

Quỉ nhơn là quỉ hồn đầu kiếp lên làm người nơi cõi trần.

Quỉ hồn là các linh hồn của Hóa nhân phạm tội nặng bị đọa vào quỉ vị. Các quỉ hồn đều chịu dưới quyền của Quỉ vương sai khiến.

Quỉ vương cho các quỉ hồn đầu kiếp làm người đặng tạo thành các bài vở cho các Nguyên nhơn và Hóa nhơn học hỏi, đồng thời khảo đảo dữ dội để phân Thánh lọc phàm.

CG PCT: "Nhơn loại có: Hóa nhân, Quỉ nhân và Nguyên nhân, ấy là có phân đẳng cấp, nếu Thầy dùng huyền diệu thiêng liêng mà làm cho nhơn loại cả thảy đều thấy đặng cơ mầu nhiệm của Đạo, đồng đặng đắc kiếp thì phẩm vị thiêng liêng cũng không còn trật tự."

"Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu sanh, nhơn loại hữu sanh, tức là chúng sanh.

Trong chúng sanh có: Nguyên sanh, Hóa sanh, và Quỉ sanh. (Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có. Hóa sanh là khai Thiên rồi mới biến hóa ra. Quỉ sanh là hai phẩm kia phạm Thiên điều bị sa đọa.)

Tỷ như Nguyên nhân, là khai Thiên rồi thì đã có chơn linh ấy, còn Hóa nhân là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn loại, còn Quỉ nhân là hai chơn linh kia xu hướng ác hành mà bị đọa đày vào Quỉ vị."

"Chơn linh các Nguyên nhân bị đọa trần, Quỉ nhơn chuộc tội, hay là Hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế độ) nên Thượng Sanh làm chủ về Thế Đạo, nắm luật Thế nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào cửa Đạo."

TĐ ĐPHP: Trong Lễ Hội Yến DTC ngày 15-8-Tân Mão (dl 15-9-1951):

"Trong tám phẩm chơn hồn (Bát hồn) ấy xuất hiện nơi Kim Bàn, do theo luật thiêng liêng của Đức Chí Tôn đã định, thì họ phải từ từ tăng tiến mãi. Cái luật tăng tiến ấy nó buộc ta, mỗi kiếp sanh, đều kiếm phương tu, đặng chi? đặng tạo thiêng liêng vị cho chúng ta.

Các đẳng chơn hồn ấy, khi đạt đến nhơn phẩm rồi chia ra hai phẩm hồn đặc biệt, ở trong vật loại tăng tiến lên đạt nhơn phẩm của mình gọi là Hóa nhân; các chơn hồn ở trong Kim Bàn đã xuất hiện ra với địa vị nhơn phẩm của mình thì gọi là Nguyên nhân.

Hai phẩm hồn ấy nếu không noi theo đạo đức đặng từ từ bước lên con đường Thánh đức của mình, đặng đoạt cho tới địa vị cuối cùng là Phật vị, lại làm tội lỗi thì phải sa vào Quỉ vị.

Ấy vậy, phần người có: Nguyên nhân, Hóa nhân, Quỉ nhân. Hại thay 100 ức Nguyên nhân do Đức Chí Tôn đã để lại nơi mặt thế nầy đặng làm bạn với các đẳng chơn hồn trong vạn linh sanh chúng của Ngài đã đào tạo thì Phật vị có 6 ức, Tiên vị có 2 ức, còn 92 ức Nguyên nhân bị đọa trần.

Từ ngày Đạo bị bế, họ có lắm công tu hành mà thành thì không thành. Tội nghiệp thay! vì 92 ức Nguyên nhân ấy là chính mình Đức Chí Tôn phải giáng trần mà lập nền chơn giáo của Ngài. Chúng ta đã ngó thấy cái Thánh ân, đặc biệt hơn hết là Đức Chí Tôn đã thấy rõ rằng: Các Nguyên nhân ấy không phương gì tự giải thoát vì quá tội tình, quá mê luyến hồng trần, hoặc đào tạo quả kiếp nặng nề quá đỗi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế nầy. Chính Đức Chí Tôn biết rằng không thế gì các Nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng.

Hôm nay, Ngài đến lập nền chơn giáo của Ngài. Chúng ta đã thấy rõ lòng yêu ái vô tận của Ngài là thế nào? Chúng ta thử suy đoán, không ai nói cho mình nghe hơn Mẹ của mình, không ai dạy dỗ mình có oai quyền hơn Mẹ của mình. Cái tình trạng ấy đối với mặt thế chúng ta thế nào thì quyền năng nơi cõi TLHS như in, không mảy may chi khác.

Ngài lập giáo rồi, còn một nỗi là kêu nó không đến. Ngài dạy mà không biết chi. Chính mình Ngài đã nhiều lần hạ trần lập Đạo mà 92 ức Nguyên nhân vẫn đui và điếc, không biết chun vào lòng yêu ái vô tận của Ngài, đặng hưởng cái hạnh phúc vô biên của Ngài đã đào tạo.

Vì cớ cho nên, Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu cơ quan siêu thoát ấy, phải làm thế nào đặng tận độ 92 ức Nguyên nhân trở về cựu vị.

Muốn cho đạt đặng bí pháp siêu thoát ấy, chúng ta ngó thấy Đức Phật Mẫu đã làm gì? Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu nắm quyền hành để rước hết các chơn hồn khi đã đạt pháp, tức nhiên đạt cơ siêu thoát, lập vị mình đặng vào cái địa vị thiêng liêng, đạt đặng thì phải về Hội Yến cùng Phật Mẫu."

Đức Nguyệt Tam Chơn Nhơn giáng cơ ngày 20-3-1932, có in trong TNHT, nói rằng, trong thời kỳ Đại Ân Xá nầy của Đức Chí Tôn, dầu Nguyên nhân, Hóa nhân hay Quỉ nhân, nếu biết lo tu hành, lập công bồi đức thì nhứt định đắc đạo:

TNHT: "Bần đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Đạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn, mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị. Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay là Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Đạo.

Bần đạo để cho mỗi người tự do định phận, lại tùy thế khó khăn mà gầy thành công quả. Ấy vậy, nếu lấy phép công bình thì tự nhiên nên thì thâu, hư thì bỏ." - CĐTĐ




Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả