Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]


- Thưa bác, nếu thế đâu cần luân lý.

- Tôi hiểu anh muốn nói gì. Anh em nên để ý nhận định, luân lý là những lề luật, thành văn hay bất thành văn; chúng chỉ là sản phẩm của con người vì lợi ích nhân sinh trong sự liên hệ cuộc sống. Tuy nhiên, đâu phải lề luật hay luân lý giúp chúng ta trở nên toàn thiện. Đàng khác, nơi hành trình tâm linh theo Ấn học, hành động chính là cuộc sống, cách sống, và tất cả hoạt động nơi sự hiện hữu. Nhịp tim đập, lá phổi thở, suy nghĩ nơi tâm trí, mọi sự đều là hành động của Đại Ngã thì sao chúng ta có thể dùng nhận định luân lý hạn hẹp làm tiêu chuẩn nhận định. Ai là người đặt ra lề luật qui định con tim phải đập bao nhiêu nhịp trong một phút hay nó đập ra sao con người đành chịu như thế! Bởi vậy, vấn đề cần được đặt ra chỉ là chúng ta có ý thức quyền lực khiến con tim đập, lá phổi thở hay không. Nếu quyền lực này đang hoạt động nơi mình mà không nghiệm chứng, tất nhiên được gọi là vô minh. Do đó, dẫu thức ngộ hay vô minh cũng chỉ là một người; vấn đề khác biệt tùy thuộc trạng thái tâm thức mà thôi. Nhận thức như vậy, anh em hiểu được tại sao Ấn học có câu: "Không phải nhờ giới luật của hành động con người mới đạt đến tự do, cũng không phải chỉ biết khước từ hành động (xả kỷ) con người mới đạt được toàn thiện. Sự thực, ngay trong giây lát, chẳng có ai ngồi ỳ ra mà không hành động, vì những phẩm tính bẩm sinh (Gunas) từ Prãriti mọi người sinh ra để mà hành động, bắt buộc hắn phải hành động" (CTC. Tr.31). Như thế, xác thân có mục đích riêng của nó; vì với sự hỗ trợ của xác thân, linh hồn tù túng được giải thoát (CTC. Tr.XXXIX). Có thể nói theo lối duy lý, xác thân chỉ là công cụ cho linh hồn thăng tiến nơi cuộc sống hữu hình.


- Tuy nhiên, Ấn học không coi rẻ xác thân; vì dẫu đôi khi gọi xác thân là nhà tù của linh hồn; nhưng đồng thời, qua cơ hội cuộc sống, nó lại là phương tiện linh hoạt duy nhất để phát triển tâm linh một người; vì nó cũng chính là hiện thân của quyền lực tối thượng nơi hành trình hữu vi. Trong kinh Chí Tôn Ca, Arjuna biểu hiệu của một linh hồn nhân thế, còn tôn giả Krishna là linh hồn vô thượng hiện hữu trong tâm thức phàm nhân (CTC. Tr.VI). Krishna nhắc nhở cho Arjuna đại diện cho thế nhân ý thức cốt cán về cuộc sống; hoạt động của con người chính là ý thức về thực thể. Hành động thoát khỏi ý niệm về con người hành động, thoát khỏi năng lực hành động, và hậu quả của hành động mới đúng là ý thức vô thượng (CTC. Tr.XXXV). Atman hay linh hồn là hiện thân của tinh thần toàn thiện, vĩnh phúc, hòa bình nên linh hồn bất biến và không hành động, nhưng bản ngã vô thượng hay Atman hiện ra để hành động; vì năng lực huyền ảo cứng nhắc của Màyà xâm nhập vào bản thể vô thượng và làm cho tinh thần nhất thể hiện ra muôn ngàn vóc thể; do đó bản ngã tối thượng bị nhận thức thành bản ngã hữu hạn (CTC. Tr.XXX). Như tôi đã nói với anh em, không phải bộ óc chúng ta suy nghĩ hay sáng tạo hoặc ước mơ; mà những suy tư tâm linh hay tinh thần đều là hoạt động của linh hồn. Nơi Ấn học, đạo trình Yoga là phương pháp thực nghiệm dùng xác thân như phương tiện giúp linh hồn nhận thức thực thể về bản thể uyên nguyên tối thượng nơi mình.

- Thưa bác, yoga có phải là thiền không? Cháu nghe có người nói là đạo yoga trong khi bác lại nói phương pháp yoga.

- Thiền hay Yoga là phương pháp hoặc hành trình giúp người tu chứng tiến tới đại định, trạng thái ý thức hòa nhập với thực thể tối thượng đang hoạt động nơi mọi loài mọi vật...

- Thưa bác,

- Khoan hãy hỏi, bác đang nói, chưa chi đã nhảy xổm vào cổ họng...

- Ai nhảy vào cổ họng ai! Ông biết tôi sẽ nói gì mà đã vội chận họng...

- Các chú nên bình tĩnh, Ông Thung lên tiếng và hướng về cụ Tài, xin cụ phân định.

- Anh Sỹ, anh muốn nói gì?

Men rượu, men bia, khiến hắn cần phần nào thái độ chứng tỏ có lý phá ngang của mình nên thái độ hơi nghênh ngang phơi bày quyền ưu tiên với Bá vì vừa lên tiếng chặn câu hỏi của hắn,

- Ông đã nhận thức được ai nhảy xổm vào cổ họng ai chưa?

- Chú Sỹ, ông Thung ngắt lời, thời gian cũng khá muộn.

- Vấn đề cháu muốn đặt ra đó là, nếu Thượng Đế, Đại Ngã, Chân Như, Quyền Lực Uyên Nguyên đã và đang hoạt động nơi mọi người thì đâu cần phải thiền, phải định, phải "giô ga," "giô rượu."

- Anh em biết rõ, có giô ga, giô rượu thì cuối cùng cũng như chưa giô sao vẫn cứ giô?

- Nó phê... lắm..., Hinh lấy giọng trầm trầm, kéo dài âm "phê" khiến mọi người cảm thấy vui lây...

- Kiến tính thành Phật hoặc Yoga đều có cùng một mục đích đó là nhận ra bản thể tuyệt đối đang hoạt động nơi mình. Nhà Phật gọi là chứng ngộ, chứng nghiệm, chứng cái không để vượt khỏi vòng vô minh. Đây chính là điều kinh Niết Bàn của nhà Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không được giải thoát (SCTT. Tr.43). Nếu anh em nào có cơ hội đọc cuốn Vô Niệm Viên Thông nên để ý nơi phần lời tựa, sư Thích Minh Thiền hý lộng, "Đời là một đại hí trường, đã trót đến hí trường, không thể không tìm trò chơi cho thoải mái. Muốn chơi theo chúng sinh hay chơi theo Phật thì cứ mà tùy ý, miễn đừng quên là mình đang chơi được rồi!" (VNVT; Tr.1-2). Nguyên tắc chơi của ngài chỉ là không mong cầu tất cả những gì thuộc về tài, tình, danh lợi xoay quanh trục lợi hại bổn thân của cái tôi - không nương dựa vào bất cứ một quyền oai thần thánh nào - không sợ hãi một điều gì xuất phát từ lợi hại bổn thân - phải tuyệt đối thành thật với chính mình. (VNVT; Tr.36). Cao điểm kiến tính thành Phật hay yoga cũng chỉ có thế. Tuy nhiên, chẳng khác gì thứ lừa ưa nặng, nhân sinh muốn mang ách thì tạo ra ách cho thêm phiền hà; bởi văn từ yoga lấy từ tiếng Phạn “Yog” có nghĩa là cái ách. Hành trình thực nghiệm phát xuất từ Ấn học được áp dụng theo nhiều phương pháp Yoga. Nhà Phật thì có những Phật pháp gọi chung là thiền. Ngược lại, đối với những người bình dân thiếu hiểu biết, nghe đây lõm bõm vài câu, hóng đó dăm ý kiến đồn đãi nên thường cho rằng thiền hay yoga cũng như nhau; có những người khác gọi đạo thiền hay đạo yoga. Qua lần nói chuyện buổi tối tuần trước và tối hôm nay, tôi nghĩ anh em đã biết thiền là gì. Riêng về Yoga, đó là hành trình thực chứng tối quan trọng nơi Ấn học. Tôi muốn anh em thực nghiệm đôi phút. Mọi người hãy chống cùi chõ lên bàn và giơ ngón tay trỏ lên một cách tự nhiên. Nào, nhắm mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng lỗ mũi, và dồn hết tâm trí, tưởng tượng rằng luồng khí nhẹ nhàng xuyên qua lỗ mũi được dẫn trực tiếp tới ngón tay trỏ. Anh em cứ ngồi tự nhiên thoải mái, không động đậy. Nào, từ từ thở ra, từ từ hít vô. Cụ Tài hướng dẫn mọi người hít vô, thở ra bẩy lần.

- Anh em cảm thấy thế nào nơi ngón tay trỏ.

- Ô!, lạ quá, nó giật giật giống như động mạch ở cổ chạy lên đầu. Tùy con lên tiếng.

- Đây là nguyên tắc thực nghiệm chính yếu của Yoga; nếu anh em nào học võ theo môn phái hiệp khí đạo sẽ không lạ gì về trò chơi này, vì ý dẫn khí và khí dẫn huyết đến đả thông những kinh mạch bị bế tắc. Nếu được chỉ dẫn đúng đắn theo hành trình luyện khí công nào đó, người thực hành sẽ phát huy được luồng nội lực và đồng thời sẽ phát triển được một số quyền năng hữu ích nơi cuộc sống hữu vi, có thể thực hiện được những việc thường được gọi là phép lạ. Ngược lại, sử dụng những quyền năng này với ý đồ chẳng nên nào đó sẽ phải trả giá khá nặng mà chỉ ai vấp phải mới biết. Tôi nói trước, nếu anh em nào tò mò muốn thử, cứ việc thử nhưng chắc chắn sẽ gặp phiền hà đầu tiên tạm gọi là tẩu hỏa nhập ma. Bởi vậy, nếu ai liều mạng muốn thử, khi nào cảm thấy mỏi phía đàng sau gáy hay ê ẩm ngang thắt lưng tất nhiên đã bắt đầu bị tẩu hỏa nhập ma. Muốn chữa thì đứng thẳng người một cách bình thường, dồn hết tâm trí vào hơi thở, từ từ hít hơi dẫn vô nơi nhức mỏi trong khi hai tay theo luồng hơi đang hít vào giang ra và từ từ đưa cao ngang bằng với vai. Khi không khí đã đầy phổi, từ từ thở ra và hai tay xuôi dần xuống hai bên thân. Làm như vậy ít nhất là năm lần thì máu huyết tắc đọng nơi đó sẽ được thông.

- Thưa bác, nếu cứ tiếp tục luyện thì sao?

- Thì hai năm mươi, Bá lên giọng chen ngang.

- Dĩ nhiên, chết thì không chết nhưng sẽ bị điên khùng.

- Thưa bác, như bác nói, mọi suy tư, ước muốn, đều do hồn con người thì sự điên khùng phải phát xuất từ hồn chứ đâu phải là kết quả của sự luyện tập dẫn luồng khí huyết không đúng phương pháp?

- Trước khi trả lời câu hỏi, tôi muốn phân định rõ ràng đó là sự liên hệ giữa hồn và xác thể không thể tách rời, và xác thân là phương tiện duy nhất cho hồn trong hành trình thăng tiến tâm linh. Linh hồn hay atman cũng là một với ý thức, nhận thức, kiến thức, ước muốn, ý định. Ai cũng nhận thấy qua kinh nghiệm sống của mình, lòng buồn sanh bịnh, bịnh sanh lòng buồn; lòng quanh quéo sông càng quanh quéo, cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu (VNVT; Tr.10). Theo Ấn học, linh hồn và xác thân là hiện thể của Đại Ngã, thực thể tối thượng. Thế nên, sự luyện tập xác thân theo phương pháp Yoga thanh tẩy những phần tử trọng trược do thiếu ý thức nhận biết thực thể chính mình. Dẫu được sinh ra với bản tính khác nhau, điều lầm lạc lớn nhứt của chúng ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém. Thực ra, cá tính chỉ là kết quả do những thói quen, lòng ham muốn, và dục tình sinh ra chớ không phải chúng là bản chất của con người. Cũng thế, tính tình của một người chỉ là thói quen của tư tưởng. Tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều nhập nhiễm và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng chứng là người có tâm hồn thanh cao không thể hợp với những nơi ồn ào, náo nhiệt, ngược lại, kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm (HTVPĐ; Tr.191). Thế nên, khi phần tử nào của thân xác gặp trục trặc, nó sẽ trở thành sự cản trở, hoặc phương tiện biến những mệnh lệnh thành rối loạn thì hồn không thể sử dụng xác thân một cách chính xác vì vậy được gọi là điên khùng.

- Theo lời giải thích của những hành giả Yoga, sinh lực là phương tiện để ngự trị các năng lực sinh hoạt của tâm linh trong mọi hình thức biểu hiệu của chúng. Hình thức biểu hiệu hiển nhiên nhất là hơi thở (MGTT; Tr.204). Thế nên, tập thở theo một phương pháp nhất định, đó là bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng cần lặp lại một lần nữa, phép luyện khí công có thể có hại nếu không nói là tối nguy hiểm đến tánh mạng trừ phi hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm (TTHB; Tr.174). Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng, hai bộ máy hô hấp và tuần hoàn đều có liên quan chặt chẽ với nhau đồng thời tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai bộ máy nói trên. Theo quan niệm Yoga, hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn; sức mạnh này mới là trụ cốt sinh hoạt của xác thể. Chính sức mạnh đó ẩn tàng, vô hình, vô ảnh trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi nó rời khỏi xác thân thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp chúng ta làm chủ được phần nào sinh lực vô hình đó (ĐPHB; Tr.79-80). Như vậy, Yoga là phương pháp chế ngự giác quan tiến tới đại định. Có nhiều phương pháp chế ngự giác quan. "Phương pháp thông thường là dồn hết tâm trí để ý đến nhịp thở được gọi là "quán sổ tức." Khi để hết tâm chuyên chú vào nhịp thở, lấy tâm mình noi theo nhịp thở, ta có thể dần dần khóa kín các ngõ ngách của giác quan khiến ngoại giới không lọt vào được tâm thức. Phương pháp thức hai là dồn tất cả sự chú ý của mình vào nội tâm và cơ thể trong người được gọi là "hồi quang phản chiếu." Tỉ dụ quán tưởng vào điểm giữa hai lông mày hoặc nơi trái tim, thường được hình dung như một bông sen có nhiều cánh. Khi đạt đến trình độ này, hành giả thường ngồi tĩnh tọa bất động, hai mắt nhắm lại, giữ hơi thở đều hòa, các ngũ quan khép chặt, toàn thân gần như trở thành vô tri giác đối với ngoại giới; tâm thức tập trung vào một điểm nào nơi cơ thể hoặc một ý niệm nào đó. Theo kinh sách kể lại, nơi giai đoạn này hành giả sắp đối diện với những thời điểm hiểm nghèo cũng như có thể đạt tới những thành quả khá kỳ lạ. Họ có thể khai thông được những nguồn sinh lực mới mẽ và hết sức mãnh liệt vẫn tiềm ẩn nơi mình" (TTÂĐ; Tr.251-252). Tuy nhiên, những quyền năng như kết quả phát triển năng lực nội tại theo phương pháp Yoga sẽ là những cạm bẫy ngăn cản bước đường tu chứng vì càng có quyền năng bao nhiêu, con người càng dễ rơi vào vọng chấp bấy nhiêu và phát sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Bậc thức giả phải biết vượt lên trên nữa để đi tới thiền định hầu đạt tới địa hạt huyền diệu tuyệt đối, hòa nhập làm một cùng quyền lực vũ trụ tức Thượng Đế (TTÂĐ; Tr.256).

- Có nhiều pháp môn Yoga. Mimmamsa: khuyến cáo sự tu luyện bằng việc hành lễ và tụng niệm giống như phái tịnh độ tông của nhà Phật. Phái Tantrisme khuyến cáo sự thờ phượng và tụng niệm các chân ngôn. Phái Védanta chủ trương dùng trí tuệ tu luyện để thấu triệt cái lẽ phi nhị huyền diệu trong tạo vật. Phái Jnana-Yoga cũng tương tự như vậy (TTÂĐ; Tr.237). Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalingi Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ. Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén; Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, và Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, nhờ đó hành giả thấu triệt ý nghĩa và sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời (TTHB; Tr.177).

- Thưa bác, cháu nghe đâu đó nói rằng ai muốn luyện tập yoga phải theo những quy luật rất khắt khe về ăn uống cũng như những thế ngồi, nằm, đi đứng.

- Nguyên tắc siêu thoát của Ấn học bắt nguồn từ nhận thức tâm linh. Uyên nguyên của vũ trụ bắt nguồn ở một tinh lực duy nhất, thường hằng tự tại, vô thủy, vô chung. Bất cứ một hiện tượng nào, bất cứ một chúng sinh nào cũng đều do tinh lực đó tạo nên và cũng đều hàm chứa thứ tinh lực đó. Nhưng càng đi sâu và hiện tượng hóa, tinh lực đó thường bị vùi lấp dần dưới những lớp thể chất tương tự như một tấm gương trong sáng bị phủ đầy bụi nhơ (TTÂĐ; Tr.239-240). Chỉ khi tập trung quán tưởng, con người mới có thể thực hiện những nỗ lực cuối cùng để diệt trừ vọng tưởng đưa thần thức mình hòa nhập với thực thể uyên nguyên của vũ trụ (TTÂĐ; Tr.242). Bởi thế, phương pháp Yoga cũng như thiền, tức là dồn mọi nỗ lực vào sự tập trung quán tưởng; dùng tâm thức tập trung sự quán tưởng theo chiều hướng chuyên nhất để đưa thức giác vượt lên trạng thái siêu thức bằng cách diệt vọng tưởng. Muốn đạt tới trình độ này, hành giả cần phải tập luyện để điều thân, điều tức, và điều tâm. Điều có nghĩa vừa điều hòa vừa điều khiển. Điều thân tức là điều hòa và điều khiển nhịp sống sinh lý của mình. Điều tức là điều hòa và điều khiển nhịp thở của mình. Nhịp thở là nơi tiếp giáp giữa tâm và vật. Có điều khiển được nhịp thở mới hoàn tất được nhịp sống của sinh lý và tiến tới sự điều tâm. Điều tâm nghĩa là điều hòa và điều khiển sự sinh hoạt của tâm thức mình (TTÂĐ; Tr.242).

- Hành trình Yoga bao gồm những nấc thang giúp hành giả đạt tới đại định. Như vậy, những phương pháp hay điều lệ Yoga đều nhắm tới sự luyện tâm. Chẳng hạn Yama Yoga bao gồm sự tuân giữ năm giới: cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp, cấm hành lạc và dâm dục, không được tham lam ích kỷ. Niyrma có 5 điều luật: trong sạch, an phận, khổ hạnh, tu học và tập luyện, tôn kính Thượng Đế Icvara của phái Yoga. Ý nghĩa chính của những điều luật Niyama là sự luôn luôn khước từ những dục vọng tầm thường. Đối với những người tu Yoga, sự khước từ có một ý nghĩa tích cực vì khi can đảm khước từ một ý muốn nào như một chức vị, một chén rượu ngon, mỗi khước từ đều trau giồi cho tâm thức lớn mạnh và tự do hơn trước (TTÂĐ; Tr.245-246).

- Theo lý thuyết thực nghiệm Yoga, vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế và trong một thời gian bao lâu không phải là vấn đề quan trọng. Sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư thế đó một cách đúng phép làm thúc động những mãnh lực tiềm tàng trong người chúng ta mới là chủ đích. Những mãnh lực đó là những bí mật của thiên nhiên; nó chỉ hoàn toàn phát triển khi nào có kèm theo những phép luyện hơi thở; vì hơi thở mang những quyền năng rất nhiệm mầu. Sự khích động những mãnh lực tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga (ĐPHB; Tr.70). Nơi các sách vở viết về thực hành Yoga thường nhắc tới thế ngồi Liên Hoa. Thế "liên hoa tọa bộ" giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó hành giả khỏi bị té ngã nếu y thình lình xuất thần trong cơn nhập định. Thế ngồi này thường được dùng để luyện tập điều hành hơi thở, dễ tập trung tư tưởng và tự tin. Những người thực hành Yoga quan niệm rằng sự phối hợp của thế ngồi và lòng tự tin làm thức động luồng hỏa hầu tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho hành giả khai mở một vài luân xa và có được một số khả năng trỗi vượt thường được gọi là quyền năng (ĐPHB; Tr.75).

- Các đạo sĩ Yoga giải thích rằng cơ thể con người có bẩy trung tâm lực được gọi là luân xa; mà chỉ những người đã dầy công tu luyện mới có thể nhìn thấy. Luân xa là đầu mối và qua đó tinh lực vũ trụ đổ dồn vào tiểu vũ trụ tức con người. Nơi cơ thể người thường, những luân xa bị bế tắc, chưa được khai thông nên không thể sử dụng được những nguồn tinh lực này. Luân xa thứ nhất được gọi là Mulâdhâra, nằm ở đầu chót xương sống. Luân xa thứ nhì mang tên Svadischtana nơi cuối bụng dưới, cách rốn một lóng tay, thường được gọi là đơn điền. Luân xa thứ ba ở lưng, ngang rốn, hình hoa sen mười cánh gọi là Manipura. Luân xa thứ tư nằm ở trái tim, Anahata. Luân xa thứ năm, Vischuda, tiểu não, phía sau yết hầu. Luân xa thứ sáu tức Ajna ở khoảng giữa hai lông mày. Luân xa thứ bảy gọi là Sahasrana ngay nơi chóp đỉnh đầu, cũng được gọi là huyệt bách hội. (TTÂĐ; Tr.253-254). Theo Lama Anagarika Govinda, trung khu thấp nhất ở cuối xương sống, tương ứng với màng lưới thần kinh linh thiêng được gọi là Mulâdhâra; nó chứa sinh lực gốc, dùng để hoặc là sinh sản hay đổi mới các tiềm lực, hoặc là thăng hoa chúng thành năng lực tinh thần. Năng lực tiềm tàng của trung khu này được mô tả như là luồng hỏa xà (Kundalini); với tính cách là nguyên ý sáng tạo ra vũ trụ. Nó đại diện cho quyền lực thiên nhiên, mang sức mạnh không gì kháng cự nổi; nó tác động như thiên thần, hoặc như ác quỷ; nó giúp cho triết nhân chiếm hữu nó đạt được sức mạnh tinh thần siêu việt; còn người điên kích động nó thì bị nó phá hoại (MGTT; Tr.187).

- Thưa bác, cháu hơi tò mò, vậy trong cuộc đời bác đã gặp vị nào chứng đắc được quyền năng nào do luyện tập Yoga chưa?

- Anh em nên hiểu thêm, những bậc đại giáo chủ như đức Giêsu, đức Krishna, đức Thích Ca, xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định với một sứ mạng to tát vĩ đại rồi tịch diệt sau khi mục đích của các ngài đã được hoàn thành (XPHB; Tr.61). Riêng những vị tôn sư, chân sư, được gọi là những đấng lâm phàm ẩn dấu cuộc đời của họ trước mắt những kẻ tò mò hoặc thế nhân phàm tục. Những vị thực sự tu hành, vì đã biết hậu quả khốc hại cũng như bản tính mê đắm của con người với quyền năng nên họ chẳng bao giờ có ý đồ muốn đạt được quyền năng; mặc dầu khi tu luyện đến một trình độ nào đó quyền năng chỉ là kết quả của sự tu luyện, nhưng họ bị cấm bởi những lời thề nguyền trước khi nhập môn tu chứng. Như thế, có thể nói trong cuộc đời, chúng ta đã gặp và chúng ta chưa gặp những vị chân sư đạt đạo. Nếu có thể được, anh em chịu khó kiếm và đọc hai cuốn sách Tây Tạng Huyền Bí và Xứ Phật Huyền Bí, may ra hữu ích cho việc chứng nghiệm. Một cuốn viết do Lạt Ma Lobsang Rampa và cuốn kia do một tu sĩ Yoga Ấn Độ. Nhân tiện tôi kể lại cho anh em một đoạn trong câu chuyện gặp gỡ của tu sĩ Ấn Yoganada và nữ thánh Công giáo Therese Newman người Đức:

- Cô không bao giờ ăn uống gì chứ? Tôi hỏi để được nghe lời xác nhận từ miệng cô thốt ra.

- Không, trừ ra một miếng bánh thánh lúc sáu giờ sáng mỗi ngày.

- Miếng bánh thánh ấy độ bao lớn?

- Nó mỏng như giấy và nhỏ chừng bằng một đồng xu. Tôi ăn nó vì lý do tâm linh. Nếu nó không được làm phép bí tích, tôi không thể nào nuốt trôi qua cổ họng!

- Tất nhiên cô không thể sống bằng bấy nhiêu đó suốt mười hai năm trường?

- Tôi sống trong ánh sáng của Chúa.

- Tôi nghĩ chắc cô cũng biết rằng cơ thể cô hấp thụ khí lực của trời đất trong không khí và ánh sáng thiên nhiên.

Một nụ cười hiện trên gương mặt, cô đáp:

- Tôi rất sung sướng mà thấy bà hiểu tôi sống bằng cách nào.

- Đời sống thánh thiện của cô đã chứng minh cho lời dạy của Đức Kitô: "Con người không phải chỉ sống bằng cơm gạo mà thôi, mà còn bằng lời nói của Chúa Trời" (XPHB; Tr.116).

Tôi liền dừng chân trên ngưỡng cửa, kinh ngạc mà nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ dị và rùng rợn. Một giòng máu rỉ xuống liên tục từ hai mí mắt dưới của Therese, mắt cô nhìn lên tập trung vào bí huyệt ở giữa trán. Cái khăn quấn trên đầu cô đẫm máu ướt sũng chảy ra từ những vết thương do cái mão gai nhọn đặt lên đầu Chúa Kitô khi xưa. Cái áo dài trắng bị đẫm máu ở trên chỗ quả tim do vết thương đâm bên hông khi đức Kitô bị ngọn giáo của người lính đao phủ hành quyết. Vì đã điều chỉnh tần số nhịp điệu rung động của tôi để có sự giao cảm tâm linh truyền thanh và truyền hình với nữ thánh nên tôi bắt đầu nhìn thấy những cảnh tượng diễn ra trong cơn linh ảnh của cô. Cô đang chiêm ngưỡng đức Giêsu khi Ngài mang trên vai cây Thập Tự Giá bằng gỗ đi giữa đám đông la hét, nguyền rủa và phỉ báng Ngài (XPHB; Tr.119-120).

- Tu sĩ Yogananda có thêm thắt chi nơi câu truyện hay không tôi chẳng biết. Tôi chỉ kể lại để anh em cảm nghiệm được điều gì thì tự biết lấy. Có điều tôi muốn hỏi, qua câu truyện này, anh em có nhận thức thêm được điểm gì đặc biệt không?

- Thưa bác, Tùy con đắn đo, nếu đó là chuyện thật thì thánh nữ Newman đã đạt tới đại định như người tu luyện Yoga. Và như vậy, cháu thấy hơi khó nghĩ.

- Cảm ơn anh Tùy. Ai có thêm ý kiến gì nữa không?

- Theo ý cháu thì, Hinh lên tiếng, sự việc này nói lên phần nào chiều sâu của các tôn giáo. Cháu theo đạo Công giáo nhưng chưa bao giờ được nghe cha nào hoặc sơ nào nói về phương cách để gặp gỡ Chúa diện đối diện như trong trường hợp thánh nữ Newman. Mà có chăng đều cho là phép lạ hoặc ân sủng đặc biệt, Chúa ban cho ai thì người nấy được. Như vậy, cháu muốn nói, e rằng các cha, các sơ cũng chẳng biết gì về hành trình tâm linh để đạt tới trạng thái thấy được linh ảnh. Nhưng, chẳng lẽ các ngài không được học về tu chứng. Thực ra, cháu hỏi để mà hỏi thôi; các ngài học những gì thì các ngài biết, nhưng cháu chưa bao giờ được nghe đến. Kể cũng hơi lạ!

- Anh Sỹ. Cụ Tài gọi đích danh.

- Bài học này đắt giá quá thưa bác. Bác hỏi con để chừa tội nói tào lao phải không thưa bác. Tuy nhiên, con cũng có đồng ý nghĩ với anh Hinh, mặc dầu không thâm thúy bằng. Thực ra, từ tối tuần trước tới giờ, con suy nghĩ rất nhiều về phương diện tôn giáo, vì bác đặt vấn đề nhận biết chính mình. Con thấy hình như xưa nay mình theo đạo vì mối lo sợ nào đó. Nói cho đúng, đi nhà thờ theo thói quen, và khi đã quen rồi, không đi sẽ mang mặc cảm tội lỗi vì không giữ luật buộc. Nhất là khi bác nói tới sự tuân theo lề luật không thể giúp chúng ta trở nên thiện hảo. Ngược lại, nói theo nhà Phật, còn muốn trở nên thiện hảo thì cũng chỉ là vọng tưởng. Thế rồi cháu nghĩ tới nếu nói rằng tất cả những sinh hoạt, tâm tưởng đều là kết quả của thói quen cuộc sống thì cứ kệ nó, bởi mình có bộ lòng ruột; ăn thì cứ ăn nhưng tâm tình ăn chơi phải như thế nào. Cháu chỉ nói theo lời sư Thích Minh Thiền thôi. Bởi vậy, cháu cảm thấy mình chơi vơi thế nào ấy. Nếu nói theo nhà Phật thì cháu đâu phải tuân theo lề luật nào đâu, mà không làm theo thói quen lại bị phiền lòng chẳng những cho mình mà còn dây dưa liên hệ đến phản ứng của những người quen biết chung quanh. Ối chà chà, cái ông Phật nơi cháu còn lắm chuyện rắc rối không sao kể xiết.

- Anh Bá nghĩ thế nào?

- Thưa bác, đối với cháu, thấy thì cứ thấy, nhìn thì cứ nhìn, nghe thì cứ nghe, nhưng chẳng thấy chẳng nhìn chẳng nghe gì. Nào có chi đâu mà nói.

- Anh nói nghe cũng có lý. Thế còn anh em nào có thêm ý kiến không?

- Thưa cụ, ông Thung lên tiếng, nói cho đúng, mang danh Phật tử mà chỉ là hùa theo và hình như có được hai lần nghe giảng kinh chứ chùa chiền cũng rất ít khi có mặt; nói thật xin cụ và anh em đừng cười. Tôi thấy thích suy nghiệm về Phật học vì lần trước cũng như lần này tôi học được khá nhiều nhưng cần phải có thời gian nghiệm chứng. Khi cụ hỏi lý do gì nhà sư Hương Nham thức ngộ khiến tôi nhột nhạt vì nghĩ mãi cũng chẳng ra. Đọc nơi cuốn sách nào đó dùng thí dụ lên đò, xuống đò để giải thích câu "Người trước hết trở nên sau hết và người sau hết trở nên trước hết" vẫn không làm tôi thỏa mãn. Hình như có đám mây mù nào đó cứ triền miên bao phủ khiến tâm trí càng nghe, càng cố gắng nhận biết thì lại càng cảm thấy tối tăm mù mịt. Đôi khi tôi suy luận, đi chùa cầu phước điền mà còn cầu thì còn vọng tưởng; lạy Phật có mở mang tâm trí chút nào đâu mà như cụ giảng giải thì vấn đề là sự thức ngộ. Nếu chỉ nghe anh Hưng nói thì lại càng mù tịt. Thật ra, tôi cũng chưa biết xoay xở cách nào, dẫu cũng đã có tí tuổi.

- Đã mấy lần tôi nói nhưng anh em không để ý. Bất cứ nền đạo học nào, trãi qua thời gian nghiệm chứng lâu dài cũng đều phát sinh thành các tông phái. Mỗi tông phái lại bao gồm thành phần công truyền và mật truyền. Phần công truyền bao gồm những giáo lý dạy cho đại chúng, và nhấn mạnh nơi sự thờ phượng. Anh em có thể nhận thấy, khi một đám người cùng suy nghĩ về một điều gì thì sức mạnh của tư tưởng này sẽ được gia tăng lên gấp bội; bởi sự rung động của tư tưởng đó đã được khuếch đại lên nhiều lần. Điều đó giải thích tại sao trong đám đông, nhiều người thường dễ mất tự chủ và hành động theo sự xui khiến của đám đông ấy (BRTS; Tr.36). Tâm tình cầu nguyện trong sự thờ phượng cũng thế. Khi nguyện cầu, thâm tâm con người không hề bị bất an, đầu óc họ không bị các vọng tưởng chi phối mà nhiệt thành, sùng kính; phỏng nghiệm chứng nào hơn được trạng thái ấy. Cầu nguyện đúng nghĩa là nâng tâm thức mình hòa nhập với quyền lực tối thượng. Dẫu không biết thiền hoặc tu chứng hay suy gẫm sâu xa, nhưng con đường của họ là đức tin, và đó là động năng mạnh nhất. Anh em đừng tưởng công phu tu tập hàng trăm kiếp của bất cứ ai đã hơn được đức tin của những người mộ đạo chân thành. Có thể họ vô tư không biết ý định hoặc ước muốn của những người hướng dẫn họ đã âm mưu gì, nhưng điều đó đâu ăn nhập gì đến lòng thành kính và đức tin của họ. Anh em nên biết, sự tin tưởng mãnh liệt vẫn là một động năng rất mạnh để giúp chúng ta đến gần Thượng Đế. Dĩ nhiên, khi mong cầu có được một điều gì thì sẽ không thể đạt được gì hết; vì chính sự mong muốn đó đã khuấy động lòng ước ao phá tan lòng sùng kính của người cầu nguyện. Thế nên, giữ tâm yên lặng bởi nguyên tắc của lòng sùng kính tức là không ước muốn hay mong cầu; mà cứ để tự nhiên vì lúc nào Thượng Đế cũng đang hiện diện và hoạt động. Đây chính là cao điểm của những tôn giáo được thiết lập nơi lòng sùng kính, tôn thờ.

- Công giáo cũng như Ấn giáo hoặc Phật giáo, đại khái mọi tôn giáo, vì mang tính chất công truyền nên được đặt cơ sở trên lòng sùng kính của tín hữu. Đồng thời tùy thuộc mục đích hiển giáo nơi đại chúng. Những người rao giảng được huấn luyện dựa theo những nghi thức, giới luật đã được ghi chép rõ ràng trong các bộ luật và luận; nên bất cứ ai đã đạt đến một trình độ học thức kinh điển và thời gian tu hành nào đó đều được công nhận vào hàng ngũ triển giáo. Xét như vậy, sự khác biệt chỉ xảy ra giữa các nghi thức tôn giáo dựa trên lòng sùng tín và quan điểm thờ phượng cũng như cơ cấu tổ chức của tôn giáo. Tuy nhiên, về phương diện thức ngộ hoặc những ai theo đường tu chứng hay mật truyền, bởi chân lý chỉ có một, đó là đạt tới sự hiệp nhất nơi quyền lực hiện hữu tối thượng, nên bất cứ đường hướng, quan niệm nào, và dẫu được giải thích khác biệt ra sao thì các hành giả đều gặp nhau nơi bình diện tâm linh nào đó. Nhận thức như thế, thiền sư Yogananda nhìn thấy linh ảnh đức Giêsu trên đường thập giá trong khi thánh nữ Therese Newman đang trực diện không có gì đáng nói lạ lùng; mà sự lạ lùng ở ngay nơi anh em; vì chúng ta cho đó là sự lạ lùng mà thôi.

- Sự nhận định của anh Tùy, anh Hinh, và anh Sỹ, chứng tỏ phần nào tính chất ỷ lại nơi chính mình. Tại sao chúng ta không đặt vấn đề mình phải ra sao, đạt tới đâu, phải thực hiện hoặc nghiệm chứng như thế nào mà đòi hỏi người khác, bất cứ họ ở vị thế nào, phải đạt tới điều mình mong muốn. Chúng ta xưa nay vẫn quen thói hay đâu chầu đấy chẳng khác gì muôn người, do bản tánh hiếu kỳ, ồn ào, náo động khi nghe tin Phật bà hiện ra nơi này, Quan Âm nơi kia, Đức Mẹ, Đức Chúa tỏ mình với người này, truyền thông điệp cho người khác. Chẳng những thế, lại còn tốn tiền nay hành hương thánh địa này, mai viếng mộ bia đấng thánh kia; rồi nào nước suối thiêng, nước phép lạ, chỉ thấy ai đó được chữa lành những bệnh tật còn mình thì cứ đành cam phận, lăng xăng, mất tiền, mất thời giờ mà tật vẫn còn mang, biết đủ mọi truyện trên trời dưới đất mà thực ra chính mình thế nào thì lại không biết. Anh em nên nhận biết rõ ràng, Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo còn sống nơi thế tục. Sống nơi thế gian, người tầm đạo làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của một người sẽ giúp cho muôn vàn người khác hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi sự nhận biết thâm sâu và dứt bỏ ham muốn thế tục từ bên trong chứ không phải chỉ bên ngoài. Như thế, dù theo đường hướng tôn thờ, hoặc tu chứng, nghiệm chứng, hay mật tông, và dù có gặp được chân sư chỉ dẫn hay không, sự giác ngộ phải đến sẽ đến tùy lòng khát khao nơi mình. Vị thày đích thực hiện diện ngay chính lòng mình, nhưng nào mấy ai để ý. Kinh Bhagavad Gìtà ghi rõ, "Khi tâm trí đã nhập vào Đại Ngã, ta không còn gì để tư duy nữa. Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người; nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta. Ai ý thức được vui buồn, đau khổ của người khác cũng là vui buồn đau khổ của mình, người ấy là một bậc đạo sư Yoga toàn thiện" (CTC. Tr.64,65). Mấy anh em Thiên Chúa giáo nên suy gẫm kỹ câu Phúc Âm, "Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Gn. 6:45), và, "Kẻ tin vào Ta thì các việc ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gn. 14:12). Nhà Phật nói, "Kiến tính thành Phật" chính là ở điểm này. Lời cụ Tài trầm trầm, nhẹ nhàng như mật truyền những giáo điều cho nhóm nhậu.

 
Ai nấy đều cảm thấy ngỡ ngàng vì mấy lời trích từ kinh điển thoát ra nơi miệng cụ già. Những vốn liếng học thức bay bổng đâu mất tạo thành khoảng trống nội tâm giúp họ cảm nhận sự thật chẳng ngờ được ghi chép rõ ràng nơi kinh sách mà nào ai để ý. Những trường lớp chỉ dạy họ kiến thức hữu vi biến con người thành công cụ kiếm tiền phụng dưỡng tham vọng, ham hố, bon chen, lâu dần thành quen, khiến con người cao cả trở thành nô lệ vật chất. Kiến tính thành Phật! Câu nói quá ngắn gọn nhưng bao hàm cả một sự thức ngộ lớn lao. Bầu không khí giữa nhóm nhậu chợt bao phủ màn thinh lặng khác thường. Đây đó vang vọng từ những cánh cửa phòng đóng kín tiếng video games, những dòng nhạc trẻ nơi chương trình MTV, pha lẫn giọng phim ảnh truyện Tàu. Dòng đời bao giờ chẳng thế, những sinh hoạt thế tục ồn ào náo nhiệt đã che mờ ý thức tâm linh; khó ai có được cơ hội tìm lại thực thể chính mình. Một lúc sau, chợt Bá lên tiếng,

- Bác có thể nghĩ rằng mọi quyền lực đã có sẵn nơi con người nhưng chưa được nhận biết?

- Nào có gì mới lạ đâu, nhưng đã bao ngàn năm rồi con người vẫn thế! Lạt Ma Lobsang Rampa chứng minh rằng ông đã được huấn luyện để có thể xuất hồn đi ngao du nơi các cảnh giới vô hình thì mọi người cũng có thể xuất hồn mà nào ai nghĩ như thế! (TTHB; Tr.171-172).

- Nhưng thưa bác, theo như cuốn Tây Tạng Huyền Bí do ông viết, Lạt Ma Lobsang Rampa là hóa thân của một vị nào đó, nên khi sinh ra đã có đủ năng lực để phát triển những quyền lực thần thông.

- Nói như vậy có nghĩa anh tin có luân hồi?

- Thưa bác, theo sự nhận xét của cháu vấn đề không phải là tin hay không, vì dẫu nói rằng tin hay không tin, sự thực vẫn là sự thực. Sự thực không cần ai chứng minh, cũng chẳng cần ai bào chữa hay quảng bá. Điều này cũng giống như nếu chúng ta nhắm mắt lại nói rằng không có mặt trời thì mặt trời vẫn soi sáng.

- Anh muốn nói còn nhiều sự thực mà chúng ta không biết hoặc không có cơ hội được biết hay đã không chịu tìm hiểu để biết.

- Vâng, cháu cảm thấy như vậy.

- Đã có anh em nào đọc cuốn Transformed by the Light chưa? Cuốn này được viết do bác sĩ giải phẫu Melvin Morse. Ông nghiên cứu hiện tượng biến đổi tâm não xảy đến nơi những người bị kích ngất và được cứu sống lại. Nơi một đoạn sách ông viết: Nên nhớ rằng, thân xác con người giống như bộ máy được điều hành bởi năng lượng; khi năng lượng thay đổi thì con người thay đổi. Người ta thực nghiệm về sự làm cho trái tim đập chậm đi hoặc áp xuất máu giảm sẽ phát sinh hiện tượng năng lượng tối thiểu nơi tâm não gây kích thích ảnh hưởng tới thân xác con người (TL. Tr.163). Điều này phù hợp với quan niệm của lý thuyết thực hành Yoga nơi Ấn học. Theo nhận định về thể lý của lý thuyết Yoga, luật tự nhiên đã định cho con người thở với một số nhịp độ là hai mươi mốt ngàn sáu trăm lần trong một ngày và đêm (ĐPHB; Tr.79). Như vậy, nếu người nào thở mau, nhịp tim đập nhanh hơn sẽ mau chết, người nào thở chậm hơn sẽ kéo dài thời gian sống hơn vì số hơi thở tiết kiệm được sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ để giúp con người kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Lý luận này được dựa trên sự nhận xét về loài rùa, thở chậm nên sống lâu. Quan niệm thực hành Yoga còn đưa ra khá nhiều lý thuyết giải thích sự lợi ích của điều hành nhịp thở. Mặc dầu những lý thuyết này coi bộ hữu lý, nhưng nếu đem so sánh với sự thực nghiệm theo phương pháp khoa học thì sự thực hành Yoga đúng mà lý thuyết lại chỉ là những lý luận suy luận. Áp dụng theo khoa học thực nghiệm do bác sĩ Melvin Morse, khi năng lượng oxy tối thiểu được cung cấp cho bộ não, khu vực tâm não nằm trong óc phía bên trên tai phải sẽ phát sinh phản ứng kích thích. Hiện tượng này thường xảy ra ngay lúc bắt đầu chết của một người. Nếu anh em để ý nghe quý cụ già nói về sự tỉnh táo trước khi chết giống như ngọn lửa của chiếc đèn dầu bùng lên trước khi tắt. Người nào chết thì đó là lúc hồn rời khỏi xác. Bởi thế nói theo khoa học nơi hành trình Yoga, hành giả điều chỉnh sự hô hấp chậm lại để kích thích trạng thái xuất hồn phát sinh.

- Qua sự nghiên cứu, Bác sĩ Melvin Morse cho biết, những người trãi qua cơ hội xuất hồn đã nhận được bản thể thực sự của con người không phải chỉ là xác thân; mà xác thân chính là cơ hội hay phương tiện để hồn, thực thể, hoàn thành nhiệm vụ nơi cuộc đời. Theo sự kể lại của một số người được chọn làm đối tượng nghiên cứu, vì đã trãi qua kinh nghiệm thoát hồn, họ đều gặp một thực thể khác như một loại ánh sáng chỉ có thể nhận biết bằng con mắt thứ ba, thường được gọi là huệ nhãn; thực thể linh hồn đối thoại bằng cảm nhận từ thực thể ánh sáng này. Và những người sau khi trãi qua trạng thái xuất hồn đã gặp được ánh sáng nguồn sống; họ đều không sợ chết, vì đối với họ, chết chỉ là bước qua cuộc sống tốt đẹp hơn. Đàng khác, tinh thần và nhãn quan về cuộc đời của họ đều thay đổi. Có những người phát triển thêm những khả năng tâm linh đặc biệt như chữa lành, nhìn thấy trước những sự kiện sắp xảy ra, và cuộc sống của họ nơi trần thế trở nên rất hoạt động; vì theo như lời họ kể, cuộc đời quá ngắn ngủi trong khi bổn phận làm tươi đẹp cuộc đời nơi mỗi người lại quá lớn lao. Ngược lại họ không chạy theo hơn thua vật chất mà an nhiên với mọi hoàn cảnh xảy đến nơi cuộc sống.

- Điểm tôi muốn nhấn mạnh đó là những lời phát biểu của các vị Yogi và các đạo sĩ Mật Tông Tây Tạng về Thượng Đế như là nguồn sáng, hoặc ánh sáng là năng lực cấu tạo vũ trụ hay con người của chúng ta. Ánh sáng hay nguồn sáng tôi muốn nói ở đây không phải là ánh sáng bình thường chúng ta nhận thấy nhưng là thực thể mà những người đã có kinh nghiệm thoát hồn nhắc tới, ánh sáng mà đạo sĩ Yogananda nói với thánh nữ Theresa Newman. Nơi các sách vở tu chứng Ấn học thường nhắc tới trạng thái đạo sĩ trong cơn đại định đã hòa hợp tâm thức mình với Đấng Tạo Hóa, nhận thức được tinh hoa của vũ trụ vốn là ánh sáng. Điều này chúng ta cũng có thể đọc được nơi Kinh Thánh, "Các con là ánh sáng thế gian" (Mt. 5:14). Đọc nơi Phúc Âm Gioan, chúng ta thấy chính đức Giêsu cũng nói ngài là ánh sáng thế gian (Gn. 8:12; 9:5).

- Thưa bác, bác muốn nói các vị đạo sĩ dùng thiền định hay phương pháp Yoga để đạt tới nguồn ánh sáng này?

- Mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả, và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói "Kiến Tính thành Phật," hãy cố làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được sự giải đáp cho mọi vấn đề.

- Thưa bác, vậy sao lại phải thiền, phải định, phải Yoga, phải tu chứng, phải nghiệm chứng, phải muôn thứ, phải ăn năn đánh tội, phải cầu Phật bà Quan Âm, Phật A Di Đà, phải ăn chay, phải niệm chú, phải,

- Tôi biết anh muốn nói gì nhưng có lẽ chính anh không biết anh nói gì. Có phải vì anh thấy nhiều cái phải quá mà anh chưa thực hiện được cái phải nào trong khi lòng ham muốn đạt được quyền nọ lực kia nên kêu lên hầu che lấp mặc cảm lười lĩnh của mình không. Tôi nghĩ, anh em hãy thử rồi mới nên đặt vấn đề. Những lý thuyết phải thế nọ, phải thế kia chỉ là lý thuyết giải thích về ly nước uống. Hãy uống nước anh em sẽ cảm thấy và biết phải thế nào. Tôi muốn nói, Yoga, thiền định, hoặc bất cứ gì, những điều các tác giả trước tác gom lại thành những "Cái phải" bao quát nhiều phương pháp nơi hành trình thiền định, chỉ là những kiến thức về lý thuyết vô bổ, nếu không đem so sánh với nghiệm chứng của sự thực hành. Tôi muốn nhắc lại, vấn đề chỉ là thực hành nghiệm chứng vì ước muốn suông chỉ ngăn cản hành trình thức ngộ.

- Thưa bác, thế tại sao Yoga bao gồm nhiều phương pháp thực hành trong khi Phật học chỉ cần định tâm?

- Sự thực hành các phương pháp Yoga bắt nguồn từ quan niệm chuẩn bị xác thân để đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Có lý thuyết cho rằng xác thân con người cũng giống như bóng đèn 100 watts không thể nào chịu đựng nổi dòng điện cao thế cả triệu watts. Bởi vậy con người cần luyện tập để thăng hoa xác thể và tâm thức hầu đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Từ quan niệm này phát sinh lý thuyết giải thích sự hiện diện quyền năng của Thượng Đế nơi mỗi người tùy thuộc sức chịu đựng của người đó. Qua sách vở được viết về những năng lực đạt được của các vị chân sư nơi Ấn học, chúng ta thường thấy nói về những quyền năng khác thường mà các vị ấy đạt được do dày công tu luyện. Nếu anh em nào đã đọc về phương pháp tập luyện võ công của phái Võ Đang sẽ hiểu rõ hơn về kết quả của những người chuyên nhất luyện tập một khả năng nào đó. Chẳng hạn sự tập luyện thường xuyên đấm từ miệng giếng hướng xuống mặt nước, hoặc đưa ngón tay trỏ chỉ nơi ngọn đèn đang cháy, sau mười hoặc hai mươi năm sẽ đạt kết quả nơi những mức độ nào. Qua nhận định giải thích về sự luyện tập như thế, tôi nghĩ rằng, các phương pháp Yoga cũng giống như các phái võ thuật, chính sự luyện tập phát triển nơi con người những khả năng mà chúng ta vì đã không hoặc chưa bao giờ có ý định muốn thử, thế nên cho đó là quyền năng khác thường. Đồng ý rằng có những người có được những khả năng khác thường tự bẩm sinh mà chúng ta gọi là thần đồng. Điều này minh chứng mỗi người được sinh ra dưới sự ảnh hưởng bởi một quá khứ nào đó, và nơi quan niệm Ấn học được gọi là Luân Hồi. Như vậy, sự thực hành Yoga hay được nhắc nhở tới và đề cao có lẽ cũng bởi lòng ham muốn phát triển hoặc đạt tới những khả năng tạm gọi là thần thông nào đó nơi con người. Tuy nhiên, nếu anh em nào chịu khó tìm hiểu qua sách vở đạo học trước khi quyết định thực tập những phương pháp Yoga hoặc bất cứ phương pháp nào phát triển năng lực nội tại, xin làm ơn để ý điểm tối ư quan trọng mà tôi tạm gọi là điều luật tâm linh; và đó là, bất cứ năng lực hay quyền lực nào dù bẩm sinh hay đạt thành nơi một người đều không thuộc quyền sử dụng theo ý muốn bình thường của người ấy; vì mỗi khi sử dụng năng lực này tất nhiên đã lạm dụng quyền năng tối thượng của Thượng Đế. Ai cố ý lạm dụng sẽ phải trả giá một cách mắc mỏ gấp trăm lần sự thỏa mãn nơi ý định hay ý muốn của người ấy. Trường họp này, người Mỹ có câu, “You use it; you abuse it.”

 
- Thưa bác, quyền lực nơi mình sao lại phải trả giá?

- Vào khoảng giữa năm 1970, tôi được biệt phái về Phú Quốc dưới danh hiệu kiểm tra dân số và tình hình thuế khóa, nhưng với mục đích theo dõi hoạt động tuyên vận cũng như hệ thống liên lạc của đối phương. Dĩ nhiên với nhiệm vụ này, các cơ quan quân sự cũng như dân sự đã được thông báo mật có bổn phận phải giúp tôi mọi sự dễ dãi cũng như cung cấp mọi phương tiện khi tôi nhờ vả mà không cần truy xét lý do. Đại khái, khi tôi yêu cầu, bất cứ điều gì nơi bất cứ văn phòng hành chánh dân sự, hoặc các bộ phận quân sự thuộc đặc khu vùng bốn, và những bộ chỉ huy các quân đoàn đang tạm trú, họ đều phải thực hiện những gì tôi yêu cầu trước khi báo cáo cấp trên. Dầu tôi vẫn mang lon đại úy bộ binh để che giấu nhiệm vụ tình báo, tôi không lệ thuộc giờ giấc làm việc của bất cứ cơ quan dân sự hay quân sự nào; do đó tôi thường hay la cà nơi những cơ quan thuế vụ, tưởng chừng xem xét sổ sách hoặc nơi các văn phòng hộ tịch xã để kiểm tra hệ thống làm việc của các ban ngành. Hôm ấy, ông Thịnh, một chủ tiệm bán cá khô và nước mắm đến nộp thuế. Tướng mạo của ông ta coi bộ rất tầm thường, thái độ nhã nhặn mang phần nào khép kín, tỏ lộ sự chịu đựng khó diễn tả, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy có thịnh tình đặc biệt với người dân buôn này. Tôi định ý chờ sẵn để làm quen với ông ta sau khi đóng thuế, và được ông ta mời về nhà dùng cơm trưa. Thế rồi từ sự quen biết đó, tôi có cơ hội giúp ông ta một số công chuyện. Anh em cũng nên biết rõ, tại Phú Quốc có cả một tư lịnh hải quân, một hải đội duyên phòng, duyên đoàn hải thuyền 42, căn cứ tiếp liệu hải quân, rồi đặc khu Phú Quốc, bao gồm hai tiểu đoàn địa phương quân, bẩy tiểu đoàn quân cảnh, thêm vào đó một đại đội công binh, đại đội tiếp vận ba trực thuộc Sài Gòn, đặc biệt cung ứng cho trại giam với trên dưới hai mươi ngàn tù nhân chính trị cũng như những thành phần bất hảo mang đầy thành tích phá rối trị an được gửi tới từ các thành phố trên toàn quốc. Và như vậy, lực lượng cảnh sát, và nhân viên chìm, nổi, tổng số cũng không thua gì số người nơi trại tù, ấy là chưa nói tới quận, xã, nhân dân tự vệ, và các thành phần binh sĩ. Tất nhiên, ở chốn sĩ quan đông hơn binh lính thì lon đại úy trên vai tôi nào có nghĩa gì. Dầu cấp chỉ huy mang lon từ đại úy trở lên chẳng là bao nhưng ở đời, nào ai lạ chi thứ nhất cận lân, thứ nhì thân cận. Có những người dân thường nhưng gốc gác họ có bà con quen biết với tướng vùng hoặc tỉnh nọ, tá kia; do đó lon đại úy bộ binh của tôi đã trở thành tâm điểm cho một số người để ý tới, mượn cơ hội dùng tôi làm nấc thang may ra bước lên đài danh vọng trong một vài lãnh vực nào đó. Cỡ hơn sáu tháng quen biết và một đôi lần chứng kiến cảnh trớ trêu, anh thư ký xã chẳng hiểu có gốc gác thế nào cứ nhè tôi kiếm cách làm khó dễ, đôi khi gây nên những sự phiền hà dẫu chẳng đáng, nhưng khiến người hiểu chuyện bực bội tâm tưởng. Bởi từ ngày tôi giúp ông Thịnh trong việc khai báo sản phẩm buôn bán hầu được giảm phần thuế má, anh thư ký xã thấy tôi chỉ là một đại úy bộ binh tứ cố vô thân mà gốc gác lại xa xôi trong khi mang nhiệm vụ được khai báo quá ư khiêm nhượng. Sáng hôm ấy, ông Thịnh mời tôi tới dùng điểm tâm, và lẽ đương nhiên máu me cũng như anh em bây giờ, dù điểm tâm vẫn không thể thiếu món nước mắt quê hương. Khi ăn uống gần xong, ông Thịnh tỏ nỗi lòng bất mãn về những lúc thấy tôi bị mấy sĩ quan hải quân lon thấp hơn và nhất là anh thư ký xã đã có những thái độ bất nhã đối với tôi. Ông đứng lên, tiến đến khang thờ, lật tấm vải điều để lộ một con dao găm cắp ngập tận chuôi ngay trước mảnh án đỏ ngoằn ngoèo những chữ Phạn, đoạn nói,

- Đã sáu tháng qua từ ngày quen biết dầu không thân thiết hoặc có liên hệ anh em họ hàng, đại úy đã giúp tôi những việc mà tôi nghĩ cả đời mình cũng không bao giờ thực hiện nổi. Chẳng hạn như chuyện thuế má, đã bao năm rồi tôi làm ăn không khấm khá được cũng vì không biết nên phải trả thuế quá nặng. Rồi những cảnh chèn ép giá cả của kẻ giầu có khiến khi mua phải trả giá cao, lúc bán lợi lộc không được bao nhiêu. Đến ngay như cửa tiệm này cũng được đại úy giải quyết đất đai, đường xá ra vô mà đã bao lâu nay tôi vẫn phải nín nhịn, đành ngậm tăm mỗi lần bị lôi vào cảnh xô xát để tránh điều đôi chối làm phiền tâm tưởng. Nhưng đã đến lúc tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi mấy cảnh trái tai gai mắt đã xảy đến với đại úy từ ít tháng qua mà tôi biết rõ nguyên nhân phát sinh từ tên thư ký xã. Hắn không những lộ diện đối đầu làm khó dễ đại úy, lại còn xúi bẩy mấy tên sĩ quan hải quân nghinh ngang lên mặt khinh thị đại úy. Nhất là vụ vừa qua, chính tên thư ký xã đã cầm đầu cho mấy thằng tù vượt ngục ăn nhậu định đón đường hại mạng đại úy. Tôi là kẻ mang ơn đại úy nhưng không biết cách nào trả nên tôi đã quyết định nếu đại úy bằng lòng, tôi sẽ bỏ lời thề trước bàn thờ tổ, và rút lưỡi dao găm minh chứng lời thề của tôi để trả ơn đại úy.

- Ông đã thề gì và tại sao phải rút lưỡi dao găm mới có thể trả ơn được? Tôi hỏi.

- Tôi chỉ cần niệm một câu thần chú, dùng lưỡi dao găm này đâm xuyên qua hình của thằng thư ký xã là nội trong một tuần lễ nó phải chết bất tử. Ông Thịnh nhấn mạnh từng tiếng nói giải thích. Đại úy có bằng lòng cho tôi rút dao găm không?

- Ông chưa giải thích cho tôi biết ông đã thề gì, thì sao tôi trả lời được.

- Tôi đã tự nguyện trước bàn thờ tổ từ 6 năm trước đây, là sẽ không bao giờ sử dụng quyền lực nơi tôi để trả thù hoặc làm hại bất cứ ai vì bất cứ lý do gì. Vì như đại úy đã biết, vợ chồng tôi chỉ có được mỗi đứa con gái, sáng nay tôi phải sai bà ấy đưa cháu đi chợ để tôi mời đại úy đến bày tỏ tâm tình. Thế mà mười năm trước đây tôi đã dùng quyền lực của mình giết chết tên đầu đảng cướp xông vào mấy nhà hàng xóm đánh người lấy của, và kết quả tôi phải trả đó là vợ tôi bị bại một cánh tay như ông thấy. Năm năm sau, một tên đốn mạt ăn ngủ với vợ người bạn tôi để rồi vu oan giá họa cho tôi, và tôi đã giết hắn bằng quyền lực niệm chú của mình. Kết quả đem lại, đứa con gái độc nhất của tôi bị què giò đi đứng khấp khểnh từ dạo ấy.

- Bà ấy liệt tay và con gái ông đi đứng khấp khểnh có lẽ do nguyên nhân bất thường nào đó nơi cơ thể sao ông lại cho rằng đó là những kết quả do sử dụng quyền lực niệm chú?

- Đại úy không biết đó thôi. Khi còn thiếu thời, tôi sang Miên lên núi học bùa gần hai mươi năm. Tôi biết khá nhiều bùa ngải và cũng biết cách sử dụng một số năng lực thần thông, nhưng trước khi học tập, sư cụ giảng giải và bắt tôi phải tuyên thệ lời thề vì nếu không thề, không tuân giữ điều luật đã thệ nguyện, sư cụ không cho học mà còn đuổi xuống núi. Sau này trong suốt thời gian học, tôi mới dần dần nhận ra những quyền lực tôi có được không thuộc về tôi mà đó là quyền lực tối thượng điều hành vũ trụ này. Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng để tránh thoát bảo tồn sinh mạng, dù trong hoàn cảnh nào hay vì ý hướng tốt lành đến đâu mà sử dụng quyền lực này tất nhiên là đã lạm dụng nên đều bị trả giá chẳng những ngay nơi kiếp này mà còn bị lệ thuộc nơi kiếp sau. Tôi mang ơn đại úy nơi kiếp này quá nặng nên chỉ còn cách rút lưỡi dao găm phát bỏ lời thề mới có thể đền ơn được.

- Ông đền ơn tôi phỏng có phải trả giá không?

- Hai lần trước đã xảy đến với vợ và con tôi thì chắc chắn lần này phải xảy đến với tôi, nhưng tôi bất chấp. Giả sử chúng chặn đường đập chết đại úy rồi thì sao tôi còn cơ hội đền ơn đại úy.

- Ông định dùng sự trả giá phải đến với chính ông để đền ơn tôi ư? Chẳng lẽ ông cho rằng tôi sẽ cảm thấy hài lòng khi sự khốn khổ xảy đến với ông sao? Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ?

- Nhưng tôi không biết cách nào để đền ơn đại úy cho xứng; mà không trả ơn được đại úy thì tôi là kẻ vô ơn, chết không nhắm mắt.

- Ông thử nhìn xem tướng của tôi mấy người đó có thể hại được không rồi hãy nói đến chuyện trả ơn.

- Đại úy nói như thế tôi mới nhớ ra đã có lần nói tướng của đại úy chẳng những được thần thánh phù trợ mà ngay cả ma quỷ, âm binh cũng phải giúp đỡ. Hà hà, vì nóng sốt, bực bội bởi tên thư ký xã toa rập với mấy tay bất hảo làm tôi quên khuấy không để ý, nhưng tôi, tôi…,

- Không nên nói gì, nghĩ gì nữa. Ông muốn trả ơn tôi phải không, đây, muốn trả ơn thì hãy cạn những giọt nước mắt quê hương này, thế là xong nhiệm vụ.

Ông Thịnh đứng như trời trồng nhìn chăm chăm tôi đang giơ cao ly rượu đế vừa được rót thêm, đôi tay run rẩy vì ngạc nhiên với câu trả lời và thái độ kỳ cục của tôi.

- Ông còn cố giữ chằng chằng chiếc khăn nơi tay làm chi, sao không trả nó lại nơi án thờ.

Ông Thịnh nước mắt chảy ròng, quay người bước tới khang thờ, nghiêm trọng phủ chiếc khăn điều lên chuôi dao găm đoạn trở lại bàn ăn ôm lấy tôi như một hành động tỏ lộ tâm hồn cảm mến. Ngưng nói, chiêu ngụm rượu, cụ Tài lên tiếng hỏi,

- Phỏng sự kiện tôi vừa kể đủ giải thích luật tâm linh trói buộc những ai phát triển được những năng lực thần thông nội tại?

- Thưa bác, vậy những thày phù thủy hay những thày bùa, thày ngãi, giải cứu những người bị thư, bị ám thì sao?

Cụ Tài lờ như không nghe thấy, chợt hỏi,

- Đã anh em nào đọc hoặc nghe nói về Đạo Đức Kinh chưa? Nơi Đạo Đức Kinh có câu nói, “Đi xa là trở về” (ĐĐK1. Tr.141). Ai có thể thử giải thích câu nói này cho mọi người nghe được không?

- Thưa bác, Bá lên tiếng, Đạo Đức Kinh quả là khó hiểu, hơn nữa cháu lại không biết chút gì về chữ Tàu do đó chỉ đọc bản dịch thành ra không thể nào nghiệm được tính chất thâm thúy của Lão học. Tuy nhiên, khi đọc bản dịch của cụ Nguyễn Duy Cần tới câu, “Tràn khắp là đi xa. Đi xa là trở về” mà bên chữ nho phát âm “Thệ viết viễn. Viễn viết phản,” cháu thấy hình như có sự gì không ổn nhưng suy nghĩ mãi không biết nên hiểu sao cho hợp tình hợp lý để có thể may ra áp dụng được.

- Trong bản dịch và chú giải, cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản viết, Đạo “đi là xa vì không đâu không tới chỗ cùng cực, lại không ngưng trệ, tùy thuộc vào một thể nào hết thảy, nên mới nói xa là trở lại, là quay về (LTĐĐK. Tr.161).

- Thưa bác, hiểu như vậy chỉ mới nói lên tính chất trùm khắp, không đâu là không có, và hiện thể khắp nơi của Đạo, của Thượng Đế, Chân Như. Cháu nghĩ hình như câu nói còn ẩn chứa điểm nào đó mà có thể vì tam sao thất bổn nên phát sinh trùng hợp.

- Anh muốn nói trùng hợp nơi điểm nào?

- Thưa bác ở chữ “Đi xa.”

- Tôi có đồng quan điểm với anh. Đã lâu tôi nghiền ngẫm về điểm này nhưng những sách chữ Hán đều dùng hai chữ “viễn” giống nhau, cùng bộ “sước.” Tuy nhiên, nếu nói về thực thể tâm linh tối thượng hiện diện và hoạt động cùng khắp qua nhiều dạng thức, đặc biệt nơi con người, anh em có để ý và thấy nơi kinh sách nào chứa đựng câu nói bao hàm phần nào ý nghĩa tương tự không?

Ai nấy im lặng vì câu hỏi mang vẻ kỳ cục. Sao có thể đem Chúa, Phật, trộn lẫn nhau. Cụ Tài đưa mắt rảo quanh một lượt nơi những gương mặt lộ phần ngơ ngác, đoạn nhẹ nhàng thêm,

- Chẳng lẽ mấy anh em Công giáo không nhận ra được câu nào nơi Kinh Thánh ư?

- Thưa bác, nghe các cha giảng mà cháu còn không để ý phương chi đọc Kinh Thánh, Sỹ nhà con thú nhận.

- Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo đều biết câu Phúc Âm này, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12).

- Thưa bác, câu này thì dễ quá rồi vì xưa nay chúng cháu vẫn thường thực hiện. Nay anh, mai tôi, chúng ta cùng nâng ly. Chúng cháu áp dụng Phúc Âm chứ không cần đọc, như bác thấy tỏ tường. Sỹ nhà con tơm tớp lên giọng huênh hoang.

- Thôi đủ rồi ông ơi! Ông thì chỉ biết ngốn thực phẩm, và thực hiện cái củ thìu biu. Ăn nói chi vừa láo, vừa lếu, vừa đểu mà cũng thích nói! Giọng Tình trầm trầm đối nghịch âm vang hứng thú của Sỹ khiến hắn dợm người lên như muốn gây gỗ.

- Anh em nên để bác giải thích. Ông Thung trấn an.

- Nhưng,

- Anh Sỹ làm ơn không nhưng không diễu nữa, hãy để cụ giải nghĩa vì thời giờ đã muộn. Ông Thung cố ý cắt ngang lời Sỹ, đoạn quay qua cụ Tài, xin mời cụ.

- Nếu xét theo phương diện tâm linh, vì quyền lực tối thượng là chính Thượng Đế, Chân Như hiện hữu nơi mọi sự hiện hữu, và ý nghĩ, ước muốn, ý định của mỗi người đều là những thực thể hiện hữu thế nên chúng tự mang quyền lực của Thượng Đế. Nhận thực như vậy, mọi ý nghĩ, ước muốn đều mang quyền lực tác thành của Thượng Đế. Điều này có nghĩa, khi chúng ta thực sự mong muốn điều gì, tất nhiên sự việc đó phải xảy ra bằng cách này hay bằng cách khác khi hội đủ những điều kiện và tùy thời điểm nào đó. Suy thế, chúng ta thấy câu Phúc Âm “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) đã dùng động từ “làm” khiến chúng ta không để ý nên chỉ có thể nhận định theo nhận thức hữu vi là thực hiện một công việc gì. Thêm vào đó, nếu nhận thức được mọi sự, mọi việc, từ ý nghĩ đến những hành động nơi cuộc sống đều là hoạt động biến chuyển của Thượng Đế, câu Phúc Âm phải được đổi lại, “Vậy các ngươi thực sự ước muốn được điều gì thì hãy ước muốn cho người ta như thế.” Suy rộng hơn, chúng ta có thể nói, bất cứ điều gì mình ước muốn xảy đến với người khác, tất nhiên chuyện đó sẽ xảy đến với mình. Câu Phúc Âm này nói về quyền lực nội tại ngay nơi ý định của một người.

- Thưa bác, vậy đâu là sự liên hệ với câu nói nơi Lão học. Bá lên tiếng.

- Anh thử suy nghĩ lại câu nói “Đi xa là trở về” đem áp dụng vào ước muốn thì sẽ thấy.

- Thưa bác, cháu vẫn còn thấy tăm tối hơn đêm ba mươi.

- Vậy nếu anh dùng ngôn từ “phát xuất” hay “đi ra” thì thấy thế nào?

- Ah, bác nói có lý, hèn chi có câu nói, “Không làm điều xấu đã khó; không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn.” Câu này coi bộ thường nhưng mang ý nghĩa thâm trầm chẳng thường chút nào. Thưa bác, nét mặt Bá chợt lộ vẻ hơi lạ, như vậy, câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23) nói về quyền lực của ý muốn nơi con người?

- Tôi đã nhắc đến câu này khi nói về quyền lực tối thượng hiện diện nơi mỗi người mà nào có ai để ý. Anh nói đúng. Ý định, ước muốn của con người mang quyền lực tối thượng của Thượng Đế. Tuy nhiên, nghĩ đúng, nói đúng cũng vẫn không đem lại ích lợi gì. Vấn đề lại là phương cách nào con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh; sau đó, khi đã đạt tới mức độ thăng tiến nào đó, chúng ta sẽ nhận ra những quy luật tâm linh nào cần phải chuyên nhất tuân theo. Hãy để tôi trả lời câu hỏi về những thày bùa, thày ngãi. Về sự sử dụng quyền lực tâm linh, dĩ nhiên thày bùa hay thày ngãi cũng như những vị đã dày công tu luyện có được khả năng ấy đều bị lệ thuộc ý định thực hiện công việc của họ, không thể tránh thoát. Nếu anh em nào quen thân với bất cứ ai đã đạt tới trình độ như thế may ra biết được họ phải tuân theo nhiều điều cấm kỵ mà rất ít khi dám tỏ bày cho người khác biết. Anh em nên hiểu, luật lệ tâm linh không giống như pháp luật hay lề luật tôn giáo. Những ai đã bước vào con đường ấy phải tuân theo rất nghiêm nhặt. Nếu chỉ vô tình, hay hứng chí phạm luật, hậu quả sẽ xảy đến nhãn tiền, và chỉ người đó biết. Nhận biết như thế chắc anh em hiểu được lý do tại sao nơi hành trình tập luyện Yoga có những điều luật rèn luyện tâm trí con người.

- Như vậy cho dù thăng tiến tới mức thượng thừa chăng nữa đều không có quyền sử dụng năng lực nội tại thì đâu ai cần luyện Yoga hay thiền làm chi cho tốn công sức, chỉ hao mòn cuộc sống, chẳng thà không biết để an hưởng tuổi trời, lại khỏi phải tuân theo bất cứ quy luật hay kiêng cữ. Hà, hà, chưa chắc thức ngộ đã hơn không, mà có thể ngược lại, Sỹ chen miệng.

- Ông ơi, ông quả là minh triết nhưng mở miệng nói ra nghe chướng tai chịu hết nổi. Phỏng ông có biết ông nói gì không? Chỉ mới vừa dợm phát biểu đã có thể diễn tả đúng đắn lời Phúc Âm, “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng” (Mt. 13:14-15). Bá cắt ngang lời Sỹ.

- Vậy nếu tớ không nói thì sao chú mày có thể hiểu được ý nghĩa câu Phúc Âm như thế. Chú mày nên cảm ơn tớ thay vì chua chát buông lời cay nghiệt.

- Anh Sỹ nhận định cũng phần nào hợp lý, nhưng lý ngang. Tuy nhiên, sự thể này chứng tỏ mọi dữ kiện, sự việc xảy ra trong cuộc đời dù liên hệ đến chúng ta hay không đều là những cơ hội cho sự nhận thức tâm linh. Vấn đề còn lại chỉ là ai có tai để nghe thì nghe, và ai có mắt để nhìn thì nhìn. Không ai có thể nghe hoặc nhìn hay nhận thức dùm cho bất cứ ai. Anh em có lẽ hiểu tôi muốn nói gì.

- Cháu xin cảm ơn bác, Bá tiếp lời cụ Tài. Hèn chi Phúc Âm cứ nhắc đi nhắc lại câu “Ai có tai thì nghe” (Mc. 4:9).

- Anh nói đúng, cụ Tài xác nhận, vì đó là câu nói giúp chúng ta nhận định cần phải có điều kiện tâm trí như thế nào để nghiệm chứng Phúc Âm. Bây giờ đã muộn rồi, có lẽ chúng ta nên ăn cơm cho ai nấy về nhà nghỉ ngơi chuẩn bị sức lực cho những công việc ngày mai.

 
- Khoan, khoan, giọng Tình kéo dài. Thế lần tới sẽ đến phiên ai?

- Thì còn ai trồng khoai đất này, hí hí. Lo về năn nỉ lão bà cho được việc. Sỹ nhà con lên giọng, nếu ai muốn tranh chức chủ xị lần tới xin mời cho ý kiến.

- Nhà cháu xin được hân hoan gồng mình đón tiếp bác và quý ông nọ bà kia ghé qua thăm tổ uyên ương lần tới. Nhờ quý vị đề nghị nhà cháu nên cúng dường vị phật nào, cờ tây hay cờ ta, xáo ngỗng hoặc tiết canh dê, có thể gỏi cá hay nhúng giấm. Tình chiêu ngụm bia như để lấy sức tính toán.

- Tui đề nghị nai đồng quê, Phủ nhẹ nhàng lên tiếng. Thấy bên cạnh nhà chú có ổ cờ tây xoai xoai sáu bát trông thật đã mắt. Mới thử hồi quang phản chiếu để nghiệm chứng lòng ruột của những vị phật đó, chợt đã nghe thèm muốn nuốt trôi cả lưỡi. Xem nào, bộ đồ lòng chấm mắm tôm đánh với chanh, ớt, cắn thêm miếng riềng, kèm thêm chiếc lá mơ, thế là bứt hăm bốn chai Heineken hoặc một thánh bò đi ông. Nhất là phần dồi sau khi luộc, cuốn lên khúc cây đem quệt bơ nướng dòn thêm phần hương lửa, thơm ơi là thơm.

- Hà hà, Sỹ nhà con đế vô, “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó; chết xuống âm phủ biết có hay không.” Đoạn tợp một hơi bia, hắn tiếp, chôm lấy một con, mang sang nhà tớ, bảo đảm kín đáo. Tớ mới mua được cái "torch gaz" thui nhanh phải biết. Chỉ cần năm phút, đoạn lấy lá sả kỳ cọ, em sẽ thơm lừng như hương tóc nàng gội đầu bồ kết.

- Vậy cái dịch vụ nai tơ của nhà ông dạo này ra sao mà thấy im hơi lặng tiếng cả năm rồi, Phủ hỏi Sỹ.

- Dạ, thưa bởi cái lũ phù thủy mắt xanh này chẳng biết nghe đâu đó nên đặt vấn đề nhà con thương yêu súc vật quá thì sao chịu đựng nổi nên nghi ngờ. Hàng tuần, nhà cháu vô "shelter" nhận nuôi một hoặc hai chú cờ tây. Cũng được đâu đó gần một năm đến độ nhân viên bảo vệ súc vật quen mặt luôn. Lần cuối cùng, gặp ngay một tên phù thủy mắt xanh cựu chiến binh tại Việt Nam; hắn ta biết tiếng Việt nên bập bẹ khi thấy nhà con ẵm cặp chó xoai xoai bỏ lên xe. Hắn nói, “Chời ơi! Thứ này mà nhậu, ngon chỉ có chết.” Mặc dầu chạm tẩy nên nhà con đã phải giả mù sa mưa bằng tiếng Mỹ, “What, I feed them to take care of my chicken.” Nhưng chẳng hiểu hắn ngứa mồm ra sao, lần sau tới, chúng không cho nhận nuôi nữa.

- Nghe cũng có lý, Tình nói. Tui sẽ nói với tên hàng xóm xin một con cho một người bạn vì hắn ta đang muốn tẩy lũ xoai xoai và định thiến luôn chó mẹ. Như vậy, lần nữa xin mời bác và quý vị quỷ quái thưởng thức cờ tây. Xem nào, chó nướng, chó rượu mận, lòng, xáo cầy ăn với bún, cộng thêm đùi chó luộc đưa cay. Chời! Nhm... nhm... Thứ này chắc chắn kỵ bia dzồi. Có lẽ đành phải thử Crown Royal. Đứa con gái lớn mới biếu kỳ tết một chai nửa gallon.

- Không đủ, phải thêm chai nữa mới đủ đô nghiệm chứng. Bá chen vô.

- Yên chí đi, tui còn vài thánh mờ mờ cộng với hai vị bò đi ông, thừa sức quật ngã vài chục cao thủ hạng lông như chú mày.

- Thế là sung sướng cõi thiên thai! Thôi, Tình đứng dậy, con chào bác và tất cả quái vị, em phải đưa bà xã về động.

Mọi người theo nhau lục tục ra về, hai bà ở lại phụ chủ nhà giải quyết một rừng chén, đĩa, ly, chai, để mấy ông ngồi chờ thực tập nghiệm chứng giảm bớt hơi men.

 
0 0 0


Khu rừng dầy đặc nên cây dong dỏng cao, ôm con đường ngoằn ngoèo lượn theo khoảnh đồi. Nối từ đường xe, một con ngõ lao vô đám cây rập rạp đoạn bẻ cong, và biến mất sau những bụi cây được cố ý chừa lại che những cặp mắt vô tình dòm ngó của những người lái xe ngang qua. Nếu để ý nhận định, mấy bụi cây tạp được cắt tỉa một cách sơ sài, miễn sao khỏi chướng mắt che khuất những gì phía sau biểu hiện một sự tính toán thâm trầm nơi tâm hồn chủ nhân đã dày dạn bươn chãi tranh sống nơi cuộc đời hiện tại. Hình dáng coi bộ phần nào thiếu thẩm mỹ cũng nói thêm một đặc tính chủ nhân của chúng đã học được bài học lễ độ cuộc đời, biết che giấu điều hơn người để tránh bị soi mói, đố kỵ.

 
Sống với đám dân ăn xài 160% tiền bạc có thể làm ra nên lúc nào cũng nợ nần nặng nề, sinh lòng mặc cảm, ghen tương, nghĩ rằng những người khác có cuộc đời ổn định hơn đều thuộc loại chụp giựt, ma mánh hơn. Nơi một xã hội pháp trị, được khuyến khích tự do cạnh tranh phát triển đồng thời luôn luôn bị xúi giục ăn xài do quảng cáo ở  mọi phương diện truyền thông. Từ những băng tần truyền hình, vô tuyến truyền thanh, sách báo, mạng lưới điện toán, và ngay cả qua bưu điện, dân chúng đã vô tình tiêm nhiễm thói quen ăn xài theo ý thích để rồi trở thành những con nợ hãnh diện vì đã có thể mua chịu những gì mình muốn với bất cứ giá nào. Và thế là suốt đời lo làm trả nợ; nợ sau chồng nợ trước dẫu gồng mình làm lụng cách mấy vẫn luôn mang nợ. Sống là chủ mang nợ; chết chắc chắn mang tâm trạng quỵt nợ. Dẫu thân phận được sinh ra nơi đất nước giầu có và văn minh nhất thế giới, nên ước mơ của con dân đất này chỉ là làm chủ được một căn nhà và có mảnh vườn nhỏ trồng bông. Thua xa ước mơ bình thường của con dân Việt, như được nói lên nơi bản hát nào đó, “ Có con trâu, có nương rau, thiên đường này mơ ước bao lâu.”

 Ẩn sau những thân thông thẳng tắp, một căn nhà hai lầu nổi bật màu lá úa của tường gạch, nửa như ôm, nửa như muốn phô diễn chiếc lan can được sơn màu xanh lá mạ. Đối diện với căn nhà, phía bên kia chiếc sân được tráng nhựa đường, cột bóng rổ ngạo nghễ như thách đố nhóm trẻ tung banh. Dọc theo hàng rào, hai hàng cây ăn trái tươi tốt chạy dài đến cuối đất bao gồm đủ loại, nào cam, nào quýt, mãng cầu tây, mãng cầu ta (cây na), hồng dòn, hồng mềm, thêm đôi bụi chuối. Tuy nhiên, chỉ hồng, cam, quýt khoe ánh vàng những chùm trái trong khi mấy thứ khác như ổi, mãng cầu dẫu cây lá tươi tốt nhưng vẫn khiêm nhượng son sẻ, dường như chấp nhận thân phận sinh bất phùng thời. Nào có lạ gì, các loại cây ăn trái thuộc khí hậu mưa nắng hai mùa sao có thể đơm bông kết quả nơi miền đất bốn mùa thay đổi ở miền nam nước Mỹ này.

 
Nối tiếp với khoảnh sân sau được tráng xi măng để làm việc và nhuộm lưới bắt tôm, đánh cá, mấy luống rau thơm, cải ngọt, rau đay, mùng tơi, mượt mà chen nhau khoe sắc dưới ánh chiều dợm tắt. Bên kia hàng rào phía phải, ba chú chó xoai xoai đùa dỡn với mẹ của chúng đang rượt nhau vòng quanh sân cỏ được cắt tỉa, chăm sóc kỹ lưỡng. Một chú cún thấy người lạ bên kia hàng rào lên tiếng sủa gây sự chú ý của mấy tay bợm nhậu.

- Gà lọt dậu, chó sáu bát. Ngữ này vô nồi thì tuyệt.

- Ơ cái thằng nhóc này, ông đập củ sả vào đầu mày bây giờ. Chớ dại ra vẻ chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng; Sỹ nói với con chó như nói với người nào đó. Chị gái mẹ kia, dẫn con đi nơi khác bởi các ông thèm rõ rãi ra rồi. Ông mà nuốt trôi cái lưỡi thì mẹ con chị khốn khổ đấy. Chị chó mẹ và hai chú cún khác chẳng biết có hiểu chi tiếng Việt hay không, nghểnh cổ chăm chú nhìn mấy người khách lạ của hàng xóm.

- Chớ nóng tính, thằng anh cả của chúng bác đã thui sáng nay đấy, lát nữa tha hồ nhậu. Tình đi ra từ cửa sau đón khách, lên tiếng.

- Chú dám trộm chó hàng xóm cơ à. Ông Thung hỏi.

- Đâu có! Làm đĩ chín phương cũng cần dành lại một phương lấy chồng chứ. Mới chiều hôm kia, nhân tiện bà xã cuốn chả giò, tui nhắc bả chiên thêm một đĩa. Mười hai chiếc chả giò ngồn ngộn bắt mắt. Tui cũng tốt lành lắm chứ, lấy giấy bạc bọc lại tử tế ngay khi vừa chiên xong, vẫn còn nóng hổi mang qua biếu chủ chó. Thứ nhất thân cận, thứ nhì cận lân mà. Xưa nay thỉnh thoảng hàng xóm và gia đình tui vẫn có thói quen tốt lành như thế. Gặp ngay mẹ con mấy chú cún này chạy ra đón tiếp quẩn cả chân; lại chủ nhà thuộc loại dân quê chẳng khác gì mình, mở cửa đuổi chó, nói rằng muốn cho đi hoặc kêu hội súc vật đến bắt. Tui nói rằng có người bạn thích chó lắm để tui hỏi anh ta có muốn không. Về nhà được dăm phút, tôi gọi sang nói bạn của tui chỉ muốn một con thôi trong khi ông ta muốn cho cả bốn con. Và sáng hôm qua, ông ta xích cổ đàng hoàng, dắt sang nhà tui tặng chó. Cảm ơn qua lại xong, tui chở ngay tới nhà ngữ Sỹ này thui. Tui biết điều lắm đấy chứ, đâu dám thịt tại đây. Cứ để đó, ba con kia thế nào cũng có thêm ba người bạn của tui muốn rước về chăm sóc.

- Lỡ người ta chích thuốc rồi thì sao.

- Ối dân quê mà, họ chỉ chích ngừa chó mẹ thôi. Ai thừa tiền chích thuốc mấy ngữ chó con không định nuôi. Chời! Thui vàng lên, rửa bằng búi lá sả, mổ ra ngon hết sẩy. Trưa nay tui và Sỹ mới thử luộc một miếng, quả là tuyệt cú mèo.

Mọi người theo Tình vô phía sau nhà. Mới ngang lưng chừng đầu hồi đã thấy mùi sả, riềng lất phất quyện trong không khí. Càng đi sâu hơn, mùi rượu mận càng nồng nặc.

- Riềng này, sả này, mắm tôm này, me chua này; giá mà có mẽ thì tuyệt hơn. Ông Thung lẩm bẩm.

Một nồi lớn trên lò hơi đốt đang sôi sùng sục, xì hơi bên mép vung đậy hờ, bốc lên mùi rượu mận thơm lừng. Một thẩu lòng chó còn đang bốc khói, chưa được thái chênh vênh trên chiếc ghế sắt cạnh một chiếc lò khác, nơi đó ngự một nồi lớn chứa nước luộc lòng đang sôi ùng ục. Ở một góc gần cầu nhuộm lưới, hai đứa lớn, con của Tình đang kẹp thịt chó đã được ướp gia vị vô phên để nướng trên chiếc lò than đỏ hồng.

- Chào các bác, mời các bác vô nhà dùng nước, em đang dở tay một chút. Chị Tình, tay đang cầm đôi đũa lớn, hình như vừa mới vớt lòng luộc bỏ vào chiếc thẩu. Đoạn lớn tiếng gọi, cái Thanh, rót nước mời các bác, con.

- Không nước non, non nước chi cho mệt, Tình lên tiếng. Mình súc miệng bằng bia và hưởng mùi vị quê hương cho lòng ruột thanh tịnh mới xứng đáng đón vị phật chó này chứ. Cái Thanh, con lấy bia nơi tủ lạnh mời các bác, nhanh lên.

- Tình, kiếm cho tớ cây “chu bai pho” (2x4) và mang bơ ra đây để tớ nướng dồi. Sỹ nhà con mau mắn.

- Ấy, ấy, bác để nhà em chiên. Chị Tình vội lên tiếng ngăn Sỹ.

- Dồi chó chiên bơ ăn không phê bằng nướng bơ. Nướng nó mới dòn, mới dậy mùi lá mơ chứ chiên ăn như đấm vào miệng ấy.

- Đây, thưa ông. Coi chừng quá lửa khô khốc lỡ gẩy bố nó mấy cái răng tui sẽ kiện ông ra tòa.

- Khô thế nào được, bao nhiêu mỡ và bạc nhạc tớ băm sáng nay sao có thể khô được. Cứ yên trí lớn!

Hưng, cụ Tài, và mấy người nữa tiếp tục tới. Mấy phụ nữ giúp chị Tình luộc bún, nhặt rau, lá thơm. Chẳng mấy chốc thực phẩm, rau rợ, chén đũa đã được xếp đặt ngăn nắp trên hai chiếc bàn dài. Mọi người đã ngồi vô ghế thế mà chủ nhà lại biến đâu mất.

- Chủ xị trốn ở đâu làm mất giờ chờ đợi. Sỹ nhà con nói lớn.

- Có đây, có đây! Chẳng nói giấu gì, nhà cháu hái thêm mấy trái ớt bởi e rằng cuộc đời này vẫn chưa cay đắng đủ để lãnh nhận mùi vị quê hương. Mời, mời bác và quý vị tự nhiên cho.

- Chủ xị phải có lời lẽ đàng hoàng vì ăn có mời, làm có khiến. Có phải ông biết rằng chúng tôi đang muốn nuốt trôi cả lưỡi nên cố tình rềnh rang chăng. Bây giờ, muốn nói gì thì nói coi, nói càng ngắn càng tốt, mà càng không nói gì lại càng tốt hơn, nhưng vẫn phải nói cho đúng nghi thức, phép tắc; Sỹ lên giọng.

- Dạ, dạ, nhà cháu xin có đôi lời thưa cùng bác và quái vị. Hôm nay, được phép của bà chủ nhà, và được người hàng xóm quý mến tặng cho chú nai đồng quê nên nhà cháu sửa soạn bữa cơm rau muối mời bác cùng quái vị thưởng thức. Sự hiện diện của bác cùng quái vị là sẽ là sự mất mát lớn lao cho chú cờ tây. Nếu không, nhà cháu chẳng biết làm gì vì nhậu một mình nó làm sao ấy. Đến đây nhà cháu xin được phép hết lời, và mời bác truyền tâm ấn cho hành giả Crown Royal.

- Tâm ấn sao có thể truyền, chỉ có thể chứng. Cụ Tài nhẹ nhàng. Tôi chấp nhận được hãnh diện khui và sau đó chúng ta cùng nghiệm chứng. Có lẽ cụ Tài dạo này bị lây lối ăn nói của nhóm nhậu.

Cụ Tài rót rượu vô ly đoạn trao bình rượu cho ông Thung ngồi bên cạnh. Ông Thung rót cho mình rồi trao bình cho người kế tiếp, và cầm ly rượu, nâng lên định uống.

- Khoan, khoan, anh cả, đợi, đợi, để mọi người cùng chứng một lúc. Tình bỗng cản.

- Chết tớ rồi, tớ tham quá nên rót hơi nhiều sao chứng.

- Phép vua thua lệ làng. Lỡ rồi, cho lỡ luôn, may ra chừa tội vô minh.

- Tớ là trọng tài; trọng tài như cha mẹ.

- Chủ xị phán là luật bất thành văn.

- Chú Sỹ, để tớ sẻ qua.

- Không được, hạ thủ bất hoàn, hạ bất khoan.

Thế rồi thời điểm nghiệm chứng cũng phải đến. Mọi người đồng nâng ly. Tình nói lớn,

- ”Một chăm phần chăm, em ơi, chiều nay một chăm phần chăm.” Ai không chứng hết, yêu cầu đổ rượu lên đầu.

Đến tội cho ông Thung! Mà nào có rót nhiều gì cho cam bởi ông đâu uống được nhiều nên định rót vừa đủ cho cả bữa nhậu. Ai ngờ cái lệ làng quái ác này. Cụ Tài thấy thế nhẹ nói với ông Thung, “Ông có thể san bớt sang ly tôi.” Ông Thung vừa đưa ly rượu kề vô ly của cụ Tài định san qua thì Tình đã lớn tiếng,

- Tửu bất khả ép nhưng đã ép sẽ bất khả từ. Nếu từ chối sẽ bị phạt làm chủ xị.

- Chú mày chơi tớ. Tớ lỡ tham có chút xíu hà. Thôi thì lần này tớ xin chừa; lần sau cứ vậy.

- Vậy thì ai bảo “Ông bẩy mươi phải học ông bẩy mốt.” Thời này văn hóa đảo ngược, ông bẩy mốt học đứa trẻ mười tuổi.

- Chúng ta tôn trọng dân chủ nên lấy đa số thắng tiểu số. Cụ Tài thấy tội cho ông Thung nên đành chen vô.

Thế là cảnh ồn ào chợt bùng dậy,

- ”Một chăm phần chăm, một chăm phần chăm.” Những cái miệng của bằng ấy bàn tay đang nâng cao ly rượu cùng đồng loạt hô lên.

- Khoan, cụ Tài nói lớn dành sự chú ý của mỗi người. Nơi phương diện ăn uống hoặc suy nghĩ, không ai có thể đại diện cho ai ngoại trừ chính mình. Và như vậy, sự đồng ý uống trăm phần trăm ly rượu mình đang cầm nơi tay cũng chỉ có một mình mình. Tôi và ông Thung đồng ý uống chung hai ly rượu tất nhiên đa số thắng thiểu số.

Thế là thiên hạ ngớ ra! Ai cũng cảm thấy ngỡ ngàng vì xưa nay đã quen thói hùa theo điều được gọi là dân chủ, đa số thắng thiểu số, nhưng nơi trường hợp vừa được cụ Tài nêu lên, đa số lại trở thành thiểu số đối với hoàn cảnh cá nhân riêng biệt, và thiểu số lại biến thành đa số vì họ đồng ý cùng thực hiện chung một sự việc. Sự ngỡ ngàng bắt nguồn từ nhận thức mình không thể quyết định đường lối bắt người khác phải thực hiện. Ngưng một đôi phút để mọi người có cơ hội nhận định sự thể mới được đề xướng, cụ Tài hỏi tiếp,

- Ai có ý kiến gì nữa không?

Những cái mỏ mới nhao nhao “chăm phần chăm” lúc này im tịt. Câu nói của cụ Tài lần họp trước, “Không ai ăn dùm được cho mình; không ai uống dùm được cho mình, thì cũng không ai suy nghĩ dùm được cho mình” như lẩn quất nhắc nhở điều kiện ắt có và đủ cho một người thực sự khao khát thỏa mãn lòng khát vọng tâm linh cần phải nghiệm chứng, khi đối diện với bất cứ vấn đề nào đều cần được suy nghĩ chín chắn hơn. Và ông Thung chớp cơ hội gỡ gạc,

- ”Dzô.” Ông nâng cao ly rượu san bớt qua ly của cụ Tài đoạn khởi đầu thực hiện “chăm phần chăm” mặc dầu phải nhắm mắt, nhăn mặt cố lấy sức nuốt ngụm rượu xuống lòng ruột dù cảm thấy cuống họng cay như bị xé kèm theo cơ thể chợt bừng nóng.

 
Màn khởi đầu đã qua, dân ta bắt đầu thi đua múa cặp kiếm tre. Người hỉ hả với miếng dồi chó chấm mắm tôm chanh đánh với ớt. Kẻ khác thử miếng chó nướng e để nguội mất ngon. Lòng chó dần dà xuôi theo nước thánh. Thịt luộc mềm, thơm quánh mùi sả kèm theo hương vị lá mơ đoạn cắn thêm miếng riềng thái mỏng, quả là thi vị đối với món thuần túy quê nhà. Sau khi thử miếng dồi chó, ông thung gắp miếng bún, chan nước rượu mận vô đoạn lùa một mạch chữa lửa. Bao năm rồi từ ngày xa quê hương, nay may mắn đàn đúm với nhóm nhậu mới tìm lại được hương vị ngày nào. Ông thầm nghĩ.

- Thưa bác, thưa quý ông nọ bà kia, để thêm phần hào hứng cho các hành giả đả phá vô minh nơi hành trình kiến tính, và đồng thời cung cấp cơ hội cho hàng nội tướng phát triển khả năng lãnh đạo điều khiển chủ soái, nhà cháu xin được phép đề nghị hôm nay chúng ta dành ra chừng một tiếng đồng hồ vừa lai rai vừa thưởng thức chương trình “ta ca cô chê” (karaoke) tân cổ giao duyên. Nếu bác và mọi người đồng ý, nhà cháu xin một tràng pháo tay cổ võ.

Chủ nhà xin phép đề nghị, ai nấy mới chợt nhận ra qua những lần ăn nhậu trước chỉ để ý đến đạo học, thức ngộ, ngủ ngộ mà lãng quên vai trò nữ giới cùng họ hiện diện khi các ông đàn đúm ly anh, chén tôi. Và thế là tràng pháo tay nổi lên kèm theo những bộ mặt tươi rói chẳng hiểu hứng khởi vì hơi men mới chớm hay vì sắp được thưởng thức hoặc trình bày danh ca cây nhà, lá vườn, hoa quả ngoài chợ. Đồng thời, họ như được mời gọi để ý đến chiếc màn ảnh ti vi to tổ bố chình ình dựa vô tường đối diện với hai dãy bàn kê song song hướng về nó.

- Mẹ nó đâu, kêu quân ta điều chỉnh dàn âm thanh, ánh sáng, chuẩn bị trổ tài nghệ sĩ chưa kịp vươn lên đã vội tụt xuống; trong khi giọng Sỹ nhà con oang oang vang diễu câu vọng cổ, “Bà ba ơi cho tui mượn chai dầu xức lác tui bôi cái lỗ rún...”

Số là trong nhóm nhậu có ba mụ tham gia hội hát nhà thờ. Họ thích hát lắm, và nhà nào cũng có giàn máy karaoke. Đặc biệt nhà Tình vì bà xã người miền Nam; chẳng những chị ta hát nhạc đạo, nhạc đời, mà đặc biệt lại là chuyên viên ca vọng cổ nơi những buổi văn nghệ văn gừng được nhiều người ngưỡng mộ. Chị ta nhỏ người, khá linh hoạt, tươi vui, lúc nào cũng như mỉm cười. Đặc biệt, chị ta có giọng nói miền nam thật dễ thương, ngọt ngào. Nghe đâu ngày xưa Tình dẫn toán đi hành quân, trong khi dừng chân nơi một làng nhỏ, vô nhà dân xin dừa uống nước, mê ngay giọng ngọt ngào của cô bé con chủ nhà để rồi sau này chà chớ và cưới em làm vợ. Đối với gia đình bố vợ, Tình không gặp trắc trở chi vì con gái miền Nam lấy trai Bắc kỳ năm tư (1954) là nhất, dẫu vẫn có tiếng trai Bắc kỳ xạo ke. Tuy nhiên, gia đình Tình cực lực phản đối; bởi nghe chừng đâu đó (rằng) dân sinh trưởng nơi miền Nam do cuộc sống ngày xưa dễ thở, nửa năm trồng lúa, nửa năm oánh bài lá, không phải cơ cực đối diện với khó khăn, lam lũ, tạo nên thói quen dễ dàng chấp nhận cuộc đời thành ra thiếu cá tính cần mẫn, tranh đua như dân Bắc hoặc Trung. Tình lại là con trưởng kéo một bầy năm đứa em, hai trai, ba gái. Tất nhiên, chị dâu cả mang nặng nề trách nhiệm lèo lái gia tộc sau này. Bố mẹ Tình e ngại nếu gặp con dâu cả thiếu đặc tính mưu toan, đưa đẩy, anh em trong gia đình sau này sẽ lộn xộn sinh ra thực trạng cá đối bằng đầu hoặc cá mè một lứa, chẳng ai nói ai nghe sẽ bị người ta chê cười. Không những thế, có câu nói, “Giặc nhà ngô không bằng bà cô bên chồng.” Gái miền Nam dễ thương nhưng sao có thể đối địch được ba cái mỏ bà cô Bắc kỳ; vì thế, ông bà cho rằng nếu lấy vợ người miền Nam sẽ khổ cho Tình một đời sau này.

 
Tình ít nói nhưng thâm trầm. Đàng khác, sĩ quan ngày ấy cũng khá sáng giá cho dầu các cô gái mới lớn bị tiêm nhiễm câu hát, “Em chỉ yêu có anh binh nhì.” Và thế là mưu ma, chước quỷ, cũng được bố mẹ Tình sử dụng để có nhiều người mai mối cho Tình những cô gái Bắc kỳ “năm tư” quanh vùng. Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn; cũng có thể Tình bị bùa mê thuốc lú từ con bé Nam kỳ; bố mẹ Tình sau này nói thế, nên dù không bao giờ phản đối, lại chiều lòng bố mẹ, nay đi nhòm cô này, mai theo mối xem cô kia mỗi lần nghỉ phép, Tình cũng kiếm được nhiều lý do từ chối những em xinh như mộng, nhưng chưa bắt được hồn chàng sĩ quan trẻ ít nói.

Thế rồi gần hai năm sau, nhân một lần nghỉ phép, chẳng hiểu Tình xạo ke, hứa trăng hứa cuội, hoặc thề thốt cách nào với ông bô bà mia cô gái mà bợ ngay con người ta mang về trình diện bố mẹ. Chỉ sau hai ngày, cả nhà Tình thích cô bé tươi vui có giọng Nam kỳ ngọt ngào này. Cũng có thể, “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng,” do được Tình giải thích, huấn luyện, cũng có thể nhờ cá tính rộng rãi dễ thương không chấp nhất, xét nét, vị thế con dâu trưởng chẳng những trong gia đình mà đối với bà con họ hàng, chị Tình được mọi người quý mến, ưa chuộng. Mà quả thật, chị Tình rất dễ thương, rộng rãi, cận nhân tình. Con cái của những bạn bè thân thiết có đứa nói thích chị Tình hơn thích mẹ chúng. Có lần chị đưa các em giúp lễ đi chơi bởi nhà có chiếc xe “van” mười chỗ ngồi. Mười lăm em, trai gái lẫn lộn chen nhau như cá hộp có thêm chị Sỹ đi kèm cho đúng luật tiểu bang, cứ bẩy em nhỏ cần một người lớn chăm sóc. Chị đưa các em đi chơi khu trượt nước, tắm biển, nào ăn uống thả dàn, lại còn mục mười lăm nhóc chễm chệ nơi quán kem. Đứa chọn ly kem ba màu, đứa khác kem thập cẩm; nhiều khi chị Sỹ muốn khùng lên vì lắm ý kiến, nhiều đề nghị của tụi nhóc. Ngược lại, chị Tình giải quyết nhanh chóng và êm đẹp, nhóc nào cũng thích vì được tôn trọng.

 

Dàn máy vừa được bật lên, Sỹ đã vội chộp chiếc “microphone,” đặt sát vô miệng, ông ổng ca, “Nếu em không là người yêu của lính, em sẽ chớp một anh sỹ quan. Nhưng anh ơi nếu mộng không thành thì sao,”

- Khóa cái mõm của ông lại! Tình la lên, mộng không thành mà cả một tiểu đội. Mộng mà thành có lẽ hơn trung đội.

- Ấy, nhà cháu mới sơ sơ một bà. Nếu hai bà có lẽ sẽ ít hơn. Và để mở màn văn nghệ phụ diễn, mời chị chủ nhà làm một mục tân cổ “giao dziên.” Sỹ nhại giọng nói miền Nam của chị Tình.

- Mời chị ca bản “Truyện Tình Lan và Điệp.” Phủ đề nghị.

- Lan ơi, Lan về nắm ấy chuông, Sỹ lại rống lên theo cung cổ nhạc.

Chị Tình không nói không rằng, chọn một đĩa nhạc bỏ vô máy, bấm số đoạn ấn nút cho đĩa chạy. Âm thanh réo rắt nổi lên và chị cất giọng hòa với cung nhạc, “Qua một rừng hoang, gió núi theo sang vương bụi đường trên vai...” Giọng chị ngọt ngào với bản tân cổ giao duyên Hoa Trinh Nữ. Khung cảnh ồn ào bỗng trở nên thinh lặng nhường cho giọng ca thẩm thấu lòng người. Lời hát đã quá thịnh hành từ xưa nên giọng chị dễ được để ý thưởng thức. Những tiếng vỗ tay rộ lên như muốn phá tung cửa kiếng phòng ăn khi chị xuống giọng ngâm chữ cuối của câu vọng cổ khiến chị thêm phần hào hứng diễn xuất. Ai nấy đều mang vẻ mặt vui tươi, hoan hỉ vì có được những giây phút thoải mái giữa đám bạn bè quen thuộc.

 
Niềm phấn khởi trong lòng được cổ võ do tâm tình thân quen, khuyến khích tì vị hoạt động mạnh mẽ hơn đối với món nhắm đã bao lâu quen thuộc nhưng gần hai chục năm mới gặp lại. Chưa hết bản tân cổ giao duyên mà bình rượu lít rưỡi đã được chuyền tay lần thứ ba, cạn tới giọt cuối cùng để rồi nhường vị thế cho thánh Remy Martin rút ruột làm chủ tình hình. Phần chương trình văn nghệ phụ diễn, sau khi chị Tình ca xong bản Hoa Trinh nữ, những mục tân nhạc khác được tiếp nối. Khi các chị hát thì còn đỡ; mỗi lần anh chàng nào lên giọng thì lại yêu cầu mở máy cho to, quả là ồn ào hết sức. Nào lạ chi, khi đã sứa sứa thì hát trở thành hét. Căn phòng thì nhỏ, hai cái loa to tổ bố được nối liền với dàn mixer cộng thêm chiếc “amplify” 250 watts thì tai nào mà chịu nổi. Thế mà người ta vẫn vui vẻ ăn uống, có muốn nói gì thì phải hét lên; kẻ ca cố gào, người nói cố hét, giống phường quân hồi vô phèng, ồn ào, náo nhiệt. Nào ai lạ gì, khi men rượu dồn lên tới óc làm căng thẳng thính nhĩ khiến độ rung chậm lại, thần kinh mệt mỏi sao có thể nghe cho rõ ràng. Tất nhiên, dẫu ca hay hét, các nghệ nhân karaoke đều được tưởng thưởng bằng một tràng pháo tay nhộn nhịp. Cũng may, nhà Tình riêng biệt ngự giữa hai mẫu đất cách xa hàng xóm nên không làm phiền hà chi tới ai.

 
Ở thời điểm này, phong trào hát karaoke đang lên và được người Việt ham mộ. Nhà truyền giáo Tây Phương nào đó nơi bản đệ trình về đặc tính người Việt thời xưa có nhận định, người Việt nói líu lo như tiếng chim hót. Thực ra, tiếng Việt bao gồm năm dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng; tự chúng phần nào đã mang cung bậc âm nhạc. Sử dụng riết thành quen nên thuận lợi áp dụng vào việc hát hỏng, dễ dàng đưa giọng lên bổng, xuống trầm. Hơn nữa, những băng, đĩa karaoke thường bao gồm những bản nhạc tiền chiến và trước năm 1975, thịnh hành ngày xưa, quanh đi quẩn lại một vài điệu như Boléro, Tango, Chachacha, Valse, Boston, hiếm khi có được bản nhạc mang điệu Bebop, March và thường được gọi là nhạc Tour. Đại khái một bản nhạc được chia thành ba phần. Phần đầu được chia làm hai khúc và phần cuối cung điệu giống nhau cho hợp luật cân phương. Phần giữa, tạm gọi là điệp khúc thay đổi kiểu hát phần nào, bởi vậy dễ hát, dễ thuộc. Thêm vào đó, nhạc tiền chiến thường mang nặng sắc thái tâm tình dễ cảm động lòng người, dẫu yểu điệu, nhiều khi gây nản lòng tạo nên tâm tình thương vay, khóc mướn. Nói thế cũng hơi quá, cung điệu nhạc tiền chiến nếu đem so với nhạc tây phương sẽ được liệt vào loại nhạc êm dịu chắc chắn giới mộ âm nhạc rộng mở vòng tay đón tiếp bởi không bị lệ thuộc tâm tình ẩn chứa nơi lời hát.

 
Khi Phủ thượng đài với bản nhạc “Đồi Thông Hai Mộ,” Sỹ nhà con dùng đôi đũa khua chén, đĩa, ly, theo nhịp điệu âm thanh của dàn trống, và rồi hai, ba người khác học theo. Kẻ hát cố gào cho át tiếng chén đĩa bị những nghệ sỹ sứa sứa, hung hăng dùng đũa đập ồn ào. Có người ra sân lôi vô chiếc vung nồi to tổ bố gõ, tưởng tượng nó như tiếng “Hihat” của giàn trống, tạo thành những âm thanh chát chúa khiến ai nấy giật nảy người khi hắn phang lần đầu. Nơi thế giới bạn bè quen biết quân hồi vô phèng này có được giây phút thoải mái, phá phách dẫu đôi khi nghịch thường lại càng khiến lòng người hứng khởi.

- Quá đã, Sỹ nhà con gật gù sau khi tợp một hơi rượu.

Và rồi một giờ đồng hồ vội qua; bình rượu Crown Royal (nửa galon), kèm thêm một cặp Rémy Martin, một cặp Napoléon cùng với mấy món nai đồng quê nướng, rượu mận, lòng, dồi, bún, xáo, thoải mái chui tuột vô lòng dạ các tướng. Bốn ấm trà đậm được chị Tình đem lên cùng với những chiếc chén nhỏ. Đang sứa sứa mà thấm giọng với trà đậm quả là thống khoái.

- Nếu có thêm hương vị lưu hoàng của vài chiếc pháo nổ lan trong không khí thì thật tuyệt vời, cụ Tài nhẹ giọng.

- Đúng không bác, Tình vội hỏi, đoạn kêu thằng con lớn, Nghiêm, con có còn trái pháo nào không, lấy ra đây.

- Dạ, chỉ còn có một cây pháo bay, Nghiêm trả lời.

Chiếc pháo bay lên trần, nổ cái bốp, mùi lưu hoàng tỏa lan hòa cùng hơi men, trà đậm khiến ai nấy tỉnh táo.

- Chưa bao giờ cháu có thể ngờ được mùi thuốc pháo lại tuyệt cú mèo như thế này, Hưng nói.

- Diễn tả được không? Cụ Tài hỏi.

- Dạ thưa bác, người biết không nói; kẻ nói không biết ạ.

- Có tiến bộ. Nghiệm được câu nói của Lão học nào dễ chi!

- Cháu thấy hình như những câu nói nơi đạo học chỉ về những sự việc hoặc sự thể xảy đến nơi cuộc sống thường ngày.

- Anh nói đúng. Có câu nói, “Không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời” (KT). Những lời khôn ngoan được phát xuất từ tâm thức của các bậc thức ngộ nói lên thực thể sự việc. Trãi dài qua các thời đại nơi cuộc sống nhân sinh từ xưa tới nay; những nhận thức này được gom góp lại gọi là đạo học. Vấn đề chỉ là chúng ta có để tâm nhận thức hay không. Từ những nhận thức này phát sinh những lý thuyết tạo thành phương cách thực nghiệm. Đây có thể là gốc gác cho bất cứ việc thực hành nào của thiền hay Yoga.

- Như thế tại sao lần trước bác nói có nhiều phương pháp Yoga, Tình lên tiếng.

 
Từ khi tiếng pháo nổ, chẳng hiểu tại mọi người giật mình hay do công dụng của nước trà đậm hoặc mùi thuốc pháo cộng hưởng khiến ai nấy tỉnh táo. Màn văn nghệ phụ diễn cũng được chấm dứt. Cái nhóm lộn xộn, cá mè một lứa đang ồn ào, náo nhiệt, bỗng trở nên bình thản, chăm chú hướng về phía cụ Tài lắng tai nghe.

- Tôi vừa nói mà đã vội quên. Có cần thêm bia để chữa lửa không? Cụ Tài diễu!

- Ồ, bác không nhắc có lẽ con quên. Nghiêm, mang bia ở tủ lạnh ra đây con. Tình sốt sắng.

- Như tôi đã nói, những lời khôn ngoan từ ngàn xưa trãi dài nơi tiến trình nhân sinh được gom lại thành những đạo học tùy thuộc các vị thức ngộ nơi những miền sắc dân chung sống. Từ những nhận thức nghiệm chứng này phát sinh lý thuyết thực nghiệm kiến tạo phương cách hoặc phương pháp áp dụng. Mọi lý thuyết đều phát sinh từ những nghiệm chứng cộng hưởng, kiến tạo phương pháp hướng dẫn sự thực hành. Đây cũng có thể là lý do tại sao có ngôn từ hành giả.

- Nhà cháu cố gắng hành thiệt còn chưa tới đâu phương chi hành giả. Sỹ tơm tớp nhào vô diễu.

- Thế mà cứ tốn tiền đưa bà xã đi biu ti sóp (Beauty shop)! Lúc cưới em thì cưới đồ thiệt, từ khi đưa em đi biu ti sóp trở thành hành giả. Dại dột! Giọng Bá trầm trầm như than thở chen vô.

- Ai dám nói tớ đưa bà xã đi biu ti sóp?

- Kẻ nào có tật thì người ấy giật mình. Giọng Ty trầm trầm vang lên khởi xướng cho tràng cười bùng lớn.

Phía phái nữ im re bởi chẳng nhiều thì ít, người xâm mày, kẻ xâm môi, sửa mũi cho thêm mặn mà hình dáng. Dĩ nhiên, đánh phấn, thoa son là chuyện bình thường đối với mọi phụ nữ. Câu nói “Trai tài gái sắc” tự ngàn xưa đã bộc lộ bản tính ngưỡng mộ tự nhiên của con người dẫu đã gây biết bao ngậm ngùi, đớn đau, cho đến thất vọng nơi những tâm hồn thiếu nhận thức. Theo đà tiến triển văn minh, nghệ thuật trang điểm cũng tiến dần tới thủ pháp y khoa giải phẫu, đắp mông, độn ngực, xẻ cằm tùy theo quan niệm thời trang hoặc ý thích cá nhân. Chẳng hiểu người trang điểm mang chủ ý thế nào, hoặc để tự cảm thấy mình đẹp hay để được người khác chiêm ngưỡng. Có điều, chỉ mới đơn thuần nhận định câu nói bình thường, “Sửa sắc đẹp,” tự nó đã mang nghĩa bất thường chẳng khác chi câu, “Đi khám bác sĩ.” Bác sĩ nào để cho mình khám mà nói, đi khám bác sĩ. Tương tự như thế, chẳng lẽ người có sắc đẹp muốn được sửa thành xấu, nhưng lối phát biểu vẫn được diễn tả một cách nghịch thường xưa nay luôn được chấp nhận chẳng bao giờ thấy ai đặt lại vấn đề.

Ý nghĩ chợt thoáng qua khiến cụ Tài muốn khích động tâm tình để ý nhận thức mọi vấn đề nơi mỗi người.

- Đi đâu hay tới đâu, tôi không đặt thành vấn đề. Tuy nhiên, tôi nêu lên hai câu phát biểu để mọi người thử nhận định; đó là “Sửa sắc đẹp” và “Đi khám bác sĩ.”

Thế là bàn dân thiên hạ ngớ ra. Ai chẳng hiểu ý nghĩa hai câu nói đơn giản thường được nghe thấy trên đầu môi chót lưỡi mọi người, nhưng sao cụ Tài lại nhắc đến. Và tất cả đều như ngậm hạt thị khiến bầu không khí trở nên tĩnh lặng pha đậm nét ngỡ ngàng.

Những tiếng ồn ào mở bia, gắp món ăn nổi lên chừng như muốn che lấp phần nào tâm tình bối rối của nhóm nhậu. Nếu như được hỏi về câu nói khôn ngoan, hóc hiểm nào đó, có lẽ chẳng thiếu những nhận định, ý kiến nổi lên. Đàng này, hai câu quá thường, thường đến độ không ai ngờ được đặt thành vấn đề làm cho mọi người chưng hửng. Nói gì, nhận định gì khi ý nghĩa của chúng quá rõ ràng, ai cũng biết, nhưng tại sao cụ Tài nêu lên vấn đề nhận định. Chẳng lẽ nói lên lý do phải đi khám bác sĩ, hoặc sửa sắc đẹp, điều đó đâu phải nhận định, vậy thì nhận định sự thể gì nơi hai câu nói này. Chợt Hưng lên tiếng,

- Thưa bác, xấu thì đi sửa cho đẹp, và ốm thì đi khám bác sĩ.

- Bác sĩ nào để anh khám?

- Dạ thưa bác sĩ Hoa, Sỹ nhào vô.

- Cái chú quỷ, thế mà cũng rống lên, chị Hoa, vợ Hưng la Sỹ.

- À há! Thế mà đã bao lâu rồi đã chẳng để ý. Công nhận, gừng càng già, càng cay, thậm phục, thậm phục. Ty trầm trầm, vừa nhai, vừa gật gù ra bộ đắc ý.

- Anh Ty, anh vừa nói gì? Cụ Tài hỏi đích danh.

Nuốt xong miếng ăn, Ty nhẹ nhàng trả lời trong khi mọi người hướng về hắn,

- Thưa bác, điều chẳng ngờ lại quá thường đối với mọi người từ xưa đến nay. Cháu chợt thấy ngộ ngộ khi bác nêu câu hỏi, “Bác sĩ nào để anh khám?” Hai lối phát biểu, “Sửa sắc đẹp,” và “Đi khám bác sĩ” ngược hẳn ý nghĩa chúng muốn nói lên. Sự thể này minh chứng thiếu nhận định, thiếu nghiệm chứng nhưng chấp nhận thói quen và cho đó là bình thường, không cần thiết hoặc không cần đặt vấn đề. Điều này chẳng khác chi mình đang thở nhưng không nhận biết không khí chung quanh, hoặc mình đang sống nhưng chẳng hiểu mình sống để làm gì, hay mình có ước muốn thăng tiến mà không đặt vấn đề muốn thăng tiến nơi phương diện nào. Nói tóm lại, sống thiếu ý thức.

- Ai có ý kiến gì nữa không?

Không ai lên tiếng bởi không biết trả lời thế nào. Nếu nói rằng không, lỡ còn khía cạnh nào mình đã không nhận biết chăng. Nói rằng có, đã nghĩ được gì khác đâu. Quả hợp với câu, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu. Đôi phút sau, cụ Tài hỏi tiếp,

- Quý anh chị thấy có câu nào nơi sách vở nói về trạng thái này nơi tâm tưởng con người không?

- Thưa bác, hình như coi thường câu, “Nghiệm xét mọi sự.” Bá lên tiếng.

- Dẫu đã biết nhưng cái biết ấy vẫn chưa nhập tâm, chưa trở thành bản năng thì biết cũng như không; bởi thế, vẫn còn luẩn quẩn nơi vòng ngoài nghiệm chứng. Nêu lên đặc tính nghịch thường của hai câu nói này, tôi không khuyến khích bất cứ ai cố ý bới bèo ra bọ, chỉ muốn anh em luôn để ý nhận thức bất cứ điều gì đang diễn tiến nơi cuộc sống dù một câu nói, một hành vi, và nhất là từng ý nghĩ, mơ ước nơi tâm tưởng của mình. Thí dụ, sự thể đang ồn ào xảy ra nơi đất nước Mỹ này đó là vấn đề phá thai. Có anh em nào thử đưa lên một vài nhận định về sự kiện này không?

- Thưa bác, hai phe ủng hộ hoặc chống đối dùng mọi lý lẽ, luận điệu, ngay cả thần thánh với mọi phương thức, cuối cùng cũng chỉ tiến tới quyết định dùng ngân quỹ đóng thuế của dân chúng để trả tiền cho người phá thai hay không mà thôi. Cứ đem chém phăng tất cả những luật sư đi thì chẳng còn gì để nói. Sỹ hung hăng phát biểu.

- Như vậy nào thêm bớt gì, chỉ bới việc và không đi đến kết quả, kết luận chi, lại tốn tiền chế máy chém luật sư. Hưng giải thích.

Nét đăm chiêu hiện rõ nơi gương mặt mọi người bởi câu hỏi được nêu lên không có câu trả lời. Trả lời thế nào khi mình không phải đối diện với những sự thể chẳng đặng đừng của người trong cuộc. Sự thể được nêu lên chẳng khác gì đặt chiếc cày trước ách con trâu, đi tới không xong, giật lùi chẳng được. Hơn nữa, nơi thế giới loài người, biết bao phương pháp, luật lệ từ những chính quyền, cổ võ hoặc áp lực đã thực hiện từ xưa tới nay nhiều khi nghe đến độ ghê rợn tâm thần.

- Có ai nói lên được lý do tại sao phải phá thai không? Cụ Tài hỏi.

- Thì bởi có bầu, thưa bác.

- Thế tại sao có bầu. Cụ Tài mỉm cười khi nêu câu hỏi nghe đầy vẻ kỳ cục nhưng lại khiến mọi người giật mình.

- Thưa bác, nếu vậy thì phải đặt vấn đề luân lý tính dục. Bá nói.

- Nêu lên vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, tôi chỉ muốn dùng nó làm cơ hội nhắc nhở anh em nên tỉnh thức, nghiệm xét mọi sự. Người ta đang nhố nhăng kêu gào, cổ võ, chống đối theo ý thích một cách vô ý thức. Họ lợi dụng sự việc nào đó để có công ăn việc làm, để kiếm tiền, để thoả mãn nhu cầu của họ dưới những danh hiệu, mục đích đao to búa lớn. Cả hai phe chống đối hoặc ủng hộ không nhắc nhở gì tới luân lý tính dục, tất nhiên nơi vô thức đã tự động chấp nhận điều được gọi là “Tình cho không biếu không” thì sao có thể giải quyết dự luật phá thai, nên hay không nên dùng tiền thuế của dân để trả tiền phá thai cho bất cứ ai. Xét lại nơi hiện trạng nhận thức, chúng ta có lẽ vì ỷ lại hoặc lười suy tư, quá quen thói chấp nhận sự thường, thành ra thiếu khả năng nghiệm xét; thế nên, luôn có thái độ nương nương mà sống cho qua kiếp người, luôn lần mò áp dụng bản năng của loài đà điểu, chui đầu vô bụi rậm, nhắm mắt lại tưởng rằng không nhìn, không nghe thấy thì sẽ chẳng có gì xảy đến với mình.

 
Không hiểu sao tối nay cụ Tài giáng đòn cân não quá nặng nề đối với nhóm nhậu. Đưa lên hai câu nói nghịch thường nhưng lại được thường tình áp dụng thách đố họ nhận thức, lại còn quất thêm nguyên nhân sự thể gốc gác của sự việc thiên hạ nhố nhăng lạm dụng vì ý đồ nào đó. Người ngoài cuộc thấy thế cũng chóng mặt phương chi mấy tướng nhóm nhậu bụng dạ đầy ắp rượu chè, thịt chó. Thế mà ai nấy im re không dám quen thói diễu như những lần họp mặt kỳ trước.

- Thưa bác, như vậy, nên hoặc phải giải quyết cách nào? Sỹ ngập ngừng.

- Anh nói giải quyết điều chi? Tôi đâu đặt vấn đề cho anh em giải quyết mà chỉ nêu lên với chủ đích kích thích tính chất để ý nhận định sự thể và sự việc trong cuộc sống. Nếu chúng ta để ý nhận định bất cứ phương diện nào của một sự kiện xảy đến nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận thức sự việc như chính nó hầu tránh thói quen hàm hồ nghe sao tưởng là vậy, và đã vội cho rằng sự thể chỉ có thế, dẫn đến nhận định hoặc quyết định sai lầm, vô minh. Trường hợp cá nhân, gia đình, khi đã nhận ra nguyên nhân của sự thể, tất nhiên quý anh chị sẽ biết phải hướng dẫn con cái ra sao tránh trường hợp rơi vào trạng thái “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Riêng hôm nay, e rằng nỗi phấn kích phát sinh từ món quốc hồn quốc túy nơi âm phủ chẳng biết có hay không hòa nhập với thánh nọ thánh kia, lại thêm phần hứng khởi của văn nghệ văn gừng khiến lòng ruột lãng đãng, nên tôi phải nêu lên vấn đề may ra tâm trí anh em thoát khỏi cõi vô minh.

- Bài học nào không phải trả giá, niềm mơ nào chứa men đắng chua cay. Bá lập lờ ngâm, đời đáng chán hay không đáng chán, cuộc sinh tồn vẫn lững lờ trôi, an nhiên, tự tại mấy người.

- Anh Bá nói đúng. Nơi dòng sinh hóa bất tận, một tâm hồn sẽ mang nặng niềm ưu uất khi không chấp nhận sự hiện hữu buồn nản được lặp đi lặp lại thường ngày, ăn, ngủ, làm lụng kiếm sống không chi thay đổi; nên khi có cơ hội, tâm thức vùng lên kiếm tìm một ý nghĩa hay đường hướng vươn lên hầu nhận ra giá trị thực thể sự hiện hữu của mình. Chẳng lẽ mình được sinh ra, cả đời phải lo toan miếng cơm manh áo rồi chết và đi vào quên lãng như đã chưa từng bao giờ hiện hữu nơi cõi nhân sinh. Như chúng ta đã biết, chính lòng khát khao không chấp nhận nhưng muốn nhận biết và giành lại quyền giải quyết vận mệnh của mình, đã thôi thúc con người tìm hiểu lẽ sinh tồn và giá trị của quãng thời gian hiện hữu được gọi là cuộc đời mỗi người. Đây là căn nguyên phát sinh nhận thức tâm linh được gọi là đạo học, và từ nhận thức này, nảy nở hành trình nghiệm chứng dẫn đến những phương cách thực hành thường được gọi là pháp. Nơi phương diện tu chứng Ấn học, sự thực hành này được gọi là Yoga và anh em đã biết có nhiều pháp môn Yoga tùy thuộc quan niệm cũng như trình độ của hành giả.

- Thưa bác, dẫu trình độ của con người khác nhau, thế sao không có một pháp môn Yoga chung nào đi từ dễ đến khó, từ sơ căn tới mức thiện toàn để hành giả tùy nghi thực hành cho hợp với trình độ của họ hầu tiếp tục thăng tiến? Phủ từ trước tới giờ ít nói bỗng lên tiếng.

- Hỏi là đã tự trả lời. Anh nhận nhiệm vụ thuyết pháp về Yoga phải không? Hèn chi dùng được ngôn từ pháp môn. Nơi nhà Phật, chỉ mỗi một pháp “Kiến tính thành Phật;” thế sao biết bao tín đồ, bao nhiêu hành giả, bao nhiêu phật chưa thành mà vẫn đầy rẫy chùa chiền, cúng kiến, vái lạy, xin sâm, trừ tà, truyền tâm ấn khói lên. Phật tâm, Phật tính, Tâm bất sinh sẵn sàng nơi mọi người sao vẫn còn hành giả, hành thiệt. Anh Sỹ, anh hành thiệt như thế nào, có thể nói cho mọi người biết không?

Mọi người phá lên cười khi nghe thấy cụ Tài nhắc lại lời nói tửng tửng của Sỹ.

- Cần chi phải hỏi hắn, cứ nhìn lũ nhóc thì biết hắn hành thiệt thế nào. Bá nói.

Lại thêm một tràng cười rộ như muốn phá bung mấy cửa kiếng nơi tường. Ngược lại hắn tỏ ra nghiêm chỉnh như đang phải đối diện với quan tòa khắt khe, lên giọng,

- Thưa bác, nhà con đã phải tốn hao biết bao công phu tu luyện mà vẫn thua vợ chồng Phủ hai mống. Có nhà cháu đang ngồi đây làm chứng; nào là vợ đẻ chồng đau; nào khi tối lửa tắt đèn chạy thày, lấy thuốc, em bu lăng (Ambulance), em bu lung khói lên; nào nay nhà trường gọi con trốn học bỏ đi chơi; mai hàng xóm la lối mấy tên giặc oánh lộn. Nhà con nghĩ, với những công sức hành thiệt như thế, chắc chắn phải thành chánh quả ngồi chễm chệ trên niết bàn tha hồ hưởng xôi oản cúng kiến sau này. Sỹ được trớn ba hoa.

- Xôi thì có, nhưng oản chẳng biết còn nước non gì chăng. Ty nói trầm trầm.

- Ơ cái ông này, thế ông không biết rằng các cụ thường nói, càng già càng dẻo, càng dai sao.

- Mấy cái ông quỷ này ăn nói tục tĩu. Chị Hoa lên tiếng.

- Chị nói sao! Không tục làm sao có thánh, cũng như không thân làm sao có thần, và không thần sao có Phật. Chứ tôi hỏi chị, không tục sao có con gọi bằng mẹ, cháu gọi bằng bà? Không tục sao có chị ngồi đấy và tôi ngồi đây. Đã cho là tục mà cố tình vấp phạm thì vẫn còn vô minh, Phật sao hiển lộ. Sỹ được nước, xả một hơi.

- Biết dzồi, biết dzồi, nói mãi, nói dai, nói dài, nói dại. Nói riết bay hết hơi men chỉ tốn thêm bia, nào được ích chi! Ty chặn Sỹ.

- Mình phải thức ngộ, phải biết mình đang làm gì, và còn hơn thế nữa, phải biết mình đang nghĩ gì mới có thể nghiệm chứng, mới thoát được vòng vô minh. Sỹ cố níu kéo chứng tỏ sự hiểu biết.

- Vâng thưa ông, có thoát được vòng vô minh thì cũng vẫn sáng như đêm ba mươi. Ty nói.

- Đủ rồi, chú Sỹ. Ai cũng biết chú đã thức ngộ chứ chưa ngủ ngộ nên mời chú im lặng cho mọi người nhờ. Hướng qua cụ Tài, ông Thung tiếp tục, xin mời cụ giải thích về các phép Yoga.

- Sao lại là phép dzô ga, ra ga, phải là pháp môn Yoga chứ không phải phép bùa. Sỹ hăm hở.

 
- Sở dĩ có những pháp môn Yoga khác nhau cũng chỉ vì quan niệm một Thượng Đế hữu ngã được gọi là Brahma; dẫu cho rằng hồn của mỗi người được gọi là Atman là một phần của Thượng Đế Brahma. Ngay như nơi Phật học, chỉ cần kiến tính thành Phật thì cầu xin, vái lạy với đấng nào. Xét như thế, chính những nhận thức thế tục về chủ thể hiện hữu đã là đầu mối cho sự bành trướng những tổ chức mang danh hiệu và đường lối thực hành riêng biệt. Và để hệ thống hóa tổ chức, tất nhiên cần đến nghi thức song hành cùng lề luật được kiến tạo với mục đích quản trị hệ thống tổ chức nhân sinh. Dẫu mọi Phật tử đều thuộc nằm lòng câu nói của đức Thích Ca, “Trong 49 năm rao giảng, ta chưa từng nói lời nào,” thế sao hầu hết các nhà rao giảng, các sư sãi thuộc về Phật giáo đều công truyền rằng vì thấy con người khốn khổ nơi vòng sinh bệnh lão tử nên đức Thế Tôn bỏ ngai vàng, vợ con, bỏ cuộc đời vàng son tu chứng giác ngộ giải thoát chúng sinh. Thêm vào đó, những lời rao truyền của bậc giác ngộ trãi qua thời gian, trước hết bị tam sao thất bổn, sau lại bị nhận thức hạn hẹp thế tục làm cho méo mó, đồng thời tham vọng truyền bá cho mọi giới nên cố dùng nhận thức thế tục, muốn biến con khỉ thành nhạc sĩ; do đó cải biện giáo lý thành lề luật, thành thứ mì ăn liền khiến tín đồ yên tâm cho rằng chỉ cần tuân theo những nghi thức, những giới luật phải giữ sẽ được giải thoát, thức ngộ. Tất nhiên, nhiều người, lắm ý; trong trường hợp trời không chịu đất thì đất cũng không chịu trói, thuở ban đầu từ một tổ chức, dần theo thời gian bị phân chia thành nhiều tông phái, truyền thống. Xét như thế, anh em có thể hiểu tại sao có những danh hiệu, Nam Tông, Bắc Tông, Đại Thừa, Tiểu Thừa, v.v... Cụ Tài nhẹ nhàng giải thích một hồi, đoạn nâng ly trà nhấp giọng. Mượn cơ hội này, Sỹ đã vội chen vô,

- Thưa bác, thế sao nơi sách vở có người cho rằng Tiểu Thừa chỉ đạt tới hạnh bồ tát, còn Đại Thừa mới đạt niết bàn?

- Có ai trả lời được không? Nhưng phải hợp lý, hợp tình; nói có sách, mách phải có chứng. Cụ Tài nhìn quanh thái độ chừng như thách đố.

Đáng đời! Các tướng xưa nay quen thói tào lao, dùng mọi đối tượng làm đề tài diễu, từ thần thánh đến quỷ ma, hầu có được đôi phút thoải mái tâm tư sau những ngày miệt mài với công việc lo kiếm miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình. Hiện trạng này không phải chỉ giới hạn nơi các nhóm bạn bè đàn đúm mà còn là một phong trào mạnh mẽ bành trướng lan tràn trên những băng tần vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Hình như con người thời đại này mang nặng tâm trạng ưu uất do phải đối diện với cuộc đời thăng trầm, biến đổi không ngừng nên khao khát những niềm vui diễu cợt nhẹ nhàng thoáng qua, may ra giảm bớt căng thẳng tâm tư được chừng nào hay chừng nấy. Thực ra, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (N. Du). Nếu lòng đã buồn, càng đối diện với cảnh vui thì sau giây phút hờ hững tạm vui, lòng càng chìm sâu nơi nỗi buồn khổ ải khi con người trở lại với chính mình. Thực trạng này chẳng khác gì mượn rượu hầu mong giải sầu, ai ngờ sầu lại càng sầu. Mấy miệng nhanh nhẩu chợt cảm thấy chẳng khác gì mõm ngựa bị bộ cương khóa, hết đường ngó ngoáy.

- Người hỏi tự đã có câu trả lời. Bá chọc Sỹ.

- Tớ không biết mới hỏi. Nếu đã có câu trả lời, ai hỏi làm chi.

- Muốn biết phải hỏi Trạng Quỳnh, cho đại cấm tiểu, ha ha, Phủ phá ngang đoạn cười lớn.

- Anh Hưng, cụ Tài nhắc. Anh diễn thuyết về Phật học mà.

- Thưa bác, giọng Hưng ngập ngừng. Cứ theo lục tổ Huệ Năng, "Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184), thì đâu có gì mà đạt nhưng lại trở về với chính mình, lau gương để hiện rõ bổn lai diện mục thì dẫu đạt niết bàn hay đạt hạnh bồ tát vẫn chưa kiến tính, phương chi là Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Cháu chỉ có thể nghĩ được như thế.

- Đó là câu trả lời đúng nhất và hay nhất mặc dầu thấy như không trả lời gì về câu hỏi liên hệ đến điểm đích của Đại Thừa hoặc Tiểu Thừa. Riêng vấn đề người ta nói, hoặc tác giả này, tác giả kia viết, thì đâu có phải là ý kiến hoặc nhận thức của chúng ta. Quý anh em vẫn để lòng trí luẩn quẩn nơi ngôn từ được mượn để thiết lập câu hỏi. Điều này nói lên anh em vẫn còn lệ thuộc nơi những lý thuyết, những giáo lý, những quan niệm nhân sinh thế tục. Có lẽ đây là lý do đã khiến ông Thung yêu cầu tôi giải thích về các pháp môn Yoga. Tôi sẽ giải thích nhưng nói trước với anh em; khi anh em còn nghĩ về chúng thì nên nhớ rằng chúng không phải là hành trình kiến tính của anh em, mà là của người khác. Nói cách khác, chúng chỉ là phương tiện để anh em dùng mà so sánh với nghiệm chứng nơi cuộc đời của mình.

- Chuyên tâm nhận định một chút, chúng ta sẽ thấy rõ một điểm; đó là tùy theo trình độ nhận thức mà các nhà sáng lập tông phái kiến tạo các pháp. Điều này có nghĩa các pháp là sản phẩm của nghiệm chứng và nhận thức. Như vậy, các pháp cũng là công thức thực hành đã được thực chứng do một số hành giả tiên khởi của tông phái và được ghi chép lại cho hành giả hậu thế đỡ tốn công sức khai phá. Tuy nhiên, kết quả tu chứng theo các pháp môn chắc chắn bị ảnh hưởng bởi một số điều kiện chẳng hạn như căn cơ của hành giả, môi trường tu chứng, tâm trí cũng như cơ thể người thực hành. Bởi thế, dẫu trong một tông, phái, thực hành cùng một pháp môn, sự thành đạt của mỗi hành giả ra sao chỉ y biết. Nơi hành trình tâm linh, thành quả nghiệm chứng, tu chứng theo pháp môn không giống như kết quả khoa học hay toán học, một cộng với một bằng hai, hoặc cứ hai phần hydrogen tổng hợp với một phần oxygen dưới một áp suất nào đó sẽ tạo thành nước; bởi điều kiện căn bản là chính hành giả đã khác biệt cộng thêm điều kiện môi trường ảnh hưởng trên hành giả nên thành quả tất nhiên khác biệt.

 
- Dẫu có nhiều pháp môn Yoga, tôi chỉ muốn nói đến nguyên tắc cũng như quan niệm về một đôi pháp môn thực hành. Có ai nhớ lần trước tôi kể tên bao nhiêu pháp môn Yoga không.

- Thưa bác, hình như năm, sáu, bảy, tám, chín cái gì đó, mà những cái tên gì gì ra giô ra gi chẳng thể nào mà nhớ được. Phủ trả lời.

- Như tôi đã nói lần trước, mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ, và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói, “Kiến Tính thành Phật.” Hãy làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được giải đáp cho mọi vấn đề. Riêng xét về Yoga, chúng ta thường dùng sai ngôn từ hoặc hiểu sai ngôn từ để chỉ về nó.

Cụ Tài chợt ngưng nói, quay qua Hưng,

- Anh Hưng, anh làm ơn ra xe lấy dùm tôi cuốn sách đang để ở ghế tôi ngồi lúc nãy. Đoạn cụ tiếp tục,

- Yoga bao gồm nhiều môn học từ thiên văn, địa lý, triết học, toán học; trong đó hai ngành đặc biệt về tập luyện xác thân được gọi là Hatha Yoga và Kriyâ Yoga. Đọc nơi sách vở, đôi khi Kriyâ Yoga còn được gọi là Râja Yoga. Cũng nơi sách vở, chúng ta biết, tất cả các đạo học đều phát xuất từ Đông Phương, bởi đó tâm tình mộ đạo phát triển mạnh mẽ. Giống như mọi dân tộc Đông Phương, tôn giáo là lẽ sống của người dân Ấn Độ. Lòng khát khao tìm sự giác ngộ tâm linh để hưởng lạc thú tinh thần được coi là khá mạnh mẽ. Chẳng thế mà họ có thể chịu đựng cảnh sống nghèo nàn lại phải đương đầu với những thiên tai, hạn hán hằng năm xảy đến cũng như nhẫn nhục chấp nhận sự hà khắc của quan quyền thống trị họ.

Hưng đã mang vào cuốn sách, hai tay trao cho cụ Tài. Cụ lật mấy trang đầu đoạn nói,

- Để tôi đọc một vài đoạn nơi cuốn sách này giải thích về pháp môn Kriyâ Yoga cho anh em nghe. Trước hết, lý do nào hoặc quan niệm, nhận định nào bậc Yogi tập luyện thể xác. Nơi sách được viết, “Thể xác của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 watts, không thể chịu nổi một điện thế một triệu volts gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp môn Kriyâ Yoga. Sự gia tăng một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mạnh mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của tinh thần” (XPHB tr.5). Và cách thực hành được giải thích như sau, “Hành giả (Yogi) dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung hoàng đạo tượng trưng vũ trụ trong con người (tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường (XPHB tr.4).

 
Một cánh tay giơ lên khiến mọi người ngạc nhiên, lại là cánh tay của chàng thích phá đám, Sỹ nhà con, khiến mọi người cảm thấy hơi khó chịu.

- Thưa bác, nếu chỉ nửa phút mà đã đạt được sự tiến hóa tâm linh tương đương với một năm của người bình thường thì chỉ cần vài ngày đã có thể thức ngộ.

- Ông phải xin ghi danh vô học lớp mẫu giáo đi là vừa. Cái chứng chỉ hai năm kỹ thuật của ông có lẽ chó gặm tan mất rồi còn đâu mà ý kiến với ý bọ. Ông thử tính xem nếu so sánh 50 watts với luồng điện một triệu volts và cường độ sơ sơ vài trăm ampère thì phải bao nhiêu phút ông mới “điện năng,” phương chi là thức ngộ.

- Thế chú mày muốn sống được bao nhiêu tuổi mà đòi giô ga, ra ga? Cứ tính sơ sơ dòng điện 200 ampère với điện thế một triệu volts thì mới có bốn triệu cái nửa phút tức là hai triệu phút; thế giờ đâu cho chú mày ăn nhậu, chơi bời, đàn đúm; giờ đâu khiến vợ đẻ chồng đau; giờ đâu đánh tôm, bắt cá kiếm tiền trả bill, trả bọng. Xin chú mày làm ơn ngồi im cho bà con nhờ. Phủ lửng thửng lên giọng kẻ cả.

- Nhưng sách viết lung tung khiến nhà con điếc cái tai chịu không được.

- Đó là giấu hiệu đáng mừng, cụ Tài lên tiếng. Mới thoạt nghe mà đã thấy khó chấp nhận tức là ít nhất đã có suy nghĩ, nhận định. Có điều các anh nên để ý; như tôi đã nói, mọi sự thực hành phát sinh từ quan niệm tiến dần đến nhận định, tu chứng. Những gì được ghi lại chỉ là lý thuyết giải thích mà thôi. Để tôi đọc tiếp, đạo sư Pâtanjali viết như sau, “Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM. Pâtanjali cho rằng Thượng Đế tức là sự rung động trong vũ trụ của thánh ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi thiêng liêng (XPHB tr.3). Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi với đấng thiêng liêng như thế, tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân y làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động. Hành giả (Yogi) hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức của y hòa hợp với thiêng liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh mình (XPHB tr.4).

- Sri Yukteswar trình bày, “Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo sĩ (Yogi) đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở. Nguồn sinh lực của con người lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hành pháp môn Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở. (XPHB tr.4). Kriyâ Yoga có nghĩa Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động. (XPHB tr.1). Hành giả của pháp môn Kriyâ Yoga quan niệm rằng đó là một phương pháp giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ thần kinh tủy não. Kriyâ Yoga có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chận sự tích tụ của máu đen. Những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Theo truyền thuyết, pháp môn Kriyâ Yoga đã xuất hiện từ xa xưa, nhiều ngàn năm, đức Krishna, một vị tiên tri lớn nhất của Ấn Độ, đã truyền dạy cho Arjuna, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh Bhagavad Gita, “Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công pranâyama” (XPHB tr.2). Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những hành giả đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh khả dĩ tiếp nhận quyền năng phát triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.

- Thưa bác, nếu như thế thì mình đâu cần phải biết bởi vì cái biết này cũng như không, chẳng khác gì ăn bánh vẽ. Cháu nghĩ rằng chính tác giả của những lời này cũng không biết gì về cái gọi là Râja hoặc prana Yoga. Hơn nữa, lại đưa thêm điều kiện cần phải có những người đã thực hành để chỉ dẫn cộng thêm lại phải được chuẩn bị từ thể xác đến tinh thần. Tìm đâu ra người đã thực hành! Sự này chẳng khác gì bảo rằng nếu tập luyện sẽ bay được như chim trong khi không được sinh ra với đôi cánh. Đàng khác, giờ giấc nào để tập luyện trong khi đầu tắt mặt tối kiếm miếng cơm, manh áo cho gia đình. Như vậy, có thể chỉ những người ế ẩm, ngay cả những mụ đui, hủi, què, cụt cũng chê mới có thể luyện Yoga mà thôi...

- Ai không biết thừa bộ mặt nát như mặt thớt của ông, cần gì phải quảng cáo. Thôi thì hãy cứ bằng lòng với bộ niết bàn của nhà ông mà hưởng xôi, hành oản, hành thiền, mắc mớ chi phải phiền hà với giô ra vớ vẩn cho mệt cái miệng, phiền đến những cái tai của thiên hạ.

Không hiểu sao hôm nay Bá cứ nhè Sỹ mà đấu. Dẫu nhóm nhậu xưa nay đã quen thói bới móc mọi khía cạnh của bất cứ ai, dù thần thánh nào, để mọi người có cái cười chung vui. Dĩ nhiên, với bạn bè quen biết lâu ngày, diễu như thế cũng chẳng sao bởi không ai xét nét, chấp chiếm những lời nói dựng đứng hầu như kết án hoặc bêu riếu. Quả là khó hiểu.

- Anh Sỹ nói cũng có lý, cụ Tài lên tiếng, nhưng cái lý của anh chỉ chứng tỏ một tâm hồn vẫn nặng nề nông nổi, chưa an định. Nơi cuộc đời, biết bao chuyện được quảng cáo, khuyến dụ chẳng liên hệ gì tới mình; nếu để chúng ảnh hưởng tới tâm trí, có lẽ chúng ta không có giờ để ăn hay ngủ. Thực tế nhan nhản những loại quảng cáo này. Nói đúng ra, chẳng phải bây giờ chuyện mới xảy đến mà đã từ ngàn xưa. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao, chúng ta thấy câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Anh Sỹ, anh có bị phiền hà khi gặp người tuyên truyền con ba ba là con trạnh hay con rùa không?

- Thưa bác, Sỹ vội chộp cơ hội để nói, hình như ngữ này không nói được thì ăn không ngon, ngủ không yên, nên có dịp hay không cũng chẳng chịu để cặp môi ăn da non e chúng liền lại thì khổ. Đối với con ba ba, người ta cho là con trạnh hay con rùa sẽ không ảnh hưởng gì tới cháu vì cháu đã thực chứng được con ba ba như thế nào, nhậu tuyệt ra sao. Nhưng với loại giô ra, cháu chưa bao giờ được thực chứng nên mới thắc mắc.

- Anh không thắc mắc về những pháp môn được người ta quảng cáo đâu. Anh thắc mắc vì muốn có quyền năng như người ta quảng cáo trong khi không phải làm gì hoặc thực hành sơ sơ một chút sẽ có thể đạt được. Trường hợp anh nói đã thực chứng con ba ba thế nào nên không bị ảnh hưởng bởi những lời tuyên truyền, quảng cáo; điều mà chính những người tuyên truyền không biết lại chỉ càng chứng tỏ sự thiếu tự nhận thức về bản thân mà thôi. Sỹ ra hiệu muốn nói nhưng cụ Tài đưa tay ngăn lại và tiếp tục. Nói có sách, mách phải có chứng; nếu anh thử tự hỏi biết bao vấn đề xảy đến chung quanh cũng như những tin tức nghe được, hoặc mơ mộng anh hằng luôn ấp ủ, phỏng đã có những gì anh thực chứng mà chúng vẫn hình như không khuấy động tâm trí anh đến độ phải đặt thành vấn đề giải quyết.

- Đồng ý rằng tác giả những đoạn sách tôi vừa đọc không thể nói lên phương thức thực nghiệm Kriyâ Yoga cũng như kết quả thực chứng chính tác giả đã đạt được tới trình độ nào; điều này chứng tỏ sự thể mà anh nêu lên là trình bày chiếc bánh vẽ, vô bổ, chỉ thuộc loại quảng cáo, tuyên truyền, nhưng nào có chi ảnh hưởng đến bất cứ ai nếu lòng đã an định, không bị chi phối bởi chính ngay ý nghĩ, ước muốn của mình. Thử xét trường hợp câu Phúc Âm, “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi; kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn 14:12). Anh tin vào Thiên Chúa, anh thực sự tin theo đức Giêsu phải không! Anh cũng thực sự tin rằng lời Phúc Âm không tuyên truyền giống như những gì tôi vừa đọc từ cuốn sách phải không? Thế anh đã làm được những gì như lời Phúc Âm bảo có thể làm như đức Giêsu? Và đã bao nhiêu người tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu như anh; chẳng những thế lại đương đường công bố, rao giảng, và khuyến dụ người ta tin theo đức Giêsu, thế sao chẳng ai thực hiện được như lời Phúc Âm đã nói. Thế sao nó không làm phiền lòng anh? Hoặc anh cho rằng Phúc Âm viết những điều không tưởng nên chẳng thèm để ý cho khỏi phiền lòng? Anh thử nói coi, cả đời theo đạo, tin theo đức Giêsu, anh đã nghiệm chứng được gì nơi Phúc Âm, phương chi anh mới chỉ lần đầu nghe câu tuyên truyền, tạm gọi như thế, về Yoga, Yogi.

- Nói người phải nghĩ đến ta, đưa tay rờ gáy mới là người khôn. “Talk, talk, talk cho lắm vào,” không biết mình nói gì mà cũng cứ nói. Nhưng không biết có im miệng được chăng hay cứ vẫn tội chết không chừa mà cố ham cùi dừa, bánh đa. Giọng Ty trầm trầm nổi lên khiến mọi người liếc Sỹ; có kẻ ra dấu chọc quê.

- Chưa chứng được thì tớ cũng đã là Phật, dẫu Phật chưa thành đâu có sao! Thế mà hắn vẫn tơn tơn như chẳng có gì ảnh hưởng. Mở chai bia, hắn tỉnh queo tu một hơi thoải mái.

 
Mọi người giật mình; nỗi thao thức nào đó chợt hiện về nơi tâm não; chỉ đôi lời thách đố về nghiệm chứng lòng tin nơi Phúc Âm như đãbị mũi tên xuyên thấu lòng ruột. Biết nói sao khi đã bao ngày tháng theo đạo mà lời Kinh Thánh vẫn cứ như ngây, như ngô tựa khoảng trời xa thẳm mông lung vô định chẳng gì liên hệ đến người tự nhận tin theo. Có tật, giật mình, mấy tướng theo đạo Phật cũng thế. Có mỗi mấy chữ, kiến tính thành Phật mà giỏi lắm cũng chỉ biết lặp đi, lặp lại cho có vẻ Phật tử. Nào những khuyến dụ đạo đức, ăn chay niệm Phật, nào những từ tâm, từ bi, từ hòn, nào những cúng bái lễ Phật ngày rằm, ngày giỗ, sao thực hiện hoài mà chẳng thấy gì được gọi kiến tính. Những lời thách đố của các bậc thức ngộ như gợi về đày đọa tâm trí những kẻ tin tưởng. Phỏng những lời đó là những chiếc bánh vẽ như Sỹ nhà con ám định. Nhưng nếu chúng chỉ là những chiếc bánh vẽ sao có thể ngự trị nơi tâm hồn những người tin theo từ thế hệ này qua thế hệ khác! Phỏng con người tin theo vì nỗi lo sợ nào đó nên cũng ráng tổn ải chút ít hầu trấn an tâm hồn hoang mang, vô định hướng. Quả là càng biết càng phiền. Đức Thích Ca bảo chớ vội tin những lời ngài nói, nhưng hãy nghiệm chứng mới trở nên Phật đã thành. Đức Giêsu phán kẻ nào tin vào ngài, thì các việc ngài làm kẻ ấy cũng sẽ làm. Nghiệm chứng, tin, là thế nào mà thành với chẳng thành, làm được với không làm được. Nay nghe đến những pháp môn đòi hỏi luyện thân xác, luyện trí tuệ, trí huệ, nào thày dạy, nào bực chân nhân hướng dẫn, lại càng rối mù cả lên. Chỉ cần nghiệm, chỉ cần tin đã không xong phương chi pháp nọ, thiền kia, coi chừng chỉ chết đói. Hừ, chẳng nghiệm, chẳng tin chưa chết thằng tây nào nhưng thiếu một bữa ăn thì bầy con kêu gào rối tung lên ngay lập tức. Ôi phận người, cái khó bó cái khôn, nhưng sao lại diệt dục, diệt ước mơ, ham muốn. Chẳng ham muốn ăn thì vẫn phải ăn; không ăn sẽ chết đói, và khi đói thì đầu gối phải bò còn đâu ngày giờ để nghiệm, để tin. Không chấp nhận thân phận con người thì đã là người; tránh trời không khỏi nắng. Ngược lại, nỗi thao thức nào đó vẫn miên tục thách đố; lòng khát khao nhận biết giá trị kiếp người vẫn hằng thúc dục tâm trí tìm đường giải quyết. Trận chiến nội tâm chợt bùng nổ khiến lòng ruột các tướng xôn xao, giao động để rồi những chiếc miệng quen thói ba hoa im như miệng hến tạo bầu khí thinh lặng nặng nề.

 
Cụ Tài chẳng ngờ kết quả của việc dùng câu Phúc Âm thách đố nhóm nhậu đã tạo nên trạng thái im lặng của mấy tướng coi trời bằng vung này. Thích bới bèo ra bọ để diễu như Sỹ nhà con mà cũng hết ngó ngoáy thì còn ai có thể kiếm cớ phá ngang. Cụ nhẹ nhàng hỏi,

- Sao im lặng thế?

- Thưa bác, bác chọc đúng huyệt tụi con, Phủ chầm chậm trả lời. Bác đặt vấn đề về kết quả của sự tin theo đức Giêsu nơi Phúc Âm khiến cháu cảm thấy trống rỗng vì đã bao lâu rồi, nói cho đúng, chỉ biết tuyên xưng rằng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu, tin vào hội thánh, nhưng thực tế minh chứng chỉ là một sự tuyên xưng, một sự lặp lại giống như quen thói nhắc đến những câu Kinh Thánh in sâu nơi tâm trí đến độ nằm lòng để rồi không bao giờ đặt vấn đề mình tin theo gì, tin thế nào, và thế nào thì được gọi là tin, phương chi nói đến làm được những việc như đức Giêsu. Vẫn biết rằng cần nghiệm chứng những câu nói nơi Phúc Âm nhưng nghiệm thế nào, nghiệm ra sao thì đành bí tịt. Đi nhà thờ nghe các cha giảng phải tin vào Chúa, phải tin vào đức Giêsu, tin nơi giáo hội, thì chỉ biết thế chứ các cha có giải thích tin như thế nào hoặc thế nào thì được gọi là tin đâu. Hơn nữa, cháu chưa bao giờ được nghe bất cứ linh mục nào nói hoặc giải thích về mức độ của lòng tin; điều này có nghĩa, phải làm gì thì đạt đến mức độ tin như thế nào, thành quả ra sao. Tất cả chỉ nhai đi nhai lại tin, tin, tin, không hơn, không kém.

- Anh vừa trình bày nhận thức nơi nghiệm chứng về thực thể trống rỗng của lòng tin của mình. Ai có thêm nhận định nghiệm chứng nào nữa không?

- Thưa bác, Hưng lên tiếng, khi bác nhắc tới tin vào đức Giêsu khiến cháu liên tưởng tới câu nói của đức Thích Ca, ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật chưa thành. Tuy nhiên, khi nghĩ đến câu nói của lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật, hình như có sự rắc rối nào lẩn quất ngăn cách hai câu nói này. Nói rằng kiến tính thành Phật thì Phật đã ở nơi mình rồi. Nói như vậy cũng không đúng, bởi Chân Như, Phật tính đều vô ngã; cho nên phải nói mình là Phật. Như vậy, mắc mớ chi phải kiến, phải tìm, phải làm gì. Chẳng lẽ không kiến tính thì mình là con bò, con chó ư? Thế mà lại thêm nào tu chứng, nào nghiệm chứng, nào hành giả, hành thiệt, hạnh nọ, hạnh kia, bồ tát, bồ múc, tam bảo, cúng dường, bái phật, ăn chay, ăn mặn, đi chùa, đảnh lễ rối lên. Cháu chỉ đọc được lục tổ Huệ Năng giã gạo, nhờ người viết kệ lên tường chứ không thấy sách vở nào chép lục tổ đảnh lễ Phật hoặc cúng đường hay đi chùa nào, ăn chay ăn mặn ra sao, hoặc thực thi hạnh bồ tát, bồ nông nào, mà chỉ kiến tính thành Phật. Một điều cứ luẩn quẩn trong đầu cháu đó là vấn đề ăn chay. Đã chắc gì ăn chay niệm Phật giải thoát tâm tư con người hơn ăn mặn nếu không muốn nói ăn chay lại chỉ nhấn chìm tâm thức con người nơi vòng thị dục. Nói ra có vẻ hơi quá, nhưng thử xét nơi phương thức ăn chay. Nếu muốn ăn giò, ăn chả thì đã chết ai đâu, mắc mớ gì phải dùng đậu phụ thêm gia vị vô rồi giả làm giò để ăn như giò, hoặc như gà, như cá. Có phải cái thị dục muốn ăn như ăn cá, ăn giò, đã quá nặng nề ám ảnh nơi tâm trí người ăn chay đến nỗi phải tốn thêm tiền xài của giả để rồi cứ tưởng đang an hưởng đồ thật. Cái tâm trí này chỉ tạo nên nhận thức bệnh hoạn, chìm trong cái dục nên không nhận ra mình đang chạy theo dục vọng ăn uống.

 
Nói một hơi, Hưng thờ dài, đoạn lẩm nhẩm như người thú tội,

- Sao con người luẩn quẩn trong vòng khổ ải đến thế, lợi lộc chi khi xuôi tay nhắm mắt.

- Có lợi chứ, không lợi ai mà làm, lợi cho người nấu cơm chay. Bá lên tiếng diễu cợt.

- Theo kinh nghiệm sống chúng ta thấy, cụ Tài nói tiếp, muốn có gì, muốn đạt được gì, chúng ta phải thực hiện gì và thường thì phải trả giá như thế nào. Chính vì cho rằng Thượng Đế ở bên ngoài như một quyền lực cá thể, con người phải tập luyện để chuẩn bị đón nhận quyền lực này. Một khi đã nhận định rõ ràng như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nghe được biết bao vị nọ, thánh kia đã tiêu pha cả cuộc đời mong phát triển, nói cách khác, đạt được mộng tưởng hoặc do chính mình đề đạt hoặc do kẻ khác truyền bá. Dĩ nhiên nơi phương diện thể chất, những sự luyện tập này mang lại thành quả chẳng khác gì tập thể dục, thể thao, mà có thể hơn thế nữa, chính sự chịu đựng khổ luyện kiến tạo nơi con người năng lực bền bỉ dẻo dai hơn kẻ khác. Xét kỹ hơn, do chuyên nhất đào luyện, nơi phương diện nào đó con người vô tình phát triển một vài khả năng sẵn có để rồi cho rằng cứ thực hiện như thế sẽ đạt được như vậy. Người này truyền tụng đến kẻ khác, trãi qua thế hệ này, nối tiếp thế hệ khác kiến tạo nên pháp môn. Có thể rằng, với mục đích quảng bá để cổ võ cho pháp môn bành trướng, hoặc bởi ngại ngùng giải thích cho những đầu óc chỉ muốn biết để mà biết, người ta đã không ngần ngại tạo dựng nên những huyền thoại cho rằng do thần này, vị thánh kia rao truyền như thế.

- Nhưng thưa bác, Tình hỏi, sao người ta không chịu khó tìm hiểu trước khi chọn cho mình một đường lối thực nghiệm phù hợp?

- Câu trả lời đúng nhất là tự xét nơi trường hợp chính mình. Ngay như anh em, ít nhất tương đối là những người mang đầu óc suy nghĩ thì thử hỏi, anh em đã suy nghĩ được những gì, đã tìm tòi, học hỏi được bao nhiêu, và đã có thể kiếm tìm được lý thuyết hoặc phương pháp nào để thực nghiệm thăng tiến tâm linh cho mình chưa; phương chi những người bình thường không chịu tìm hiểu hoặc luôn phải lo lắng miếng cơm manh áo cho cuộc sống. Có điều anh em nên nhận định cho rõ ràng; luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích chung cho xã hội tùy nơi, tùy thời. Luật lệ tôn giáo chính thức phải chuẩn bị cho con người thăng tiến tâm linh nhưng chỉ vì nhận thức theo nghĩa phàm tục nên lại trở thành công cụ cổ võ cho luân lý thế tục. Tương tự như thế, những nghi thức tôn giáo phải là phương tiện giúp con người nâng lòng hướng chiều về thực thể hiện hữu tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật lại trở thành phương tiện cúng bái, chúc tụng, cầu xin. Nói như thế cũng hơi quá, bởi vì đa số quần chúng đã không được hướng dẫn nên không để ý nhận thức về thực thể bản thân mình nên dễ dàng mở rộng lòng cho mê tín dị đoan, hoặc tâm tình cầu phước nơi ước vọng có được cuộc đời tưởng tượng tạm gọi là hạnh phúc theo lối nhìn thiển cận nhân sinh. Tuy nhiên, thử hỏi có ai nhận biết được những gì tạm gọi là hạnh phúc nơi mình chưa hay là luôn luôn chỉ cảm thấy không hài hòa với cuộc đời. Tất nhiên, khi thấy mình bị bó chân, bó tay đối với ước muốn thì đành chỉ còn nước đặt niềm hy vọng quyền lực ngoại tại nào đó để tạo dựng niềm tin hầu chịu đựng cho qua kiếp sống. Và như thế có thể nói đây là nền móng cho lý thuyết tôn giáo ngự trị lòng người.

- Nói cho đúng, những nghi thức là cơ hội giúp cho con người định tâm, hướng lòng về một điểm chuyên nhất hầu hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mọi sự, nhưng chính vì đã không nhận thức sự thể này, nghi thức được coi như phương thức phải theo như thế cho lòng ruột an nhiên với ý nghĩ đã hoàn thành bổn phận. Anh em có nhớ sự giải thích của thiền sư Bankei, “Tâm định mới thực sự được gọi là hành, còn vấn đề đi chùa thì cứ đi, hành thiền thì cứ hành, mỗi ngày hành thiền, tụng niệm, vái Phật năm, ba giờ, hoặc thời gian đốt hết mười, hay hai mươi que hương cũng không sao, nhưng tâm Phật bất sinh không phải là chuyện những que hương, chùa lớn hay nhỏ, thiêng hay không. Khi chúng ta an trú trong tâm Phật thì không cần tìm giác ngộ ở bên ngoài mà mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chính là sinh hoạt của Tâm Phật” (TBS; tr.124). Anh em đã thấy lời giải thích này phần nào liên hệ tới câu nói của lục tổ Huệ Năng, “Kiến tính thành Phật,” hoặc nơi Phúc Âm, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hay hành trình dần tiến tới trạng thái vô vi, “Vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi,” (ĐĐK2; tr.245). Theo Đạo, càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi (LTTH; tr.54) được gọi là trạng thái huyền đồng chăng?

- Thưa bác, nếu đã bớt hết, bỏ hết thì con người sẽ trở về thời tiền sử, ăn lông ở lỗ, không xe, không nhà, quần áo ăn diện cũng chẳng có, văn minh, nghệ thuật hết cơ hội phát triển; con người như ngây như ngô thì cuộc sống này buồn như vườn địa đàng đâu còn gì là sinh thú. Sỹ nhà con chụp cơ hội đế vô.

- Anh Sỹ quả là thông minh; thế khi anh mới sinh ra có quần có áo, có nhà cửa, nghệ thuật gì không? Và rồi khi chết anh có mang theo cái được gọi là văn minh, sở hữu của anh không? Anh có nhớ ý nghĩa câu nói, “Điều gì dưới đất ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16:19) mang ý nghĩa gì đối với cuộc đời một người không? Cụ Tài chầm chậm nói một hơi.

- Thưa bác, có đấy ạ. Tình lên tiếng với giọng khá lễ phép. Khi mới sinh ra hắn đã tự biểu diễn nghệ thuật con nhộng, xếch xy chăm phần chăm, vừa “tóp lét (topless) lại vừa bó đâm lét (bottomless)” đấy ạ. Kiểu nói lễ phép lại đầy diễu cợt khiến tràng cười bùng lên sau câu dí dỏm nửa tây, nửa ta khiến bầu không khí bớt căng thẳng làm ai nấy cảm thấy lòng ruột thoải mái hơn.

- Anh em làm ơn để ý; điều chính yếu, đó là đạo học nói về thực thể căn bản của sự hiện hữu, kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ trãi dài theo thời gian và không gian. Từ đó, mới phát sinh ra pháp môn cho các hành giả tùy nơi, tùy thời áp dụng. Tôn giáo cũng bắt nguồn từ đạo học, nhưng sự thực hành đặt căn bản trên niềm tin và tôn thờ do đó kiến tạo nghi thức. Như thế, chúng ta thấy, hình thức bên ngoài của pháp môn là Yoga, thiền, của tôn giáo là các nghi thức. Bởi vậy, căn bản của pháp môn là nhận thức, và căn bản của nghi thức là tâm tình, ý niệm, ý định, ước muốn; dẫu mục đích của tất cả pháp môn hoặc nghi thức đều giúp con người nâng tâm hồn hòa nhập với thực thể hiện hữu uyên nguyên, cội nguồn mọi sự hiện hữu từ tư tưởng tới hành động. Những sự việc, sự thể hữu hình và vô hình này được Ấn học gọi là hoạt động, sự vận chuyển, biến chuyển của thực thể tối thượng được mệnh danh Brahma, và nơi mỗi người là Atman. Chúng ta thường hiểu lầm về ngôn từ hoạt động hoặc hành động được dùng nơi Ấn học. Bình thường, chúng ta cho rằng hoạt động hay hành động là thực hiện công việc hoặc làm chuyện gì, suy tư vấn đề nào đó. Nơi Ấn học, hành động hoặc hoạt động chính là bản thể của Brahma, luôn luôn biến chuyển, biến dịch. Nhận thức như vậy, mục đích của các pháp môn lại là thúc đẩy tâm thức hành giả tiến dần tới sự hòa nhập vào giòng sinh hóa, biến chuyển tối thượng thay vì vọng theo ước muốn, ham hố nhân sinh, thế tục, hữu vi.

- Thưa bác, như vậy đâu cần phải thiền, phải định, dzô ga, ra ga, hành giả, hành thiệt làm chi cho phiền não tâm Phật, bởi càng hành, càng mong muốn kiến tính, càng phát triển vọng tưởng. Tự căn bản, chúng sinh đã là Phật, đã là biến chuyển, sinh hóa của Brahma, cho nên cứ theo lẽ tự nhiên, lỡ được sinh ra làm người, đói ăn, khát uống tự động hòa nhập vào thực thể tối thượng, tự động kiến tính, đâu cần pháp môn, tây môn, mỹ môn, cầu đảo, cầu đường, bái lạy chi cho mệt thân già phật sống này! Sỹ nhà con lại tơm tớp chen giọng.

- Đủ dzồi, đủ dzồi!, nói thừa, nói thãi, nói mãi mà chẳng biết mình nói gì. Không hành thiệt, hành giả thì chỉ còn cách nhập quan tài chứ sao có thể nhập giòng sinh hóa, sinh động, kiến tính, bọ tính. Bá cắt ngang lý luận của Sỹ.

 
Cụ Tài cảm thấy vui vui. Mấy anh chàng ăn nói ngang ngược, bán trời không văn tự này thông minh, lanh trí, lại khá sinh động. Nói về đạo học đòi hỏi nhận thức vượt khỏi giới hạn ý nghĩa ngôn từ đồng thời cần luồn lách ngang dọc nơi phân định mù mờ giữa ham muốn, ước vọng nhân sinh với hành trình tri thức tâm linh; thế mà Sỹ nhà con vừa mới dùng lý luận sơ hở bỏ quên thực thể thân phận kiếp người, nhảy vô vòng duy tâm thì đã bị Bá kéo về thực tại thân, vật, cần phải làm lụng sinh sống. Sỹ định khuyến khích ăn nhậu, sống tự nhiên, bất cần pháp môn, nghi thức; Bá nhắc nhở con người có cuộc sống nên bị cuộc đời thúc đẩy kiến tạo ham muốn. Cái thân trì kéo cái thần. Bá dùng ngôn từ hành thiệt, hành giả mang ý nghĩa bao gồm những lãnh vực khác biệt. Quả thật thông minh, lanh lợi!

- Anh Sỹ nói đúng nhưng đúng nơi trình độ nhận thức vượt khỏi cảnh giới tham sân si của tâm thức bình thường con người. Nơi cảnh giới này, Lão học gọi là vô vi; vô cầu, vô công, vô danh. Bởi nhận thực được tất cả mọi sự kiện đều chỉ là biến chuyển, hoạt động hay hành động của quyền lực hiện hữu tuyệt đối. Ấn học gọi là Brahma, nhà Phật gọi là Chân Như, hoặc nói chung là Thượng Đế thì bất cứ gì xảy đến nơi mình và bất cứ những gì được gọi mình suy tư, thực hiện, cũng chỉ là diễn trình của hành động hoặcbiến chuyển tối thượng mà thôi. Tuy nhiên đối với chúng ta vẫn còn đang trong giới hạn hành giả chứ chưa hành thiệt; cái thân vẫn đang nặng nề trì kéo cái thần thì lý luận duy lý của anh Sỹ sẽ rơi vào sự kiện mà anh Bá gọi là nhập quan tài. Thực trạng này được lục tổ Huệ Năng cho rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên đề xướng chủ thuyết hành thiền; làm gì thì cứ làm, nhưng tâm thức luôn định về một điểm trong hành trình kiến tính. Cũng thế, tùy theo quan niệm mà các tông phái Ấn học thiết lập nên những pháp môn để ứng dụng cho hợp với căn cơ của các môn sinh, hành giả.

- Để thăng tiến những tâm hồn sơ cơ dần tới tâm thức chuyên nhất, pháp môn Yama và Niyama là hai bậc thang khởi đầu. Pháp môn Yama bao gồm cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp và tham lam, cấm hành lạc và dâm dục (TTÂĐ; Tr.244). Pháp môn Niyama giúp hành giả thăng tiến nơi hai phương diện vật chất và tinh thần. Pháp môn này đề xướng năng tắm rửa, không hành lạc, không uống rượu hầu giữ gìn cho tâm tư được thanh khiết, chánh trực. Biết an phận giúp hành giả diệt dần chấp ngã để tâm hồn sớm có sự thanh thoát, an lạc. Chấp nhận mọi điều khổ nhọc nơi cuộc sống và tâm thức để mạnh tiến trên đường tu đức. Hoàn toàn tin tưởng nơi Thượng Đế để diệt trừ tham vọng cá nhân khiến cho tâm hồn thanh thản. Tuyệt đối không ngờ vực và thực hiện bằng mọi cách khiến nghi ngờ không len lỏi vô tâm hồn mình (TTÂĐ; Tr.245-246).

- Chời! Cứ theo những điều luật này, có lẽ tụi cháu đều là những bậc Yogi hạng nặng, sắp thành chân nhân, chân mã rồi. Không cướp của, giết người, không tham lam, dâm dục! Phủ đắc ý ra bộ hãnh diện lên tiếng.

- Vâng, chúng cháu thành tâm tu luyện khá khắc khổ nên chừa được những một nửa; không đấu cờ, chơi bài, chỉ thích đánh bạc; không mê nhâm nhi cà phê, chè tàu, chỉ thích uống rượu, nốc bia; không ham hố đàn ông, con trai, chỉ thích mơ màng đàn bà, con gái. Hì hì! Chúng cháu thích đủ thứ, chỉ không ham một vài thứ! Từ lúc bắt đầu cuộc nhậu tới giờ Ty hoàn toàn im lặng ngoại trừ vài câu chào hỏi; thế mà đột nhiên cóc nghiến răng, lại nêu lên thích đủ thứ, nguyên những thứ búa tạ khiến bà con chợt cười nghiêng ngã.

 

Cụ Tài mỉm cười, lộ nét mặt tươi vui. Cụ cảm thấy vui vì nhận ra nhóm nhậu này chẳng những coi thường và đem mọi sự làm đề tài diễu cợt lại còn dám đem chính mình làm đối tượng trào lộng. Điều này chứng tỏ những tâm hồn ngay thẳng và sự hiểu biết chân thật tâm tính của con người; hèn chi họ đã không cảm thấy nề hà khi bị kẻ khác trong nhóm bóng gió châm chọc nhiều khi đến độ gắp lửa bỏ bàn tay. Anh chàng Ty lầm ngầm này sao mà dí dỏm gớm!

- Thưa cụ, đó chỉ là luân lý công cộng sao lại được xếp vào hàng pháp môn? Lại còn điều luật năng tắm rửa, chẳng lẽ cái nhóm môn sinh sơ cơ này ngờ nghệch lắm sao mà phải có lời khuyên đơn sơ như thế? Ông Thung chợt hỏi.

- Nếu xét phiến diện như chúng ta thường không để ý, những điều luật này đúng là luân lý căn bản cho sự liên đới công cộng của bất cứ xã hội nhân sinh nào. Sở dĩ chúng được xếp vào hàng điều luật pháp môn chính bởi thành quả và mục đích do nhận thức của hành giả. Chẳng hạn, cấm sát sanh có nghĩa không được gây một nỗi khổ đau nào cho chúng sinh hầu phát triển lòng từ bi, mở rộng lòng thương yêu dẫn tâm thức hành giả hòa đồng với nhịp điệu của đại vũ trụ. Cấm nói dối giúp con người tiến tới chính tâm thành ý, không ngụy trá tự ý nghĩ. Cấm trộm cướp và tham lam ích kỷ giúp hành giả vượt khỏi những vọng chấp tư hữu, tự ngã dẫn tới hòa nhập đại ngã. Cấm hành lạc và dâm dục là giới luật hết sức quan trọng vì nếu tinh lực bị phung phí, năng lực quán tưởng sẽ bị thuyên giảm và khó có thể tập trung quán tưởng. Đối với quy luật Yama Yoga, dâm dục không phải chỉ là cấm đoán việc giao hoan giữa trai gái. Người tu Yoga còn cần phải làm thế nào khiến ngay những ý tưởng dục tình cũng không còn lởn vởn trong tâm não (TTÂĐ; Tr.244). Như vậy, muốn đạt tới chỗ tập trung quán tưởng để tiến tới diệt tưởng, con người cần được đào luyện từ nhận thức sinh hoạt bình thường dần tới bản năng nhận thức thực thể hiện hữu. Như chúng ta đã biết, ước muốn, ý định mang quyền lực hiện hữu kiến tạo kết quả nào đó được gọi là chúng sinh. Bởi vậy, những điều luật, pháp môn chỉ là phương tiện cho hành giả nhận thức để thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Có lẽ do không để ý nhận thức mà chỉ theo thói quen nghe sao biết vậy hoặc thực hành vậy, chúng ta đã cho nó là luật buộc mà thôi. Vấn đề được đặt ra lại là luật phát sinh từ đâu nếu không từ nhận thức của con người cho lợi ích liên hệ xã hội nhân sinh. Xét như thế, luân lý là hình thức thực hiện nơi cuộc sống vì lợi ích liên đới con người. Nơi phương diện thâm sâu, nhận thức ẩn chìm bên trong luân lý lại là những nấc thang thăng tiến tâm linh. Cũng thế trong giới hạn tôn giáo, các luật lệ chẳng khác gì dây cương điều hành những con ngựa nhân sinh, giúp con người luôn giữ tâm hồn trong khuôn khổ được gọi “Ngay chính” theo lối nhìn thế tục tùy nơi, tùy thời. Các nghi thức đòi hỏi và ẩn tàng nhận thức. Những ai thực hiện nghi thức cúng bái, vái lạy một cách vô ý thức tất nhiên chỉ tốn công, tốn giờ, hao tiền tài mà thôi, dẫu được những người khác trong cùng tổ chức chấp nhận.

- Hèn chi mà người này cầu được, mình cầu chẳng thấy gì; thần thánh chẳng thèm nghe! Sỹ lẩm bẩm, thế ra mình vẫn chưa biết cầu nguyện.

- Sao, anh Sỹ, đang bàn về pháp môn mà anh lại nghĩ về cầu nguyện? Cụ Tài nhìn Sỹ hỏi.

- Thì, như bác nói, các nghi thức đòi hỏi nhận thức. Đến ngay như việc cúng bái, vái lạy mà làm một cách vô ý thức thì cũng như không, phương chi cầu nguyện.

- Anh có biết khi anh cầu nguyện anh làm những gì không?

- Thì, cầu Trời, khấn Phật, xin Chúa ban cho điều mình muốn chứ cháu nào còn biết gì hơn đâu.

- Ai mượn ông tham lam, bắt cá hai tay nên trống lổn. Bá lên tiếng.

- Chú mày không cầu nguyện như thế sao. Xin thì xin, nghe hay không tùy các Ngài. Bộ các Ngài không cho, chú mày mang ra tòa kiện được không.

- Ai mượn ông hành giả, không chịu hành thiệt. Muốn ăn hét thì phải đào giun vì chuyện gì cũng thế, hòn đất có ném đi, may ra hòn chì mới được ném lại. Đàng này, ông chỉ muốn nằm ngửa chờ sung rụng thì có cầu đến mỏi miệng cũng chỉ như cuội. Trời, Phật đâu phải là cái mỏ vô chủ cho ông tha hồ đào bới mà đòi cầu với nguyện một cách nhưng không!

- Thế anh Bá nghĩ ra sao về cầu nguyện hoặc để đạt được điều mình mong muốn qua việc cầu nguyện, mình phải làm sao? Cụ Tài hỏi Bá.

- Thưa bác, có câu nói, cầu mong không bằng gặp may; gặp may không bằng tốt số; tốt số không bằng ý trời. Đồng thời lại có câu nói khác như dân gian tin tưởng đó là đức năng thắng số. Nếu thực sự quan niệm đức năng thắng số thì ráng mà tạo đức để có tốt số. Nhưng tốt số vẫn không bằng ý trời thì đâu cần đặt vấn đề cầu với nguyện. Cuộc đời một người theo như cháu kinh nghiệm, chúng ta luôn luôn rơi vào trường hợp “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn,” chẳng bao giờ sự việc xảy đến theo ý mình; bởi thế, cuộc đời mới được coi như cơ hội cho chúng ta học những bài học cần phải học; vì tất cả những ước vọng của chúng ta chỉ là ý nghĩ loài người. Thêm vào đó, nếu cháu nhớ không lầm thì Phúc Âm cho rằng ý nghĩ loài người là Satan, là quỷ vương, không thuận ý trời. Tuy nhiên, đọc nơi Phúc Âm, cháu thấy mờ mờ ảo ảo hình như vấn đề cầu nguyện mang một năng lực tuyệt vời nào đó nhưng chưa để ý truy cứu. Như vậy, cháu phải nói, cho đến giờ, cháu cũng chưa thể xác quyết cầu nguyện thực sự là gì và phải như thế nào. Có điều chắc chắn, nếu đã biết sự việc sẽ không thể xảy đến, chẳng bao giờ cháu cầu một cách vô ích hoặc bất cứ những gì cảm thấy ngoài tầm tay với, cháu sẽ không bao giờ cầu với xin chi cho phiền lòng, mệt xác.

- Thế anh có để ý mình làm gì, hay thực hiện những gì khi cầu nguyện không?

- Thì cầu xin Trời Phật ban cho có của ăn của để, ra giày vào dép, có vợ đẹp, con khôn, và sau khi chết được hưởng nước thiên đàng. Sỹ tơm tớp nhào vô.

- Chị Sỹ, cụ Tài hỏi, có phải anh ấy cầu như thế không?

- Thưa bác, nhà cháu cầu cho có thêm vợ hai nên ông ấy thường gọi cháu là lão bà ạ.

- Bu mày đừng có bêu riếu tớ. Thử hỏi, xấu chàng hổ ai!

- Thôi đi chú Sỹ, để Bá trả lời về cầu nguyện. Ông Thung cầm trịch; mời chú Bá.

- Thưa bác, đã gọi là cầu nguyện lúc đó mình bày tỏ điều mình ước muốn, ước nguyện, nhưng, nhiều khi suy nghĩ, tính toán hơn thiệt về những gì có thể xảy đến theo điều mình ước muốn, cháu lại thấy không muốn điều mình đã ước vọng nữa.

- Đã bao giờ anh đặt vấn đề về nguyên tắc căn bản của sự cầu nguyện chưa? Tôi muốn nói đến gốc gác, năng lực nào có thể thực hiện ước muốn, ước vọng nơi mình.

- Cháu chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề ấy, chỉ kinh nghiệm được, có những điều ngày xưa mình mơ ước và đến nay đạt được, nhưng nó lại trở thành gánh nặng, thế mới phiền.

- Anh có bao giờ nghe thấy câu nói, “Bài học nào mơ ước hôm xưa đã trở thành cay đắng hôm nay!”

- Ô! Cháu tưởng chỉ mình cháu rơi vào trường hợp “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn!”

- Vậy anh không nhớ câu nói, “Đa thọ đa nhục” sao? Hoặc câu khác, “Chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa!”

- Tôi muốn anh em để ý, cụ Tài tiếp tục, ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, vọng tưởng, tự mang quyền lực hiện hữu, quyền lực phát sinh; nhà Phật gọi ý nghĩ, ước muốn là dục. Đây là lý do tại sao nơi kinh Kim Cang có câu nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; tr.241). Vì dục là ước muốn, ước vọng mang quyền lực phát sinh nên tác tạo chúng sanh. Bởi vậy, khi mình cầu nguyện tức là mình dùng quyền lực hiện hữu nơi mình để tác tạo một sự thể, sự việc nào đó. Phật, Như Lai, đấng giác ngộ có nghĩa không tạo chúng sinh, không ước muốn, vọng tưởng gì, mà hòa nhập vào bản thể hiện hữu tuyệt đối. Anh Bá có nhắc đến định nghĩa của Satan nơi Phúc Âm đó là ý nghĩ loài người. Phêrô bị gọi là Satan vì ông đã nghĩ theo ý thường tình con người, theo mong muốn của mình, theo cái dục bình thường nhân sinh. Nơi Ấn học cũng thế, bởi mọi sự hiện hữu đều thuộc về hay ở trong Brahma như nơi kinh Bhagavad Gìta được viết, “Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người (Atman); nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta” (CTC. 6:29). Ý nghĩ, ước muốn là một sự hiện hữu nên mang quyền lực hiện hữu tác tạo. Như vậy khi cầu nguyện, tức là sử dụng quyền lực hiện hữu tác tạo điều gì đó. Tất nhiên, bài học mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay; bởi ngày xưa mình đã dùng quyền lực này tác tạo điều mơ tưởng không hợp với ngày hôm nay. Đọc nơi Phúc Âm chúng ta thấy câu nói nếu không để tâm suy nghiệm sẽ cho rằng dường như không tưởng mà lần trước tôi có nhắc đến nhưng không giải thích nên vẫn chờ xem có anh em nào để ý đặt vấn đề hay không, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24).

- Thưa bác, Sỹ lên tiếng.

- Thưa gửi cái gì; nghiệm thì không nghiệm chưa chi đã thưa với bẩm. Bá chặn họng Sỹ.

- Sao chú mày cứ nhè tớ mà đấu vậy?

- Người khen ta mà khen bậy tức là kẻ thù của ta. Người chê ta mà chê đúng, tất nhiên là bậc thầy của ta. Đã không cảm ơn lại còn càm ràm, quả là hết thuốc chữa. Bá trả lời Sỹ.

- Chú Sỹ, hãy để cụ nói. Ông Thung ngăn.

- Anh em để ý, khi chúng ta ước muốn điều gì, chúng ta luôn mơ tưởng, toan tính, suy nghĩ về điều đó. Có thể nói chúng ta là nô lệ cho ước muốn, ước mơ của mình đồng thời dồn hết năng lực, phương tiện để thực hiện điều mình mong ước. Nói cách khác, ước muốn tự mang năng lực thúc đẩy con người vượt mọi trở ngại để hoàn thành, đạt được điểm tới; nếu chúng ta thực sự muốn điều nào đó xảy đến. Tuy nhiên, bình thường chúng ta chỉ mơ ước khơi khơi mà không thực sự muốn nên đã không để tâm đến điều mình mơ ước. Sự thể này xác định rõ chúng ta đã không thực sự mong muốn.

- Tôi nhắc lại điều anh Bá nói lúc nãy, cầu nguyện là bày tỏ điều ước muốn, ước mơ. Như vậy, nếu mình chỉ ước muốn khơi khơi thì lẽ đương nhiên mình cũng chỉ cầu nguyện khơi khơi, nghĩa là không thực sự mong muốn, không cần điều mình cầu xin, sao chuyện có thể xảy ra. Mà một khi mình đã thực sự muốn điều gì thì mình sẽ dồn hết năng lực để hoàn thành điều đó, và như vậy, chắc chắn chuyện phải thành, ngoại trừ trường hợp ước muốn điều không tưởng. Tuy nhiên chúng ta cũng đành chân thực chấp nhận rằng có những ước muốn có hại cho người cầu xin, nhưng họ không biết. Sự thể này chính là điều mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay. Như vậy, có thể những gì chúng ta thực sự cầu xin đã không xảy đến lại trở thành may mắn.

- Thưa bác, như vậy tốt nhất là chẳng cầu xin gì vì chuyện phải đến chắc chắn sẽ xảy đến và những gì có hại cho mình dẫu cầu xin cách mấy cũng chẳng được. Tình nêu ý kiến.

- Chúng ta không thể phân định những trường hợp riêng rẽ như thế thành nhận định chung. Đâu phải những gì có hại cho mình dẫu cầu xin cách mấy cũng không được mà e rằng lại xảy đến theo ước muốn như một cơ hội cho mình học bài học cần phải học. Chỉ nói khơi khơi về cầu nguyện, cầu xin sẽ chẳng đi đến đâu mà chỉ là bàn thảo một cách phiếm diện của một sự thể phức tạp. Trước hết chúng ta thử xét cội nguồn của sự việc được gọi là cầu nguyện, cầu xin. Tại sao chúng ta được khuyến khích cầu nguyện. Nếu tôi không lầm, biết bao nhà rao giảng hoặc những vị truyền giáo khuyến khích người ta cầu nguyện, đã vô tình không tìm hiểu sâu xa về sự thể này nên đã khiến tín đồ tin theo phải đối diện với nỗi thất vọng nhiều khi đến độ lung lạc niềm tin. Tôi nêu lên một câu hỏi để anh em suy nghĩ. Tôi nhắc lại, cần suy nghĩ trước khi trả lời; đó là năng lực cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ đâu?

- Thưa bác, Sỹ nhà con vội lên tiếng chừng như sợ người khác nói mất phần của mình.

- Khoan, ông Thung chặn Sỹ, ai nói trước khi suy nghĩ, sẽ bị phạt làm bữa nhậu lần tới.

 
Thế là mọi người im tịt. Không phải họ sợ phải làm bữa nhậu vì thực ra chẳng tổn ải là bao. Đàng khác, có bạn bè thân quen đàn đúm là điều đáng mừng lại còn là cơ hội thắt chặt tình thân hữu; bởi nay anh, mai tôi, nào có chi đáng nói. Hơn nữa, có nhiều khách khứa tới nhà, con cái có cơ hội thực hành sự lễ độ đối xử với các bậc trưởng thượng cũng như có thêm bạn bè thân hữu sau này. Họ im lặng bởi xưa nay chỉ được nghe khuyến khích cầu nguyện, cúng bái rồi thực hành theo như một thói quen. Nói cho đúng, khi gặp những trắc trở không đường giải quyết nơi cuộc đời, cầu nguyện là phương thế cuối cùng như một điểm tựa an ủi cuộc sống. Nơi tâm tình phó mặc cho đấng bề trên toàn quyền định đoạt, con người dễ mở rộng lòng chấp nhận những khổ ải trái ý muốn hoặc những thua thiệt mà người xưa gọi là “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn” (TN). Nhiều người còn tự an ủi rằng chuyện không may nhỏ xảy đến để ngăn chặn sự thiệt hại lớn lao hơn có thể xảy ra.

Cụ Tài coi bộ bình thường ở tuổi mùa thu cuộc đời; không ngờ thông triệt nhiều vấn đề khiến chính ngay những người tuổi trẻ phải ngạc nhiên. Xưa nay, họ tôn trọng cụ vì tuổi tác, lại là bác của Hưng. Qua mấy lần được cụ giải thích về đạo học, tâm trí họ chuyển từ ngỡ ngàng này qua ngỡ ngàng khác, thách đố tâm tưởng họ tỉnh thức nhận định thay vì sống hùa theo thói quen người ta sao mình vậy. Cụ không phê phán, nhưng nói lên thực thể sự việc xưa nay ít ai để ý phân tích hầu có lối nhìn chân chính hay am hiểu thâm sâu hơn về thực tại cuộc sống, hoặc những phát biểu nơi ngôn từ thường dùng hằng ngày. Thấy mọi người im lặng khá lâu, cụ lên tiếng,

- Anh Hưng, nhà Phật nói gì về năng lực nội tại nơi con người?

- Thưa bác, điểm tận cùng của Phật học chỉ là kiến tính vì Tâm Phật, Tâm Chân Như, Tính Phật hiện hữu ngay nơi mình. Tất cả những ước muốn, ước mơ đều là dục, đều là vọng tưởng. Không có chúng sinh cho Như Lai độ thì càng cầu chỉ càng tạo chúng sinh phương chi nói đến cầu nguyện, cầu xin. À, thưa bác, suy như thế thì năng lực hay động lực của cầu nguyện, cầu xin chính là năng lực của vọng tưởng, năng lực của dục vọng, và như vậy, có thể nói năng lực của cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ Tính Phật, Tâm Chân Như, hay Tâm Phật. Nói cách khác, năng lực này chính là quyền lực tối thượng nơi vũ trụ, nơi mỗi người.

- Ai trong anh em chịu trách nhiệm về Ấn học?

- Thưa bác nhà cháu ạ. Tình lên tiếng. Cháu còn đang ngúc ngắc phỏng có sự liên hệ nào giữa quan niệm và nghi thức thờ phượng, cúng bái phát xuất từ đạo học liên hệ đến thực hành nơi Ấn giáo và Thiên Chúa giáo nên cứ bị rối tung lên. Dẫu theo Công giáo nhưng cháu thấy quan niệm Thượng Đế của Ấn giáo và quan niệm Thiên Chúa nơi Thiên Chúa giáo, đặc biệt Công giáo hình như rất giống nhau nơi điểm Thượng Đế hữu ngã và Thiên Chúa hữu thể. Đồng thời cháu cũng thấy có điểm khác biệt, nhiều khi đến độ phi lý, về quan niệm cứu độ, cứu rỗi, nghĩ mãi vẫn chưa giải quyết được gì. Riêng về quyền lực nơi sự cầu nguyện, Ấn học quan niệm Thượng Đế là Brahma, và thành phần Thượng Đế hiện hữu nơi mỗi người là Atman. Như vậy, khi mình cầu nguyện, cầu xin, mình sử dụng quyền lực của Atman, quyền lực của Thượng Đế Brahma, quyền lực nội tại nơi mỗi người. Thực ra, chưa bao giờ cháu nghĩ đến thực thể quyền lực này nên không thể nói thêm gì; bởi phải trả lời nên nói đại, chẳng biết đúng hay sai.

- Ai có thể nói về năng lực cầu nguyện nơi Lão học?

- Mời cụ thủ từ đền thánh casino.

- Tào như nước thì có gì để mà nói, Phủ lên tiếng. Cháu xin lỗi bác và mọi người bởi bất chợt hiểu ra khía cạnh khác của điều mình vừa nói; có lẽ đây được gọi là ngộ chăng. Đã ít lâu nay cháu kiếm sách viết về Lão học ngày đêm “ngâm cứu.” Khổ nỗi, ngày thì con cái phiền hà; đêm mẹ chúng quấy phá thành ra cháu chỉ mới đọc sơ sơ mấy cuốn. Tuy nhiên, cháu thấy những lời giải thích của các tác giả viết về Lão học hình như quá thiên về hữu vi thành ra cảm thấy lười nên lần lữa đến nỗi biến thành ngâm cứu. Cháu không dám phê bình hay nhận định về những trước tác của các bậc tiền nhân, nhưng cứ cảm thấy những điều giải thích của họ nuốt không trôi thành ra chẳng khác gì con gà mắc dây thung. Ai đời nào mà câu “Tào như nước,” họ giải thích rằng làm người nên biết khiêm nhượng. Họ lại dịch Tào thành Đạo, và Đạo thành đường, và nêu lên nhận định cho rằng Lão học nói về những mánh lới khôn ngoan nơi thuật xử thế; để rồi thay vì nói về chiêm nghiệm, nghiệm chứng, họ trình bày về khiêm ái, khiêm nhường, không ganh đua, trở nên thụ động. Cháu ngẫm nghĩ, như thế suốt đời chỉ đi xách dép cho thiên hạ thì sao mà sống; trong khi ở nhà vợ cứ nhì nhằng chồng người ta thế này, chồng người ta thế kia; thế có tức không chứ. Có những tác giả nêu lên đặc tính của nước thế nọ, thế kia và cho rằng con người cần bắt chước theo như thế; nào là nước chảy xuống chỗ trũng, chẳng ganh đua với bất cứ ai nhưng chấp nhận làm trâu chậm uống nước đục; nào nước “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” nên con người cần biết “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.” Ngược lại như cháu vừa xin lỗi, cháu chợt nghĩ đến câu nói mang ý nghĩa khác. Tào như nước có nghĩa Tào hay Thượng Đế hiện diện mọi nơi, mọi chỗ vì nước mang đặc tính này bởi có thể nói nước là căn bản sự sống, không khí cũng chứa nước, đá lạnh ứa nước, đốt củi cũng ứa nước; như vậy câu Tào như nước thường đã bị hiểu sai nên cũng thường dẫn đến nhận thức không chín chắn. Nếu hiểu câu Tào như nước mang nghĩa Thượng Đế ở khắp mọi nơi, Thượng Đế chính là quyền lực hiện hữu nơi mình thì năng lực cầu nguyện, cầu xin tất nhiên là sử dụng năng lực tối thượng hiện diện nơi mình.

- Ai sẽ nói về Kinh Thánh?

Câu hỏi vừa được xướng lên khiến mấy anh em theo đạo Công giáo ngớ cả người. Kinh Thánh là Kinh Thánh, đâu mắc mớ gì tới Lão học, Ấn học, Phật học, sao cụ Tài lại vơ đũa cả nắm như thế này. Đi nhà thờ, nhà thánh, các cha thường giảng rằng chỉ có một đường độc nhất để lên thiên đàng là theo đạo Công giáo, tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu. Có những cha còn mạnh bạo hơn công bố rõ ràng, ai không chịu phép rửa tội sẽ không được lên thiên đàng. Lên thiên đàng có nghĩa linh hồn được cứu rỗi sau khi thân xác chết. Giáo lý Công giáo ngày xưa đã dạy, sau khi chết, linh hồn sẽ phải đến trước tòa phán xét, kẻ lành lên thiên đàng, kẻ dữ sa hỏa ngục, và những ai còn vướng mắc những tội mọn thì bị giam cầm nơi luyện ngục để được thanh tẩy; cớ gì cụ Tài hỏi về Kinh Thánh. Thế là lòng ruột mấy người theo đạo Công giáo giao động như ngồi phải lửa. Tuy nhiên, thái độ cụ Tài vẫn điềm nhiên chờ đợi, trong khi nhẹ nhàng nâng ly rượu chiêu một ngụm không có vẻ gì thách đố lại toát ra vẻ thông cảm. Cụ vẫn thế, rất thông cảm với mọi người dẫu đôi khi có người phát biểu ý kiến ngang như cua hoặc khá chói tai, nhưng coi chừng lại được cổ võ. Lúc mới phát biểu, chính người nói mang chủ đích diễu chơi với ý định khuấy động bầu không khí tẻ nhạt, chẳng ngờ lại được cụ giải thích, khuyến khích tâm hồn mở rộng để nghiệm chứng, nhận thức sự thể qua bất cứ khía cạnh nào.


Các tướng theo đạo Công giáo lòng ruột xốn xang, muốn nói nhưng nói gì bây giờ. Nhà Phật thì chỉ cần kiến tính. Dĩ nhiên, Tâm Phật đã ở nơi mình thì cầu nguyện tức là sử dụng năng lực Tâm Phật nơi mình mới có lý dù cầu nguyện cũng chỉ là bày tỏ ước vọng thế tục. Lão học tiến tới trạng thái huyền đồng; Tào như nước hiện diện ngay nơi mình nên cho rằng sử dụng năng lực của Tào không thể sai quấy. Ấn học, chẳng mình, chẳng người, tất cả đều là hoạt động, hành động của Brahma, của Thượng Đế. Ý nghĩ, ước muốn nơi mình, cũng là hoạt động của Thượng Đế nội tại; dẫu cho rằng ước muốn, ý định đều là vọng tưởng, nên chỉ cần định hướng sao khỏi dính vòng thế tục là có thể chấp nhận được. Theo đạo Công giáo chỉ nghe các cha lặp đi lặp lại phải ăn năn thống hối để được Chúa Giêsu chuộc tội cứu rỗi khỏi lửa hỏa ngục. Chúa Giêsu xuống thế làm người chuộc tội cho thiên hạ thì mắc mớ gì tới cái gọi là năng lực cầu nguyện dẫu các cha luôn luôn khuyến khích cầu nguyện. Ừ, cầu thì cầu, nguyện thì nguyện nhưng Chúa cho hay không đâu tùy thuộc ý thích của Ngài chứ đâu theo ý thích của mình. Phải sống tốt lành Chúa mới nghe lời cầu xin; sao mấy tay ma giáo giầu có vương giả lại quyền hành, chức vị đè đầu đè cổ thiên hạ. Hơn nữa, đã có Chúa Giêsu chuộc tội cho mình thì coi chừng cầu nguyện chỉ bằng thừa. Các cha giảng ơn cứu độ là ơn nhưng không, đâu phải cứ cầu mà được. Chẳng lẽ không cầu nguyện Chúa không ban ơn cứu độ. Nhà Phật cho rằng vọng tưởng, ước mơ tạo chúng sinh. Ah! Sỹ nhà con bí quá chộp vội ý nghĩ này lên tiếng,

- Thưa bác, nếu nói rằng cầu nguyện, cầu xin là bày tỏ ước muốn, vọng tưởng thế tục thì đây là việc làm của Satan như bác đã giải thích câu Phúc Âm đức Giêsu mắng thánh Phêrô, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc. 8:33).

- Như vậy anh muốn nói cầu nguyện là sử dụng năng lực của Satan?

- Thưa bác, nói như vậy cũng không đúng nhưng cháu không biết phải nghĩ thế nào mới đúng. Tình thêm vô.

- Vậy những ý nghĩ, ý định tốt lành của con người cũng là Satan cả sao? Chị Tình chợt lên tiếng!

 

Cả đời theo đạo được dạy dỗ phải làm việc lành phúc đức, yêu thương người khác như chính mình. Nào giữ mười điều răn, nào thực thi tám mối phúc thật, nào giữ chay, kiêng thịt, đi lễ, đi nhà thờ theo luật buộc thế mà bị câu hỏi ngắn gọn của cụ Tài phá cho bay tùng khiến chị Tình chịu không nổi nên buột miệng nêu câu hỏi. Ngày xưa còn nhỏ học giáo lý được giải thích rằng Satan là quỷ vương, dẫn đầu mọi sự tội lỗi. Satan xúi giục con người phạm tội; đến bây giờ bỗng thấy câu hỏi gán ép Satan lại là ngay ý nghĩ nơi mình quả thật chẳng hiểu phải lý luận thế nào trong khi nơi Phúc Âm, chính Chúa Giêsu gọi thánh Phêrô là Satan. Chị Tình thực sự cảm thấy lòng ruột mình giao động.

- Chúng ta nên có thái độ bàng quang nhận định thay vì hùa theo bất cứ quan niệm nào để nhận xét quan niệm hay quan điểm của người khác. Cụ Tài giơ tay ra dấu mọi người nên bình tĩnh bởi nghe giọng nói của chị Tình hơi có vẻ gắt gay, khó chịu hình như bị đụng chạm. Chúng ta nêu lên vấn đề để nhận định, tìm hiểu chứ tuyệt đối không cho rằng phải như thế nào. Mọi quan điểm, ý nghĩ, suy tư đều có giá trị ngang nhau; chúng không đúng, không sai, mà tất cả đều được nêu lên để mọi người tự nhận định. Tôi muốn nói nhận định chứ không xét xử. Có câu nói, nếu đóng cửa để tránh không cho sai lầm lọt vô thì chân lý cũng bị loại ở ngoài. Nơi trường hợp anh Sỹ nêu lên câu Phúc Âm, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc. 8:33), rõ ràng định nghĩa Satan là ý nghĩ của loài người. Dĩ nhiên, ý nghĩ của loài người được gọi là vọng tưởng, dục, như nơi Phật học xác quyết. Tôi có thể đưa lên minh chứng. Người ta thường quan niệm đức Thích Ca bỏ ngai vàng, lầu son gác tía, vợ con, quyền lực của một vị hoàng tử để tu chứng cứu độ chúng sinh. Tôi muốn nhấn mạnh, mọi Phật tử đều quan niệm như thế và các nhà rao giảng Phật giáo đều dùng lý thuyết này để kêu gọi tín đồ tin tưởng và theo gương đức Thích Ca nơi hành trình nghiệm chứng thức ngộ. Tuy nhiên, đức Thích Ca lại rõ ràng công bố như nơi kinh Kim Cang có câu nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; tr.241). Một đàng nơi kinh Kim Cang cho rằng không có chúng sinh cho Như Lai độ nghĩa là Như Lai đã độ chúng sinh; ngũ tổ Hoàng Nhẫn cũng nghiêm nhặt khuyến cáo, giác ngộ không thể học được mà phải tự mình nghiệm chứng; đàng khác, các tín đồ, Phật tử đều quan niệm Như Lai tức là đức Thích Ca vì thương xót con người trong vòng luẩn quẩn luân hồi nên tu chứng cứu độ chúng sinh. Thực tế là như thế; chúng ta cần bĩnh tĩnh và chân thành đối diện thực thể sự việc để nhận định, chẳng nên để tâm hồn giao động vì bất cứ lý thuyết, quan niệm nào dẫu thuận chiều hoặc trái ngược với quan niệm, hiểu biết của mình.

- Riêng với các anh em Công giáo, tôi không muốn phân biệt thành phần tôn giáo nơi đây mà chỉ muốn nhắc nhở; đó là chúng ta đang trên hành trình nghiệm chứng đạo học chứ không xét, không đặt vấn đề về chủ thuyết hay lý thuyết tôn giáo. Lý thuyết của các tôn giáo thế nào, chúng ta không đụng tới vì đó là quan niệm riêng của tín hữu. Dẫu rằng gốc gác của tất cả các tôn giáo đều phát xuất từ đạo học, trong khi đạo học là kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ tùy nơi, tùy thời. Tuy nhiên thực tế minh chứng, sự thực hành tôn giáo nhiều khi đối nghịch với đạo học do bởi sự khác biệt giữa lý thuyết, chủ thuyết của tôn giáo đối với đạo học. Lý do rất dễ hiểu đó là chủ thuyết tôn giáo căn bản dựa trên quan điểm nhân sinh trong khi đạo học chỉ một phần nào bày tỏ thành quả nghiệm chứng; mà nghiệm chứng thì ai chứng người nấy biết. Lý thuyết tôn giáo chính là sự giải thích kiến tạo nghi thức thực hành niềm tin. Tôi có thể nêu lên thí dụ, ngồi trước một bữa tiệc thịnh soạn, sự giải thích về các món ăn ngon ngọt, bổ dưỡng như thế nào đối với thực khách đó là lý thuyết. Muốn thực sự cảm nhận các món ăn ra sao, thực khách phải ăn, được gọi là nghiệm chứng. Tất nhiên, hành động ăn uống rất khác biệt với sự giải thích về các món ăn. Có nghe giải thích về bữa tiệc đến đâu chăng nữa, thì thực khách đói vẫn hoàn đói, không thể no được. Như vậy, nghiệm chứng là hành động ăn uống và sự giải thích chỉ là lý thuyết. Quan niệm nơi tôn giáo là lý thuyết nhưng đạo học mới là nghiệm chứng. Nghiệm chứng bao gồm suy nghĩ đặt vấn đề và phân tích, nhận định tùy theo kinh nghiệm cá nhân. Sự thể này chính là câu nói của nhà Phật, “Nước nóng lạnh, người uống tự biết;” bởi đó ngũ tổ Hoàng Nhẫn mới có câu nói, “Giác ngộ không thể học được,” và lục tổ Huệ Năng chỉ nói lên kiến tính chứ không đặt thêm vấn đề nào.

- Nếu tôi không lầm, ngày xưa các tín hữu Công giáo bị cấm không được đọc Kinh Thánh. Tôi không tìm hiểu tại sao, chỉ nêu lên một đôi giả thuyết. Có thể rằng các bậc rao giảng về đạo Công giáo thời xưa cho rằng những người tin theo quá ngu muội không đáng được đọc hoặc e ngại tín đồ đọc và nêu lên những câu hỏi các vị ấy không thể trả lời được hay e sợ tín hữu hiểu sai lầm những gì được viết nơi Kinh Thánh chăng. Điều này cũng giống như trường hợp anh Sỹ mới nêu lên câu Phúc Âm Phêrô bị gọi là Satan vì có ý nghĩ của loài người trong khi lý thuyết Công giáo mặc nhiên chấp nhận và dạy dỗ các tín đồ rằng Satan là thiên thần Lucifer kiêu ngạo muốn lên bằng Đức Chúa Trời nên bị phạt thành chúa quỷ. Tôi không theo đạo Công giáo nên không biết nói về quan niệm Satan có đúng với quan niệm của mấy anh em theo Công giáo đã được dạy dỗ chăng!

- Thưa bác, trúng chóc. Đúng như giáo lý dạy. Nhưng, Sỹ lên tiếng, khi nói đến tiếng “nhưng” lại im tịt.

- Nhưng sao?

- Thưa bác, nhưng sao Phúc Âm lại cho rằng sở dĩ thánh Phêrô bị gọi là Satan bởi ông ta suy nghĩ theo ý tưởng loài người. Như vậy câu này cho rằng Satan là ý nghĩ của loài người.

- Chị Tình, chị thấy thế nào? Cụ Tài hỏi đích danh.

Được hỏi, chị Tình cảm thấy niềm hãnh diện dâng lên. Xưa nay, dẫu Tình chưa bao giờ có bất cứ lời nói nào tỏ vẻ khinh chê hay coi thường chị trong bất cứ trường hợp nào, nhưng chị vẫn mang mặc cảm nào đó về thân phận nữ giới. Chị cảm phục Tình vì hắn thâm trầm, ít nói nhưng đã nói, hắn khá cân nhắc. Có điều, hắn rất tôn trọng chị; dẫu nơi thời buổi ban đầu mới cưới nhau hắn chỉ bảo cho chị nhiều chuyện về đặc tính đất lề quê thói nơi gia đình để chị tuỳ nghi đối xử. Đôi khi có những chuyện bất thường xảy đến trong gia đình, hoặc hắn có thái độ hay việc gì quá đáng, chị lên tiếng phản đối, hoặc có lời nói hay bày tỏ thái độ không chấp nhận; hắn kiên nhẫn giải thích. Dĩ nhiên, lắm lúc bực quá và với cá tính của người miền Nam, thẳng thắn, dễ dãi, chị có đôi lời quá trớn; hắn bắt bẻ ngược lại, chị chân thành nhận lỗi đồng thời chấp nhận bỏ qua mọi việc cho êm cửa êm nhà. Tất nhiên, có được sự thẳng thắn, cảm thông giữa vợ chồng trong gia đình, tâm tư chị rất thoải mái. Đàng khác, phương diện tiền bạc chi tiêu nơi cuộc sống tương đối chẳng đến nỗi nào nên chị cảm thấy an vui với hoàn cảnh hiện tại, yêu thương chồng con, và chăm sóc cho gia đình.

 
Cho dù giữa những bạn bè quen biết, thân thiện xưa nay, nhưng ngoại trừ thăm hỏi, nói chuyện mưa nắng, công việc làm ăn phôi pha tháng ngày, hoặc đôi khi nói chuyện diễu với những người đồng lứa nữ giới, hay bàn luận với chồng về toan tính cho cuộc sống, chị chưa bao giờ tham gia ý kiến, suy luận những vấn đề hóc búa trừu tượng. Dẫu đã mấy lần ngồi nghe nhóm đàn ông tranh luận, bàn cãi, đôi khi thấy những lời phát biểu của mấy tay bạo mồm bạo miệng oang oang khi rượu bia sừng sừng, chị đã có những ý nghĩ cho rằng có những lời nói quá đáng chẳng nên được nhắc tới, lại đôi khi cảm thấy ngạc nhiên vì lời nói trái tai được cụ Tài khuyến khích đào sâu suy nghiệm khiến chị bối rối tự hỏi phải suy luận tìm hiểu theo phương pháp nào cho hợp lý, hợp tình. Nay bỗng dưng được cụ Tài hỏi ý kiến về câu nói quá ư nghịch thường đối với quan niệm bình thường tốt lành đã bao lâu theo đuổi thực hiện trong cuộc đời, chị cảm thấy hào hứng cất tiếng,

- Thưa bác và quý anh quý chị, nhà em thấy rằng câu Phúc Âm hình như mang ý nghĩa thâm sâu nào đó, chứ nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen có lẽ hơi quá. Nói chung, cho rằng Satan là ý nghĩ loài người vậy những ước mơ, ý nghĩ tốt lành đã bao nhiêu năm chúng ta theo đuổi, thực hiện đều là Satan thì nhà em cảm thấy không ổn. Chẳng lẽ cả đời một người không bao giờ có được việc tốt lành thánh thiện nào sao? Vậy những công sức đóng góp, phục vụ cho cộng đồng, hay cho những người khốn khó đáng thương cũng là Satan cả sao. Có đôi lần nhà em vô tình đọc được đâu đó, hình như nơi Thánh Vịnh, câu nói, “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai trong bụng mẹ” (Tv. 51:7). Nếu nhà em không lầm thì hình như ngày xưa có lần em nghe thấy có cụ già nói vợ chồng ban đêm ăn ngủ với nhau, sáng đi lễ không được rước lễ; vì ngày xưa chuyện vợ chồng được coi là sự tội. Nhà em thấy lùng bùng thế nào ấy. Nay vô tình giữa những người quen biết, nhà em chợt nghe thấy câu Phúc Âm vơ đũa cả nắm giống như quan niệm Thệ Phản, cho rằng bất cứ những gì con người dù thực hiện hay ý nghĩ cũng đều là tội lỗi. Lý luận thì không biết cách nào để lý luận; suy nghĩ cũng không kiếm được đầu mối hay liên hệ nhận thức. Nhà em chỉ cảm thấy khó thể chấp nhận bởi nếu chấp nhận như thế sẽ trở thành con người sống không mục đích, nếu không muốn nói là quan niệm khuyến khích buông thả, sống cho qua vì lối nào cũng đã bị lên án. Như vậy, mục đích cuộc sống con người là gì vì lối nào cũng sẽ bị trừng phạt dẫu ước muốn hay thực hiện những điều được cho rằng tốt lành, thánh thiện. Chị Tình nói một hơi, giọng thánh thót, thoải mái, nhẹ nhàng rặt cung điệu miền Nam nghe líu lo, êm tai. Với giọng điệu này, nếu chị được huấn luyện đặc biệt dành cho việc tuyên truyền chắc có lẽ lắm kẻ tin theo.

- Có ai thêm ý kiến gì nữa không về câu Phúc Âm? Cụ Tài thầm nghĩ nếu giải thích ngay, mấy tướng bán trời không văn tự này thiếu cơ hội suy tư đào sâu nơi nội tâm nên lên tiếng hỏi. Cụ chợt nghĩ, mấy lần trước chỉ vì sớm giải thích tránh mất thời giờ thành ra mấy anh em này không kịp suy tư nhận định nên những điểm nhỏ nhặt nhưng lại là căn bản suy tư đã như gió thoảng ngoài tai, không ai để ý.

Các tướng coi bộ thong dong, im lặng, kẻ uống bia, người mở chai mới, chừng như muốn có hành động nào đó che lấp nỗi khắc khoải trong lòng. Nhà Phật cho rằng mọi ý nghĩ, ước muốn, ước mơ đều là vọng tưởng, là dục, chỉ đem lại khổ ải cho con người; nên muốn có cuộc đời an bình thảnh thơi cần phải diệt dục sao không ai phản đối. Nay câu Phúc Âm cũng cùng một ý nghĩa như thế, chỉ khác lối trình bày thì người nghe cảm thấy giống như ngồi trên ổ kiến lửa, bị chúng bu vô cắn cho khiến ngứa ngáy khó chịu. Nhất là mấy tướng theo đạo Công giáo, bao nhiêu công lao đi lễ, đi nhà thờ, được khuyến khích làm việc lành phúc đức, giữ chay, hãm mình, sống đàng hoàng, không lẹo tẹo vợ nọ con kia, không đá lông nheo chị em hàng xóm, nhất mực chăm lo cho gia đình, và sống đời mẫu mực, hòa hợp với mọi người, nay bị câu Phúc Âm đá cho tơi tả; bao công đức bỗng nhiên đã bị phê chuẩn là Satan, tội lỗi từ hai ngàn năm trước, thế mới cay!

- Thưa bác, cháu đồng ý với chị Tình, Sỹ lên tiếng. Hình như có vấn đề trục trặc nơi câu Phúc Âm. Bởi nếu tất cả ý nghĩ, ước mơ của loài người là Satan thì quả thật câu Phúc Âm này khuyến khích con người ăn hoang phá hoại, sống buông thả do lối nào cũng sẽ bị trừng phạt muôn kiếp. Xét như thế, nhà con thấy tiếc nuối quãng đời đã qua vì đã bỏ lỡ mất quá nhiều cơ hội an hưởng vui thú trần gian.

 
Giọng nói của Sỹ mang phần nào xót xa như thương tiếc cảnh lỡ làng, vô tình để chuyến tàu hạnh phúc trôi vào quên lãng; khiến mặt mũi ai nấy trở nên tươi rói, mỉm cười do lòng dạ vui vui cảm thông giọng điệu diễu cợt của Sỹ với chủ đích thay đổi bầu không khí nặng nề suy tư. Đây đó nổi lên tiếng xì xào bàn ra tán vô của mấy tướng hưởng ứng tâm tình tiếc nuối giả tạo của Sỹ. Bỗng Bá cất tiếng ca,

- Ôi ngày xưa ấy đã qua, tôi nhìn thơ ấu ra đi. . .

Cả bọn cùng phì cười. Có người lớn giọng ngâm, “Tiếc thương cũng đã lỡ rồi, nhìn mái đầu bạc nhớ người ngày thơ! Xuân nao ai đợi ai chờ, thời gian hờ hững nào ngờ vội qua.”

Cụ Tài cười nhẹ cảm thông sáng kiến gỡ thế bí của mấy tướng. Đang suy tư về tâm linh, bẻ quặt bẻ quẹo qua tâm tình nhân sinh giải thoát nỗi nặng nề suy tưởng. Tay trái nâng ly rượu hớp nhẹ, cụ giơ tay phải ra hiệu im lặng, đoạn nói,

- Vậy những tiếc nuối đã vô tình bỏ lỡ thời đã qua là ý nghĩ, ước mơ tốt lành hay lầm lỗi, Satan?

- Thưa bác, Sỹ vội phát biểu, chuyện đã không xảy ra trong quá khứ nên được gọi lỡ làng. Sự tiếc nuối chỉ là gợi nhớ cho tâm tình thêm hương vị. Nó đã không xảy ra thì sao có thể đặt vấn đề tốt lành hay lầm lỗi. Nhưng cháu quên, vẫn còn sự tiếc nuối vì đã không thực hiện.

 
- Tôi muốn lặp lại câu hỏi, năng lực cầu nguyện phát xuất từ đâu. Nói cách khác, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng mang quyền lực nào. Chúng ta đã vô tình chuyển đề tài thành suy tư nhận định về câu Phúc Âm đồng thời để tâm tưởng bị ám ảnh bởi quan niệm về Satan quấy rầy và trở thành kẻ bào chữa, đánh giá theo quan niệm thế tục về ý định, ước vọng nhân sinh. Chúng ta chỉ đặt vấn đề liên hệ về Satan và ý nghĩ loài người mà bỏ quên phần tiếp theo của câu nói, “Không phải là của Thiên Chúa.” Bởi vì nơi đầu óc chúng ta đã bị in sâu định nghĩa Satan là quỷ vương, là gốc gác mọi sự đối nghịch với những gì được gọi là thánh thiện tốt lành; nên chúng ta đã trở thành nô lệ cho sự ám ảnh này. Anh em đã bao giờ nghe và suy nghĩ về câu nói ngược ngạo, cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương chưa, hoặc đã bao giờ anh em nghe hay đọc được câu nói Thượng Đế và quỷ vương là một chưa? Anh em có nhớ câu nói của Pascal, “Con người không phải là thánh, cũng chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, những kẻ muốn làm thánh lại biến mình thành thú”? Câu nói nơi Phúc Âm mang ý nghĩa giống y như nơi quan niệm Phật học; sao anh em chấp nhận được quan niệm về vọng tưởng nơi nhà Phật, trong khi lại cảm thấy bối rối khi đối diện với định nghĩa Satan là ý nghĩ loài người để rồi quên mục đích suy tư về năng lực của cầu nguyện, cầu xin.

- Thực thể sự vật, sự việc là chính nó dẫu mình quan niệm hoặc cho rằng chúng thế nào. Đã chắc gì những điều mình cho là đúng lúc này hoặc đang mơ ước, luôn luôn hợp với mình những ngày tháng kế tiếp. Thế sao điều mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay đã và đang dày vò tâm tưởng mỗi người. Những loại thuốc trị bịnh năm mươi năm hoặc một trăm năm trước, phỏng ai dám sử dụng vào thời buổi này; bởi đã được khám phá ra rằng chúng là những chất độc nguy hại. Bao nhiêu năm thời quá khứ chúng ta sử dụng hàn the trong thực phẩm nhưng bây giờ có ai dám đụng đến chúng nữa không, ngoại trừ những người thiếu hiểu biết. Nếu chúng ta vẫn cố tình để cho ý thích riêng, cảm tình, hoặc quan niệm một chiều ảnh hưởng nhận thức, nhận định, chúng ta sẽ rơi vào ngã chấp. Cho rằng ý nghĩ loài người là sáng kiến, là gốc gác của sự phát triển, thay đổi, hoặc tốt lành vẫn chỉ là quan niệm một chiều thiếu nhận thức toàn diện; bởi đã có biết bao ý nghĩ, mơ ước chẳng ra gì lại có thể nói là nguy hại cho con người. Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để nhận thức sự vật và sự việc như chính nó, không hơn, không kém. Thực tế ngay trước mắt đang nói lên sự thể này; thí dụ, anh em nào ăn ớt được thì thấy rằng ớt quý giá, tốt lành, nhưng đối với những người không ăn được ớt thì sao?

- Thưa bác, vậy những ý nghĩ, mơ ước tốt lành cho người khác thì sao?

- Cũng chỉ là ý nghĩ loài người! Tôi đưa thêm một thí dụ điển hình. Cụ Tài gắp một miếng rượu mận bỏ vô miệng vừa nhai vừa nói; miếng rượu mận này ngon, tốt lành nếu tôi nuốt xuống. Tuy nhiên, nếu bây giờ thay vì nuốt xuống, tôi nhả vô một chiếc đĩa sạch, chẳng những chính tôi mà cả mọi người không ai dám bỏ nó trở vô miệng bởi cảm thấy nhơ bẩn. Cũng cùng một miếng ăn, nuốt xuống thì tốt lành, nhổ vô chiếc đĩa sao lại bị coi là nhơ bẩn đối với chính mình!

- Thưa bác, tại vì mình cho rằng nó nhơ bẩn, cháu xin lỗi, à à, nó là ý nghĩ loài người, không phải thực thể sự vật.

- Tôi trở lại câu hỏi nguyên thủy, năng lực cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ đâu. Chúng ta đã chiều theo nhận định của ý thích, quan niệm và đặt vấn đề đúng, sai, phải, trái, nhĩ, ngã để rồi luẩn quẩn định giá tốt xấu của ý nghĩ, ước mơ. Ước muốn, vọng tưởng thực ra chẳng đúng, chẳng sai, không phải, không trái, không tốt lành cũng chẳng tội lỗi. Đúng, sai, phải, trái tùy thuộc ý định có hòa hợp với thực tại và tâm ý hay không. Tâm ý tốt nhưng sự thực hiện không phù hợp với hoàn cảnh, coi chừng chỉ mang lại hậu quả khó thể chấp nhận. Anh em thừa biết, năng nổ, chân thành nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại. Nhân gian có câu, “Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon.” Đâu phải phi lý mà câu nói, “Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay,” đã trãi qua bao thời gian vẫn đứng vững nơi tâm trí con người. Anh em có nhớ câu, “Con mắt là cửa sổ của linh hồn không”? Chúng ta dẫu biết câu này nhưng vì vô tình không để ý suy nghiệm nên coi thường câu nói nơi Phúc Âm, “Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh" (Lc. 11:34-36). Tâm ý quyết định một nửa tính chất sự việc và nửa kia lệ thuộc diễn tiến thực tại sự thể. Ai cũng biết lời khuyên; nếu bị rắn cắn ở chân thì việc cấp thời nên lấy dây thắt chặt phía trên ngăn ngừa nọc độc theo máu chạy về tim. Thế nhưng, chẳng lẽ nếu bị rắn cắn ở đầu lại lấy dây thắt cổ. Tâm ý tốt lành nhưng không thể thực hiện mục đích bất chấp hành động.

- Xét về thực thể con người, chúng ta thường bị ảnh hưởng bởi những thói quen, sử dụng riết rồi nhập tâm và chẳng bao giờ suy nghiệm, đặt vấn đề. Thí dụ, chúng ta thường nghe nói, tai nghe, mắt thấy. Anh em có nhìn thấy tôi đang ngồi nhậu với anh em không? Anh em có nghe thấy tôi đang nói chuyện không? Cụ Tài nêu câu hỏi đoạn im lặng đợi trả lời.

Thế là mọi người ngớ ra! Dĩ nhiên, ai không nhìn thấy cụ Tài đang ngồi nói chuyện; thế sao cụ nêu câu hỏi ngớ ngẩn vậy! Như chim bị bắn sợ cành cây cong, đã mấy lần những câu hỏi rất thông thường khiến mọi người ngỡ ngàng bởi chưa suy nghĩ đã vội trả lời theo thói quen, ai nấy chợt trầm ngâm tự hỏi phỏng có mánh lới nào ẩn chứa nơi câu hỏi bình thường đến độ hiển nhiên chăng.

- Phật Sỹ, thức ngộ rồi thì trả lời coi hay vẫn còn đang ngủ ngộ chưa chịu thức, Bá chọc Sỹ.

- Vội gì, tớ còn đang phải nghiệm chứng xem có phải mắt mình nhìn hay mắt ai đang nhìn nơi mình; tai mình đang nghe hay tai ai đang nghe.

- Sao im lặng thế! Cụ Tài lên tiếng.

- Dạ chúng cháu còn đang ngâm cứu không hiểu có phù phép nào nơi câu hỏi quá ư hiển nhiên chăng. Phủ lãng đãng thưa.

- Anh em có mắt không?

- Thưa có, cháu có những hai cái mắt.

- Anh em có tai không?

- Thưa có một cặp.

Mắt anh em có nhìn thấy tôi đang ngồi đây không?

- Thưa có, rõ ràng bởi mắt thấy, tai nghe.

- Như vậy mắt anh em nhìn thấy tôi; tai anh em nghe tôi nói.

- Thưa bác, hình như có sự gì trục trặc nơi điểm này. Hưng lên tiếng.

- Anh Hưng giải thích được không?

- Thưa bác, nếu nói rằng mắt thấy, tai nghe, thế bao nhiêu người có những cặp mắt tốt, cặp tai thính; đùng một cái khi hồn ra khỏi xác, mắt họ không thấy được gì nữa; tai hết nghe. Thực thể như thế nói lên có cái gì đó nơi một người dùng mắt để nhìn, dùng tai để nghe. Thiền sư Bankei gọi là Tâm Bất Sinh.

- Ái da! Hành giả, hành thiệt, thế ra mình vẫn chỉ là thức giả. Sỹ lẩm bẩm, giọng diễu cợt.

- Biết mình vẫn còn “thức giả” tạm được coi như ngộ phần nào. Thực thể nơi mỗi người chúng ta minh chứng, mắt không thể nhìn tự nó, tai tự nó không thể nghe, miệng không thể tự nó nói, óc không thể suy nghĩ tự nó, mà tất cả ngũ quan, giác quan chỉ là phương tiện cho một thực thể nơi mỗi người. Thực thể này được gọi là Phật Tính, Tâm Phật, Tâm Bất Sinh, Tào, Atman, linh hồn, Thượng Đế nội tại. Muốn gọi là gì cũng được miễn sao chúng ta nhận thức được thực thể này. Tôi nghĩ, đến đây anh em nhận thực được ý nghĩa điều Phúc Âm gọi là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

- Thưa bác, nói như thế Phúc Âm cũng là một đạo học. Tình hỏi.

- Thế anh cho nó là gì.

- Giời, xưa nay cháu cứ nghe thấy nhắc đi nhắc lại là lời Chúa nên quên phéng đặt vấn đề.

- Như vậy ước muốn, ước mơ phát xuất từ thực thể nào đó nơi mỗi người. Xét thế, cầu nguyện, cầu xin là bày tỏ ước muốn, ý định nơi tâm hồn của người ước muốn. Những ước muốn này mang năng lực của quyền lực tối thượng đang ngự trị nơi mỗi người. Tuy nhiên, là con người, chúng ta quen thói suy nghĩ theo thế tục hầu giải quyết nhu cầu sinh sống thiết thực nên đã không để ý nhận thức nguồn gốc, năng lực của ước muốn, ước mơ, phát xuất từ đâu. Nhà Phật gọi chung những ước muốn, ước mơ, vọng tưởng, ý định là dục và thường bị hiểu là dục tình mang nghĩa xấu theo nhận thức nhân sinh. Phúc Âm gọi là ý nghĩ của loài người.

- Để tôi giải thích thêm may ra anh em hiểu rõ hơn, nơi Dịch học, con người được coi là tiểu vũ trụ. Muốn hiểu biết sự vận chuyển của vũ trụ, con người cần tìm hiểu nơi chính mình. Có anh em nào nhớ câu nói nào nơi Kinh Thánh đã nói gì về liên hệ giữa con người và Thiên Chúa không?


Quả là câu hỏi tắc họng! Xưa nay mọi người chỉ được nghe giảng thuyết về cứu chuộc, cứu độ, Thiên Chúa Ngôi Hai xuống thế làm người, chứ có bao giờ được nghe về liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Cùng lắm chỉ được nghe đến nhàm tai về lý thuyết Thiên Chúa quá yêu thương người thế đến độ sai con một của ngài xuống thế làm người chịu khổ hình vì tội lỗi nhân loại, rồi nào phải kính mến, kính sợ Thiên Chúa, chớ kêu tên đức Chúa Trời vô cớ dẫu chẳng biết tên ngài là gì, rồi nào giữ ngày chủ nhật, ăn năn đánh tội, ăn chay, kiêng thịt, chớ làm chứng dối, chớ lấy của người, chớ muốn vợ chồng người, yêu thương người ta bằng mình ta vậy, vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm; ngoại trừ câu Phúc Âm, Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta mới được cụ bới ra mấy bữa trước chứ làm gì có ai dám nói đến liên hệ bao giờ. Các cha có giảng thì cũng cứ lặp đi lặp lại phải ăn năn, phải thống hối, phải đi lễ, phải xưng tội vì mình là con người tội lỗi, sao dám nói đến dây dưa, móc nối, phương chi liên với nối. Cụ Tài coi bề ngoài mang vẻ lẩm cẩm sao bới ra lắm thứ nghịch thường như thế.

Mấy anh em theo Thiên Chúa giáo, kẻ thì Công giáo, người Thệ Phản, kẻ Tin Lành đưa mắt nhìn nhau. Cùng tin vào đức Giêsu, cùng tin vào Thiên Chúa, cùng đọc chung những bản dịch Kinh Thánh dẫu có đôi chút khác nhau, thế mà tâm trạng sững sờ khi bị hỏi về Kinh Thánh. May mà xưa nay nhờ có được chút vốn liếng tạm gọi là học thức nên tránh đụng chạm về quan điểm tôn giáo, tưởng như thế đã ổn thỏa nơi tình bạn hữu. Ai ngờ, nói rằng tin nhưng cứ như tin theo chứ chẳng thèm nghiệm tại sao. Có lần ai đó vô tình đặt vấn đề lý giải về Đức Mẹ đồng trinh, Sỹ nhà con lên tiếng, bà ấy đồng trinh hay không thì bà ấy biết. Muốn biết thì hỏi bà ấy, sao lại tin hay không tin. Sự thể đã như thế thì tin hay không cũng chẳng thay đổi được gì. Nói rằng tin bà ấy đồng trinh thì bà ấy đồng trinh và nói rằng bà ấy không đồng trinh thì bà ấy không đồng trinh hay sao. Vớ vẩn! Như vậy, nói rằng, tin rằng bà ấy thế nào thì bà ấy vẫn là bà ấy, chẳng gì thay đổi, không chi mới lạ, thế mà cứ rối lên. Vợ Sỹ cũng chen vô bảo, giáo hội dạy phải tin như vậy. Sỹ nhà con cãi lý, chứ nếu ai đó nói không tin bà là vợ tôi thì bà là vợ ai. Bộ người ta không tin bà là vợ tôi thì bà không phải vợ tôi sao? Nếu giáo hội dạy phải tin bà không phải là vợ tôi thì tôi càng mừng.

- Rõ cái ông quỷ này, vợ Sỹ xí xóa.

- Anh em thử nhớ lại đoạn đầu của sách Sáng Thế Ký về việc tạo dựng con người xem thế nào.

- Thưa bác, Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài.

- Nếu đem câu này so sánh với những lời rao giảng của đức Giêsu anh em thấy sao?

Im lặng, đành phải im lặng bởi không biết cách nào suy luận ráp nối!

- Đức Giêsu dạy con người gọi Thiên Chúa là gì? Tin theo đức Giêsu, tôi nghĩ anh em biết rõ điều này vì anh em thường tụng niệm hằng ngày.

- Ngài dạy gọi Thiên Chúa là cha; lạy Cha chúng con ở trên trời.

- Rồi sao nữa?

- Ngài rao giảng tin mừng, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

- Nếu tổng hợp ba câu lại chúng ta có thể nói, vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta nên chúng ta mang hình ảnh của Ngài. Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha chứng tỏ sự liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người rất mật thiết. Anh em thường nghe câu nói, cha nào con nấy; nói rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, hay Phật tại tâm cũng đồng một nghĩa, hoặc Đại Ngã hiện diện nơi mỗi người được gọi là Atman thì cũng thế. Nếu đem so với lời giải thích, Tào như nước, hiện diện mọi nơi mọi chốn thì nào có chi khác biệt. Sự khác biệt phải chăng chỉ ở ngôn từ; trong khi Trang học có câu nói, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời. Đàng khác, ngay chính nơi cùng một tổ chức, cùng một niềm tin nhưng quan niệm vẫn có thể khác biệt; đồng thời do thiếu nghiệm chứng, không chấp nhận mở rộng nhận thức đón nhận những quan điểm khác biệt, chúng ta càng tạo thêm phân cách nhận thức.

- Tôi thử đưa ra một thí dụ, anh Tình có năm cháu phải không. Nếu đưa cho mỗi đứa một tờ giấy và một cây viết, đoạn bảo chúng viết về bố của chúng, chắc chắn không đứa nào viết giống đứa nào mặc dầu có những nhận xét tương đương. Cũng thế, mọi người đang hiện diện nơi đây cũng đều có những nhận định khác nhau về một anh Tình. Như vậy, nơi phương diện nhận thức và nghiệm chứng đạo học, những con người khác biệt từ cơ thể, ngôn ngữ, thời đại cũng như hoàn cảnh, tất nhiên đều có những nghiệm chứng và quan điểm khác nhau về cùng một thực thể tối thượng, đồng thời danh xưng cũng được đặt khác nhau. Không nói đâu xa, đọc nơi sách vở chúng ta thấy rõ sự khác biệt này. Nơi Phật học, danh xưng của cội nguồn, nguyên thủy vạn vật được gọi là Chân Như; nơi Lão học được gọi là Tào; nơi Ấn, Brahma; nơi Thiên Chúa giáo gọi là Thiên Chúa. Bởi thế anh em cảm thấy bối rối với câu hỏi năng lực của cầu nguyện, cầu xin; có lẽ chính vì quá lệ thuộc nơi ngôn từ, danh xưng chăng.

- Xét như vậy, tạm bãi bỏ hàng rào ngôn từ, chúng ta đều nhận biết có một sự thể nào đó nơi mỗi người. Sự thể này điều hành toàn bộ con người; có thể nói, cuộc đời một người là phương tiện cho sự thể này hoạt động. Và phương diện hoạt động của thực thể này chính là ước muốn, ý định, ước mơ; bởi vậy chúng ta không lạ gì con người là nô lệ cho ước muốn, ước mơ ngay nơi mình. Thử xét thêm trường hợp, thay vì gọi Thực Thể Tối Thượng là Thiên Chúa, Chân Như, Tào, Thượng Đế, Brahma, chúng ta tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu, chúng ta sẽ nhận rõ được quyền lực hiện hữu tối thượng đang hiện diện nơi mọi người, mọi nơi mọi chốn, từ tư tưởng vô hình đến mọi vật, mọi sự hữu hình. Ước muốn, ước mơ phát sinh từ quyền lực này mà cầu nguyện chính là bày tỏ ước muốn ước mơ; tất nhiên, năng lực của ước mơ phát xuất từ quyền lực hiện hữu này. Như vậy, thật dễ cho chúng ta hiểu tại sao nhà Phật nói ước muốn hay dục tạo chúng sinh. Phúc Âm cũng nói đến trường hợp này nơi câu nói, “Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt. 5:27-28). Suy thế, xưa nay chúng ta đều mang thứ tội độc nhất mà Đạt Ma sư tổ gọi là tội vô minh, tội thiếu suy nghĩ, thiếu nghiệm chứng. Chúng ta chẳng khác gì đứa bé một hoặc hai tuổi, tay cầm "Credit card" hay tiền bạc nhưng chẳng biết chúng là gì, chẳng biết sử dụng ra sao đến nỗi chết vì khát sữa.

 
- Thưa bác, Sỹ nhà con lên tiếng, nhưng cầu hoài cầu hủy, cầu tới, cầu lui, cầu mãi không được thì đành bó tay chấp nhận chứ biết sao hơn.

- Nói như thế, anh Sỹ vẫn chưa biết cầu nguyện, cầu xin là gì. Và như vậy lại càng chưa nhận thức đúng đắn năng lực cầu nguyện phát xuất từ đâu. Anh em nên suy nghĩ điều này; đó là cầu nguyện, cầu xin, là sử dụng năng lực, quyền lực tối thượng nơi mình để thực hiện điều mình muốn nó xảy ra. Như vậy, nếu đã không biết, không nhận thực được quyền lực tối thượng đang hiện diện nơi mình thì sao có thể sử dụng. Bình thường chúng ta chỉ cho rằng cầu nguyện hay cầu xin là trình bày mơ ước, mong muốn của mình tới đấng tối cao và được ban cho hay không tùy ngài. Xét cho cùng, cũng bởi quan niệm như thế nên chúng ta đã chẳng tìm hiểu, suy nghiệm về thực thể chính mình. Chúng ta không biết mình là ai, thế nào, mà chỉ âm thầm chấp nhận đã bị sinh ra thì phải sống, trong khi lại sợ chết để rồi mang mặc cảm sống vô tích sự, đành tìm giá trị hiện hữu của mình qua giá trị thế tục hoặc danh vọng hão huyền. Thử hỏi, trãi qua bao chục năm sống nơi thế giới này chẳng lẽ khi xác thân qua đi thế là hết? Giá trị đời người nơi đâu khi vào đời tay trắng và ra đi trắng tay! Chẳng lẽ giá trị đời sống con người cũng giống như một cuộc đời con vật, tối ngày chỉ lo sao cho no bụng rồi chờ ngày chết. Thật ra, những ai quan niệm cuộc đời như thế, chẳng có gì đáng nói vì nói cũng như không. Anh em nên suy nghĩ lại về câu Phúc Âm, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) lần trước tôi đã giải thích. Tuy nhiên, bởi quá quen suy nghĩ theo chiều hướng thế tục, chúng ta không suy nghiệm thâm sâu về thực thể cầu nguyện. Nơi Kinh Thánh có câu, “Dừng lại! Hãy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (TV 46:11). Nơi tiếng Mỹ được dịch là “Be still, and know that I am God.” Nơi bản dịch khác ghi, “Desist! and confess that I am God.” Thiển nghĩ, câu này nên được dịch, hãy bình tâm và nghiệm chứng để nhận thực Ta là Thiên Chúa. Đây mới đúng nghĩa của cầu nguyện; tức là nâng lòng mình lên hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi chính mình, nơi tạo vật. Bất cứ ý nghĩ, tưởng tượng, ước vọng, ước muốn nào đều chỉ là ý nghĩ của loài người. Có lẽ anh em đã hiểu ý nghĩa tại sao đức Giêsu gọi Phêrô là Satan! Với ý nghĩa này, câu Kinh Thánh giúp chúng ta gợi nhớ lời lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật. Chỉ về trạng thái này, Lão học gọi là vô cầu, vô công, vô danh, trạng thái hòa nhập với Tào hay huyền đồng.

- Tôi nhắc lại, Yoga sử dụng và phát triển năng lực nội tại hầu thực hiện các pháp môn như Hatha Yoga để tu luyện xác thân, Kundalini Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ, Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén, Râja hay Kriyâ Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, Samadhi Yoga đưa đến giác ngộ tối cao (TTHB; tr.177). Mỗi pháp môn lại bao gồm nhiều giai đoạn, thứ bậc mà hành giả (yogi) cần được trãi qua, và nhiều khi các tác giả trước tác, bởi không thực hành lại phân chia thành các thành phần riêng biệt, khiến độc giả không thể nào có nhận định tổng quát đúng đắn. Đàng khác, có thể vì lối giải thích hoặc hoằng dương thiếu đúng đắn do lòng thành nhưng thiếu hiểu biết đến độ quá khích, trói buộc những tâm hồn sơ cơ hay mù quáng đã chẳng giúp ích quảng bá, mà nhiều khi gây phản ứng ngược, tạo cho người nghe tâm tình coi thường, phản cảm. Chẳng hạn nơi cuốn Đông Phương Huyền Bí tác giả viết, “Pháp môn Hatha Yoga chỉ được một số ít môn đồ hiểu rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông người phàm tục thì hiểu sai lầm. Đã có những người nằm suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa, và móng tay mọc dài đến năm mươi phân tây hay hơn. Người ta nói rằng những người này thực hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy mà trái lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người đời khâm phục và ngạc nhiên. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu trước mắt mọi người” (ĐPHB; Tr.63-64). Nơi Công giáo cũng thế, đã có lần tôi tham dự một nghi lễ trong đó vị linh mục đã phán rằng nếu ai không chịu phép rửa tội thì không được cứu rỗi, không được vào nước thiên đàng; điều này quả là quá quắt và mang tính cách kết án những người không theo đường hướng của mình và đồng thời gây phản ứng ngược nơi hàng thính giả bên ngoài đạo. Có điều, không hiểu vị linh mục ấy có để tâm nghiệm chứng tác phẩm Công Đồng Vatican đệ nhị hay không. Công Đồng này định nghĩa, giáo Hội bao gồm dân Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng thì ai ai cũng được gọi là dân Chúa; và như vậy, những người trước thời phép rửa tội được thiết lập thì sao!

- Thưa bác, đúng. Nhiều lần cháu nghe thấy như thế nên cứ phát rét lên nhưng không dám suy nghĩ gì vì chẳng có gì ảnh hưởng đến mình nên thôi. Tuy nhiên, cháu có câu hỏi, tại sao có lắm thứ, lắm cấp bậc nơi Yoga trong khi nhà Phật thì chỉ có pháp môn bất nhị.

- Pháp môn bất nhị, kiến tính thành Phật là quan điểm chính yếu của lục tổ Huệ Năng đâu phải quan niệm hoặc thực hành chung cho mọi Phật tử. Chúng ta có thể kiểm chứng nơi thực tại Phật giáo. Anh em nhớ cho, chúng ta đàm luận về đạo học chứ không nhận xét tôn giáo. Từ công việc đàm luận này chúng ta thăng tiến nơi phương diện nhận thức để kiếm tìm cho mình một đường hướng thăng tiến tâm linh đúng đắn phù hợp với chính mình mà thôi. Chúng ta cũng nên tránh phê phán quan điểm hoặc niềm tin của tín đồ các tôn giáo khác nhau. Có chăng, chúng ta nên mở rộng tâm hồn để nhận định, nghiệm chứng. Những gì cảm thấy đúng đắn và hợp với mình sau khi đã kỹ lưỡng suy tư và nghiệm lại nơi những trường hợp quá khứ đã xảy đến với mình đem lại nhận thức khôn ngoan áp dụng nơi thực tế cuộc sống thì mới nên chấp nhận. Có thể rằng hôm nay mình nhận được điều hay nhưng ngày mai đã thấy nó không hợp thì cũng không nên bo bo cố chấp tiếc nuối công lao suy tư mà cần nghiệm lại thâm sâu hơn nữa.

- Tôi nhắc lại, không có bất cứ một pháp môn nào hợp cho mọi người bởi không ai được sinh ra giống ai cũng như căn cơ mỗi người một khác. Thêm vào đó, mỗi người mang một hoàn cảnh sống cũng như bị ảnh hưởng liên hệ trong cuộc đời tạo thêm nhiều điều khác biệt. Mỗi người phải tự tìm cho mình một đường hướng và sự thực hành áp dụng riêng. Đây là nguyên nhân phát sinh nhiều tông phái cũng như pháp môn như những đường hướng tiêu dẫn cho những con người khác nhau. Dẫu thế, lý thuyết căn bản cho các pháp môn Yoga làm điểm tựa bắt nguồn từ sự liên hệ giữa con người và quyền lực tối thượng, nguồn sinh lực tuyệt đối đang hoạt động nơi vũ trụ. Mối dây liên hệ này chính là không khí. “Thể xác con người và nhứt là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm chế như những giống lừa. Sau đó, sự chủ trị thần kinh và cân não sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con. Tu theo pháp môn Hatha Yoga đem đến lợi ích cho sức khoẻ, ý chí, và sống lâu”(ĐPHB; Tr.56-57).

- Hatha Yoga có gần hai mươi phép tập gọi là tư thế (asama) để tăng cường những bộ phận và cơ quan trong thân thể và để chữa hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Một tư thế nào đó ảnh hưởng đến những bí huyệt trong bộ thần kinh hệ. Những bí huyệt này lại vang dội đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt động mạnh mẽ trở lại. Có bốn phương pháp để giữ cho thân thể được luôn khoẻ mạnh cường tráng. Trước hết là phép nghỉ ngơi để làm xoa dịu bộ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp có hiệu lực rất hay. Sau cùng là phép khí công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở (ĐPHB; Tr.65).

- Sau khi làm việc hay đi bộ, ngồi thiền đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để tập ngồi là trãi chiếu xuống đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và đừng co bắp thịt lại. Khi đã giữ được thế ngồi, hãy để cho tâm hồn yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghĩ ngợi gì đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy gom tư tưởng của mình vào một vật gì đẹp đẽ, mỹ lệ như một bức tranh đẹp hay một cái hoa (ĐPHB; Tr.66). Trong phép nghỉ ngơi không cần đến những gì khó khăn phiền phức. Những thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết quả rất tốt. Hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình. Buông xuôi các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức nặng của toàn thân đè lên sàn gạch. Người ta không thể tập kiểu này trên giường một cách đúng phép vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng. Hãy dùng một cái chăn trãi lên sàng gạch. Trong phép nằm nghỉ này, những mãnh lực hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp con người tu bổ sinh lực. Đó là thế nằm của xác chết. Tư thế này làm cho các thớ thịt khỏi bị căng thẳng và xoa dịu bộ thần kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não; sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga (ĐPHB; Tr.68). Những trung tâm bí yếu của thần kinh hệ ở rải rác nhiều chỗ trong thân thể. Mỗi tư thế Hatha đều có công dụng ảnh hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ khích động các bí huyệt đó, ta có thể ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể, cũng như đến sự hoạt động của trí não. Ngoài ra, người ta không thể dùng cách nào khác. (ĐPHB; Tr.71). Hành giả thực hành mỗi tư thế một cách chậm rãi, có ý thức và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Nằm ngửa, dựng đứng ngược chân thẳng lên,; dùng hai tay, hai vai và đầu đỡ lấy thân mình, tư thế này dồn máu xuống bộ óc do trong lượng của nó trong vài phút. Có hai sự ảnh hưởng khác biệt trong tư thế này: máu dồn xuống óc gây một ảnh hưởng xoa dịu đối với bộ óc và cân não và tăng cường bộ phận sinh dục (ĐPHB; Tr.73).

 
- Như vậy anh em thấy, bất cứ hành động, hoạt động nào cũng cần được ý thức, cần được sử dụng tâm ý như lần trước tôi đã nói, ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch. Đó là dùng năng lực của ý định điều hành khí huyết theo những phương thức để phát triển năng lực nội tại. Không những thế, kinh sách còn chỉ rõ cho chúng ta biết ước muốn, năng lực của ý định còn ảnh hưởng toàn bộ sự thăng tiến tâm thức một người.

- Thưa bác.

- Hãy để tôi nói dứt phần này, cụ Tài ngăn Sỹ lên tiếng. Ý định, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng chính là hoạt động của hồn, tâm Phật, Phật tánh, tâm ý. Anh em để ý nghiệm một chút nơi cuộc đời mình; mình luôn luôn theo đuổi ước muốn, ước mơ. Nếu thực sự ước muốn điều gì, chúng ta tiêu hao ngày tháng, tiền bạc, đôi khi ngay cả tình nghĩa thân sơ hay gia đình để theo đuổi chúng. Như vậy, cuộc đời một người là nô lệ cho những ước muốn, ý định. Nói cách khác, cuộc đời là cơ hội cho hồn, tâm ý, tâm Phật hoạt động và dùng thân xác làm phương tiện. Chúng ta đã không để ý nghiệm chứng năng lực và ảnh hưởng của tâm ý, của hồn nơi cuộc đời trong khi Phúc Âm nói rất rõ về điểm này. Chẳng hạn, nơi Matthêu được viết, “ Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy" (Mt. 16:19). Những gì chúng ta theo đuổi có nghĩa chúng ta tự cầm buộc mình vào điều đó. Thế nên, vì tâm trí chúng ta tạo dựng và theo đuổi đồng thời dùng thân xác, cuộc đời chúng ta thực hiện ước muốn ước mơ; nên khi thân xác qua đi, hồn chúng ta vẫn theo đuổi ước muốn ước mơ đó. Trạng thái này có nghĩa cầm buộc. Bởi vậy, Phúc Âm còn có câu khác, “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt” (Mc. 9:43). Câu này hoặc câu tương tự về mắt, ý nói, bất cứ những gì ngăn cản, làm phiền hà hành trình thức ngộ, chúng ta đều nên dứt khoát dẹp bỏ dù thế nào chăng nữa. Nơi Nam Hoa Kinh cũng có câu chuyện về con rùa thà chấp nhận sống lê chiếc đuôi nơi vũng bùn lầy còn hơn trở thành mớ xương khô được đặt trên trang thờ cho người ta cúng bái. Vũng bùn lầy chỉ về cuộc đời bình thường của một người nơi hành trình tâm linh; trang thờ nói về danh vọng, chức quyền thế tục. Như vậy, Trang học cũng khuyên người ta chú tâm đến hành trình thức ngộ tâm linh hơn là chạy theo danh vọng thế tục. Có lẽ rất khó cho mọi người hiểu khi nghe thấy câu, “Được lợi lãi cả và thế gian mà lỗ vốn mất linh hồn nào được ích chi.” Vì tâm hồn chỉ kiếm tìm lợi lộc thế tục nên được cả và thế gian, và như vậy, hồn luôn luôn bị cầm buộc theo ước muốn thế tục sau khi thân xác qua đi. Nhà Phật gọi là luẩn quẩn trong vòng luân hồi. Anh Sỹ, lúc nãy anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi.

- Cháu muốn hỏi về phương pháp áp dụng tâm ý nơi Yoga.

- Điều này tôi vừa lặp lại và đó cũng là nguyên tắc căn bản của hiệp khí đạo. Ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết đến đả thông kinh mạch. Tuy nhiên, đừng hỏi tôi dẫn khí chạy từ huyệt nào đến huyệt nào bởi tôi không thực hành Yoga vì không muốn bị tẩu hỏa nhập ma. Tôi đã giải thích về sự nghiêm trọng cũng như nguy hại của sự luyện tập thiếu nghiệm chứng, thiếu vị thày chuyên môn nơi phương diện này nên chỉ nhắc lại, khuyên anh em chớ dại liều mình; lợi đâu không thấy, chỉ có hại.

- Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn, chưa thấy Phật thì đã thành ma. Lan ơi em lui về bên ấy, để hằng ngày tâm hồn lơ lửng với tiếng... chuông... chùa. Sỹ đế vô đoạn ngoác miệng ca câu vọng cổ hắn bịa ra.

- Cái ông quỷ này, tối ngày chỉ cà tửng, cà tửng, phá đám; vợ Sỹ lớn tiếng.

- Tớ ca vọng cổ giúp vui mà cũng la. Trời, Phật cũng không chiều được lòng đàn bà.

- Thôi, chú Sỹ, để cụ nói. Ông Thung ngăn.

- Nhưng thưa bác, cháu nghĩ, từ xưa đến nay biết bao tu sĩ Ấn giáo lại thêm những hành giả thực hành Yoga đều có những vị thày chỉ dẫn đúng đắn sao kết quả không ai biết thế nào. Thì cứ coi như được một số đắc đạo, vậy những người khác không đắc đạo chẳng lẽ bị tẩu hỏa nhập ma hết. Nếu họ không đắc đạo và cũng không tẩu hỏa nhập ma, nghĩa là họ đã dẫn khí đi sai đường kinh mạch mà vẫn không tẩu hỏa nhập ma thì coi chừng sự việc cần một vị thày đã kinh qua việc luyện tập vận khí chuyển mạch không cần thiết. Nói lang thang mãi chẳng cùng, mục đích cháu muốn hỏi chỉ là có phương pháp Yoga nào thiết thực đem lợi ích lại cho con người dù chỉ là sơ đẳng chăng. Bởi nếu nói rằng mọi sự đã được tiền định thì quả thật quá ư nguy hiểm và lộng ngôn vì đây là lối xúi dục con người ăn chơi hoang đàng và tiêu phí cuộc đời một cách tuyệt vời nhất, khó thể chấp nhận; bởi lẽ đó lại chẳng cần phải quảng bá pháp môn, pháp khoai chi cho mệt. Đàng khác, nói rằng sự thức ngộ tùy căn cơ kể ra cũng phiêu diêu thiếu thuận lý. Cháu nói rằng thiếu thuận lý bởi đã không đề cập hoặc coi trọng ý định hoặc ước muốn của con người; mà không có con người, cháu nghĩ, chẳng có gì đáng được đề cập tới. Điều này chẳng khác gì nói rằng đã có Chúa chuộc tội cứu rỗi cho mình nên an tâm, tha hồ hoang đàng làm xằng làm bậy bởi đàng nào cũng đã được cứu chuộc; vì Chúa đã chết cho tội lỗi của mình những hai ngàn năm trước. Nói tóm lại, mục đích cháu muốn hỏi chỉ là sự hiểu biết về Yoga có đem lại lợi ích gì hay phương cách thực hành hữu ích nào cho những người bình thường như chúng ta không. Cháu muốn nói, mình có thể áp dụng phần nào công dụng của pháp môn Yoga trong cuộc đời mình không. Định trang trọng nêu câu hỏi khiến mọi người để tâm theo dõi. 

 
Định theo đạo Công giáo, ngày trước đánh đàn nhà thờ cho ca đoàn hát, hôm nay được chị Tình mời tham dự nhóm nhậu. Anh hiền lành, dễ thương, và mang đầy nghệ sĩ tính, có lẽ bởi ảnh hưởng những cung đàn nốt nhạc hòa với tâm tình tác giả ẩn chứa nơi những lời ca. Nói rằng anh mang tính chất nghệ sĩ, nhưng tư cách vững vàng, mở rộng đón nhận mọi diễn tiến của sự việc có thể xảy ra để nhận định, suy tư tìm phương cách giải quyết, bởi vậy tâm tính anh hài hòa với mọi người. Ai chẳng biết, thưởng thức âm nhạc thì dù đứa bé mới nứt mắt cũng cảm nhận được phần nào, nhưng muốn bước vào lãnh vực âm nhạc lại đòi hỏi năng khiếu bẩm sinh kèm thêm tư chất mẫn cảm khác người. Chẳng thế mà có câu nói, người ta có thể dạy cho con khỉ đánh một bản nhạc dương cầm tuyệt vời nhưng không ai có thể dạy con khỉ trở thành một nhạc sĩ. Thích âm nhạc là một chuyện mà học và thực hành âm nhạc, phổ một bài thơ thành một bản nhạc, hoặc tự viết một bản nhạc cần nhiều kiến thức và thực hành, cần đặc tính mẫm cảm, cũng như năng khiếu âm nhạc. Thêm vào đó, kiến thức về âm nhạc chỉ là phương tiện cho nghệ sĩ chứ không thể biến người có nhiều kiến thức âm nhạc thành nghệ sĩ; bởi nghệ sĩ thuộc về tính chất, và cá tính không phải là công thức. Dẫu cho người nào đó biết về luật cân phương, diễn trình âm thanh kiến tạo một bản nhạc, biết cơ cấu hòa âm, nhịp điệu âm nhạc, biết nguyên tắc chuyển âm, biết các nốt trên phím đàn và lịch sử âm nhạc Đông, Tây, kim, cổ nhưng không thực hành cũng chẳng thể nào viết được một bản nhạc, ấy là chưa nói tới năng khiếu. Nghệ sĩ tính đòi hỏi nghiệm chứng và nhận thức. Bởi vậy, dẫu bất cứ ai yêu thích, cố bắt chước cho có vẻ nghệ sĩ cũng chỉ làm trò cười cho những người quen biết. 

 
Đánh đàn nhà thờ lại phải đối diện với ba bè, bốn mối lôi thôi rắc rối do đa số ca viên thích hát nhưng biết hát thì chưa chắc, đồng thời, thường thì chẳng cần biết nhịp điệu là gì, cứ nghe hoặc được tập hát cho quen tai rồi hát. Cũng bởi chẳng biết nhịp điệu nên nhiều khi có tai đó nhưng không phải tai để nghe bắt được nhịp nên không biết lúc nào vô, khi nào ngừng thành ra đa số cứ chờ người khác xướng lên rồi hát hùa theo. Quả thật tội cho người đánh đàn, nhưng riết rồi cũng quen, quen nhẫn nhịn; trời không chịu đất thì đất đành chịu trói. Người ta không hát theo đàn thì đành chấp nhận đàn theo hát. Chịu thế cũng chưa yên, mọi sự sai lầm bởi hàng văn ăn ngược lại trở về đổ lỗi tại người đánh đàn. Nhiều lần Định giải thích nhưng cũng chỉ như nước đổ lá môn. Đôi khi Định cố gắng nhẹ nhàng giải nghĩa như thế này, như thế kia mà nào có ai thèm nghe. Nói cho đúng, họ cố gắng nghe nhưng chẳng thể nào hiểu, chẳng thể nào thực hành; nguyên do cũng tại không biết nhịp là thế nào. Đã bốn lần Định đề nghị ca đoàn tổ chức lớp học nhịp, và thế là muôn ngàn lý do bận rộn của các ca viên được trình bày để rồi ca đoàn cứ theo nhịp rối. Lẽ đương nhiên, đã là nhịp rối thì không thể nào nói chuyện phát âm đồng nhịp thành ra cứ lỗ chỗ như cỗ ăn mày. Bữa nào chẳng biết trời đất khí tiết trên thuận dưới hòa, âm dương đồng hợp khiến thần khí các ca viên hứng khởi hát được một đôi bản thuần điệu, một số người tham dự lễ lạy có lời khen; anh chị em ca viên cảm thấy hể hả tưởng rằng mình giỏi dang, thích thú; Định cũng cảm thấy vui lây với họ nhưng vui gượng vì anh biết rồi sẽ bị chê đó. Thực ra, chẳng ai chê đâu vì có ai đó biết chăng đã gia nhập ca đoàn; hơn nữa, có những người chịu khó bỏ giờ giấc tập dợt để hát cho nhà thờ là quí hóa rồi. Nói cho đúng, nơi nghi lễ Công giáo, đa số giáo dân nghe riết bắt quen cũng lõm bõm hát theo, mà đã hát theo làm sao tránh được sự nhận biết mình đã hát trật, nên chấp nhận cho qua thành thói quen; bởi hát còn hơn không; hát để nâng lòng mình lên cho tâm trí phần nào thoát khỏi những nỗi ưu tư đang vướng bận lòng người. 

 
Định cũng nhận ra nguyên nhân tại sao khó thể dạy nhịp nhạc cho ca đoàn. Số là có trưởng ca đoàn nhưng không có kiến thức thực nghiệm gì về ca trưởng. Nói như vậy có nghĩa, cũng có người bạo phổi đứng ra tập hát nhưng cũng chẳng biết gì về âm nhạc, có chăng chỉ nghe nói hoặc đọc đây, dòm kia những bài bình luận rồi nghe, hát theo bài hát nào đó cho nhuần nhuyễn và thế là đem tập cho ca đoàn. Khổ nỗi, nơi đĩa, nơi băng, nơi mạng lưới điện toán, người ta hát theo nhịp nhạc, đến lúc tập cho người khác do nhịp nhạc không vững lại cứ theo cảm hứng riêng nên tập cho ca đoàn hát một bản nhạc nghe tạm được quả là một công trình múa gậy vườn hoang, mệt phờ người. Dĩ nhiên, ai cũng có niềm tự hào riêng. Nếu nghe dại anh Định để học nhịp nhạc, ca trưởng lại trở thành đàn em của người đánh đàn. Cái danh dự hão cá nhân này của chuẩn ca trưởng đã kéo cả ca đoàn lê lết hết tuần này sang tuần khác, tháng nọ qua tháng kia, và đã những gần mười năm trời ngụp lặn ngây ngô nơi vườn thánh ca ngoài lề nghệ thuật hát xướng; tạm có thể gọi “Hát hỏng” cho danh chính ngôn thuận theo lối dùng chữ nghĩa của anh đã bao lâu nay. Hình như phải thường xuyên đối diện với sự thể chẳng đặng đừng ngoắc nghoéo giữa âm nhạc và hát hỏng bao gồm nhiều khía cạnh không nói thì bực, nói ra càng tức thêm nên thà chẳng nói, đành chỉ để tâm nhận định đã kiến tạo nơi anh Định câu hỏi dè dặt bao gồm nhiều vấn đề suy tư. 

 
- Chào anh, hình như đây là lần đầu tôi gặp anh, và cảm ơn anh đã hỏi một câu rất thực tiễn. Câu trả lời thì đơn giản nhưng đòi hỏi thực nghiệm để áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí; khí dẫn huyết, và huyết đả thông kinh mạch. Tôi không thực hành Yoga theo bất cứ pháp môn nào nhưng chỉ sử dụng Yoga áp dụng nguyên tắc ý, khí, và huyết. Chẳng hạn đôi khi chúng ta cảm đấy hơi nhức nơi cánh tay, hoặc bên hông, hay phần nào đó nơi chân. Thuở ban đầu, chúng ta nằm hay ngồi thật thoải mái, nhắm hờ mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng mũi. Trong khi từ từ hít hơi vô, chúng ta để tâm tưởng tượng dẫn không khí chạy thẳng tới nơi đau nhức. Khi đã đầy hơi, ngưng lại vài giây đoạn từ từ thở ra bằng mũi và cũng tưởng tượng dẫn sự đau nhức theo không khí thoát ra. Đến khi gần hết hơi lại cố gồng chỗ đau nhức ép sự đau nhức này theo hơi ra cho hết. Làm như thế ba lần hay cùng lắm bốn lần đoạn coi như nó khỏi và lờ đi. Chỉ đôi phút sau kiểm soát lại anh em sẽ thấy hết đau. Nếu vẫn còn đau, thử thêm ba lần hít thở nữa. Ai thử, người ấy sẽ biết. Khi đã quen định tâm dẫn khí, chúng ta có thể thực hiện như thế bất cứ lúc nào dẫu đang lái xe hoặc làm việc gì. Điều quan trọng là ý định nơi mình; trường hợp này có thể nói là hành thiền giống như lục tổ Huệ Năng đã dạy.

- Các pháp môn Yoga dùng phương pháp thực nghiệm ý, khí, huyết để dẫn khí qua các trung tâm huyệt đạo theo một thứ tự nào đó hầu phát triển năng lực nội tại. Như vậy, anh em nên để ý một điều; đó là Phật học phát xuất từ Ấn Độ trong khi Ấn học đã có từ ngàn xưa. Những pháp môn Yoga được nhà Phật sử dụng tiếng Việt gọi là thiền hay thiền định. Thiền tông Tây Tạng áp dụng lý thuyết Phật học vào Yoga nên được gọi thiền tông Tây Tạng hoặc Mật Tông Tây Tạng. Tuy nhiên, thiền nơi nhà Phật chủ về kiến tính trong khi Yoga cũng được gọi là thiền lại chuyên chú về chuẩn bị xác thân.

 
Câu giải thích của cụ Tài giống như luồng sét chém sả vô tâm tư Định khiến anh nổi da gà. Đánh đàn cho ca đoàn hát dĩ nhiên anh luôn luôn phải có mặt nơi những nghi lễ phụng vụ nơi nhà thờ. Bởi thế, không nhiều thì ít những lời giảng dạy của các cha cũng phần nào thấm nhuần nơi đầu óc người thanh niên trẻ. Với tính chất nghệ sĩ nơi dòng máu, với cung nhạc trầm bổng quanh đi quẩn lại chỉ gồm mấy nốt cộng với hòa âm tùy theo sáng tạo chuyển âm của nhạc công, chẳng những dẫn dắt tâm hồn người nghệ sĩ bay bổng khỏi thực tại để hòa tâm hồn với dòng biến chuyển sáng tạo vô định, hoặc được định hướng mà còn nâng tâm hồn thính giả hòa nhập với diễn tiến âm thanh dẫn lòng thoát khỏi thực tại đang xảy ra xung quanh. Vì đã quá quen với thực trạng này, nhiều khi Định cảm thấy lòng ruột xốn xang khi nghe linh mục giải thích Phúc Âm một cách ngược ngạo, câu sau phản câu trước, hoặc lời giảng tuần này phản nghịch lời giảng tuần trước. Chẳng hạn, có những linh mục vừa mới thao thao bất tuyệt tuyên xưng lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa thì lại cũng vội vàng khuyên răn người ta phải thế nọ, phải thế kia kẻo bị Chúa phạt. Định ngây ngô ngồi trước phím đàn với cảm nghĩ lạc điệu nào đó nổi lên, tưởng như cung nhạc bất thường chói cả tai, nhưng chẳng biết thế nào giải quyết tâm trạng thao thức, khắc khoải đang xảy đến nơi tâm tư. Có điều, anh là người kín đáo nên chỉ âm thầm suy tư mò mẫm sao cho lòng ruột thuận tình yên vui. Nói ra chẳng được lợi ích gì, mà đôi khi trở thành tâm điểm cho những mũi tên nghịch chiều bắn tới. Lại cũng có lần nghe cha giảng về câu Phúc Âm, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” (Lc. 18:25) khiến anh giật mình. Cha thì thao thao bất tuyệt lên án những người giầu có, nào là tham lam, nào là không biết thương xót những người khốn cùng, nào là đam mê của cải vật chất; đại khái những người ngồi nghe nếu nhận định đúng đắn điều kiện sống của mình đem so sánh với những người nơi các nước nghèo khác có lẽ nên bỏ ra về, ăn xài đàng điếm cho bõ kiếp người; bởi cứ theo lời giảng của cha, chắc chắn họ chẳng thể nào có được mảy may hy vọng sẽ được cứu rỗi. Anh thầm nghĩ, nếu so sánh cuộc sống của mình hiện nay với những ngày xưa khi còn sống tại Việt Nam, quả là một trời một vực, và thế là hết hy vọng bởi dẫu cho giải thích thế nào, lỗ kim may vá hay lối vào nhỏ bé được đặt tên lỗ kim nơi đền thờ Jêrusalem thuở xưa thì cũng vô phương cho con lạc đà chui qua. Nhìn vào thực tế, nếu người ta nghèo khó đến nỗi không đủ ăn, đủ mặc, hoặc không đủ  chi dụng tối thiểu cho cuộc sống thì lấy tiền đâu cho nhà thờ; kết án những người có thể bớt xén ăn xài đóng góp cho nhà thờ quả là phi lý; vì nếu họ không cho, ông cha thất nghiệp, hoặc nếu họ quá nghèo phải lo kiếm sống đâu thể tới nhà thờ để nghe cha răn đe, lên án công sức làm lụng của mình. Những ý nghĩ này chẳng hiểu đã bao lâu gậm nhấm tâm hồn anh khiến lòng ruột nhiều khi cứ rối tung như chân gà vướng búi tóc.

 
Lại có lần nghe cha giảng câu, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó” (Mt. 6:21); và rồi giáo dân ngồi nghe, người nọ liếc nhìn người kia vì cha đang phán xét những người ham mê có nhà cao, cửa rộng, xe nọ, xe kia, tiệm nọ, tiệm kia. Định tự hỏi, vậy lòng dạ của mình hiện giờ đang ở đâu. Câu hỏi ngớ ngẩn này đã giúp anh nhận ra hình như lời Phúc Âm hoặc mang nghĩa ám định hoặc đã bị phiền hà bởi dịch thuật do ý nghĩa của ngôn từ thay đổi theo thời gian; trong khi Phúc Âm đã được viết những hai ngàn năm trước. Tự trả lời câu hỏi ngớ ngẩn này, anh thấy lòng dạ đang mơ tưởng theo ước muốn, ý định của mình. Chợt câu Phúc Âm “Kẻ giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đài chui qua lỗ kim” trở lại nơi tâm trí, anh bỗng có ý nghĩ lấy hai câu ráp lại làm một, những người ước muốn danh vọng, của cải giầu có cuộc đời này thì khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim; vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó. Anh cảm thấy hợp lý hợp tình nhưng không biết sao giải thích. Thế nên, khi cụ Tài nói về quyền lực của ý định, ước muốn chính là quyền lực phát xuất tự tâm hồn con người đã giúp anh bừng tỉnh. Bởi ý định phát xuất tự tâm hồn và cuộc đời thân xác chỉ là công cụ cho hồn thực hiện ước mơ nên khi còn sống, con người chạy theo ham muốn nào thì khi thân xác chết, hồn vẫn tiếp tục theo đuổi ham muốn đó.

- Thưa bác, nói rằng ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch, như vậy ý định tự mang năng lực điều hành điều mình ước muốn? Định chợt buột miệng hỏi.

-Chẳng những thế, cụ Tài chầm chậm nói, ý định còn kích thích tưởng tượng như một động lực thúc đẩy con người thực hiện ước muốn. Thiền định hay Yoga đặc biệt sử dụng năng lực này. Vượt qua những giai đoạn điều thân và điều tức, hành giả bước tới giai đoạn điều tâm. Pratyahara và Dharana nơi Yoga là những bậc thang đầu tiên của việc điều tâm tức là chế ngự giác quan hay điều khiển giác quan. Dharana là tập trung quán tưởng, tức là thu gọn thức giác của mình vào một điểm. Khi chúng ta ở trạng thái thức, không có lúc nào tâm thức ta không bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều cảm giác của ngoại giới. Nơi nội tâm, dù không muốn nghĩ gì, chúng ta vẫn luôn ghi nhận những tình tự, ý nghĩ vẩn vơ. Hành giả Yoga khi bước vào con đường điều tâm phải diệt trừ tất cả những ảnh hưởng tâm thức này. Vì vậy, Pratyahara là kỹ thuật chế ngự các cảm giác sao cho tâm thức hoàn toàn không ghi nhận bất cứ cảm giác nào (TTÂĐ; Tr.250).

 
- Thưa bác, thế sao lục tổ Huệ Năng lại lên án rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên đưa ra lý thuyết hành thiền. Hưng hỏi.

- Asanas Yoga có nghĩa những thế ngồi thiền. Theo nghĩa rộng, Asanas chỉ chung các thế nằm, ngồi, đi, đứng, để tập luyện và điều hòa nhịp sống sinh lý trong cơ thể, nhưng thường được nói về những thế ngồi thiền mà thôi. Có nhiều lối ngồi thiền, nhưng hai lối thường được dùng hơn cả là ngồi bán già hoặc kiết già. Thực ra, mục đích của các thế ngồi chỉ giúp cho tư thế của thân thể được vững vàng, thoải mái khiến sự điều tức và điều tâm dễ dàng. Ý nghĩa thâm trầm của thế ngồi là muốn giúp cho con người thoát ly khỏi cái thân phận giao động phân tán thông thường nơi tâm thức nhằm đưa trực giác tới chỗ siêu hóa (TTÂĐ; Tr.246-247). Tuy nhiên, cũng có những người gia nhập hàng tu sĩ vì lười biếng, không chịu làm việc sinh sống nên gia nhập tu thiền, thay vì ngồi quán tưởng lại ngồi đó mà ngủ. Đọc nơi các câu chuyện về những kỹ thuật hoặc quy luật đã được đặt ra giúp các hành giả tu chứng chống lại trạng thái mà lục tổ Huệ Năng gọi là vô ký không, có những tổ đã nghĩ ra phương pháp đội đèn. Tu sĩ đội đèn quán tưởng ngủ gật, đèn đổ, dầu loang ra cháy cả áo xém lên người. Dĩ nhiên, khi định tâm quán tưởng rất dễ buồn ngủ; điều này là sự thường. Lục tổ Huệ Năng đặt nặng vấn đề kiến tính, muốn kiến tính cần định tâm. Như anh em đã biết, hành thiền mang nghĩa làm gì, hoạt động gì thì cứ việc làm, nhưng tâm trí luôn tập trung nghiệm chứng về lẽ nào đó, hoặc công án nào đó. Yoga nơi Ấn học nặng phần phát triển và điều hành thân xác. Nhà Phật nhấn mạnh về kiến tính. Anh em nên để ý phân biệt rõ ràng. Dẫu ngôn từ Yoga nơi Ấn học được dịch thành thiền định nhưng nơi phần nhận định chúng ta nên phân biệt thiền định theo nhà Phật hay thiền định theo Ấn học.

 
- Pranayama nơi Yoga có nghĩa điều tức hay điều hòa hơi thở. Theo quan niệm thực hành Yoga, hơi thở là một yếu tố hết sức quan trọng vì nó là sợi dây hay cây cầu liên lạc, thẩm thấu thường hằng giữa đại vũ trụ và con người. Lý thuyết Yoga quan niệm rằng, trong cơ cấu con người, hơi thở là nơi tiếp giáp giữa thể chất và tâm thức. Có làm chủ được nhịp thở mới có thể ảnh hưởng tới nhịp sống thể chất cũng như tâm thức. Hơi thở cần phải điều hòa, hơi càng dài bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tông phái Yoga cho rằng hơi thở rất ảnh hưởng tới sự điều hòa và điều khiển tâm thức vì nó tạo cho hành giả một thức giác miên tục giữa trạng thái tỉnh và ngủ. Mục tiêu tối hậu của Pranayama là điều khiển hơi thở để con người có thể ngưng thở trong một thời gian rất lâu được. Như vậy, ngủ cũng là một hình thức Yoga nhưng vô ý thức. Trong giấc ngủ, con người đắm chìm một cách vô ý thức nơi kho dự trữ tinh lực vũ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn (XPHB; Tr.5). Hành giả Yoga áp dụng phương pháp hít thở có ý thức một cách giản dị, đem năng lực bất diệt thấm nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác và duy trì chúng trong một trạng thái thấm nhuần từ điển một cách thường xuyên. Làm như vậy, hành giả khiến cho sự hô hấp trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa đến giấc ngủ hay sự hôn mê bất tỉnh (XPHB; Tr.6). Theo truyền khẩu, hành giả nào có thể cầm hơi thở trong mình tùy theo ý muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bởi đó, sự sống vẫn tiếp tục dầu người đó ngưng thở; vì sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức sinh hoạt khác thường mà thôi. Người luyện tập Yoga đến trình độ cao có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Theo sự tuyên truyền, đây là một triển vọng để cho con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn (ĐPHB; Tr.84-85).

 
- Giai đoạn kế tiếp sau khi đã tập luyện hài hòa với phương pháp hít thở theo một nguyên tắc nào đó, hành giả bắt đầu diễn trình quán tưởng. Tổng quát, quán tưởng tức là nhìn vào nội tâm? Hãy suy gẫm về cái chân tướng hay chân ngã, thực tướng của anh bằng sự tham thiền quán tưởng liên tục không gián đoạn. Đó là con đường độc nhất đi đến ánh sáng. Sự tiến bộ trên địa hạt tâm linh không phải dễ gì nhận biết như nơi địa hạt vật chất. Quán tưởng không cần thầy; thầy chỉ giúp phương tiện, dìu dắt mà thôi. Còn thiền định phải là một vấn đề kinh nghiệm bản thân. Thời gian tùy trình độ riêng của mỗi người. Cây diêm bắt lửa ngay nhưng than củi thì lâu hơn (ĐPHB; Tr.148-149). Các vị tu sĩ Ấn Độ đều quả quyết rằng việc quán tưởng của thiền đem lại cho hành giả một năng khiếu nhận thức mới lạ khá trọn vẹn. Sự nhận thức này không bị giới hạn hoặc đầy sơ hở như nhận thức do giác quan mà do trực giác. Nơi nhận thức này, tâm thức chủ thể và đối tượng là một, chỉ hành giả cảm nhận được mà thôi. Việc nhập định này nhiều khi bất chợt nên các nhà tu thiền đều nhấn mạnh vào tính chất bất chợt và khoát nhiên của việc nhập đại định. Trạng thái đại định là một trạng thái của tâm thức cao siêu do đó những bậc tu sĩ siêu phàm cũng khước từ không dám dùng ngôn từ để diễn tả. Nơi trạng thái tiếp xúc sơ khởi với thiêng liêng trong hành trình quán tưởng, tâm thức hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân làm cho cứng đơ, bất động. Tuy nhiên, hành giả Yoga hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác. Nơi trường hợp đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức hành giả hòa hợp với thế giới thiêng liêng trong khi thân xác vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh (XPHB; Tr.4). Nhờ luyện tập Yoga, nguồn sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng phí bởi sự loạn động của giác quan, mà được gom về những trung tâm bí yếu trên tủy xương sống để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà thể xác và những tế bào trong óc của hành giả Yoga được truyền vào một sức mạnh tâm linh tăng cường sự sống (XPHB; Tr.6). Trường phái pháp môn Kriyâ Yoga cho rằng, cuộc đời đạo sĩ Kriyâ Yoga không còn tùy thuộc vào những nghiệp quả của quá khứ mà chỉ tùy thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, hành giả tránh khỏi sự tiến bước chậm chạp do những hành động tốt hay xấu của cuộc đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô sơ của con ốc không còn phù hạp với đôi cánh bay xa của con chim phụng hoàng (XPHB; Tr.6). Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM (XPHB; Tr.3).

 
Cụ Tài ngưng đọc, nhìn rảo qua một lượt đoạn tiếp tục,

- Mọi người thấy, tôi chỉ đọc đại khái về lý thuyết và quan niệm của những hành giả thực nghiệm một vài pháp môn Yoga mà thôi chứ không dám tiếp tục thử nghiệm. Tôi nghĩ, như thế đã quá đủ cho tối nay. Chúng ta cần nghỉ ngơi để lấy sức cho những công việc ngày mai.

- Chúng cháu cảm ơn bác, Sỹ vội lên tiếng. Nhưng, hắn lên giọng, lần tới nhà ai?

- Lần tới chúng ta sẽ bàn thảo về Mật Tông Tây Tạng và Điểm Đạo Ai Cập. Cụ Tài nhẹ giọng.

Một cánh tay giơ lên... 

- Xin phép bác cho cháu được mời bác cùng quý anh chị lần tới ghé qua nhà cháu dùng tạm bữa cơm mắm muối chỉ gồm có nem thính Bắc kỳ và gỏi cá hánh, giấm nấu theo kiểu dân năm tư. Thanh giơ tay nói liền một hơi.

- Đồ uống! Đã mời thì phải cho long trọng đàng hoàng! Bộ muốn học theo trạng Quỳnh sao! Sỹ nhà con tơm tớp nhào vô e người khác nói mất phần.

- Thì ai sao tôi vậy. Thượng tọa thích đủ thứ nên mới chỉ chừa được có một nửa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 4

 

 
Bố mẹ Thanh thuộc dân “Bắc kỳ 54” sinh sống tại khu Bãi Dâu, Vũng Tàu. Năm 1975, anh đang học đệ nhất (lớp 12), theo gia đình gồm bố mẹ và hai em sang Mỹ, và được một gia đình kỹ sư người Công giáo bảo lãnh về tiểu bang Virginia vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Dẫu chân ướt chân ráo nơi đồng đất nước người, Thanh đã phải trở nên đầu tàu của gia đình bởi vì bập bẹ được đôi tiếng Anh, tiếng u. Và chỉ một tuần sau, dù vẫn chưa quen với khí hậu cũng như thời giờ thay đổi, bố của Thanh đã được giới thiệu đi làm nơi một hãng thịt heo với nhiệm vụ đánh rửa những chiếc nồi to lớn kềnh càng dùng để nấu nướng các loại thịt gần hết hạn nơi siêu thị được gom trở lại để làm thành “Hot dog, Balony,” xúc xích, và quét dọn những chuồng nhốt heo trước khi được làm thịt, kể là cũng may mắn. Thanh được giới thiệu vô hãng ống nước của thành phố với chân phụ thợ, bảo sao làm vậy, bao gồm những công việc đào đất, cắt ống nước, lấp đất, khuân vác những vật dụng lẩm cẩm lỉnh kỉnh cần thiết theo lệnh của tên cai.

 
Đang sống nơi miền nhiệt đới bỗng rơi ngay vùng ôn đới trong khi công việc đòi hỏi phải giải quyết bất chấp giờ giấc ngày hoặc đêm quả là một cực hình, chẳng những do ảnh hưởng giấc ăn giấc ngủ bất thường mà lại bị cái lạnh như cắt xé da mặt, cóng buốt đôi tay của nhiệt độ nhiều khi xuống tới âm 30 độ C (-50 độ F). Sáu tháng dằng dặc trãi qua, nhận thấy tiền lương của ông cụ nơi hãng thịt heo cũng tạm đủ cho gia đình trả tiền thuê nhà, điện nước, và ăn tiêu dè sẻn; trong khi tiền lương, cộng thêm tiền phụ trội những giờ bất thường đã trừ thuế, Thanh còn để dành được gần hai ngàn dollars trong nhà băng. Thanh bàn tính với bố mẹ muốn tiếp tục học và đổi nghề, làm công việc bồi bàn cho một nhà hàng Tàu vào những buổi chiều và tối. Trời không phụ lòng người; làm tại nhà hàng lại không phải lo lắng đến vấn đề ăn uống nên tiền để dành cũng chẳng thua sút khi làm nơi hãng ống nước, lại không phải cực nhọc chịu đựng cảnh giá lạnh đêm hôm bất thường.  

 
Năm năm sau, Thanh tốt nghiệp chương trình kỹ sư điện tử và đã được hãng điện thoại AT&T thuê làm chánh sở cho một chi nhánh tại Mississippi, miền Nam nước Mỹ. Không hiểu số may hoặc do thành tích học lực xuất sắc, hãng điện thoại bằng lòng trả cho Thanh tháng đầu tiền thuê nhà, cộng thêm tiền chi phí xăng dầu xe cộ cũng như thực phẩm ăn uống. Hôm đầu tiên nhận sở làm việc, quen với lối sống đơn giản, tằn tiện, Thanh chỉ bận chiếc áo sơ mi trắng, sọc xanh và chiếc quần Jean đã cũ. Chiếc xe con cóc màu vàng nhạt lá khô lại càng khiêm nhượng hơn; bởi năm năm trước nó chỉ được mua với giá năm trăm Mỹ kim. Vừa bước vô trong cửa văn phòng, chị thư ký xinh như mộng, tóc nâu nhạt óng ánh màu bạch kim, lên tiếng hỏi,

- ”What's wrong!”

- Tôi muốn gặp ông Robert Alexandria, cô làm ơn.

- Hôm nay ông ấy bận lắm bởi phải chuẩn bị giấy tờ bàn giao nhiệm sở cho ông chánh sở mới sắp tới.

- Thưa cô, tôi chỉ muốn gặp ông ta để nói lời từ tạ. Tôi nghĩ, ông ta sẽ chấp nhận gặp tôi.

- Tên ông là gì?

- Tôi là Thanh Nguyễn. Cô thư ký nhấc điện thoại xí xố đôi câu, chưa kịp bỏ điện thoại xuống đã hướng về phía Thanh,

- Ông Bob sẽ gặp ông ngay bây giờ. Cô thư ký vừa dứt lời thì đã thấy một người Mỹ, cao ráo, tóc nâu muối tiêu được cắt tỉa gọn gàng, mặc bộ đồ vét xám, thanh lịch; chiếc cà vạt đỏ chói nổi bật giữa nền áo sơ mi xanh nhạt, xuất hiện nơi hành lang nối liền văn phòng đưa tay bắt, lên tiếng,

- Chào ông, ông là Thanh Nguyễn?

- Thưa đúng, chào ông.

Ông Bob đưa tay chỉ cô thư ký nói,

- Cô Dianne Higgobotham, thư ký văn phòng; đoạn ông quay sang cô thư ký nói,

- Đây là ông Thanh Nguyễn, xếp mới của cô từ hôm nay.

- Chào cô. Thanh chỉ thốt một câu ngắn gọn, không đưa tay bắt vì anh vẫn còn cảm thấy hơi bực bởi câu hỏi “What's wrong” của cô. Ngược lại, cô thư ký mặt đỏ bừng im miệng do không được Thanh đưa tay bắt, có lẽ hối hận về hành vi tiếp đón chứng tỏ thái độ coi thường con người mang dáng vẻ khiêm tốn, nghèo nàn, nhưng bất ngờ lại là xếp quyết định số phận công việc của mình từ nay về sau; trong khi Thanh và ông Bob đã khuất bóng theo hành lang.

 
Công việc êm đềm xuôi theo dòng thời gian, mới ngày nao mà đã mười tám năm đằng đẵng lui về quá khứ. Cũng như mọi người, thuở ban đầu Thanh cảm thấy quá ngỡ ngàng với lối làm việc của công ty nói chung và các nhân viên nơi hãng nói riêng. Họ chừng như sợ làm hết việc sẽ bị thất nghiệp nên lãng đãng, cầm chừng, tà tà kéo dài thời gian. Nhất là hệ thống văn phòng, khi đơn đặt hàng hoặc điện thoại gọi tới cần được điều chỉnh đường giây nào đó, thư ký ghi vô sổ địa chỉ, chuyển tới chuyên viên tính toán thời gian để gửi nhân viên trắc nghiệm đường giây xem xét trước, và khi được báo cáo đầy đủ mới sắp xếp nhân viên sửa chữa tới điều chỉnh những trục trặc. Bất cứ những gì sai sót gây trở ngại thuộc lãnh vực nhà riêng của khách hàng, nhân viên điện thoại không có bổn phận chỉnh đốn, nhưng nếu chủ nhà muốn nhân viên điện thoại sửa, sẽ bị trả tiền công khá cao. Chi nhánh này gồm có năm chiếc xe, hai xe để căng những đường dây lớn và ba xe nhỏ cho các nhân viên sửa chữa. Mỗi xe gồm một tài xế và một chuyên viên điện thoại được trang bị đầy đủ dụng cụ cần thiết cho công việc. Nơi trụ sở gồm tám văn phòng riêng biệt; một phòng rộng rãi được ngăn ra các khu nhỏ có bàn ghế và sổ sách cho nhân viên ghi lại báo cáo công việc, và một kho vật dụng.

 
Ngay khi được hãng AT&T chấp nhận thuê, Thanh đã dành thời giờ lấy hẹn và gặp gỡ một số người điều hành những công ty quanh vùng thành phố Roanoke, thuộc tiểu bang Virginia, nơi anh cư ngụ hầu may ra học hỏi một số kinh nghiệm điều hành thực tiễn nơi trường đời. Kể ra vận số của anh được gọi là may mắn, nhưng vận may nào không phải trả giá. Mới ra trường còn chân ướt chân ráo, chưa có thời giờ thực tập lý thuyết chứa đựng nơi sách vở đã được đặt vào vị thế cai quản một chi nhánh của công ty trong khi anh chỉ có hai chứng chỉ tùy chọn (elective) về ngành quản trị. Thực tế minh chứng, kỹ sư điện tử bị điện giật là chuyện thường và chắc chắn không thể nào sửa chữa điện đóm thiện nghệ bằng chuyên viên điện tử. Kỹ sư được chuẩn bị để tính toán phương trình điện năng, điện lượng và thiết kế hệ thống cho các chuyên viên điện tử thực hiện. Thanh là kỹ sư điện tử, lại phải ngồi ghế giám đốc; tất nhiên công ty AT&T đã chẳng tử tế gì khi thuê anh; bởi vai trò của anh bao gồm hai nhiệm vụ, điều hành chi nhánh và thiết kế cũng như điều chỉnh hệ thống điện thoại. Thế nên, nỗi vui mừng vì sẽ có công việc khấm khá chưa kịp nảy nở, sự lo âu đã chợt bùng lên trấn áp. Cũng may, mấy vị giám đốc của các hãng xưởng khác nhau, sau khi nghe anh trình bày nỗi lo âu trước khi nhận việc, đã khá thông cảm giải thích lề lối cũng như khó khăn về việc quản trị nơi hệ thống thương mại ở đất nước này.  

 
Ông John Imergine, chánh sở ống nước của thành phố vẫn còn nhớ anh khi gặp ông năm năm trước, đã thật ngỡ ngàng lúc gặp lại anh. Sau khi nghe anh trình bày sự kiện và ý muốn hỏi, ông không ngớt lời ca tụng ý chí phấn đấu để thăng tiến của anh đoạn kết luận một câu thật đơn giản,

- Ông Nguyễn, nếu ông không muốn phải đối diện với bất kỳ những sự rắc rối nào nơi thời buổi ban đầu cần nhiều thời gian chuẩn bị, tôi đề nghị, trong hai năm đầu từ khi nhận việc, ông đừng làm chi mới, cứ theo lề lối đã sẵn có, theo dõi, nhận định, và suy nghĩ đường hướng giải quyết vấn đề sau này. Ông nhớ ghi lại những nhận định về công việc cần được điều chỉnh, đồng thời đừng quên viết xuống dự đoán sẽ được giải quyết ra sao. Ít nhất, ông cần một thời gian khoảng sáu tháng, tổng hợp và phân định công việc nào nên thực hiện trước, chi tiết nào phải bổ túc cho hợp tình hợp lý, tránh phí phạm thời giờ và ngân khoản theo tiến trình nhất định. Thêm vào đó, bất cứ sự việc hoặc thay đổi nào cũng cần thời gian, âm thầm tìm phương cách sao tránh gây ác cảm, hoặc khiến người khác có ý nghĩ đụng chạm đến quyền lợi của họ.

- Thưa ông, vậy phương pháp nào để cắt bớt nhân viên?

- Cắt bớt nhân viên để làm gì vì ai cũng cần việc làm?

- Nơi trường hợp muốn tăng lương và tận dụng khả năng của nhân viên cũng như thời giờ để công việc hữu hiệu hơn.

- Một điều tuyệt đối đó là không bao giờ nói mình muốn cắt bớt nhân viên cho bất cứ ai, ngay cả vợ mình biết. Chỉ nên mượn lý do tài chánh thiếu hụt; cắt bớt giờ làm việc của nhân viên và như thế sẽ có người tự kiếm việc khác để rồi mình chia nhỏ phận việc của người đó cho các nhân viên khác để tăng lương.

Thời gian dần trôi, công việc nơi công ty mặc dầu càng ngày càng phát triển mà vẫn êm xuôi; dẫu nhân viên được cắt bớt từ tám văn phòng chỉ còn bốn. Chuyên viên sửa chữa đường dây tự lái xe nên thay vì năm chiếc xe mười nhân viên thì nay chỉ cần bẩy nhân viên và mỗi người lái một xe làm việc. Như vậy, nhiều chuyên viên hơn thành ra không chi trắc trở. Sau khi nhận việc được tám năm thì hai em cũng đã học xong và có nghề nghiệp vững vàng nên Thanh mua nhà gần nơi làm việc và di chuyển bố mẹ về ở đồng thời cũng năm đó lập gia đình.

 
Khi đạo luật tách nhỏ các công ty lớn ra đời, chi nhánh nơi Thanh làm việc được bán cho hãng Bellsouth; dẫu tiếp tục làm cho công ty mới hay nghỉ thì ngân khoản được lãnh cũng như nhau theo như giao kèo đã được đồng thuận từ ngày nhận việc; thế là anh được hưởng tiền hưu bổng như đã ký với hãng. Anh chọn vùng Ocean Springs, MS, vì nơi đó gần biển cho ông bà cụ có cơ hội thưởng thức thú câu cá, và cũng gần trường học Công giáo cho con cái theo học sau này. Buồn ngủ gặp chiếu manh, vốn mê âm nhạc, nhân tiện nơi Biloxi, thành phố kế cận Ocean Springs, có cộng đồng Công giáo người Việt, anh tham gia và đờn cho ca đoàn hát lễ.

Tiền hưu bổng tương đối khá đối với một kỹ sư kỳ cựu nên không phải bận tâm lo bề sinh kế cho gia đình do đó anh có nhiều thời giờ rảnh rang; bởi thế nảy sinh ý hướng vui thú điền viên cùng sông nước. Đàng khác, nhân tiện ông cụ cũng quen hoạt động lại được trời ban cho có sức khoẻ dẫu đã có tuổi, Thanh định mua chiếc bo bo du lịch để thỉnh thoảng, năm đôi ba lần, đưa gia đình ra khơi vui với sóng nước. Thoạt đầu, tính toán tới lui, anh thích chiếc thuyền buồm của đôi vợ chồng trung niên người Mỹ, chẳng hiểu cơm không lành, canh không ngọt sao đó, quyết định chia tay, bán tống bán táng nhà cửa, thuyền bè, dõi theo chân trời vô định cuộc đời, nhưng mới mẽ và hồ hởi với những tâm hồn tan nát. Cặp vợ chồng này con cái đã trưởng thành lại mỗi người có công việc lương bổng khá cao nên bất cần với những gì vương mang kỷ niệm cũ. Chiếc thuyền buồm tương đối khá đẹp, xinh xắn, gọn gàng, và rộng rãi, cũng như được trang bị đầy đủ cho năm người ăn ngủ hàng tuần lênh đênh ngoài biển khơi. Nghe đâu nếu mua mới phải gần trăm ngàn vào năm 1993 mà nay chỉ được đề giá bán ba chục ngàn. Thanh đã gặp chủ nhân; ông ta cỡ năm mươi, năm lăm, nét mặt đăm chiêu đượm vẻ chán chường; dẫu thái độ, hình dáng thể hiện đầy vẻ hoạt bát, năng động. Mượn cớ hỏi lý do vì sao phải bán bởi tò mò muốn hiểu nguyên nhân, ông hiếng đôi câu, nói lên lòng nhớ nhung và yêu thương vợ thắm thiết nhưng duyên số đã chẳng đặng đừng đẩy bà vợ ra khỏi tầm tay níu kéo.

Thuyền buồm có thể vượt khơi tới những hải đảo xa xôi nhưng lại khá phiền hà về việc bãi bến cũng như chăm sóc, nên anh tính mua chiếc bo bo mười bẩy bộ dài. Khi tỏ ý, cụ ông phân tích lợi hại cũng như điều kiện có thể và ý muốn riêng tư khiến anh đổi ý và quyết định mua chiếc ghe đúc fiberglass hơn bốn mươi bộ (gần 15 thước), bỏ máy mới vô và sửa sang thành chiếc ghe cào tôm, vừa có thể cùng cả gia đình đi chơi đôi ngày nơi những quần đảo gần bờ chừng hơn kém một trăm hải lý; đồng thời cụ ông cũng muốn hưởng thú lênh đênh kéo tôm dưới màn trời trăng sao vằng vặc, hoặc câu cá nơi những giàn khoan dầu, hay những khu lắm cá hồng, cá thu do muốn thưởng thức lại hương vị cá thu nướng đem kho với rau răm, lá ngổ, tưởng nhớ quê hương ngày cũ. Chiêu một ngụm rượu thuốc, bồi một gắp nem thính Bắc kỳ chấm nước mắm tỏi ớt, kèm thêm ngọn lá thơm theo ý thích; trong khi có được đôi người bạn cùng nhau mạn đàm giữa bầu không khí lành lạnh êm ả, phỏng còn thú nào vui sướng hơn nơi cuộc sống gian trần. Cuốn lá mơ thành chiếc phễu có chứa nhúm lá thơm pha trộn các loại thái nhỏ, gắp đôi miếng cá tươi thái mỏng nhẹ nhàng bỏ vô đoạn rưới một muỗng giấm mẽ đặc biệt đang nóng hổi trong lúc miệng vương vị thơm đầm rượu thuốc; mùi mẽ chua hòa lẫn hương mắm tôm ngấu trộn với chất cay miếng ớt mới cắn, tưởng rằng miếng ngon cuộc đời chẳng đâu hơn được. Tâm tình mến yêu quê hương, dân tộc, truyền thống con dân máu đỏ da vàng còn được gợi nhớ và thể hiện qua từng miếng ăn.

 
Còn gì sung sướng hơn nơi đồng đất nước người lại gặp được đồng hương, vài tháng sau ngày dọn về Ocean Springs, gia đình Thanh đã hòa nhập với cộng đồng người Việt sống tại miền Nam Mississippi và đặc biệt cùng nhóm đồng tuổi tác thân cận sinh hoạt. Bởi hiểu biết và hay thường gặp nhau, chia sẻ, trao đổi từ chuyện đang làm ồn ào dư luận đến những chuyện nhỏ nhoi xảy ra chung quanh, những đề tài dù nhiều đến mấy chăng nữa theo ngày tháng cũng phải cạn. Thế nên, mỗi người trong nhóm kiếm cách bày cơ hội mong có được niềm vui mới.

Nhân thời kỳ đóng cửa hồ, tàu nhỏ không thể ra khơi đánh tôm, chẳng hiểu mò móc nơi đâu kiếm được chiếc lưới bén, Phủ rủ Thanh và Hưng giăng lưới bắt cá ngoài bãi tắm. Lưới cá là ngón nghề của hàng ngư phủ; do đó vào những chiều rảnh rỗi cứ mấy ngày đã thấy họ họp nhau, hôm thì gỏi cá, lúc cá hấp cuốn bánh tráng, rồi cá chiên, cá nấu, và tuyệt hơn nữa là cá nướng. Tuy nhiên, được chừng hơn tháng vào một buổi chiều lúc mấy người đang quen thói lưới cá đối về thái gỏi nhân tiện có cụ thân sinh của Phủ từ California qua thăm, hai chiếc xe cảnh sát, đèn xanh đèn vàng chớp nháy rối lên, và dừng lại nơi mấy tướng đang hí hửng tự thưởng mỗi người một lon bia mừng hơn nửa thùng năm galon cá đối lớn vừa được gỡ lưới. Hai nhân viên công lực, một người kè kè xấp giấy phạt; người kia lủng lẳng chiếc batoong đeo bên hông, vẫn để đèn xe chớp chớp, quay quay, đậu trên lề đường, bệ vệ bước xuôi theo bãi cát tiến đến khiến mọi con mắt của khách du lịch đổ dồn về phía mấy tay lưới cá đầu đen.

- You can not use gill net at tourist beach. Một nhân viên cảnh sát lạnh lùng nói với Phủ,

- Me no English. Phủ giả vờ ngơ ngác; ngón nghề của chàng từ xưa tới nay. Bởi không muốn bị rắc rối với luật pháp, đã mấy lần từ ngày sang Mỹ, chẳng may đang hiện diện nơi nào đó mà một vài chuyện đã xảy ra, cảnh sát có hỏi đến, Phủ chỉ dùng câu trả lời "Me no English" để khỏi bị hỏi tới hỏi lui khiến mình dù vô can vẫn đương nhiên bị coi như chứng nhân liên hệ, mất cả giờ ăn nhậu lại đôi khi bị hạch hỏi lôi thôi hơn cả can phạm.

 
Nhân viên cảnh sát nhìn quanh từng người, ai nấy cũng vội bắt chước Phủ, khẽ lắc nhẹ những cái đầu. Nhưng tránh trời nào khỏi nắng, chiều ấy thằng con sáu tuổi của Phủ theo bố đi lưới cá thấy vài chiếc phao của cheo lưới đang giăng dưới nước chìm nổi bất thường biết rằng có cá đóng nên thích quá hô lên,

- Ba ơi ba, có cá gets the net.

Đã chẳng biết sự khốn khó đang gần kề mà lại vô tình chỉ điểm cho cảnh sát bới tội, niềm vui thích của thằng bé khiến mọi người tái mặt.

- Lưới của các ông phải không. Luật cấm dùng lưới bắt cá ở gần bờ biển.

Đã đến nước này có chối cũng không được, Thanh phải nhào vô gỡ gạc,

- Lưới của ông cụ bố anh này, Thanh đưa tay chỉ Phủ, mới vừa từ California đem qua. Ông ta quên bình thuốc lào nên về nhà lấy.

- Vậy các anh phải đổ cá trở lại biển dùm ông ta và thâu lưới lại vì có người gọi tới sở cảnh sát thông báo rằng các anh đánh lưới làm dơ bẩn bờ biển.

Thế là thoát nạn, mặc dầu nhìn những con cá béo bổ lùng quăng chìm vào bãi nước theo chiều nghiêng của chiếc thùng từ tay Hưng mà lòng tiếc hùi hụi, Phủ và Thanh vội nhanh chân lội xuống nước thâu lưới. Nhưng vận nào đã hết xui, mà hình như số mạng mấy tay thích nhậu ngày hôm nay bị sao quả tạ chiếu. Người cảnh sát thứ nhì có vẻ như không để ý hỏi thằng bé,

- Ông già đi về nhà mãi đâu?

- Ông ấy ở nhà, không ra biển.

Bởi đó, khi Thanh và Phủ còn đang mừng rỡ tưởng rằng thoát nạn vui vẻ mang lưới vô bờ, người cảnh sát vừa nói với thằng bé đã vội đưa ngón tay chỉ hai người bỏ lưới vô thùng, không quên cho họ tấm giấy phạt.

- Mẹ cha cái thằng lỏi tỳ này; mày làm sao quả tạ chiếu vào chúng ông hôm nay. Vừa mất lưới, lại vừa tốn tiền nộp phạt, Hưng tiếc rẻ nên khăn kháu với thằng bé. 

- Tôi nghĩ các ông không nên giữ tấm lưới này; vì khi ông già trở lại chúng tôi biết trả lời ông ta thế nào. Thanh biết chuyện đã bể không đường tránh thoát vội kiếm cớ lấy lại chiếc lưới. Lối nào thì các ông cũng đã cho giấy phạt và chúng tôi sẽ gặp ông tại tòa án; nên xin ông trả lại lưới cho ông cụ già. Hoặc là, các ông đợi ở đây, tôi về gọi ông cụ ra gặp các ông cho biết rành rẽ câu chuyện. Nếu không, chúng tôi không thể nào giải thích về việc mất lưới để ông cụ hiểu được.

Trong lúc Thanh mồm năm miệng mười mượn ông già làm cớ thì Hưng vừa tiếc rẻ mớ cá tươi báo hiệu bữa gỏi thi vị vừa bực mình bởi sự vô tình chân thật của thằng bé,

- Thằng củ đếch này, mày mà còn mở miệng nói với mấy người Mỹ, ông sẽ tẩn cho một trận. Chạy ngay về nhà, láng quáng ông cho một đá thì văng bố con xuống biển bây giờ.

Thằng bé thấy nét mặt nhăn nhó của Hưng kèm theo lời đe dọa, nửa ngỡ ngàng nửa sợ hãi, co giò chạy một mạch, nhưng lòng vẫn thắc mắc không hiểu tại sao nó chỉ nói mấy câu mà bác Hưng la, và còn đòi đá văng xuống biển.

- Thôi được, người cảnh sát mỉm cười vì mấy người dấu đầu lòi đuôi, you no English, cho các ông cầm lưới về vì đây là lần đầu. Nếu chúng tôi bắt gặp lần thứ hai, you no net.

- Để tối chút nữa mình kiếm chỗ nào vắng ngâm lưới tiếp, tay xách thùng lưới, tay gấp đại giấy phạt nhét vào túi áo, Phủ đã toan tính chương trình bắt cá kế tiếp. Dẫu bị phạt vì giăng lưới phạm luật cấm, Phủ vẫn cố tình kiếm cá thái gỏi vào buổi tối bởi hai lý do, ông cụ từ Cali mới qua, và mấy hôm trước cùng vài người bạn ăn gỏi tại một nhà hàng, Phủ học được cách nấu giấm mẽ, “nhậu đã quên chết.”


Sáng hôm ấy, sau khi ra bến xem nước nôi tàu bè, đang tính về nhà, Phủ thấy Hưng lò mò vác cần câu đi dọc theo bãi đậu tàu. Nghĩ rằng về cũng chẳng có việc gì vội phải làm, vả lại, tưởng tượng đến thú vui lúc cá cắn, Phủ lấy cần câu đi theo Hưng dọc nơi bãi đậu. Hưng dùng ruột sò làm mồi định bắt mấy con nhệch về nhà nấu lẫu; thế nên Phủ phải ghé tàu quen đang chờ cân tôm lấy dăm con mực và ít tôm làm mồi. Cỡ chừng tiếng đồng hồ, bốn con cá hánh lớn và sáu bảy con nhệch (lươn biển) nằm chật cứng chiếc thùng. Bởi mới cỡ mười giờ, hai người đưa nhau vào quán uống cà phê. Chủ quán là người quen nên khi biết được có cá hánh tươi và nhệch vừa mới bắt, đề nghị nấu lẫu và thái gỏi nhậu. Buồn ngủ gặp chiếu manh, hơn nữa, nơi quán ăn đầy đủ gia vị lại đỡ công bếp núc, và còn được uống bia chùa, hai tướng đồng ý không một lời phản đối.

Chẳng hiểu câu "Đồng khí tương cầu" nói lên tâm trạng nào nơi con người, nhưng có lẽ thật hợp với đặc điểm của những chiếc dạ dày dân nhậu. Phin cà phê chưa kịp nhỏ hết những giọt nước đen đậm thì bốn tay bạn thuyền đã xồng xộc bước vô. Họ cũng đang toan tính đi câu kiếm cá về nhậu bữa trưa. Và thế rồi hơn tiếng đồng hồ sau, một chiếc lẫu nhệch, hai chão điện nước giấm nóng sốt, cá, rau thơm, bia, tất cả được bày biện trên chiếc bàn tròn lớn đặt giữa bẩy người đang bừng sáng những cặp mắt vì mùi gia vị, mùi mẽ, mắm tôm, sả, riềng, rau thơm quyện lại chui tuột theo đường khí quản kích thích con tì con vị dấy động, thúc đẩy những chiếc dạ dày kêu réo. Thế rồi tiếng bật nắp bia nổ lách tách hòa cùng âm thanh đũa chén chạm nhau, bốn con cá, bẩy con nhệch trở thành đồ nhậu tuyệt vời cho mấy tay dân chài đánh chén.

Lần đầu tiên Phủ ăn gỏi theo kiểu Bắc kỳ đã thấy mê nước giấm nấu mẽ nên muốn nhân tiện hỏi chủ tiệm học cách nấu. Xưa nay, gỏi cá sống với nước chấm me đánh mắm tôm hoặc chanh nhậu cũng phê, nhưng không thể so sánh với tính chất béo ngậy, nóng sốt, và đầy vẻ thảnh thơi lồng trong cung cách nghiêm chỉnh, trịnh trọng của lối ăn gỏi Bắc Kỳ.

- Gỏi nhà hàng có khác, nước chấm đã tuyệt mà kiểu cách lại mang thêm phần khác thường.

- Chưa đâu, lối ăn gỏi này thuộc giới bình dân. Quí cụ già còn có lắm kiểu cách hơn nữa.

- Các cụ già ăn gỏi thế nào?

- Cá mè mới cỡ bằng ngón tay, đánh dậm bỏ vô hồ thay nước hằng ngày và cho ăn rau, cơm, cỡ một tuần lễ cho hết chất bùn đất, rong rêu. Sau đó để cá nhịn đói hai ngày tiêu hóa sạch hết thực phẩm trong ruột. Hai ngày cuối này, mỗi ngày thay nước hai lần đoạn vớt cá bỏ vào thau nước nhỏ. Giấm, lá lẻo, riềng, sả, đầy đủ và cứ mỗi con cá một miếng. Quí cụ nói ăn tươi như thế mới thú nhưng kỳ công lắm.

- Thế giấm gỏi quí cụ nấu theo phương pháp nào?

- Thường thì chỉ lấy cá băm nhuyễn nấu với riềng, sả, mẻ, ớt, và mắm tôm; đồng thời phải pha thêm ít bột thính cho khỏi lỏng lẻo, nước đi đàng nước, cái đi đàng cái.

- Vậy thứ giấm này anh nấu thế nào mà nhuyễn như sữa và ăn ngậy chất béo thế này?

- Đây là tôi tự chế ra; bởi nếu nước giấm nấu theo kiểu Bắc chính tông mất nhiều công sức; vả lại, khi đồ ăn thức uống thiếu thốn mới phải chế hóa cho đỡ tốn. Anh nghĩ coi, cá bên này thiếu gì, hơn nữa xương lại cứng sao có thể băm nhuyễn được. Bốn con cá các anh mang tới, tôi lọc lườn thái sống; phần còn lại đem bỏ tất cả vào một nồi đổ chút nước luộc cho vừa chín tới; đoạn vớt ra gỡ lấy thịt. Được bao nhiêu lượng cá, tôi thêm vào cũng bằng đó lượng thịt heo xay đem xào chung cho chín, bỏ vô cối sinh tố xay nhuyễn ra. Thế rồi tùy số người ăn và ý thích mà căn lượng mẽ, mắm tôm, riềng xắt mỏng, tương ớt để có màu cho đẹp, bỏ vào cối xay luôn để cuối cùng trộn đều lại. Nếu được mấy buồng trứng cá pha thêm vào thì tuyệt, không những ăn ngon mà giấm nổi mầu trông bắt mắt hơn nhiều.

- Hèn chi nước giấm có mùi béo ngậy ăn đã quên chết. Hóa ra nó ngon bởi thịt heo xay.

Dẫu trong lúc nghe và hỏi chủ quán học cách nấu giấm, Phủ vẫn tiếp tục quấn gỏi. Chiếc lá mơ được trãi trên mấy đầu ngón tay, ngò gai, lá dấp, húng quế, mùi, ngò ôm, miếng xoài xanh, tử tô, rau răm, hành tây ngâm dấm, và cuối cùng mấy lát cá tươi thái mỏng, tất cả được cuộn lại theo hình cái phễu. Tay trái trịnh trọng cầm miếng gỏi và tay phải múc muỗng giấm đang sôi sục đổ vào miệng phễu, chờ vài giây cho giấm nguội bớt trong lúc hớp miếng bia dọn đường. Trái ớt hiểm được cắn một nửa phụ thêm phần gia vị cho miếng gỏi.

- Thật đúng với câu "Nghề chơi cũng lắm công phu." Lần đầu tiên tôi được thưởng thức gỏi theo kiểu Bắc Kỳ. Phủ vừa ngồm ngoàm nhai vừa khen. Công nhận, cá tươi thái gỏi, thoạt trông đã bắt mắt, mà sao anh có thể làm nhanh như thế; mới chỉ hơn tiếng đồng hồ.

- Đây là kỹ thuật nhà nghề. Cá thái gỏi chỉ cần rửa sạch bên ngoài không cần đánh vảy, đoạn lọc hai miếng lườn rồi mới lọc lấy thịt. Đánh vảy trước vừa mất giờ vừa khó lọc thịt vì đàng nào mình cũng không lấy da; để nguyên vảy như thế dễ lọc thịt hơn và nhanh hơn lại ít tốn công.

Chợt thấy Hưng không quấn gỏi theo kiểu Bắc, mà xé rau thơm đủ loại bỏ vô chén, múc vài muỗm nước giấm đổ lên trên, gắp một đũa dăm bẩy miếng cá bỏ vào chén và trộn đều, chiêu miếng bia, đoạn gắp thành phần hổ lốn nơi chén bỏ vô miệng. Phủ lên tiếng,

- Ông ăn gỏi Bắc Kỳ sao có vẻ phàm phu tục tử vậy?

- Đã ăn là phàm phu, bộ ông không lên tiếng thì thiên hạ tưởng ông không biết nói sao? Mục đích ăn để sống chứ đâu phải ăn kiểu này thì sống lâu hơn và ăn kiểu kia sẽ bị chết sớm. Kiểu ăn gỏi tân tiến của tôi nhàn hạ hơn, nhanh hơn và thoải mái hơn sao lại nói phàm phu?

- Nhưng cái chén giống nồi cám heo!

- Tôi nghĩ cách thanh lịch nhất và gọn ghẽ nhất là ăn một bụng lá, đoạn ăn cá, cuối cùng mới húp giấm, như vậy mới nói lên được nét quí phái rởm. Và khi tất cả vào bụng rồi nó sẽ ra sao. Có lẽ còn tệ hơn nồi cám heo.

- Thôi đi ông ơi! Nói ngang bỏ mẹ.

- Tại sao anh gọi là ngang? Có phải vì không giống với anh nên trở thành ngang? Nếu vậy, anh cũng được coi là ngang đối với người khác.

 
 Lời của Hưng vô tình khơi dậy nơi Thanh nỗi thao thức đã bao lâu nay âm thầm day dứt. Phỏng mình suy nghĩ khác người? Phỏng mình mang cá tính khó hòa nhập với tâm tính những người chung quanh? Hay tại mình quá tự mãn nên coi thường mộng ước, hoặc tham vọng bình thường đã khiến bao kẻ tiêu pha tiền bạc, không nhận thực giá trị cuộc sống để rồi dồn đổ bao công sức cho những mục đích chẳng ra gì, hoặc bị lừa đảo, trở nên loa phóng thanh tuyên bố những gì chính họ không biết. Câu tục ngữ “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa” một lần nữa đánh động tâm tư Thanh. Mặc dù quãng đời niên thiếu chỉ 17, 18 năm sinh trưởng nơi đất Việt, sau đó có cơ hội học hành cũng như làm việc nơi xã hội có tiếng văn minh nhất thế giới này, Thanh vẫn cảm thấy nỗi lòng bơ vơ, cách xa với người bản xứ chung quanh. Tự lần mò kiếm sách vở tìm hiểu thêm về đặc tính cũng như tình tự dân tộc, nhất là để tâm nghiệm chứng về đạo học Đông Phương, Thanh phải đối diện với nỗi đau lòng thương cảm cho kiếp người, đặc biệt những con người máu đỏ da vàng tự bẩm sinh đã mang sẵn giòng giống Việt. Có phải mình bị tiêm nhiễm văn hóa bản xứ nên coi thường kiểu cách, hoặc những giá trị muôn đời tiềm ẩn nơi giòng máu, nên ảnh hưởng chiều hướng suy tư cũng như phong cách xử sự nơi cuộc sống? Những câu hỏi tự vấn đã hằng chục năm quanh quẩn dày xéo tâm tư Thanh, mỗi khi nghe ai nói hoặc đọc nơi báo chí về những sự kiện chẳng nên xảy ra liên quan đến người Việt nào đó đã và đang cứ như vô tình thao túng tâm tư người người đồng hương.

 

Tối hôm qua, rót ly rượu nhâm nhi, một mình Thanh ra nơi cửa lạch được mở rộng làm bến thuyền, thưởng thức cảnh trời mây tĩnh lặng của đêm trăng. Tâm tư anh hồi tưởng sự thể mới xảy ra ít tháng gần đây. Nơi cộng đồng người Việt hơn kém vài trăm gia đình bỗng phát sinh thứ lạ đời. Có người mò mẫm, bới móc chuyện thiên hạ, tốn tiền nhờ đăng lên báo với chủ đích xỉ vả, nhục mạ những người mình không thích kèm theo những chứng cớ, tưởng vậy nhưng không phải vậy do ảnh hưởng ý đồ nào đó khiến sự trưng dẫn lệch lạc. Mục đích của hành động này là gì; bởi xưa nay có bao giờ kẻ tấn công đã cất tay hoặc lên tiếng cổ võ thực hiện bất cứ công việc nào đem lại lợi ích cho nhân quần xã hội! Không lên tiếng chẳng lẽ e sợ người chung quanh không biết có nhân vật quan trọng tiềm ẩn giữa chốn đô hội loài người? Muốn nổi tiếng nào khó chi nơi thời đại mạng lưới điện toán toàn cầu thịnh hành phát triển! Có thể y không biết hoặc không có máy điện toán. Nói rằng không có máy điện toán quả hơi vô lý vì chỉ cần vài trăm bạc ra WalMart rinh một chiếc về nhà đã có thể tha hồ múa may quay cuồng, vẽ rồng vẽ phượng quậy phá theo dòng tiến triển kỹ thuật mạng lưới.


Chợt Thanh tự hỏi, mình đang suy nghĩ gì vậy! Những suy nghĩ của mình do động lực nào thúc đẩy, có mang lợi ích chi cho tâm tư, có ảnh hưởng gì đến nhân sinh, có tạo nên động lực nào giúp ích chính mình. “Tất cả chỉ là nhận định,” miệng Thanh vô ý bật lên tiếng nói khiến anh giật mình, nhẹ mỉm cười, không ngờ lòng ruột mình xốn xang đến thế. Bao ngàn năm qua đi, bao thế hệ trôi nổi nơi giòng đời, bao công sức cũng như cuộc đời của những vị thức ngộ còn để lại phần nào nơi sách vở mà con người…, Thanh không kiếm được ngôn từ nào nói lên hiện trạng tâm trí nhân sinh. Tại sao mình có những nhận định này. Vẫn biết chúng chỉ là thành quả lâu ngày dày kén thâu thập từ sách vở cộng thêm suy tư và nhận xét, nhưng lý do gì hoặc nguyên nhân nào khiến mình cố tình thâu nhận chúng, Thanh tự xét; phỏng do lòng thao thức nhận biết thực trạng hiện hữu của mình hầu có câu trả lời hài hòa cho câu hỏi “Mình là ai,” nên cố công tìm hiểu quan niệm hoặc nhận thức của nhân hiền để lại. Hết lớp người này, đến lớp người khác đã qua đi, dẫu thành tích ngập tràn để lại cho thế hệ mai sau tiếp nối, nay những vị ấy ra sao. Cuộc đời một người chẳng lẽ có được sự hiện hữu giới hạn trên dưới trăm năm, lao công tổn trí để rồi trở thành hư không. Nếu kết quả chỉ là hư không sao con người chẳng những cố gắng tranh đấu giành sống, ham sống, mà lại còn phí sức tạo nên những thành quả đáng cho thế hệ sau an hưởng và khen ngợi. Mắc mớ gì phải tiêu hao tháng ngày, công sức, nhiều khi gây tai hại cho chính bản thân, sức khỏe trong khi phải đối diện với thực thể cuộc đời không thể tránh khỏi; dù giầu, nghèo, danh vọng, chức quyền, thông minh hay ngu đần như thế nào, mọi người đã được sinh ra tay trắng cũng sẽ ra đi trắng tay. Do đam mê bẩm sinh, vậy đam mê từ đâu phát sinh? Nghĩ đến đây, lãng đãng nơi tâm trí, những trường hợp minh xác nơi các bài viết, sách vở do chính tác giả kinh qua ghi lại lần lượt chuyển về khiến Thanh nẩy ý muốn tìm hiểu và thâu thập thêm; hầu có nhận định xác thực hơn về thân phận kiếp người, và những gì có thể xảy ra sau khi chết. Phiền, ngủ thôi, Thanh tự nhủ, sớm mai đi câu chuẩn bị đón khách.


- Anh Thanh, làm gì mà thơ thẩn muộn vậy? Chị Thanh bước đến gần nơi đầu lạch, bộ anh quên sáng sớm mai mình đi câu sao?

- Còn sớm mà, mới độ chừng chín giờ; em định hát bài gì ngày mai?

- Em muốn hát nhạc sống, và anh đờn cho em hát.

- Lão bà ơi, sao dạo này điệu vậy?

- Thì thay đổi bầu không khí. Vả lại, mấy bản nhạc em thích buồn quá, hát rơi nước mắt...

- Những bản nào?

- Hoài Cảm của Cung Tiến, Hoa Soan Bên Thềm Cũ, Mắt Biếc, vì chúng mang tâm tình của tác giả, nhưng buồn thúi ruột.

- Em hát những bản nhạc ấy hay lắm mà.

- Em thích chúng, nhưng đó không phải là tâm trạng của em, đôi khi bị hiểu lầm chăng.

- Không sao đâu, anh không hiểu lầm là được bởi chúng chỉ là những bài hát đã nổi tiếng từ xưa.

- Em không muốn bị phản cảm. Hát chúng, em cảm nhận được tâm tình nhạc sĩ nên hòa tâm hồn vô đó; bởi thế phần nào cũng khiến lòng em chùng xuống. Hay thì có hay, có thể nói rất trung thực nhưng không giúp lòng người hướng lên.

- Vậy em muốn hát bản nào, sao không nói trước để dợt...

- Em muốn hát bản Hành Trình của anh.

- Ah, cô định bốc tôi đó phải không. Nói thiệt đi, cô có ý gì? Thanh nhìn vợ đằm thắm, mỉm cười nói ghẹo. Cô muốn chi không được, bởi xưa nay tôi có ngăn cấm hoặc than phiền gì về cô đâu, Thanh quàng tay ôm sát vợ đoạn hôn lên mái tóc.

- Cái anh này, bộ anh nghĩ em không hiểu gì về anh sao. Mấy bản nhạc anh viết mang ý tứ nhận định thâm trầm dẫu chất chứa nhiều giả định, nhưng nặng về nhận thức nhân sinh; em thích chúng nhưng ngại hát bởi e người ta nói chồng hát vợ khen có vẻ đào kép quá.

- Vợ hát chồng khen chứ.

- À há, nhận định trật lấc rồi ông ơi. Người ta nói theo kiểu “Đi khám bác sĩ” mà.

- Em hát, anh đàn.

- Nhưng bản nhạc do anh sáng tác.

- Thì đừng giới thiệu.

- Ôi, cái ông này, chẳng giới thiệu thì cả làng đều biết, chẳng khác gì câu nói, “Hãy nói nhỏ cho kẻ điếc nghe rõ hơn.”

- Giỏi a! Lý do gì khiến dạo này em...

- Thông minh hơn chứ gì. Lâu rồi ông ơi. “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.” Chẳng lẽ gần đèn vẫn tối um.

- Có thể em thông minh hơn anh nghĩ. Nào, vô nhà, mình dợt thử.

- Ba đang ngủ.

- Bố không phiền đâu! Bố nói giọng em hát hay lắm. Con dâu của bố ngoan, biết chăm lo cho con cái, hiền hòa, ý tứ, có giọng hát hay thì có gì đáng phiền đâu. Vô nhà, hát.

- Em muốn hát thêm bài Lệ Hồng.

- Bài đó buồn muốn chết luôn, hát làm gì.

- Có phải nó là thành quả của lần anh bị bò đá?

- Anh có mỗi con bò và cũng chưa bị đá sao có thành quả bò đá.

- Anh nịnh đầm giỏi nha; nhưng sao viết bài hát buồn đến như thế.

- Có lẽ anh lãng đãng bẩm sinh, hoặc quá đam mê như em biết. Khi làm việc gì hoặc suy nghĩ gì, tất cả tâm hồn anh chìm nơi đó nên khi viết bản nhạc Lệ Hồng, anh tưởng tượng mang tâm tư của một kẻ thất tình... nói cho đúng, bị người yêu bỏ theo kẻ khác.


Chị Thanh hát say mê; Thanh không ngờ bài hát của mình được chị diễn tả tuyệt vời như thế. Ông Huyền, bố Thanh đứng ở cửa phòng nhạc lúc nào, im lặng nghe hát.

- Em hát thêm bài Bao Giờ Biết Tương Tư.

- Bài đó không có gì nói lên nỗi lòng kẻ thất tình, chỉ phớt qua phiến diện dẫu phần nào đó đánh động tâm tình thính giả. Thêm nữa, câu, “Tình yêu cuối đời” mang vẻ bôi bác nên em không thích mặc dầu nhiều người thích. Chợt chị trông thấy ông Huyền nơi cửa.

- Ba, chúng con phá giấc ngủ của ba.

- Con hát hai bài thật có hồn khiến lòng người rung động. Hai bài này của nhạc sĩ nào vậy?

- Anh Thanh viết đã lâu nhưng con ngại hát bởi e người ta nói mèo khen mèo dài đuôi.

- Thì mèo nào chả đuôi dài. Thanh cười cười nhìn vợ; hướng qua ông Huyền, tiếp,

- Bố xem con dâu bố đó, lão rồi mà cứ như thời mới cưới ấy, đoạn nói với chị Thanh,

- Dợt thêm một bài nữa rồi đi ngủ.

- Anh thích bản nào?

- Anh có biết mình thích bản nhạc nào đâu? Bài nào cũng thế thôi.

- Hay bài Ngỡ Ngàng.

- Ủa, em lục ra ở đâu vậy. Bài này lâu lắm rồi và anh cũng không nhớ nó thế nào nữa; mà em định hát cung nào.

- Ở trên net, để em in ra. Chị Thanh bấm máy điện toán.

- Em cho nó hát.

- Chỉ có nhạc không à, chưa có ai hát..

- Có mà.

- Chưa... Em mới vô net.

- Thì sắp…

- Trên net cung D, hơi cao, em hát cung A. Sao anh chấm nhạc cung cao quá vậy, ai mà hát nổi.

- Những người thực sự muốn hát sẽ có cách hát. Đưa cho anh bản in.

- Dợt thì dợt vậy thôi, em nghĩ chỉ nên hát tối đa hai bài. Một bài khởi đầu và nếu cần thì thêm sau này bởi nên dành cho khách.

- Coi chừng em phải hát bốn bài.

- Bộ anh nghĩ em đi “show” sao.

- Không phải đi show, nhưng sẽ bị yêu cầu bởi nhạc sống. Sẽ có người chơi guitar và nếu anh tính không lầm, có thêm cây saxo nữa. Anh nghĩ, em nên chuẩn bị năm bài, coi chừng nhiều hơn nữa.

- Cái gì mà nhiều hơn nữa; bộ anh muốn em độc diễn không để cho người khác hát sao?

- Theo anh biết được, ít nhất trong tháng này có sinh nhật của bốn người. Bố này, ông Thung này, bác Tài, và em nữa. Anh định viết bản nhạc mừng sinh nhật mà chưa biết khởi đầu ra sao, không hiểu có kịp chăng. Anh đã đặt bánh sinh nhật, sẽ có người mang đến, và mai phải mua thêm mấy chai Champagne nữa. Hay em nghĩ giùm anh câu khởi đầu.

- Sao anh không viết sớm hơn.

- Anh mới nghĩ đến lúc nãy khi em đề nghị hát nhạc sống; thế nên ngày mai anh sẽ gọi điện thoại mời anh Huynh ở New Orleans mang cây saxo tới cũng như Tính của ca đoàn nhà thờ mang theo guitar. Do đó, anh nghĩ, thời gian sẽ kéo dài hơn; đồng thời ngoài món gỏi cá, cần nấu thêm nồi bún bò Huế và vài đĩa bê thui. À, mà nhà còn tương ớt không…

- Yên trí “nhớn,” chị Thanh nói giọng Bắc, nhẹ mỉm cười. Những thứ phụ thuộc, mắm, ớt, hành tây, hành ta, tỏi, thính, mè, gừng sẽ có đầy đủ. Nhưng ba à, ba tính chừng nào thì về tới nhà.

- Xem nào, ông Huyền nhẩm tính, mai là mùng 7 âm lịch, con nước bắt đầu lên giờ dần và đẫy vào giờ tỵ. Nếu đi lúc 5 giờ sáng, bẩy giờ tới nơi tức là giờ thìn, câu cỡ một tiếng thì có thể về tới nhà vào khoảng giữa giờ tỵ, như vậy khoảng 10 giờ sáng.

- Sao ba biết con nước lên giờ dần, chị Thanh hỏi.

- Con quên câu, “Mùng năm, mười bốn, hăm ba, đi chơi cũng lỗ nữa là đi buôn.” Trước hôm kia tức mùng 4, con nước ròng lúc nửa đêm thì sáng mai nước lên lúc 5 giờ sáng. Con nước lên sáu tiếng, ròng sáu tiếng, và con nước mỗi ngày cách nhau hai tiếng.

- Vậy sao lại tính mùng năm, mười bốn, hăm ba, thưa ba; chị Thanh hỏi tiếp.

- Những ngày mùng năm, mười bốn, và hăm ba âm lịch là những ngày con nước lừng, tôm cá không di chuyển nên khó bắt được tôm cá. Những ngày này quai đáy không được, những ghe đánh tôm bắt cá cũng chẳng được bao nhiêu nên mới có câu đó.

- Con sẽ viết giấy nói ba đứa nhỏ ở nhà kê bàn, sắp ghế. Mai mình ăn sáng trên thuyền với cơm nếp nấu đậu phọng và muối mè đường nghe ba. Chút nữa con sẽ ngâm đậu phọng.

Âm nhạc từ chiếc keyboard nổi lên, và chị Thanh cất tiếng hát. “Đã bao năm rồi, tôi đi tìm chính tôi…” Giọng chị mượt mà, thêm phần khắc khoải diễn tả nỗi thao thức nội tâm một người muốn nhận biết giá trị thân phận làm người nơi cuộc đời.


Buổi sớm, khí trời hơi lạnh bởi đã chớm vào mùa thu; mặc dầu trời đã sáng rõ dù chỉ mới năm giờ. Con thuyền êm ả lướt nhẹ hướng tới cửa vịnh; hòa theo tiếng máy nổ ầm ì dưới khoang. Chị Thanh bưng nồi cơm nếp đặt lên chiếc ghế cao nơi phòng lái giữa khoảng ông Huyền và anh Thanh đang đứng.

- Sao em mang cả nồi theo...

- Trăm điều thông minh thế nào cũng có một điều dại.

- Em nói sao, vậy mấy đứa nhỏ ở nhà.

- Chúng nó là con riêng của anh sao, chị Thanh nói trong khi đặt hũ muối mè pha đường lên “cốp” phòng lái.

- Nhưng...

Chị Thanh mở vung nồi, lấy chiếc muỗng lớn gạt cơm chỉ còn một nửa sang bên đoạn cạy lấy một nửa lớp cháy mềm phía đáy bỏ vô đĩa, rắc muối mè đoạn đưa cho ông Huyền,

- Mời ba...

- Hèn chi bố cứ khen con dâu của bố là ngoan.

- Thì bố khen con dâu của bố chứ có khen con dâu người ta đâu mà anh phải ghen. Chị Thanh miệng trả lời, đôi tay nhẹ nhàng lấy cơm nếp ra hai chiếc đĩa kèm thêm phần cháy còn lại được chia đôi, đặt trên cốp. Ông Huyền thích ăn cháy “ốm” cơm nếp nấu với đậu phọng. Dĩ nhiên, cháy ốm cơm nếp đậm đà. Cũng phải công nhận chị Thanh khéo nấu để có cháy cơm nếp. Thay vì đổ gạo và nước vô nồi rồi bật công tắc điện, chị lấy nồi ra nấu cơm trên bếp và cho hơi già lửa trước khi đặt qua bếp điện tránh bị cháy quá. Nấu như thế vừa nhanh, gạo được đảo nên cơm chín đều. Khi cơm chín vừa tới, chị dùng đũa rấc thêm một lần thành ra cơm không bị đóng bánh khi xới nên trông gọn gàng, hấp dẫn.


Ông Huyền quan sát trời mây đoạn nói,

- ”Ráng mỡ gà thì gió; ráng mỡ chó thì mưa.” Ông lập lại câu tục ngữ thời tiết đoạn nhẹ nhàng nói, chiều nay hơi gió, khi thuyền ra tới gần cửa biển. Nội trong tháng mười một dương lịch, phải đi câu một chuyến lấy cá ăn mùa đông. Trời đất này coi bộ năm nay khá lạnh. Mùa tôm năm nay thất quá, không biết cá mú sang năm sẽ ra sao.

- Hay ít hôm nữa, cỡ chừng hai tuần, bố với con đi câu ít nhệch về phơi để nhậu dần, bố nghĩ sao.

- Cũng được, về làm một bữa gỏi còn bao nhiêu thì phơi hoái hoái đoạn bỏ tủ đá, nhưng phải vô đầu tháng mười hai sò mới mẩy và nhệch mới béo.

Chị Thanh yên lặng nhai cơm nếp thầm nghĩ, không ngờ ông già coi bộ nhà quê nhưng kiến thức về biển rả, mây nước lại quá rành rọt. Hằng năm mấy lần theo ghe ra biển với cha con họ, được nghe đối thoại hay bàn luận về thời tiết cũng như tính toán con nước, hướng đánh tôm, nơi câu cá, lần nào chị cũng học thêm được ít kinh nghiệm và nhận định về sông nước. Có điều lạ, không hiểu sao Thanh có được kiến thức về sông nước khá rành rẽ để có thể bàn luận ngang ngửa với ông Huyền vì ngày xưa ông đã bao năm chăm chuyên hành nghề này. Những câu Ca Dao, Tục Ngữ thường được ông lặp lại mỗi khi tiên đoán về nhận định thời tiết. Dĩ nhiên, cũng đôi khi Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam đề xuất một đàng; thời tiết đất Mỹ chuyển theo một nẻo. Chẳng hạn, có lần khi vô gần tới cửa biển, trên trời, mây giăng cuồn cuộn; chớp giật đùng đùng, nhưng cũng may gió không lớn. Thanh ngâm nga, “Bao giờ sấm trước có mưa; bao giờ mẹ ghẻ có ưa con chồng,” rồi bình tĩnh lái thuyền về lạch. Chỉ mới qua hơn mười phút vừa lọt vô cửa vịnh, một trận mưa tầm tã đổ xuống. Thanh lại lần nữa lặp lại, “Bao giờ sấm trước có mưa; bao giờ mẹ ghẻ có ưa con chồng;” đoạn tiếp, “Thế ra Ca Dao ta không hợp với trời Tây.”


Sau khi ăn sáng cũng là lúc thuyền đã ngang hòn đảo “Deer Island,” có thể nhìn thấy từ đất liền, ông Huyền lấy một mồi giả y-nốc kết chùm nilon mắc vô dây một chiếc cần câu đoạn ra sau lái thuyền thả xuống nước chừng ba chục sãi. Hơn nửa tiếng sau, một chú cá dính câu bị thuyền kéo theo cong vòng cần câu; nước bung lên trông đến thích mắt.

- Ba, có cá mắc câu, để con kéo lên nghe.

- Để ba kéo cho, con cá lớn, coi chừng nó kéo con xuống nước.

Thanh cho thuyền chạy chậm lại, một con cá màu đỏ khá lớn, cỡ hơn 5 kilô, đầu hơi nhọn, nằm ngáp nơi sàn thuyền, trông gần giống như con cá hánh màu đỏ, vi vẩy phản chiếu ánh sáng hừng đông trông thật đẹp mắt.

- Cũng hơi lạ sao mùa này sao lại có cá này vô gần bờ. Loại cá này thường ở nước sâu ngoài khơi mà...

- Con cá này giống cá hánh nhưng màu đỏ; nó lớn quá ha ba.

- Nó là cá hồng, nhà hàng khá ưa chuộng và chỉ ở ngoài khơi nơi nước sâu. Con cá này thái gỏi thì tuyệt. Chỉ cần câu được vài con cá hánh nữa để làm giấm kể là quá đủ.

Lúc này, Thanh đã gài lái thuyền và bước ra phía sau; thoạt trông thấy con cá, anh hô lên,

- Cái nhóm nhậu này hôm nay may mắn a! Loại cá hồng này chỉ gặp may, không thể cầu; thế mà lại chui ngay vào gần bờ để lên đĩa, ha ha. Quay qua, anh mở thùng đựng đá, gỡ cá bỏ vô trong khi lẩm bẩm, “ Cầu mong không bằng gặp may; gặp may không bằng tốt số; tốt số không bằng ý trời;” có lẽ nên đổi chương trình lại. Anh tiếp, ăn gỏi cá hồng và cá hấp hay nướng thay vì bê thui; coi chừng hôm nay bắt cá mệt nghỉ.

Hơn tiếng sau, thuyền tới nơi đã định, Thanh cột thuyền buông lơi theo gió cách giàn khoan dầu hơn kém mười lăm sãi. Ông Huyền câu mấy con cá nhỏ xắt ra làm mồi.

Chị Thanh mắc mồi, quăng câu đoạn cắm cần vô kệ, quay vô bếp đun nước pha cà phê.

- Em ơi, Thanh gọi, coi chừng gẫy cần câu.

Đã quá quen với câu biển, chị Thanh lẹ bước ra khoang, nhưng không vội vàng hấp tấp. Không hiểu con gì mà lôi cong vòng chiếc cần câu kéo thuyền chuyển theo; một tay cầm giữa cần câu níu đứng lên, tay kia nắm cán cần câu rút khỏi chỗ cắm, đoạn đổi tay, dạng chân chèo, chị tỳ cán cần câu vào bụng, một tay nắm ngang cần lấy sức kéo ngược, mỗi lần hạ cần câu, tay phải vội quay máy thu cước. Con cá khá lớn, vùng vẫy dữ dội khi tới gần thuyền, và lọt vào chiếc vợt chờ sẵn. Cá thủ đỏ, anh Thanh tuyên bố khi kéo cá lên sàn thuyền. Cỡ chừng ba mươi pounds, anh độ chừng tiếp. Con cá dài hơn ba feet, vảy sáng bóng, lóng lánh hòa hợp với màu sắc đen, đỏ, vi, mang, kèm thêm chấm đen gần đuôi trông thật sặc sỡ, dễ thương.

- Con cá giãy mạnh thật; chị Thanh buông cần câu, vui vẻ nói. Bộ lòng hai con cá này xào hành tây ăn hết biết...

Cùng lúc ấy, hai chiếc cần câu của ông Huyền và anh Thanh ghì xuống. Hai đường dây câu bị kéo tiến sát vô và quấn lấy nhau. Chị Thanh nhanh tay nắm lấy đáy chiếc vợt giốc ngược con cá ra sàn thuyền, đứng vô giữa hai người đang quấn câu và chờ đợi; thêm hai con hánh, mỗi con cỡ 4 đến 5 pounds.

- Hai con này nấu giấm; con cá hồng thái gỏi; con sủ đỏ nướng; hai bộ lòng xào hành tây; bắt thêm hai hoặc ba con nữa nấu nồi cháo cá ăn cho nhẹ bụng. Ông Huyền lên tiếng.

Gần nửa tiếng sau, ba người bắt thêm hơn chục con cá hánh; riêng ông Huyền câu được con sủ đen ngang ngửa con sủ đỏ.

- Con sủ đen này chỉ lấy chiếc bong bóng và dạ dày xào với lòng hai con kia vì thịt nó có sán, không nên ăn. Miệng nói, tay ông cầm con dao nhỏ rạch bụng cá lấy ra chiếc bong bóng, dạ dày, rửa sạch, bỏ vô thùng đá và quăng phần còn lại của con cá xuống biển, rửa tay chuẩn bị trở về.


Tiếng máy thuyền nổ dòn, hình như lúc về nhanh hơn lúc đi, và cỡ gần mười một giờ trưa thuyền cập bến. Thanh xếp hai thùng cá lên chiếc xe kéo trong khi chị Thanh mang nồi cơm và hũ muối mè bước lên bờ. Ba đứa nhỏ nghe tiếng thuyền cập bến đã đợi sẵn; thằng lớn kéo xe cá vô sân; con bé út líu lo với mẹ phụng phịu sao không cho chúng đi câu.

- Các con ăn sáng chưa, chị Thanh hỏi.

- Dạ, rồi má. Thằng thứ hai nhanh miệng trả lời. Bé Linh phụng phịu suốt cả buổi sáng vì không được đi câu.

- Để hôm khác, ông nội nói trong tháng mười một sẽ đi câu một chuyến lấy cá ăn mùa đông. Các con chịu khó ngoan ngoãn học hành. Nhà có thuyền, mùa hè tha hồ câu. Tối nay vì nhà có đông khách, ba con muốn bắt cá tươi thái gỏi nên đi vội, đâu có giờ câu chơi. Quay sang bé Linh, chị Thanh mắng yêu, còn con bé này, học tới lớp chín, lớn rồi mà còn phụng phịu. Được ông nội cưng thì chúng con phải ngoan chứ. Con bưng nồi cơm này vô cho mẹ. Chị Thanh trao chiếc nồi cho con gái. Đoạn nói với thằng thứ hai, Tĩnh, con vô nấu nước pha trà cho ông nội.


Đoàn người kéo nhau về tới sân, chị nhờ Thanh lấy dao và búa cắt và bổ đầu cá, đem xào để nấu nước làm giấm gỏi và nấu cháo, lọc thịt cá để thái gỏi bỏ vô tủ lạnh. Những phần vi, vảy, ruột cá bỏ đi, chị băm nhỏ và đem đổ xuống mấy gốc cỏ mọc nơi bờ nước con lạch, gần bến thuyền; cá ngửi mùi đến kiếm ăn sẽ là cơ hội tốt cho những đứa trẻ câu chiều nay khi chúng tới. Điều chị ngại ngùng nghĩ tới nhất là phải sắp xếp thế nào để tránh tai nạn có thể xảy ra khi trẻ quăng câu không để ý nhìn trước nhìn sau. Lần trước, các gia đình trong ca đoàn đưa con cái tới hồ picnic; trẻ con thích câu; bố mẹ coi sóc con trẻ cũng thích câu; thằng bé con anh Hưng quăng câu thế nào mà lưỡi câu móc ngay vô cổ áo con bé Loan, may mà không xảy ra chuyện gì. Chiều nay trẻ tới; không cho chúng câu không được, chẳng phải trẻ con mà cả bố mẹ chúng; bởi nghe đâu mấy đứa nhỏ đã dặn dò nhau mang cần câu bỏ trong xe. Tất nhiên, lúc bấy giờ chị và chồng sẽ bận tối mặt, chỉ còn cách nhờ ông nội và ba đứa nhỏ; mỗi người dẫn dắt ba đứa khác, và nếu cần, nhờ thêm đôi người nữa; chị thầm tính toán.

Nghĩ đến những gì cần thiết phải giải quyết để ngăn ngừa những chuyện chẳng may có thể xảy đến, chị Thanh thầm tính, tụi trẻ không biết ăn gỏi; thêm vào đó, đã chắc gì chúng thích cháo cá, chẳng lẽ để đến lúc đó mới tính thì hơi phiền.

 - Anh Thanh, anh đi mua cho em ba con gà to ở Waltmart...

 - Mua làm gì, cá dư thừa; vả lại trong tủ đá có cả kho thịt gà.

 - Anh thử tính coi sẽ có bao nhiêu đứa trẻ tới! Em nghe đâu tụi nó dặn nhau nói bố mẹ đưa tới sớm để câu; đứa nào đứa nấy sắm sửa cần câu bỏ sẵn nơi xe từ tuần trước. Chúng nó đâu biết ăn gỏi; vả lại, cá nướng và cháo cá đối với chúng chỉ là thứ phụ, con nít bên Mỹ mà. Hơn nữa, gọi là cháo cá nhưng phải có nước gà luộc để nấu cháo. Đi đi anh, những việc lặt vặt kể như tạm ổn, chỉ cần hái lá thơm, lá mơ, sau đó thái cá kể như xong. Hôm nọ anh khen ông Tiên tiệm phở nấu giấm mẽ theo kiểu Bắc kỳ, hay nhân thể mời ông ghé chơi chiều nay và hỏi cách nấu giấm.

- Còn dặn dò gì nữa không; “Ra đi vợ đã dặn rằng...”

- Độ một tiếng nữa ăn cơm trưa, em sẽ nấu đầu cá với dưa và cà chua, cá hánh chiên và kho, cùng với rau diếp chấm nước kho. Ăn xong, em còn phải nhờ anh chút việc.

- Còn việc gì nữa thì nói hết cho rồi để đi luôn một chuyến cho gọn.

- Anh thử tính xem sẽ có bao nhiêu đứa trẻ theo bố mẹ chúng đến để đi câu. Em mới nghĩ sơ sơ, ít nhất cỡ chừng 16 đứa. Để tránh chuyện có thể xảy ra lúc quăng câu như lần trước đi picnic, em nghĩ phải chia trẻ ra thành từng nhóm ba đứa cho một người lớn coi, tránh cảnh đứa đứng trước, đứa đứng sau, câu cá không câu thành ra câu người. Mình có ba đứa nhỏ vị chi coi 9 đứa, nhờ ông nội coi ba đứa vị mới được 12; có lẽ phải nhờ thêm vài chị khác coi những đứa còn lại. Như vậy phải chia chừng 20 feet một khoảng dọc theo bờ lạch hai bên bến thuyền. Chuyện này anh phải làm.

- Ừ nhỉ, thế sao anh không nghĩ tới.

- Anh quên chuyện bác sĩ Gia rồi.

(Câu chuyện bác sĩ Gia: Bác sĩ Gia là bác sĩ gây mê, làm tại bệnh viện Veteran Hospital, Biloxi, Mississippi, qua đời khoảng năm 1997-1998). Khoảng thời gian 1990 đến 1992, ngài có 7 bác sĩ nam, trẻ, người Mỹ theo học gây mê tại bệnh viện dưới sự hướng dẫn của ngài. Nhân bữa tiệc kỷ niệm 37 năm thành hôn, ngài mời 7 bác sĩ đó tham dự bữa tiệc chung vui. Đang lúc chén tạc chén thù, một vị bác sĩ trẻ lên tiếng hỏi trong tình thân thiện, “Ông thày, hôm nay là ngày kỷ niệm thành hôn của ông thày; nếu tôi không lầm, gia đình ông thày xem ra rất hạnh phúc. Xin ông thày chỉ cho chúng tôi biết bí quyết căn bản để có được gia đình hạnh phúc sau những 37 năm chung sống.” Bác sĩ Gia lấy giọng nghiêm nghị trả lời, “Chúng ta nên nhớ, mình là đàn ông, là chủ gia đình; nên mình có bổn phận lo lắng cho gia đình. Tất cả những chuyện quan trọng nơi gia đình mình phải quyết định. Tuy nhiên, qua 37 năm lập gia đình, tôi chưa thấy chuyện nào đáng được gọi quan trọng để phải quyết định).

 
Một chiếc xe van hùng hổ xông tới ngõ; tiếng còi vang lên inh ỏi. Cặp vợ chồng trung niên và ba người con bước xuống sau khi xe đậu vô bãi cỏ trước sân. Thanh tiến tới chào hỏi,

- Sao hôm nay nhị vị và các cháu có giờ rảnh sớm sớm ghé qua tệ trang. Thanh tửng tửng nói theo kiểu văn chương kiếm hiệp vì biết Tình, dẫu ít nói nhưng chúa giỡn, chọc phá.

Chị Tình, nét mặt tươi rói trả lời,

- Em bảo nhà em nên sang nhà anh chị sớm xem có chuyện gì cần sửa soạn, giúp chị một tay. Vả lại, em cũng muốn mấy đứa nhỏ có thời gian quen biết và thân thiện với nhau hơn. Anh chị thấy đó, nơi xứ người này, mấy đứa nhỏ sống như Mỹ, thành ra em e chúng sau này trở thành quá cô độc, buồn chết đi! Chị Thanh, chị Tình hướng về vợ chủ nhà nói tiếp, nghe đâu anh Thanh nói hôm nay ăn gỏi cá Bắc kỳ, em muốn học nấu giấm mẽ Bắc kỳ ra sao mà anh Tình cứ tấm tắc khen tới, khen lui. Nhìn phần cá chị Thanh chuẩn bị nấu ăn trưa, chị Tình nói tiếp, chị mới đi câu về sao?

- Dạ, tụi em mới đi câu về sáng nay. Mời anh chị và các cháu ăn trưa với tụi em nghen. Em định nấu đầu cá với dưa và cà chua cho hai anh nhậu, chiên một ít và kho lấy nước chấm rau diếp. Năm nay thuyền bè nhà chị khá không?

- Cũng tàm tạm. Em có mang theo ít tôm nhỏ để làm mồi câu cho tụi trẻ, chị cho em mượn cái thau để ngâm cho tan đá.

- Ô, cảm ơn chị nhiều; em chưa kịp dặn anh Thanh mua mồi cho trẻ câu, nhà nghề có khác.

- Em cũng mang thêm 10 pounds tôm lớn để luộc. Chị xem có cần mua thêm hành, ớt, lá thơm không em đi chợ cho.

- Cảm ơn chị, em đã chuẩn bị đầy đủ. Bây giờ em nấu cơm trưa, cỡ nửa tiếng, bốn mươi lăm phút là xong. Nhà em gieo ít giống rau diếp; cấy được hai luống còn cả đám lớn, chị coi xem, nhổ một ít về ăn với cá nấu hoặc chấm nước cá kho. Năm nay thời tiết thuận hòa, rau ngon lắm. Đây, chị nhổ rau bỏ vô chiếc bịch này; chị Thanh cầm chiếc túi nilon bên cạnh giơ lên. Chị Tình bước theo chị Thanh hướng về đám rau diếp vàng rộm dưới ánh nắng. Thân rau cao hơn nửa gang tay, chen chúc một đám bằng mặt bàn trông ngon ơi là ngon.

- Rau ngon quá, chị Tình nói, mới trông thấy đã muốn chảy nước miếng. Chị gieo bao giờ vậy.

- Để xem, trước đây cỡ một tháng. Em đánh cấy ra hai luống hôm thứ tư. Mới bốn ngày mà nó lớn nhanh vậy; không ăn sớm chúng chen nhau sẽ rớt như sợi chỉ. Nhân thể chị lấy thêm ít hành hoa, mùi, ngò ôm, húng quăn, húng quế, về nhà khỏi phải hái.

- Thôi đi chị, nhà em cấy nhiều thứ đó lắm, cũng phải hái bớt cho chúng non, không hái rau thơm mau già lắm.

Hai người cứ như là chị em ruột, nhẹ nhàng, thân thiết. Chị Tình người miềm Nam, bản tính dễ dãi, không màu mè, hình thức. Chị Thanh học xong đại học, khi còn đi làm cũng đứng đầu một phân ngành của công ty nên quá quen với lối đối xử hiền hòa, thông cảm, thành ra hai cặp vợ chồng này rất thân thiện. Gia đình Tình đến sớm không có gì lạ. Chỉ mấy phút sau, chị Tình xách một túi rau diếp bỏ vô xe.

- Anh còn chưa đi bao giờ mới về ăn cơm trưa? Chị Thanh hỏi chồng.

- Ông ở đây coi mấy đứa trẻ; tôi đi chừng nửa tiếng trở về rồi mình nhậu. Thanh nói với Tình đoạn hướng về chiếc pickup bước tới.

- Ông có cần tôi phụ chi không? Ở đây đã có hai bà ấy.

- Cũng được, mình đi cho vui. Hướng về phía vợ, Thanh nói, hay là mình làm lẩu cá thay vì nấu.

- Vậy anh nhớ mua thêm ít cà chua còn hơi xanh...

- Anh thấy mấy cây cà chua nhà mình trái vàng ươm rồi mà.

- Ô, em quên, hay anh ghé vô tiệm Việt Nam mua dùm em gói bún, nhà mình hết bún rồi. Lẫu cá ăn với bún mới hấp dẫn.

- Nghe, còn thêm gì nữa không? Em có định xây thêm chợ bán thực phẩm Á Đông ngay ngõ cho tiện việc mua bán không, Thanh cười cười nói.

- Thôi đi đi, và về cho sớm.

Thanh dừng xe chờ Tình bước lên,

- Có lẽ phải mua thêm mấy đoạn cây về cắm cọc phân chia ranh giới cho trẻ câu chiều nay. Nếu không, trẻ quăng câu lung tung lỡ xảy ra chuyện chẳng nên thì phiền lắm.

- Vậy thì mua bó cọc được cắt sẵn khỏi phải cưa, cắt mất công.

- Ừ nhỉ, thế mà tôi không để ý. Có lẽ phải mua thêm cuộn ribbon vàng cột vào đầu cọc cho chúng dễ nhìn thấy.

 Thanh lái xe quẹo vô tiệm phở và dừng lại.

- Ông định uống cà phê hay sao mà vô đây?

- Không đâu. Tiện thể mời anh chị Tiên, và nếu có thể nhờ anh ấy làm giấm mẽ chiều nay, uống cà phê không?

- Không cần đâu nhưng cũng ghé vô chào hỏi một tiếng, chỗ quen biết mà.

Gần trưa nên quán phở khá đông khách. Nơi bàn trong góc phải, hai người đàn ông đang ăn phở, bốn vỏ bia xếp gọn một bên,

- Hai ông rủ nhau ghé vô nhậu hay uống cà phê; các bà ấy đâu. Mời ngồi, làm chai cho vui. Giơ tay ngoắc chiêu đãi viên, làm ơn cho hai chai Heinekene.

Thanh và Tình kéo ghế ngồi xuống, bạn bè quen biết không thể làm lơ.

- Cám ơn, chúng tôi đang vội đi mua đồ. Chị gì ơi, Thanh nói với người hầu bàn, đừng lấy bia.

Quay lại Thanh nói,

- Tối nay họp tại tệ gia, định vô mời anh Tiên nếu có thể tham dự và nấu dùm giấm mẽ ăn gỏi cá. Sáng nay, tớ câu được một con cá hồng cỡ hơn năm ký, một con cá đỏ cỡ 14 ký, hơn chục con hánh mỗi con ba, bốn ký. Ở nhà đang nấu lẫu cá, ghé qua nhậu cho vui; bây giờ tớ phải gặp Tiên, đoạn ghé qua chợ mua gói bún khô về luộc, ăn với lẫu.

- Hai ông vội đi đâu mà bia không uống. Tiên bước đến bàn kéo ghế ngồi trong khi hỏi.

- Tôi ghé vô mời anh chiều nay ghé qua ăn gỏi cá. Sáng nay tôi mới đi câu được ít cá khá ngon định thái gỏi. Anh có thể tới khoảng 5 giờ rưỡi được không? Chúng ta sẽ bắt đầu nhậu chừng 6 giờ đúng. Coi chừng trâu chậm uống nước đục. Có thêm món cháo cá nữa cho nhẹ bụng.

- Nghe... Vậy nhà ông đã có những thứ gì rồi, phải thành thật khai ra kẻo vẽ hổ không thành hổ mà thành chó thì phiền lắm. Thế ông định làm gỏi cá gì?

- Thì cá nào chả là cá; cá nào không ăn gỏi được miễn là nó tươi, chưa kho, chưa nấu. Chẳng lẽ đánh bẫy còn chê chó cái. Tình lững thững chêm vô.

- Ông muốn nói gì vậy? Ai không biết vợ cả, vợ hai, vợ nào cũng là vợ cả; thế sao lại phải xanh mặt khi vợ cả nổi trận lôi đình. Coi chừng bị thiến có ngày.

- Tôi câu được một con cá hồng cỡ 5 kílô, một con thủ đỏ cỡ 14 ký, mười mấy con cá hánh từ ba đến bốn ký, để làm gỏi chiều nay nên ghé qua cầu thợ làm giấm nhậu cho đã. Khoan khoan, để tôi gọi về nhà xem đã có những gì,

- Có chanh, có me, chưa có mẽ.

- Có tôm không?

- Có, Tình mới mang tới,

- Có thịt heo xay không,

- Quên, không để ý.

- Chắc chắn có trứng chứ?

- Để tôi hỏi lại.

- Không cần, nhưng cỡ bao nhiêu người tham dự?

- Cỡ chừng 15 người lớn và hơn kém 16 đứa trẻ lầng nhầng. Nhà tôi định nấu thêm món cháo cá.

- Nghe ông nói nấu cháo cá vậy đã có thịt gà chưa?

- Có chứ, có chứ, đang định đi mua ba con gà vì e một số trẻ không thích ăn cháo cá nên làm thêm món gà luộc cho chúng.

- Thế đã có những món rau thơm nào?

- Đầy đủ mọi sự từ lá mơ, hành, tỏi, ớt, ngò tây, ngò ta, húng quăn, húng đứng, riềng, sả, chỉ còn thiếu ngò ôm. Thanh cười cười diễu vì nghe đâu đã có lần vợ Tiên ghen lồng lộn bởi nghi chồng có tình ý với chị hầu bàn coi bộ khá hấp dẫn, mát mắt; dẫu từ ngày chị này làm bồi bàn, quán phở đông khách hẳn lên. Vợ Tiên đe sẽ nghỉ việc để ngồi tính tiền, giữ chồng. Tính tới, tính lui, suy nghĩ hơn thiệt, Tiên đành phải đề nghị với vợ nhờ cháu gái, gọi vợ bằng cô, mới xong năm thứ 2 đại học nhân kỳ ba tháng hè ngồi tính tiền. Hình như “Khi nên trời cũng chiều người” (Kiều); cô cháu vợ cũng khá xinh, dễ thương lại hoạt bát; hơn nữa, đang là sinh viên không bị mặc cảm nếu không muốn nói là dạt dào niềm hãnh diện của lớp trẻ; thành ra kiểu cách ăn nói vui tươi, niềm nở, cởi mở khiến quán phở càng thêm đông khách. Đã có lần Tiên tâm tình, nhờ sự ghen tương của vợ mà học được bí quyết dẫn dụ khách hàng.

- Thì ăn ngò rồi ôm, thế là đủ vị. Tình nói.

Biết Thanh và Tình chọc chạch, Tiên mĩm cười trả lời,

- Nói sao thì nói, miễn có thì thôi. Đàng này, có tiếng mà không có miếng, cũng có cái thú của nó.

- Thú đau thương, Thanh đệm vô.

- Đau thì không, thương cũng không, nhưng thị,

- Sao lại thị, một trong hai người khách ăn phở lên tiếng.

- Không đau, không thương thì oan, chẳng lẽ tiếc nuối, nhưng có còn hơn không, đàng nào cũng có lợi.

- Nhưng răng chẳng còn.

- Thà rằng hưởng thú đau thương còn hơn đau thương không có thú.

- Ôi, cuộc đời cũng lắm cảnh trở trêu, đã muốn làm kỹ nữ lại còn muốn lập đài kỷ niệm!

Hai người khách ăn phở khác đế thêm. Mấy người nói oang oang giữa bầu không khí ồn ào khiến khách hàng nơi những bàn bên cạnh nghe được. Một đôi giọng cười nổi lên.

- Nhưng vẫn sáng con mắt, Tình chọc bởi Tiên đeo kiếng.

- Chào anh Thanh, anh Tình. Gớm, bộ chiều nay mưa lớn hay sao mà hai anh nhẹ gót ghé qua. Cùng với tiếng nói, vợ Tiên tiến tới.

- Dạo này chị nghỉ việc để chăm lo hàng quán hay sao, hay chị định biến quán phở thành quán thi hoa hậu, Thanh cười cười nói.

- Em cũng đang định thế nên đã nói với nhà em mở thêm hai quầy tính tiền rồi mời chị Thanh và chị Tình ngồi làm mẫu, nhưng nhà em chưa chịu. Ông ấy bảo rằng khách hàng ở đây toàn là những bậc cao thủ khí công đầy mình, lỡ ánh mắt sắc bén quét vô khiến các chị ấy ốm bớt, mất lòng bạn bè thì biết tính sao. Thế các chị ấy đâu?

Vợ Tiên xinh xắn, khá vui tươi, và nhanh miệng, vì cùng lứa tuổi lại là bạn bè nên dễ thông cảm. Chị thích coi phim kiếm hiệp, cùng nhóm hát karaoke và thường hay tụ họp với nhau mỗi tuần nên trong sự giao thiệp giữa người quen, ăn nói tương đối thoải mái.

- Chào các bác, các chú. Con gái của Tiên tiến tới. Mẹ, rau mùng tơi để nơi đâu?

- Ô, chị có đứa em gái đẹp quá ha.

- Cái anh quỉ này chọc tôi hoài, già rồi.

- Tôi thấy sao thì nói vậy. Đi trên đường ai không bảo là hai chị em. Bộ tôi nói oan cho chị sao!

Phụ nữ, ai không thích được khen dù biết rằng đôi khi lời khen ám định móc máy hoặc lừa dối, chọc chạch, nhưng họ vẫn cứ thích, cứ cố tin để tự tạo cảm nghĩ lừa dối chính mình. Nét mặt chị Tiên tươi rói.

- Mẹ để ở tủ lạnh, góc phải, phía trên đó.

- Cháu nấu món gì vậy Huyền; Tình hỏi.

- Dạ, cháu nấu canh mùng tơi ăn với cà ghém muối.

- Cháu học lớp mấy rồi.

- Dạ sắp hết lớp mười một; cháu học cùng lớp với Bân, con của chú mà.

- Vậy mà chú nhìn không ra, cứ tưởng em của mẹ cháu.

- Yeah, chú nói đúng. Mẹ cháu đẹp và dễ thương lắm. chỉ thích làm eo chút chút thôi.

- Con gái nói xấu mẹ nha. Chị Tiên mắng yêu.

- Con nói tốt mà; con khen mẹ đẹp nè, có duyên nè. Thôi đi chị hai, giọng Huyền kéo dài.

Mấy người vui cười thoải mái vì nét nhí nhảnh dễ thương của Huyền.

- Vậy cháu phải nói với ba cháu làm thêm một quầy tính tiền.

- Thưa chú, làm thêm quầy tính tiền để làm gì?

- Đó là ý kiến của mẹ cháu mà; sao lại hỏi chú.

- Vô nấu canh đi con.

- Ấy da! Coi chừng cạn hết nước canh rồi. Cháu xin phép các bác, các chú. Huyền cúi chào rồi bước vội, biến mất sau cửa vô bếp. 

Còn thấy được nét nhí nhảnh, ngoan thương, và lễ phép của lứa tuổi đôi tám, đôi chín nơi hàng con cháu, lòng dạ người lớn vượng lên niềm vui khó tả. Ai không biết; ai không kinh nghiệm nơi cuộc đời mình; ai không đang thực chứng hiện trạng đổi thay chẳng ngờ nơi thế hệ nối tiếp. Được sinh vào cuộc đời nơi một xã hội quá đầy đủ tiện nghi, muốn gì có nấy, nhưng lòng khát vọng muốn có được gì tự mình, hầu đối đầu với tâm tình tự ty, mình chẳng là gì, đã khiến giới trẻ lạm dụng cuộc đời, lạm dụng mọi phương cách thực hiện để chứng tỏ mình là gì. Dĩ nhiên, với tuổi đời mới lớn, kinh nghiệm sống chưa có, phương tiện thì không trong khi nỗi thao thức muốn trở thành “cái gì” liên miên thúc đẩy, sớm tạo thành nỗi thất vọng do cảm thấy bị bó tay, bó chân. Từ cảm nghĩ tự ty này phát sinh ước muốn giải thoát, và thế là tuổi trẻ dễ bị rơi vô trạng thái liều lĩnh. Thêm vào đó, diễn trình phát triển thân xác đang thời kỳ sinh vượng thúc đẩy mạnh mẽ ước muốn vượt khỏi tâm tình tự ty, giới trẻ lao mình vào bất cứ phương tiện nào có thể tìm quên được coi như giải thoát thường được cho là cảm giác hạnh phúc. Nếu có cơ hội, bất cứ gì kích thích cảm giác đều được giới trẻ hân hoan thử nghiệm, chẳng bao lâu biến thành nghiện. Niềm vui vô tư như kiến tạo một con diều, đẽo một con quay, làm một bộ khếch để tiêu hao thời giờ nhàn rảnh và có được niềm vui tự nhiên, nhẹ nhàng với chúng bạn không có cơ hội phát triển, lại được coi như quá ư thô sơ, man di mọi rợ, không thể so sánh với những phương tiện sẵn có, chẳng hạn chạy xe đạp, video games, phim ảnh, internet. Nhưng rồi mọi phương tiện sẵn có sao che lấp hoặc thỏa mãn nỗi tự ty “mình chẳng là gì,” con đẻ của nỗi khát khao muốn trở thành gì như một bẩm sinh nơi con người; nghiện hút và tình dục sẵn sàng nhào vô thách đố thử nghiệm. Một số giới trẻ đã tự tàn phá đời mình, đóng cửa tương lai để rồi trầm luân khó thể thoát ra khỏi cảm giác vui thú nhất thời này.

Thanh còn đang mơ màng suy tư nhận định hiện trạng giới trẻ phát xuất từ nét dễ thương, vui tươi của Huyền, con gái Tiên thì Tình nhắc,

- Đi thôi, rồi ề à lên giọng, “Khi đi vợ đã dặn rằng, đi mau về sớm không lằng nhằng, lang thang. ” Có lẽ hai bà ấy đang đợi về ăn trưa.

Thanh vội đứng dậy nói đôi lời tạ từ đoạn cùng Tình bước ra khỏi quán phở.


Đúng 5 giờ 30 chiều, Tiên lái xe tới, mang theo giỏ xách bước ra khỏi xe. Chị Thanh trông thấy lên tiếng hỏi,

- Anh còn gì cần phải đem vô không?

- Không có chi đâu chị, tất cả nơi chiếc giỏ này.

- Anh dùng chai bia nha.

- Khỏi đi chị, để tôi làm giấm cho kịp giờ. Nghe anh Thanh nói mọi sự đã đầy đủ.

- Em và chị Tình sẽ làm theo mệnh lệnh của anh. Tụi em muốn thực tập để nhớ cho dễ. Hôm nay, anh làm “supervisor” để tụi em làm nhân viên học nghề. Nhiệm vụ của anh chỉ là ngồi ghế uống bia và ra lệnh thế là mọi sự sẽ hoàn tất.

- Vậy lỡ tôi thất nghiệp thì sao? Ai bày ra phương pháp này.

- Còn ai trồng khoai đất này nữa anh. Đây là kinh nghiệm khi còn đi làm em đã nghĩ ra lúc phải “training” cho những nhân viên mới; nghề của nàng mà.

Chị Thanh mau mắn bước về phía trước, tiện tay nhắc chiếc ghế gấp đặt gần bên tủ lạnh, đoạn mở tủ lấy chai Heineken đưa cho Tiên đồng thời tay kia với chiếc ly đưa tiếp.

- Không cần ly đâu chị, tôi uống từ chai cho lạnh.

Nơi bếp, hai con dao được đặt sẵn trên hai chiếc thớt hai bên lò nấu. Chị Thanh bước ra ngoài kiếm chị Tình trong khi Tiên dùng bật lửa mở bia. Trở vô bếp với chị Tình, mỗi người đứng bên bộ dao thớt, chị Thanh lên tiếng,

- Mời anh ra lệnh.

- Phi hành, mỡ, trong đó có cả tỏi.

Chị Thanh đưa cho chị Tình mấy nhánh tỏi, đặt mấy củ hành hương nơi thớt của mình, đoạn mở tủ phía dưới lấy ra chiếc nồi khá lớn đặt lên bếp và xoay nút điện, đổ vô nồi ít dầu ăn rồi bóc hành, đập dẹp, thái nhỏ, hốt bỏ vô nồi đã được chị Tình bỏ tỏi cũng được thái nhỏ bỏ vô trước. Mùi thơm hành tỏi được phi từ từ lan tỏa ngập bếp.

- Thịt heo xay bỏ vô quấy đều, tôm bóc nõn, ít bột ngọt, sả, gừng, riềng băm nhỏ, nước mắm chừng một phần tư độ mặn. Lấy một nồi khác nấu cỡ bốn tô nước lạnh, mở lửa thật lớn, bỏ phần cá làm giấm vô. Chuẩn bị mắm tôm, ớt, bốn trái trứng đập vô chén, đánh tan.

- Tắt bếp xào tôm thịt khi đã chín, lấy nồi ra khỏi bếp cho mau nguội, chuẩn bị máy xay sinh tố. Lấy năm trái ớt, vặt sạch núm và nếu muốn giấm có mầu, bỏ vô cỡ ba muỗng canh tương ớt...

- Như vậy cay quá sao ăn, anh Tiên, chị Tình lên tiếng.

- Không sao đâu vì ớt bỏ vô mẽ sẽ bị chất chua làm giảm độ cay. Cá hình như vừa chín tới, vớt cá ra đĩa, dùng xiên gỡ lấy thịt cá bỏ vô nồi xào tôm thịt đoạn tất cả cho vô máy xay sinh tố, cho vô chừng hai chén con nước nấu cá cho dễ xay. Khi đã xay nhuyễn, cho mẽ vô xay tiếp cho đều, đoạn đổ tất cả vô nồi nước nấu cá, quấy đều. Lấy ba muỗng mắm tôm bỏ vô một chiếc tô thêm ít nước lạnh, thêm trứng vô, quấy tan, đổ vô nồi giấm. Hết việc, mất nghề, hai chị thử nếm xem đã vừa chưa, nếu nhạt, cho thêm mắm, đồng thời nếu còn lòng lẻo, lấy ít “Corn stark” hòa vô nước lạnh, quấy đều từ từ rót vô nồi giấm. Nhớ từng ít một sao cho giấm có độ đậm đặc vừa phải dễ múc, dễ ăn tránh cảnh cái đi đàng cái, nước đi đàng nước.

Mới độ hai mươi phút, nồi giấm đã hoàn thành, nóng hổi, được mang ra chia đều trên ba chảo điện nơi bàn ăn đã sắp sẵn bát đĩa, rau thơm, cá sống. Hai chai nửa galon Crown Royal ngạo nghễ giữa hai bàn tròn dành cho người lớn giữa hai hàng ly sạch bóng đượm màu xanh lơ duyên dáng vây quanh e có đứa trốn thoát bất kỳ lúc nào. Muỗng, xiên, giấy ăn nơi dãy do hai chiếc bàn dài kê tiếp nối cũng đã được chuẩn bị. Trên một chiếc bàn dài kê riêng biệt, nồi cháo cá to tướng kề bên chiếc khay phồng lên được bọc giấy nhôm âm thầm đợi đoàn quân khai phá. Chồng đĩa giấy, chồng tô nhỏ âm thầm như chuẩn bị năng lực chất chứa thực phẩm chờ đợi.


Năm phút trước sáu giờ tối, người lớn đã hiện diện đầy đủ quanh hai bàn tròn, đoàn quân nhóm trẻ mười mấy đứa ào ạt xông vô miệng líu lo thích thú; đứa câu được con cá to, đứa giật sẩy chú rùa. Trong khi người lớn bắt đầu rót rượu, nhóm trẻ xếp thành hai hàng hai bên chiếc bàn để riêng, từng đứa tự động lấy tô, đĩa giấy đựng thịt gà luộc và cháo cá. Mấy đứa lớn biết rắc hành hoa thái nhỏ và rau thơm, tiêu, tương ớt; mấy đứa nhỏ học theo; hình ảnh dễ thương liên hệ tới đặc tính dân Việt, chỉ người Việt mới biết ăn nhiều thứ rau thơm có thể trồng quanh nhà. 

 

Ah! Nhóm trẻ cũng thử cuốn gỏi, dẫn đầu bởi Huyền, con gái Tiên. Từng em, tay cầm lá được cuốn thành hình phễu, đứa trước, đứa sau thứ tự xếp hàng gắp đôi miếng cá sống bỏ vô, đoạn múc giấm đổ lên trên, tạo nên một hình ảnh trông tuyệt vời ấm lòng người lớn đang nâng ly thưởng thức gỏi Bắc kỳ nơi hai bàn tròn. Chị Tình có lý khi quan niệm tạo cơ hội cho trẻ quen biết nhau tránh trạng thái tâm tư đơn độc sau này có thể xảy ra. Giáo dục đâu phải chỉ là lý thuyết suông mà cần sáng kiến thực nghiệm, cần môi trường, cần suy tư nhận thức. Văn hóa nào phải là những tư tưởng chết, được ghi nơi sách vở, mà luôn biến chuyển, sống động nhịp nhàng nơi cuộc sống trãi dài từ thế hệ này được tiếp nối bởi những thế hệ đang vươn lên kiến tạo tâm tình hòa hợp với hiện trạng nơi môi trường cuộc sống. Trên báo chí, các phương tiện truyền thông, internet cổ võ, lý luận, giá trị rau cỏ ảnh hưởng sức khỏe và khuyến khích con người ăn rau. Dân Việt dùng lá thơm tăng nét thi vị ăn uống như một truyền thống bất thành văn. Chẳng cần phải khuyến khích, không cần biết giá trị hữu ích, nếu ăn bún với rau muống chẻ, không có lá kinh giới, ai không cảm thấy như thiếu vị gì quan trọng. Một tô phở tuyệt vời nhưng không có giá sống, húng quế, ngò gai, vài cọng hành hoa thì thà ăn cơm không dễ nuốt hơn. Thịt gà luộc thiếu lá chanh xắt nhỏ, muối, chanh, ớt, thà ăn gà chiên. Rượu mận giả cầy, hoặc cờ tây, hay thịt rừng mà không có riềng, sả, lá mơ, dấm hoặc me hay chanh thì cứ đem kho mặn cho được việc. Văn hóa được thể hiện phần nào nơi cách ăn uống quả thực không đơn giản, nhưng được mấy ai để ý. Ai không thuộc nằm lòng mấy câu ca dao, “Con gà cục tác lá chanh; con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; con chó khóc đứng khóc ngồi, mẹ hời mẹ hỡi mua tôi đồng riềng;” nhưng đã mấy ai nhớ lá chanh xắt nhỏ khi ăn gà luộc! (Kinh Việt Nam, Tục Ngữ, Ca Dao). Muốn được thực nghiệm, cần điều kiện liên hệ giữa cộng đồng người Việt.

 
Nơi một cuốn sách nào đó ghi lại tường trình nhận định về người Việt của một vị truyền giáo được chép rằng; người Việt có tiếng nói như chim hót. Từ tiếng nói, người Việt lại sẵn mang đặc tính dễ dàng hát và thích hát; bởi những cung trầm bổng của âm nhạc rất thuận với âm thanh giọng nói dân Việt. Bình tâm nhận xét, gia đình nào có máy  karaoke, con cái họ nói tiếng Việt sành sõi hơn gia đình không có. Dĩ nhiên, thích âm nhạc, thích hát, lâu ngày phát âm được cải thiện. Đàng khác, kinh nghiệm sống chứng minh, người biết hai ngôn ngữ sẽ có nhận định, nhận thức, rộng mở hơn người chỉ biết một tiếng nói; mà đâu mấy ai để ý! Tạ ơn trời, tạ ơn người phát minh ra hệ thống karaoke, tạ ơn những hãng sản xuất những giàn điện tử vô tình đem lợi ích cho người dân Việt tha hương. Phải chăng cuộc đời là cơ hội cho con người thăng tiến nếu để tâm nhận biết. Tất nhiên, bài học nào không phải trả giá, “Ai nên khôn không khốn một lần!” Đáng thương thay cho những tâm hồn không chịu suy nghĩ để rồi vô tình rơi vào ngõ hẹp nhận thức, biến cuộc đời mình thành con ếch nơi đáy giếng, coi trời bằng vung.


- Cái món tay làm, hàm nhai này khiến ai nấy bận rộn thành ra mấy đài phát thanh được phép nghỉ. Hưng lên tiếng sau khi vét sạch chén gỏi hổ lốn đính kèm một nhấp rượu. Công nhận phê! Nhưng nếu tôi không lầm thì nước giấm hôm nay thi vị hơn hôm nọ nơi quán phở. Có phải bác Tiên nhà ta có thêm bùa phép gì, xin làm ơn bật mí cho nhà cháu giữ làm của riêng; Hưng ít nhiều ảnh hưởng kiểu nói Sỹ nhà con.

- Chả nói giấu gì, hôm nay tôi lỡ thất nghiệp. Chị chủ nhà và chị Tình “ép” tôi ngồi uống bia để cổ võ cho chủ thuyết nam nữ bình quyền; tất nhiên thành quả trổi vượt hơn. Nào có lạ gì, “hai đánh một, chẳng chột cũng què,” thi vị hơn đâu có chi lạ. Đàng khác, cá hồng và sủ đỏ chắc chắn mùi vị ngon hơn cá hánh; thêm vào đó từ lúc giấm nấu xong, tôi nếm thử và nhận ra mùi vị thật đặc biệt nên vẫn giữ trong lòng; định sẽ hỏi mùi và vị đó ở đâu bởi khi tra mắm muối, tôi không thấy hai chị thêm vào bất cứ gì. Có lẽ chị Thanh làm ơn giải thích giùm.

- Thưa bác và quý anh chị, anh Tiên phán thế nào, chị em chúng con tuân thủ không mảy may sai trật. Để con lập lại diễn trình nấu giấm nhờ bác, ba, và quý anh chị, đặc biệt anh Tiên phân định xem sao; chứ chính con cũng không không thêm bớt gì và cũng chưa bao giờ nấu giấm mẽ ăn gỏi theo kiểu này. Trước hết, phi hành và tỏi, xào thịt heo xay với tôm đoạn thêm một tô nước nấu cá cùng thịt cá đã gỡ xương, cho vô máy xay sinh tố rồi đổ mẽ và bốn trái trứng vô xay nhuyễn. Con phải xay thành hai cối sau đó pha chung trong một nồi lớn với nước nấu cá đoạn thêm nước mắm, ớt tươi, ớt tương, mắm tôm. Sau khi đã đun sôi, giấm hơi lỏng con hòa thêm “Corn stark” với nước lạnh và từ từ trộn vô cho đậm hơn. Cuối cùng nếm hơi nhạt, con thêm vô một ít nước mắm. À con còn quên, có thêm một ít bột ngọt. Anh Tiên thấy có thêm bớt chút chi khác không?

- Tôi không thấy bất cứ mùi vị nào khác, chỉ thấy nó đậm đà; nói cách khác, phải dùng tiếng thi vị hơn nhưng không thể đoán được gốc gác nó từ đâu.

- Thôi em hiểu rồi, đó là mùi vị nước mắm bố làm. Từ ngày bố làm nước mắm, nhà em không ăn được nước mắm mua ngoài chợ vì nước mắm nhà làm đậm đà lại có hương vị thanh thoát hơn và không cần phải dùng nhiều bột ngọt. Chút nữa, mời bác và quý anh chị thưởng thức đặc sản cây nhà lá vườn với món giả nem thích Bắc kỳ.

- Nem thính Bắc kỳ có thêm sản phẩm giả nữa sao? Sỹ nhà con tay trái cầm cuộn lá, miệng lên tiếng hỏi trong khi tay kia khua đũa gắp cá.

- Số là nghe anh Thanh nói mời bác và quý anh chị thưởng thức gỏi và nem thính Bắc kỳ, nhưng em ngại heo bên Mỹ này ăn thực phẩm sống chứ không được nấu chín như bên Việt Nam ngày xưa; nên nếu dùng thịt thăn nhúng nước sôi như bên Việt Nam rồi thái ra trộn với bì theo kiểu Bắc kỳ hơi nguy hiểm. Em nói với bố; bố cũng nhận định chẳng nên; bởi lỡ ra thì phiền cả đám, nên bố đề nghị dùng chân giò luộc vừa chín tới, bóc ra thái mỏng trộn thính, chấm nước mắm tỏi ớt, ăn cũng như nem. Hôm đến nhà cố Ủi lấy chân giò làm nem, thấy chiếc đầu heo ngon ơi là ngon; em mua về định bó giò thủ; bố đề nghị làm ché Huế nhậu cho đã; chút nữa mời bác và quý anh chị thưởng thức thêm món ché Huế bố mới dạy em làm.

- Như vậy, nhà con đề nghị, mọi người ngưng ăn gỏi để thưởng thức nem thính Bắc kỳ giả và ché Huế; bao nhiêu gỏi còn lại, nhà con bao hết.

- Bao cũng chẳng hết được đâu ông ơi; có ăn như hổ thì món cá hấp, thêm nồi cháo cá, một mình ông bao được chăng!

- Thế sao đủ rượu? Được đàng voi, chòi đàng tiên, Sỹ nhà con đặt vấn đề khi thấy hai bình nửa gallon, mỗi bình chỉ còn lại một phần tư. Đến lúc này, gỏi cũng chẳng còn bao nhiêu.

- Ăn gỏi uống rượu cho điều hòa âm dương. Nem thính và ché Huế cần dùng bia giải nhiệt mắm tỏi ớt. Cá hấp và cháo cá trợ tim, bổ phổi, điều hòa tì vị giúp nhẹ nhàng trung hòa men rượu làm tỉnh trí, no lòng, ngủ ngon giấc, không giật mình dù bị khều khều cũng không tỉnh. Thanh vẽ hươu, vẽ vượn, nhưng nhớ khi bác thuyết trình, nếu ngủ gật làm ơn ngáy nho nhỏ một chút,Thanh nói háy bởi Sỹ đông con.

- Thì tớ đâu biết nấu cháo cá nên khá tỉnh ngủ, vả lại, mẹ nó cứ quen thói khều. Sỹ nhanh nhẩu đáp vì biết bị kháy nên nói trớ.

- Cái ông ma này, vợ Sỹ la lên, vậy mà cũng nói được! Tôi khều ông lúc nào.

- Thì lúc tôi sắp ngủ; phỏng mình bà mà mang bầu được à! Bộ dễ lắm sao; bao nhiêu người cầu chẳng được. Không cám ơn thì thôi lại còn ra bộ oan ức!

- Vâng, tôi phải cảm ơn, vợ Sỹ nói, đoạn phì cười.

Cả nhà rộn tiếng cười, cười no ruột; cười vì tính chất ngộ nghĩnh, trẻ con của đôi vợ chồng bạn bè trung niên.

Xắp nhỏ đã ăn xong, chị Thanh kêu ba đứa con của chị bật đèn ngoài sân trước và chia đội cho trẻ chơi bóng rổ trong khi chị đứng lên dọn ra nem, ché, và nước mắm tỏi ớt cùng với hai đĩa lá thơm đủ loại. Chị Tình chia cho mỗi người một chiếc muỗng sứ dùng để ăn cháo cá. Sau đó, mở lò nướng lấy ra hai con cá hánh lớn, nóng hổi đặt lên hai đĩa, mỗi bàn một con. Bia được anh Thanh chuyền mỗi người từ thùng đá lạnh.

- Tuyệt vời. Không được thưởng thức nước mắm cây nhà lá vườn kể như chết nửa đời người. Hưng lên tiếng. Chị Thanh nói đúng. Mùi vị đặc biệt của giấm là do nước mắm tự chế.

Đậm đà vị cá, hơi đặm dẫu đã được pha chanh, hương vị nhẹ nhàng quyện với mùi tỏi, chanh, ớt tạo nên sắc thái khác thường và trỗi bật, vượt hẳn mùi vị nước mắm nơi thị trường khiến ai nấy dường như trầm lặng thưởng thức.

- Bác ơi, chỉ tụi con làm nước mắm nghen. Ngon quá! Vậy mà bao lâu nay anh chị Thanh giấu nghề, không cho ai biết tí gì.

- Anh cả, có nên phạt một chầu không? Ai đồng ý giơ tay! Sỹ nhà con mở máy.

- Nên phạt tội giấu nghề.

- “Cái lầy pải pạt lắp pồ, pạt dất dzồi pạt dì,” tiếng nói của Phủ vang lên.

Ông Thung tới giờ phút này đã hòa đồng thực thụ với nhóm nhậu dân chủ đa số thắng tiểu số. Có lẽ, riêng hôm nay được thưởng thức món gỏi tuyệt vời, nem, ché với mùi vị đặc biệt của nước mắm đã nâng cấp ông lên uống được những ba ly (three shots) nên cũng hơi ngà ngà. Được hỏi ý kiến, ông hướng về Thanh lên tiếng,

- Sao khổ chủ; chú có ý kiến, ý bọ thêm bớt chi không?

- Thưa bác, thưa ba, con xin trình bày lý lẽ hợp lý hợp tình, theo nguyên tắc thăng tiến tâm linh, bác thường khuyến khích khi trình bày hành trình thức ngộ qua các chủ thuyết. Nếu con không lầm, nguyên tắc đầu tiên là phải đối diện thẳng thắn với chính mình để nhận thực con người của mình, nhận thực bản lai diện mục của mình như Lục tổ Huệ Năng đề xướng hơn kém hai nghìn năm trước. Thứ đến lại cần phải tâm niệm lời dạy của Đạt Ma sư tổ và triệt để áp dụng từng giây từng phút nơi cuộc đời mỗi người; hầu thúc đẩy và tạo năng lực phát triển tiềm lực thức ngộ; bằng cách mở rộng tâm hồn đón nhận mọi thực thể tâm linh có thể xảy đến hầu nhận thực chân lý, và tránh thoát bản năng ỷ lại để rồi đóng cửa tâm hồn, do e sợ sai lầm, và đó cũng là phương pháp hạn chế tội độc nhất, tội vô minh. Cháu trình bày những nguyên tắc và lý do như thế phỏng đã đủ nền tảng chuẩn bị cho câu trả lời chưa ạ? Bác và quý anh chị xin cho biết nhận định.

- Đủ gồi, đủ gồi, Sỹ nhà con gào lên. Có gì thì nói toạc móng heo ra; lần phạt thứ nhất nhậu gì; lần phạt thứ hai uống chi. Ăn uống đâu cần lý lẽ hợp lý, hợp tình, ý kiến, ý bọ. Ý kiến đâu có thể khiến lòng ruột sửng sửng, lý lẽ sao thi vị bằng nước mắm cây nhà lá vườn. Hành trình tâm linh, thức ngộ cũng như giải thích bữa ăn, đâu no bụng được. Chỉ nhậu mới phê, mới nâng tâm hồn vượt lên trên cõi tâm linh.

- Chú Sỹ, mời chú im lặng để nghe bác trả lời chú Thanh. Bộ chú muốn bị phạt thế cho chú Thanh sao.

- Nhà con sẵn sàng, đâu có sợ. Tuy nhiên, làm như thế là cướp cơ hội thăng tiến của khổ chủ; sẽ khiến khổ chủ bị luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được nên nhà con đâu dám. Cái hương vị đạt ma này thế mà có lý ra phết. Bởi vậy, nhà con xin ngồi im, he he, cháu xin mời bác ạ.

- Anh Thanh, theo anh trình bày điều kiện dùng lý lẽ và nguyên nhân trình bày câu trả lời cho hợp lý, hợp tình, có lẽ chú Sỹ nhà con sẽ được phép cướp cơ hội thăng tiến tâm linh một cách hợp lý hợp tình chăng! Mời anh trình bày đối kháng.

- Thưa bác, thưa ba, Thanh lấy giọng nghiêm chuẩn lên tiếng. Thứ nhất, con chưa bao giờ học nghề đánh tôm, bắt cá. Thứ hai, nhà trường cũng chưa bao giờ dạy con đánh bắt tôm cá mà chỉ dạy con nghề điện tử. Thứ ba, nghề của con là điều hành cơ sở truyền thông dẫu học về điện. Thứ bốn, con không làm nước mắm mà ba con và nhà con làm. Thứ năm, giả sử dẫu biết làm nước mắm, cổ nhân đã dạy, “Cho bạc cho vàng, không ai đọc đàng đi buôn.” Mặt khác, các anh các chị đa số làm nghề đâm Hà Bá, đánh tôm bắt cá, nên biết rành rẽ cơ hội, và những ngành nghề liên hệ đến tôm cá. Hơn nữa, các anh chị đã cố tình ấp ủ và cố thủ tội vô minh, không chịu thử, không mở rộng lòng để tìm hiểu, đặt vấn đề, hầu cải thiện phẩm chất nước mắm mình dùng hằng ngày, lại cứ đóng cửa tâm hồn, để rồi ỷ y cho rằng không thể làm gì hơn vì đã có nước mắm tốn tiền mua tức là cố tình phạm tội vô minh; bởi tội lỗi do sự ngu dốt, không chịu suy nghĩ mà ra. Thế nên, nếu xét xử theo lẽ thưởng phạt, có công tất nhiên được thưởng, và có tội tất nhiên bị phạt; những anh chị cho rằng nước mắm tự chế thưởng thức tuyệt vời, thi vị, đều bị phạt để thưởng công cho những người kiến tạo cây nhà lá vườn. Con xin hết ý. Mời anh cả làm trọng tài tuyên án.

- Vậy thì tôi cũng bị phạt rồi; bởi tôi cũng khen nước mắm ngon. Ông Thung chợt đưa ra nhận định. Chú Sỹ, chú được phép cướp cơ hội thăng tiến tâm linh của anh chị Thanh; những anh chị em khác cũng lãnh đủ luôn. Ai phản đối, bị phạt gấp đôi. Trọng tài tuyên án. Ai bàn nhăng, tán cuội cũng bị phạt gấp đôi. Quả là chẳng bắt trộm được gà lại mất thêm nắm thóc. Ngón đòn gậy ông đập lưng ông không biết có được coi là bài học thức ngộ chăng!

Tuyên án lại cũng nhận án. Nói thì nói thế, ông Thung biết nào có ai sợ bị phạt mà ngược lại, ai cũng hồ hởi nhận phạt nên những nét mặt tươi rói, và bia vẫn cứ mở, đũa tiếp tục múa, chèo kéo nem, ché, cá hấp, và đồng thời muỗng sành khua lanh canh vô chén như e sợ nồi cháo cá không chịu cạn.

Lúc này, thằng con lớn của anh chị Thanh đã bật giàn karaoke lên và thử micro, keyboard. Huynh đến từ New Orleans và Tính thuộc ca đoàn cũng đang chuẩn bị nhạc cụ. Thanh đứng lên nói,

- Thưa bác, thưa ba, thưa anh cả, nhân dịp có sự hiện diện của bác, ba, anh cả và quý anh chị em, đồng thời tháng này cũng bao gồm bốn ngày sinh nhật của bác, ba, anh cả, và nhà con. Thế nên, bữa cơm rau muối cũng tạm gọi là tiệc mừng sinh nhật của bốn người. Riêng bánh mừng sinh nhật, cỡ chừng một tiếng nữa sẽ có người mang đến vì lúc này vừa được nướng xong và đang được trang trí cho thêm phần tươi mát và trang trọng. Bây giờ để thay đổi bầu không khí trong tiệc mừng sinh nhật và cũng để giải buồn cho những ai vô tình mắc tội vô minh, con xin được mời một trong những vị có ngày sinh nhật nơi tháng này trình diễn nhạc sống. Hướng về chị Thanh, anh nói, “Xin mời em.”

 

Mọi người vỗ tay hào hứng. Anh chậm bước tới cây keyboard; đứng kèm hai bên Thanh là Huynh và Tính; người đeo cây saxo, kẻ khoác cây guitar.

- Thưa ba, thưa bác, thưa anh cả, chị Thanh nhỏ nhẹ, nói về hành trình tâm linh, bước đầu tất nhiên cốt cán là nhận biết chính mình. Một trong những khía cạnh để nhận biết chính mình là hồi tâm để đối diện cuộc đời. Con xin trình bày bản nhạc đầu tiên để mừng sinh nhật ba, bác, và anh cả; đó là bài Hành Trình, tác phẩm do anh Thanh soạn đã khá lâu.

Âm thanh saxo réo rắt trổi lên giữa giàn âm thanh của keyboard cùng với tiếng đệm guitar, tràn ngập phòng như lấn át, kéo tâm trí mọi người chú ý. Và giọng nhẹ nhàng quyến rũ nặng phần kể lể, hồi tâm nhận định thân phận, “Vào cuộc đời tôi đi, tay trơn bóng chiếc” của chị Thanh chen vô như nhắc nhở mọi người hãy nhìn lại cuộc đời mình. “Xin, cho tôi xin được một lần nói lời trăn trối,” tiếng hát chợt nổi lên cao vút chẳng khác gì lời kêu van tận cùng của một kiếp người la lên từ cõi trói buộc vô phương đào thoát chỉ còn biết tắc nghẹn, than van trước khi buông xuôi, giã từ tất cả. Ai đã chưa bao giờ phải đối diện với thực thể cuộc đời như một vết hằn tâm tưởng, “Những gì làm tôi mê say là cội nguồn tạo niềm chua cay. Bao điều yêu dấu đã trở thành lưỡi dao ngọt đâm thấu tim tôi!” Người ta đâu cần biết tác giả đã nghĩ gì, kinh nghiệm những gì khi viết ra bài hát. Hình dáng thanh bai, duyên dáng dưới ánh đèn mờ ảo cất lên lời tâm sự hòa nhập âm thanh saxo, và đúng thời điểm nào đó, xoáy vô lòng người; tiếng guitar chẳng khác mũi tên nhắm vô nỗi lòng xuyên qua tâm trí. Hòa âm piano từ keyboard dồn dập đập mạnh giữa làn âm thanh strings ngậm ngùi nức nở, dường như thúc đẩy sự co thắt của lòng ruột khán thính giả hùa theo giọng hát van xin, “Xin, cho tôi xin được một lần nói lời trăn trối.” Chị Thanh rướn người, tay cầm micophone, tay kia giơ lên, ngửa cổ chẳng khác gì cố gắng ép hết tàn hơi của một người rơi vào cảnh cùng cực cuối đời, gào lên lời cuối. Hình ảnh ấy, những âm thanh ấy hòa quyện thu hút tâm tư mọi người về một mối; ôi thân phận con người, vào đời đơn độc ra đi lạnh lùng. Bao bon chen tranh sống, bao thắng lợi cũng như chua cay nơi cuộc đời, cuối cùng cô đọng lại cũng chỉ là vết hằn tâm tưởng, nỗi đau đeo đẳng kết quả của lưỡi dao ngọt cuộc đời xuyên thấu qua tim như thân phận kiếp nhân sinh. Ôi bao mơ ước, bao viễn ảnh, đều chìm vô quá khứ tô đậm nỗi thao thức mờ mịt, mông lung. Nào ai biết mình sẽ đi về đâu vì bản án tử tội được khoác lên ngay từ lúc mới sinh; không kẻ nào tránh thoát khi tới thời điểm kết cục. Phỏng cuộc đời là áng mây trôi lạc lõng về miền hư vô. Nếu cuộc đời chỉ là hư vô sao nỗi đau nhân sinh vẫn âm thầm gậm nhấm, sao niềm thao thức, khắc khoải nào đó luôn luôn dằn vặt tâm tư chẳng hề ngưng nghỉ!

Chị Thanh cúi chào khi chấm dứt bản hát trong lúc mọi người vẫn còn như đang trong giấc mộng. Tiếng vỗ tay cổ võ của Sỹ nhà con bùng lên ngay lúc giòng âm thanh chấm dứt khiến ai nấy chợt tỉnh hùa theo vỗ tay.

 - Bis, bis, mấy người la lớn giữa âm thanh tràng pháo tay đương thịnh. Chị Thanh tươi cười cúi chào lần nữa, đoạn giơ tay trấn áp cảnh ồn ào. Mệt quá, cho em nghỉ, xin mời quý anh chị tiếp tục.

 

Dĩ nhiên, thần thiêng cũng phải nhờ bộ hạ. Có được âm thanh nhạc sống, chị Thanh hát với hết tâm tình và năng lực của mình, quả thực sống động thu hút toàn bộ lòng ruột khán thính giả. Không ai có thể ngờ diễn xuất của chị qua bài hát lại tuyệt vời như thế khiến mọi người ngạc nhiên và hồ hởi. Dẫu quá quen với những tối cùng nhau hát xướng karaoke, nhưng tối nay hình như ai nấy cảm thấy đặc tính nào đó của nghệ thuật thứ bảy mang tâm tình mới mẽ mơ hồ nơi tâm trí. Xưa nay, hát thì hát, giữa chốn bạn bè thân quen cùng nhau hát để giải trí, để có được đôi phút quên trời, quên đất, quên tất cả những phiền hà tâm tư hầu vui chơi với những bạn bè đồng trang lứa. Lúc này, nhận thức về thân phận con người được lồng vào thế giới âm thanh du nhập lòng người đã kích động tâm trí chẳng khác gì cơn mưa bất chợt đổ xuống miền tâm tư khô cằn nắng hạn, khơi nguồn sinh khí hồi tâm nhận định cuộc sống. Qua sự trình diễn của chị Thanh, nổi lên nơi lòng mỗi người nhận định chẳng ngờ về nhận thức thâm trầm của Thanh đã bao lâu ẩn tàng không được mấy ai nhận biết, nay hiện rõ nơi lời ca của bản nhạc được sống động trình bày.

 
Tối nay, nhạc sống thay thế nhạc chết karaoke tăng thêm phần sinh khí cho nhóm nhậu. Người hát cảm thấy yên tâm hơn không phải lo lắng lỡ nhịp; bởi chẳng may lỡ nhịp, các nhạc công du di vớt vát thành ra quý tài tử bất đắc dĩ tha hồ vung vít múa gậy vườn hoang, và ai cũng có được cảm nghĩ hài hòa tâm tưởng bởi những tràng pháo tay tán thưởng khuyến khích. Có điều hơi lạ và đó là các nữ ca sĩ đêm nay mạnh dạn và điềm đạm hơn hầu hết nam ca sĩ mang nặng đầu óc ngà ngà vì men bia rượu. Không hiểu có phải họ bị khớp bởi màn trình diễn ca khúc Hành Trình do chị Thanh hay chăng, hoặc nhờ hơi men kích thích khiến họ mở rộng lòng cho lời tình tự nhận thức về cuộc đời từ lời ca thẩm thấu mà thái độ trầm hẳn, đối nghịch với những lần hát karaoke sau khi tâm trí lãng đãng do men rượu bia ảnh hưởng. Những lần trước, khi men bia rượu sừng sừng, giàn máy với hai chiếc loa tổ bố được mở hết cỡ, các nam danh ca gân cổ thi nhau hét; hình như men rượu gợi lại cảm nghĩ thân phận chẳng là gì nên cố thi đua với giòng âm nhạc ào ạt tuôn ra như muốn phá bung nóc nhà. Hai thùng loa với một người gào thét, thi đua chẳng để ai nói, ai nghe, nhất là kẻ hét; bởi dẫu hét to đến mấy thì một cái miệng qua hệ thống thu nhận hạn hẹp của micro cũng không địch lại hai chiếc loa hết cỡ phóng xuất. Mở nhạc vừa phải cho giọng hát nổi lên thì những cái đầu tơ lơ mơ không cảm thấy hứng đủ để hát. Thế nên, càng hét thì lại càng chẳng nghe thấy mình hét gì nên lại càng cố hét.

Hứng hét hình như mang đặc tính trớ trêu thế nào ấy. Nam danh ca khật khưỡng dẫu chụp được micro hay bị đẩy lên trình diễn, trình thì có mà nhiều lúc diễn thì không. Có những khi cơn hứng bất tử nổi máu lễ độ, diễn viên thưa bẩm tứ lung tung một cách thừa thãi; thêm vào đó giải thích nguyên nhân tại sao thích bài hát sắp diễn trình, đôi khi vô tình phanh phui những lầm lỗi cố tình che giấu đã bao năm nay để rồi ngây ngô bào chữa. Nơi nhóm bạn bè quen biết, cá đối bằng đầu, thế là những lời bàn vô, tán ra, chủ ý vẽ rắn thêm chân nhào nháo như đàn o­ng vỡ tổ, được phụ họa bởi nhận định thiên lệch về thực thể dân chủ tự do khiến cho sự rối ren càng thêm rắc rối, quân hồi vô phèng. Được cái, không ai để ý đến những chuyện nhỏ nhặt đôi khi phát sinh đôi chối. Bạn bè mà! Đã là bạn lại cùng một bè nên mọi sự đều được xí xóa dẫu chẳng hiểu có ai học được kinh nghiệm thăng tiến hay không. Và thường thì mỗi ca viên trình diễn hai bản nhạc. Ôi! Đầu óc đã ngất ngưởng thì nhịp hát cũng lung lay thành ra tạm gọi trình diễn lại trở thành hứng diễn. Thích vô thì vô, hứng ngân cứ việc kéo dài cho đã hơi men. Có lẽ phải sáng tạo thêm danh hiệu cho loại trình diễn này; thôi thì tạm gọi là men hát. Riêng tối nay, các nam ca viên sửng sửng chẳng kém chi những lần tụ tập kỳ trước; thế mà họ lại thừa thanh lịch tạo thế âm thịnh dương suy. Đã hai chị lên hát, vợ Sỹ nhà con và vợ Tình tiếp nối chị Thanh mà bên phái nam vẫn chưa thấy ai rục rịch. Khớp rồi chăng!

- Phe ta phải làm sao đi chứ, ông Thung lên tiếng, chẳng lẽ cứ để phái yếu thắng thế thì còn gì mặt mũi bầu cua. Chú Sỹ, chú Tình, chú Phủ, chú Hưng, sao mà nhịn giỏi thế?

- Chủ nhà chưa lên tiếng, ai dám múa gậy vườn hoang! Sỹ trả lời. Anh chàng ngổ ngáo sao hôm nay biết lễ độ đến thế!

- Thôi thì chú Thanh dẫn đầu tàu, ông Thung hướng về Thanh đề nghị.

- Thưa bác, thưa ba, cùng anh cả và quý liệt vị, nhà cháu mượn tiếng mừng sinh nhật bốn vị xin trình bày bản Gà Tơ Mắm Gừng. Quý vị cũng biết, bất cứ những gì quá độ đều khiến người ta đau. Nói theo Nguyễn Du, “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay” (Kiều), và lẽ đương nhiên, chỉ những ai ở trong chăn mới biết chăn có rận, thật khó kiếm người cảm thông.

Thanh nói nhỏ với Huynh và Tín, nhạc nổi lên, và anh tửng tửng hát. Khi hát đến lượt thứ hai, đám phái nam dường như choàng tỉnh. Vừa hết bài hát, Sỹ nhà con bô bô lặp lại một câu thơ Trần Tế Xương, “ Vuốt râu nịnh vợ con bu nó,” và thêm, khều khều bị nó đạp ngang hông. Hắn tiếp tục điềm nhiên xuất khẩu, thịt gà ăn lắm cũng chán chường; vợ già ngắm mãi sao mà thương. Và thế là tổ o­ng lại vỡ; kẻ bàn ra; người tán vô, bỗng chốc ồn ào như cái chợ.

- Bis, bis, Sỹ gào lên. Một bản chỉ mới thử giọng. Yêu cầu chủ nhà hát tiếp. Âm thanh nhạc sống tương đối nhỏ nên mọi người có thể nghe rõ lời yêu cầu.

- Thể theo lời yêu cầu, nhà cháu bị hát dẫu hôm nay giữ chân nhạc công, nhà cháu xin gửi đến bác, ba, và anh cả cùng quý vị bản nhạc với tựa đề Tình Yêu. Bản này nói lên thi vị của tình yêu có lẽ quý vị đã bao lâu nay tận hưởng; đặc biệt anh chị Sỹ nhà con. Tác giả của bài thơ chắc cũng trần thân cảm nghiệm thú đau thương đầy thi vị của thực thể được Lão học mệnh danh “Người biết không nói; kẻ nói không biết;” riêng nhà cháu lại càng không biết. Mời quý vị thưởng lãm. 

Lời ca bản nhạc Tình Yêu vừa chấm dứt, ông Thung đã vội vã thúc giục,

- Chú Sỹ, lên thôi đừng để phía mày râu mất mặt. Quả là “gần mực thì đen,” lại thêm ba cữ rượu hòa hợp với gỏi cá, cháo cá, nướng cá, nem, ché, khiến mát lòng mát dạ nên ông Thung hôm nay có vẻ hồ hởi cổ võ phái nam lên đài.

- Giời! Nào có mặt đâu mà mất. Sao anh cả không lên đi. Chợt ý nghĩ quậy phá nổi lên, hắn hô lớn, tôi đề nghị anh cả trổ tài. Bao lâu rồi anh cả giấu tài chuyên môn xít chó bụi rậm. Hôm nay đề nghị mọi người yêu cầu anh cả lên đài mở máy.

Cái chợ đang yên lành lại trở nên ồn ào. Mọi cái loa bên phái nam đều góp tiếng, mấy khi có dịp vui đẩy người vào ngõ bí, may ra có được đôi phút ngỡ ngàng.

- Các chú đa số, tôi chỉ là thiểu số.

- Dạ, chúng em đa số đề nghị, và bầu cử anh cả lên đài.

Ông Thung chẳng đặng đừng bước tới cầm micro lên tiếng,

- Lên thì lên. Cuộc đời này chưa ai sợ thằng này; ai nhất thì tôi thứ nhì; ai mà nhất nữa tôi thì thứ ba, chưa chết thằng tây nào.

Loạt âm thanh vỗ tay cổ võ nổi lên càng thêm ồn ào.

- Dô! Anh cả! Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đàng lắm kẻ còn dòn hơn ta, Phủ đế vô. Có cần chị cả phụ diễn làm thợ vịn lấy can đảm không? Hôm nay chị Thanh cố mời cho được chị Thung tham dự.

Chẳng ngờ, ông Thung lại hướng về phía vợ tửng tửng,

- Em ơi, tới đây xích gần anh chút nữa, ông lên giọng cải lương, cho tâm hồn anh hồi tưởng niềm lưu luyến phút ban… đầu...

Pháo tay nổ vang, cảnh ồn ào càng thêm hỗn loạn. Không ai ngờ được con người luôn đạo mạo hôm nay bỗng mở màn xả láng.

- Tôi xin hát bản,

- Không được, phải trình bày!

- Ừ thì trình bày bản nhạc, Xin Đừng Coi Tôi Như Kẻ Lạ. Tôi chỉ có một bài tủ ruột mà thôi, không bis không biếc. Anh em đồng ý thì tôi hát, không đồng ý thì tôi xuống.

- Đồng ý! Đồng ý! Có còn hơn không, có còn hơn không. Sỹ nhà con lớn tiếng ngâm nga và lên giọng,

- Yêu cầu cho anh cả tràng pháo tay.

Ông Thung nói nhỏ với Thanh, Huynh, và Tính. Âm nhạc nổi lên và ông cất giọng trầm trầm, “Hỡi những người đang sống quanh tôi...”

Mọi người ngạc nhiên vì chẳng ngờ ông Thung hát rất vững hòa hợp với cung điệu trầm buồn của bản nhạc như than thở, thiết tha, diễn tả nỗi lòng nhận thức thân phận cô đơn nhân sinh. Lời hát nói lên tâm trạng đối diện với lòng để nhận chân thực thể tâm hồn không giấu diếm, che đậy hầu mong tạo dựng liên hệ tình người. Dáng vẻ ông Thung phần nào hòa với âm nhạc; tiếng hát diễn tả nỗi âm thầm thao thức cộng thêm nét bơ vơ, lạc lõng giữa dòng âm thanh tạo nên cảm nghĩ như câu nói nào đó phảng phất trở về nơi tâm trí kẻ nghe, “Cô đơn giữa chốn đông người.” Chị Thanh cảm thấy lòng bâng khuâng, hình như nhận thức được điều đặc biệt nào đó về nghệ thuật trình diễn. Thực ra, được mọi người nhiệt liệt cổ võ sau khi hát bài Hành Trình; câu hỏi phát sinh nơi tâm trí của chị, họ nhiệt liệt cổ võ để khuyến khích hay vì lý do gì, chị tự hỏi. Tất nhiên, khi men bia rượu sừng sừng thì ồn ào, náo nhiệt đến độ lộn xộn đều là chuyện bình thường giữa chốn bạn bè quen biết; bởi ai cũng cảm nhận được tâm tình rộng mở không xét nét, chấp chiếm mà cảm thông, an hưởng niềm vui thoáng qua. Chị để ý nhìn; ông Thung có cử điệu rất bình thường, nếu không muốn nói là ông không để ý đến cử điệu lúc hát; mà phản ứng hoặc cử điệu của ông tùy thuộc tâm tình như phản xạ, hoặc diễn tả tâm tình chất chứa nơi lời hát. Hình như ông hòa nhập tâm tình vô bài hát. Từ nhận xét này, chị hiểu lý do tại sao được nhiệt liệt cổ võ sau khi chị hát. Chị đã hòa nhập tâm tình của chị vô bài hát, và thực sự phô bày nó qua giọng hát. Lúc ấy, chị không để ý đến cử điệu của mình nên hay không nên thế nào; mà chúng chỉ thuận theo tâm tình của lời hát phù hợp với âm nhạc. Chị đã hiểu được nên thế nào nơi nghệ thuật trình bày hát xướng.

Chị Thanh vỗ tay lớn nhất khi ông Thung hát xong. Chị vỗ tay cổ võ chính mình bởi nhận ra được nguyên tắc căn bản trình diễn âm nhạc. Chị Thung ngỡ ngàng, không ngờ ông Thung hát hay như thế bởi chưa bao giờ chị thấy ông hát với giàn nhạc. Mấy tên phá phách nhất lại càng ngỡ ngàng hơn. Họ cứ tưởng xưa nay ông Thung bề ngoài có vẻ đạo mạo như thế thì sao hát có thể hay. Nghệ sĩ thì tâm tính phải lãng đãng; ai không nghĩ thế; vậy mà ông Thung hát phê hết nước chê. Những tay chuyên nghiệp hát karaoke đành phải chấp nhận tự mình hạ đài nơi tâm tưởng. Dù không biết hát, bình thường ai cũng dễ hòa nhập tâm tình của mình với âm nhạc tùy theo cảm ứng. Ngoại trừ trường hợp đặc biệt, đa số người Việt dễ dàng hát theo nhạc karaoke dẫu biết nhịp nhạc hay không. Thì nào có khó chi đâu, nghe riết rồi cũng hát được; một bản nhạc nghe cả trăm lần ai mà không thuộc, phương chi lại thích hát. Nhạc đã có sẵn, chỉ việc bỏ đĩa hát vô máy, tha hồ mà véo von.

Ngoại trừ lần đầu tiên ông Thung hát, người ít hát nhất là vợ Phủ. Chẳng hiểu sao, sau khi hát, ông Thung lên tiếng mời vợ Phủ.

- Hôm nay em không hát được bởi chưa sửa soạn gì. Vợ Phủ từ chối.

- Tôi mà hát được thì bất cứ ai cũng hát được. Mời chị, nếu chưa kịp sửa soạn thì hát bài tủ chưa ai nghe, mới người, cũ mình nào ai biết đấy là đâu!

Chị Thanh ôm cánh tay chị Phủ nhỏ nhẹ, ông ấy nói đúng đấy, cũ người mới ta, cũ ta mới người, cứ hát phứa đi nào ai để ý; đoạn nhẹ đẩy chị Phủ tiến dần tới ông Thung để chị đón lấy micro.

- Thưa hai bác, các anh các chị, xưa nay em rất ít hát nơi công cộng; mà mỗi khi hát ở nhà thì anh ấy cứ giành lấy mà hát nên không có cơ hội phát triển. Em định đi Cali kiếm ông bầu tập dợt nhưng nhà em không chịu thành ra cứ ấm ức hoài.

Chị này xưa nay ít nói sao bỗng dưng giả đò tố khổ chồng; mọi người nghe chị nói diễu diễu phá lên cười ủng hộ. Sỹ nhà con đế vô,

- Chị khỏi cần đi Cali, tôi xung phong làm ông bầu.

- Cái ông ma này, để nghe chị ấy nói; cái gì cũng cứ đế vô. Chị Sỹ lên tiếng ngăn chồng.

- Anh đâu biết đánh đàn nên đâu thể làm bầu. Chị Tình ngồi bên chọc Sỹ.

- Ai nói tôi không biết đánh đàn. Bộ đàn bà không phải là đàn sao!

- Cái ông ma này, nói bậy! Chị Sỹ nói.

- Bộ tớ nói sai sao.

- Già rồi mà chưa nên nết, không nói được câu nào đứng đắn; không sợ người ta cười cho. Thôi im đi nghe chị Phủ nói.

- Xin cảm ơn anh Sỹ đã có lòng. Nhân tiện ngày vui, cháu xin gửi tới hai bác và anh Thung cùng với chị Thanh bài hát Nỗi Lòng tạm gọi là mừng sinh nhật. Chị quay lại nói với Thanh đôi câu. Tiếng nhạc trổi lên ngập phòng, và chị cất tiếng hát. 

Hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Một chị Thanh đã khiến thiên hạ sững sờ; thêm ông Thung làm chẳng ai ngờ, bây giờ lại chị Phủ. Phỏng rằng tại nhạc sống hay tại tài năng, không ai có được câu trả lời trung thực. Nhưng nghi vấn chỉ giới hạn nơi tâm trí phụ giúp cho tâm tình vui tươi. Có điều, phải công nhận ba nhạc công thật giỏi; nhờ khả năng âm nhạc, họ biến ca sĩ karaoke thành những diễn viên sống động.

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 5

 


Thời giờ hình như trôi nhanh khi niềm vui tràn lấp. Mới thoáng chốc mà một tiếng rưỡi vụt qua, nửa tiếng ăn nhậu và một giờ văn nghệ; tiếp nối là thời điểm bàn thảo tâm linh theo chương trình đã được quy định của nhóm từ thuở ban đầu. Những người muốn hát thì đã trình diễn hết lượt; ai cũng hài lòng với giàn nhạc sống, nhất là với những tràng pháo tay, những lời cổ võ. Ông Thung trở lại thái độ điềm đạm, nghiêm chỉnh cố hữu, tiến tới đón lấy micro, nhẹ giọng nhắc nhở,

- Thưa hai bác và quý anh, quý chị, được lòng ưu ái của anh chị Thanh với nhã ý đón mừng ngày sinh nhật của hai bác, chị Thanh và tôi; chúng ta đã có những giây phút tuyệt vời. Riêng tôi rất cảm động vì đây cũng là lần đầu tiên được chúc mừng ngày sinh nhật. Quý vị đều biết, người Việt chúng ta không để ý đến ngày sinh ngoại trừ lúc còn thơ ấu, được ghi nhận những ngày thôi nôi, đầy tuổi, đôi dịp đặc biệt như cưới hỏi, đỗ đạt trong cuộc đời. Chúng ta chỉ để ý kỷ niệm ngày từ giã cuộc đời của những vị đã có công sức bồi đắp cho gia đình, giòng tộc mong tưởng nhớ và ghi nhận thành quả của các ngài mà chúng ta đang được thụ hưởng. Thế nên, đặc biệt tối nay, chúng tôi chân thành cảm ơn anh chị chủ gia đã cho ăn ngon, khuyến khích các chị mặc đẹp, lại bày ra đàn địch sống động giúp chúng tôi hát hay hơn hay hát, hy vọng từ nay chúng ta có thêm truyền thống dễ mê khó chừa này. Và bây giờ, tôi xin được công bố chương trình đàn địch, hát hỏng tạm ngưng để tiếp tục với tiết mục tâm linh do cụ Tài đàm luận hy vọng giúp mỗi người chúng ta minh triết, thức ngộ. Nếu có ai nhờ cơ hội này đốn ngộ thì càng tốt.

- Đốn ngộ thì chưa đâu, nhưng đốn bia thì chắc như bắp. Sỹ nhà còn hai tay cầm bốn chai bia bỏ lên bàn miệng lè nhè.

Bia được chuyền đến những ai muốn uống tiếp, và mọi người, kẻ thì dùng hộp quẹt bật nắp chai, kẻ sắp xếp lại lối ngồi cho ngay ngắn, hay phưỡn ra, dựa vô lưng ghế một cách thoải mái.

- Chào quý anh chị, cụ Tài lên tiếng. Trước hết tôi có lời cảm ơn anh chị Thanh đã có nhã ý mừng sinh nhật, và cũng xin cảm ơn tới quý anh quý chị đã tham gia khiến chương trình ca nhạc thật sự sống động và vui tươi khuyến khích lòng người. Tối nay, chúng ta bước vào cảnh giới mới, những thực nghiệm giao hòa của Ấn học và Phật học đã mấy ngàn năm được áp dụng nơi Tây Tạng, được gọi là Mật Tông Tây Tạng.

Cụ đưa mắt nhìn qua một lượt thấy mọi người yên lặng chăm chú lắng nghe, lòng cảm khái thầm nghĩ, giữa cảnh ăn nhậu, hát hò vui vẻ, ồn ào mà buông bỏ hết để chú tâm nghe, khiến cụ thấy an ủi. Đã bao lâu nay chuyên tâm suy tư đồng thời nghiệm chứng hầu thỏa mãn khát vọng thầm kín luôn dằn vặt tâm tư, cảm thương cho biết bao con người sinh ra, lớn lên và qua đi không biết mình được sinh ra để làm gì, mục đích cuộc đời không dám nghĩ tới bởi không hiểu tại sao được sinh ra làm người nên đành chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống, sống chờ chết dẫu bao thăng trầm nơi kiếp nhân sinh dằn vặt, và dù biết rằng sẽ phải chết, nhưng ai cũng ngại ngùng khi nghĩ đến cái chết. Và bao thế hệ đã qua đi, qua đi mà vẫn không hiểu tại sao mình có kiếp người. Giỏi lắm và may mắn lắm, ai đó được cuộc đời ưu đãi, làm ăn khấm khá, tương đối đỡ chật vật kiếm miếng cơm manh áo và sống đến bẩy, tám mươi tuổi, khi sức đã mòn, không còn mơ ước bởi nhận biết có ước mơ cũng chẳng còn năng lực thực hiện, đồng thời nhận ra kết cuộc cũng phải ra đi tay trắng mà vẫn không nhận biết sống để làm gì, đành tạm than lên sống để chờ chết, mỗi ngày qua, thêm một bước gần nấm mồ. Bao nhiêu người, qua bao thế hệ đã ra đi về miền quên lãng; nhận thức này tạo nên nỗi lòng thương xót luôn thúc đẩy cụ nên làm gì, phải làm một chuyện gì. Nay đã hơn tám mươi tuổi, gần đất xa trời, mồ chôn đã được chuẩn bị, cụ vẫn chưa nhận định rõ phải làm gì cho thỏa lòng thao thức, muốn xóa bỏ nỗi ngậm ngùi của con người nơi kiếp nhân sinh triền miên đày ải thân phận làm người. Dẫu đã trọng tuổi nên tâm tính lắm khi khó hòa đồng với lớp người sồn sồn nhiều khi bia rượu sừng sừng ăn nói bạt mạng, cụ ngạc nhiên vì sự thay đổi của ông Thung, xưa nay phong cách vốn khép kín, đạo mạo, nhưng ảnh hưởng do tham gia nhóm nhậu đã có thể hòa đồng với họ. Từ nhận biết này, đôi khi cụ nhận thấy mình lắm lúc cũng khá khó tính; bài học lễ độ cuộc đời vẫn chưa hoàn chỉnh khiến cụ thay đổi, đối diện anh em nhóm nhậu với tâm hồn cởi mở, thông cảm hơn. Đặc biệt nơi bầu khí nghiêm trang lắng nghe giữa bối cảnh bề bộn đồ ăn thức uống, lòng cụ dâng lên niềm cảm khái tôn trọng. Với tâm tình này chợt thoáng qua, cụ tiếp tục lên tiếng,

- Qua những lần tiếp xúc bằng cách chia sẻ quan điểm đạo học và ăn uống, chung vui với các anh các chị, lòng tôi thực sự dâng lên mối cảm phục; hãy để tôi nói lên lý do tại sao. Ngay lúc này, chúng ta vừa ăn uống, văn nghệ văn gừng ồn ào náo nhiệt mà đã bình tâm định trí nghiêm chỉnh dồn hết tâm hồn cho đề mục đạo học; điều này đáng được cảm phục. Hơn nữa, qua những chia sẻ, giao hữu, anh chị em dám sống thực, nói thực, mở rộng lòng chấp nhận những điều hay cũng như những gì không nên không phải, không biện hộ, bào chữa, không tự ty cũng như tự tôn, và đó chính là thái độ minh chứng lòng khiêm tốn, chân thành; đây là điều kiện ắt có và đủ trên hành trình thăng tiến tâm linh. Dĩ nhiên, các anh các chị dẫu khác biệt về tôn giáo nhưng tôi thấy tôn giáo không trở nên vách ngăn liên hệ tình người hoặc bức cản tâm linh càng khiến tôi mộ mến. Hy vọng sự hiểu biết của tôi về đạo học phần nào đem lại lợi ích thăng tiến tâm linh nơi quý anh chị. Tôi đã nói chuyện với một vị linh mục, bạn tôi đã từ lâu, ngài đang nghỉ hưu; tôi sẽ mời ngài về đây nói chuyện cùng quý anh chị về Phúc Âm. Quý anh chị yên trí, đừng e ngại gì; vì đã từ lâu ngài và tôi nói chuyện với nhau về đạo học. Nhãn quan của ngài không hạn hẹp giống các vị cố đạo như quý anh chị thường tiếp xúc mà thực sự rộng mở. Tất nhiên, ngài có những thao thức tâm linh và mối thương cảm khá nặng nề đối với nhân sinh đã bao lâu nay. Có điều, tôi chưa biết nơi nào để ngài tiêu pha đôi tháng khi về đây giúp anh chị em. Nhà ai có phòng dành riêng cho khách và đồng ý ngài nghỉ lại cỡ hai tháng không, xin cho tôi biết để tôi mời ngài.

 
Bốn cánh tay giơ lên. Sỹ nhà con, ông Thung, anh Tình, anh Thanh.

- Nhà chú hơn kém tiểu đội lính tráng, ồn ào, rối loạn mà cũng đòi giơ tay. Ông Thung nói với Sỹ.

- Nhà anh chỉ có đôi vợ chồng lão buồn thỉu buồn thiu. Lúc hai người hú hí bày cuộc chơi thì ngài nói chuyện với ai? Lính nhà tôi đông, lắm pha cụp lạc, nhiều mối ăn chơi, chẳng đứa này thì đứa kia đưa ngài dạo phố, ngắm hoa, ngắm người, bò lạc, bò viên. Ngủ nghỉ thì đóng cửa phòng lại thế là yên ắng, quên trời quên đất sao lại không được.

- Cái ông quỷ này, ăn nói bậy bạ, chị Sỹ nhăn nhó.

- Để ngài ở nhà tôi đi! Hai vợ chồng tôi xông pha sông nước, ba đứa nhỏ đi học, tha hồ thinh lặng, nên thơ. Nếu ngài muốn rong chơi trên biển, thưởng thức cua gạch, tôm tươi vừa vớt lên khỏi nước thì mời lên ghe, đối diện với trời mây trăng nước già cũng biến thành trẻ. Tình hăng hái.

- Để ngài ở nhà tôi là êm chuyện. Muốn đi câu, muốn kéo tôm, ăn gỏi, đầy đủ phép tắc, lại có bố tôi, và tôi hầu chuyện nắng mưa. Nhà tôi gần bờ nước, muốn yên tĩnh suy tư thì tặng cho ngài chiếc cần câu.

- Vậy tôi sẽ mời ngài về nhà anh Thanh. Xin cảm ơn ông Thung, chú Sỹ, và anh Tình. Tôi sẽ gọi điện thoại thông báo với ngài. Để tôi tính xem, hôm nay chúng ta rảo qua Mật Tông Tây Tạng và Điểm Đạo Ai Cập. Lần tới chúng ta nói về Lão học và sau đó Trang Tử. Như vậy, cỡ hai hay ba tuần nữa ngài sẽ bay về đây. Hôm đó anh Thanh đi đón ngài với tôi, và bây giờ chúng ta trở lại vấn đề đạo học.


- Hôm nay tôi muốn nói tới Mật Tông Tây Tạng. Có anh em nào đã tìm hiểu qua chưa?

- Thưa bác, Sỹ nhà con vội lên tiếng, đã là mật tông, bí mật sao có thể biết. Có chăng chỉ biết được phiến diện.

- Cần gì phải phiến diện với phiến gạch phiến đá. Mật tông có nghĩa họ hàng, giòng giống nhà o­ng, chẳng lẽ người ta lấy mật từ họ hàng nhà kiến. Giọng Tình lè nhè diễu diễu.

- Hai chú im lặng nghe cụ giải thích. Ông Thung lên tiếng ngăn.

- Được gọi là Mật Tông vì đây là phương pháp truyền thừa được giữ kín thay vì phổ biến nơi đại chúng. Lý do chính là để ngăn cản hoặc giảm bớt sự lạm dụng do tham vọng cá nhân, hoặc vô ý thức mang hại đến chính người thực hành, thực nghiệm. Quý anh chị đọc nơi Ấn học đều thấy, một số người thực tập Yoga dang dở được ít năm có được khả năng mà đa số quần chúng gọi là thần thông chẳng khác gì thầy bùa, thầy ngải, và thế rồi lừa bịp, mị dân; chẳng những sau này họ lãnh kết quả tàn khốc mà còn tạo nên những khốn khó không kể xiết đối với những người nhẹ dạ, dễ tin, hoặc có những tham vọng thấp hèn thế tục. Do đó, trước khi được chấp nhận chính thức, tập sinh của mật tông phải trãi qua những năm tháng thử thách chẳng những về tinh thần, tính khí, mà còn về sự kiên trì, chịu đựng. Dĩ nhiên, bất cứ sự việc gì cũng đều như con dao hai lưỡi, tùy thuộc hành động và tâm ý người sử dụng. Bởi thế, Mật Tông Tây Tạng rất thận trọng trong việc theo dõi nhận định, và tìm hiểu căn cơ của những thí sinh theo học.

- Nhìn tổng quát, Mật Tông Tây Tạng thực nghiệm đồng thời hai phương pháp, Yoga nơi Ấn học và nghiệm chứng, hay quán tưởng nơi Phật học. Qua sự hiểu biết về Ấn học và Phật học, quý anh chị em có thể nhận biết rõ hơn về Mật Tông Tây Tạng. Những tính chất, khả năng của hành giả được tóm gọn nơi quan niệm về căn cơ. Sự thể được gọi là căn cơ này bao gồm nhiều phương diện mà nhiều hành giả trước tác những tác phẩm phân tích hoặc đưa lên những quan niệm phức tạp khiến cho người tìm hiểu quay cuồng vô định nơi những lý thuyết khác nhau. Hơn nữa, tùy thuộc căn cơ cũng như khả năng và kinh nghiệm của những tác giả, đôi khi những lối nhìn hạn hẹp cá nhân tạo nên vô số điều kiện khó khăn cho các hành giả học theo. Thí dụ, nơi Tục Ngữ, Ca Dao có câu, “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.” Phỏng chúng ta có thể chấp nhận như thế nơi thời đại này? Thế nên, nếu vị tác giả nào đó cố chấp với quan niệm đời cha ăn mặn đời con khát nước, sẽ đưa ra định luật tiến trình của hành giả lệ thuộc âm đức gia tộc, và như thế cũng phần nào ảnh hưởng tâm trí hành giả, đồng thời tạo nên cảm nghĩ nhụt chí hoặc ỷ y, lười biếng do phải chịu đựng thành quả không phải do mình tạo dựng. Thêm vào đó, Ấn học cũng như Phật học, qua các thời đại kiến tạo quá nhiều lý thuyết cũng như phương cách khác biệt càng làm cho hành giả bối rối. Tôi đưa lên một thí dụ đơn giản. Lục tổ Huệ Năng đề xướng chỉ một nguyên tắc thức ngộ, và đó là “Kiến tính thành Phật.” Nghe thì đơn giản, dễ hiểu nhưng khi bước vào nghiệm chứng, thực hành, hành giả phải đối diện với nhiều vấn đề thực nghiệm. Chẳng hạn, làm sao để kiến tính? Phương pháp nào để định tâm? Rồi nào quán tưởng, nào đại định, nào tiệm ngộ, nào đại ngộ, nào duyên, nào nghiệp, v.v… Hơn nữa, thử hỏi hành giả sao có thể nhận thực được căn cơ của mình thế nào và phương pháp nào mới hợp với căn cơ của mình nơi hành trình nghiệm chứng. Mới chỉ nêu lên sơ sơ một đôi vấn đề, chúng ta đã thấy con đường thức ngộ mịt mùng giữa cuộc sống nhân sinh muôn phần trắc trở. Sự thể này đã làm cho biết bao hành giả, ban đầu dẫu thực tâm, cố gắng đến mấy cũng dần dần nhụt chí. Đã có những vị thức ngộ có điều kiện, thiết tha với ước mơ thăng tiến tâm linh đại chúng sáng lập nên những tổ chức nhân sinh hỗ trợ cho các vị hành giả. Tuy nhiên, trãi qua một, hai thế hệ, ham muốn phát triển tổ chức mạnh bạo bộc phát làm mờ nhạt ước mơ nguyên thủy của vị sáng lập, và muôn ngàn lý thuyết phát triển tổ chức làm mưa làm gió thao túng tâm ý thành viên, lâu ngày dày kén, tham vọng thế tục đương đường thay thế mục đích tâm linh đồng thời làm mờ nhạt bao công trình nghiệm chứng của các bậc thức ngộ. Như mọi người có thể nghe đây đó những ồn ào về phật bà, đức chúa hiện ra, rồi thế nọ, thế kia nhan nhản, đầy tai. Nếu để tâm thanh tịnh, thử hỏi chúng ta nghe được gì? Chỉ những cứu này, giúp kia, phép nọ, tắc ấy, rối tung lên. Người người hao tiền tổn của hành hương xứ phật, tham bái, cúng kiếng, lễ phật, lạy chùa, cầu mong ân huệ. Kẻ chạy đôn chạy đáo xin khấn nơi này linh nghiệm, chốn kia thần thiêng, để rồi tiêu hao tháng ngày, tiền mất nhưng tật vẫn hoàn mang.

 
- Nói rằng pháp mạt thì có pháp đâu mà mạt; mà có chăng thì chỉ những thứ thực hành vô bổ, và rồi những tổ chức tâm linh trở thành những tổ chức nhân sinh được gọi là tôn giáo và được đặt trên nền tảng tin thờ, cúng bái qua nhiều hình thức. Tại sao phải tin? Xin thưa vì mình không đụng đến được, và nghĩ rằng, hay được tuyên truyền rằng, đó là sự thực để được yên lòng. Riêng vấn đề tôn thờ, cúng bái, ngay như đức Thích Ca cũng không một lời nào, mà có chăng, lại chống đối sự vội tin nơi những lời ngài dạy thiếu nghiệm chứng, lại càng không nói chi về cúng kiếng. Anh chị em có nhớ lời đức Thích Ca nói gì không? Ngài nói, Chớ vội tin những lời ta nói. Vội tin những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta. Thực ra, khi đã thực chứng hoặc nghiệm chứng rõ ràng thì có gì mà phải tin. Chẳng hạn anh chị em đã thực chứng được lửa nóng thì có ai nói phải tin lửa nóng, anh chị em có cần phải tin không? Hoặc ai đó nói lửa không nóng, chúng ta có cần suy nghĩ để tin không, và nếu có ai đó nói họ tin lửa nóng thì điều họ nói mang nghĩa gì! Tôi phải nói lên những điều này hy vọng quý anh chị em đặt lại vấn đề mỗi khi suy nghiệm về những thực thể hoặc kinh nghiệm; may ra đỡ phần nào luẩn quẩn với những lý thuyết tự trời rơi xuống; dẫu được đề nghị bởi bất cứ đấng nào, thành phần nào trước khi chúng ta tìm hiểu về thực chứng của Mật Tông Tây Tạng.

 
- Một điều rất rõ ràng đó là không ai có thể chia sẻ thành quả nơi những tiến trình thực nghiệm tâm linh cho bất cứ ai, và nếu có những hành giả nào ghi lại thực chứng của họ cũng không ai có thể chỉ hiểu biết mà đạt đến được. Sự thể này cũng giống như ăn uống, suy nghĩ. Không ai có thể ăn dùm, uống dùm, cũng như suy nghĩ dùm bất cứ ai. Thành quả nghiệm chứng tâm linh, ai thực nghiệm người nấy biết; chẳng khác gì kẻ đang nơi trạng thái yêu đương, người đang yêu cảm nhận thế nào, tâm tình biến chuyển ra sao không thể nào nói cho bất cứ ai. Sự thăng tiến nơi hành trình tâm linh chính là kết quả của sự nghiệm chứng mà những ai không nghiệm chứng dẫu cố gắng tìm hiểu đến mấy cũng chỉ là cái biết ngoài da, chẳng khác gì chiêm ngưỡng chiếc bánh vẽ; tri thức về chiếc bánh vẽ không thể nào khiến người ta cảm nhận được vị giác, khứu giác khi nhai một miếng bánh thật cho dù cố gắng tưởng tượng đến mức độ nào.

 
- Nơi cuốn sách The Third Eye, viết bởi lạt ma người Tây Tạng tên Lobsang Rampa vào năm 1956 được Nguyễn Hữu Kiệt phỏng dịch thành Tây Tạng Huyền Bí do Xuân Thu Xuất bản năm 1988 tại California, Hoa Kỳ, lạt ma Lobsang viết theo kiểu tự truyện. Ông sinh vào khoảng năm 1900, được nhận vào tu viện khi lên bẩy tuổi để được huấn luyện theo chương trình huyền bí nơi truyền thống Mật Tông Tây Tạng. Sau đó ông được gửi sang thế giới Tây phương để quảng bá văn hóa Phật giáo Mật Tông ra thế giới bên ngoài. Những gì tôi trình bày với quý anh chị hôm nay đều dựa theo tự truyện của lạt ma Lobsang qua lăng kính tổng hợp của Yoga và chủ thuyết kiến tính nơi Phật học. Quý anh chị có thể vô Wikipedia.org tìm phần tiếng Việt và đọc cuốn Tây Tạng Huyền Bí, bản dịch do Nguyễn Hữu Kiệt. Bản dịch này được chia thành 14 chương, bao gồm, Thời Thơ Ấu, Lời Tiên Tri, Tôi Chuẩn Bị Xuất Gia, Trước Thềm Chánh Điện, Đời Người Tu Sĩ Sơ Cơ, Đời Sống Trong Tu Viện, Tôi Mở Thần Nhãn, Tôi Yết Kiến Phật Sống Tây Tạng, Trại Hoa Hường, Tín Ngưỡng và Sinh Hoạt, Tôi Trở Về Nhà, Tôi Sử Dụng Thần Nhãn, Tôi Được Tấn Phong Lạt Ma, và chương cuối cùng là Một Cuộc Điểm Đạo Huyền Môn.

 
- Quý anh chị cũng nên để ý khi đọc sách; dù sao, chúng ta cũng không thể đọc hết những sách được viết chuyên chú về một vấn đề do nhiều tác giả. Hơn nữa, nhất là những bản dịch, vì không thể nào dịch cho đúng được cảm nghiệm hoặc tâm tình tác giả trước tác. Đàng khác, những bản dịch đều bị ảnh hưởng sai biệt của ngôn ngữ mà ý nghĩa hay ẩn ý tùy thuộc thời gian và không gian cũng như phong tục, tập quán, đặc biệt là ý nghĩa ám định được tác giả gán ép nơi ngôn ngữ. Như chúng ta quá thừa hiểu câu nói, “Đi khám bác sĩ,” hoặc “Nhổ răng không đau,” mà chúng ta thường dùng như một thành ngữ theo thói quen. Ý nghĩa của câu nói này thế nào, và nếu ai đó thông dịch hay chuyển dịch nếu không để ý về thành ngữ sẽ biến công sức dịch thuật của mình thành diệt ý mang hại đến độc giả. Một thí dụ khác; chúng ta thử dịch một nhóm chữ đơn giản tiếng Anh, “The underground group.” Tiếng Việt mình có nghĩa nhóm du kích nhưng nơi tiếng Anh họ nói như thế. Thử hỏi nơi trường hợp này, người dịch phải thế nào nếu không cưỡng ép bịa ra điều mình tưởng tượng. Thêm vào đó, có nhiều trường hợp dẫu dưới dạng hồi ký nhưng vì chủ đích quảng bá, tác giả trước tác cũng đành viết những điều mình chưa hoặc không thể nghiệm chứng hay thực chứng để rồi độc giả tưởng là sự thể có thật theo nghĩa từ chương, và cũng vì không thể nghiệm được nên phát sinh trạng thái hay lý thuyết phải tin, hoặc chấp nhận một cách vu vơ, chỉ kiến tạo thêm mộng tưởng. Điển hình tôi nêu lên thử là hai câu Phúc Âm, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta,” và, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi.” Nếu xét theo nghĩa từ chương, không ai thực hành hai câu này trong khi miệng vẫn hô hào tin và theo đức Kitô. Tôi thử hỏi anh chị em, ý nghĩ và lời tuyên bố tin theo đức Kitô nơi trường hợp này mang nghĩa thế nào, phải chăng chỉ nói cho qua! Riêng về những gì không hiện thực liên quan đến cuốn Tây Tạng Huyền Bí, nếu anh chị em nào muốn tìm hiểu, vô Wikipedia.org đọc bài viết, “Fictitious Tibet: The Origin and Persistence of Rampaism” do nhà chuyên khảo văn hóa Agehananda Bharati, đăng tại Tibet Society Bulletin, Vol. 7, 1974.

http://www.serendipity.li/baba/rampa.html. Chính vì thế tôi chỉ chia sẻ với anh chị em dưới quan điểm thực hành Yoga và kiến tính thành phật của Phật học.

- Bởi thế, quý anh chị đọc thì đọc để lấy kiến thức rồi nhận định tùy khả năng của mình. Điều cần thiết phải là cần biết mở rộng tâm hồn để nhận thức, và nếu muốn thực chứng, tôi nghĩ, nơi thời đại này và trong hoàn cảnh hiện thực, chúng ta nên dùng tri thức để nghiệm chứng bởi không ai có thể dành riêng cuộc đời để thực chứng; vì còn những bổn phận nhân sinh đối với gia đình và cuộc sống. Nhận xét như thế, chúng ta thấy, bất cứ hành giả nào muốn thực chứng đều phải có cuộc đời đặc biệt, và được sinh ra với một căn cơ cũng đặc biệt mới có được cơ hội thực chứng. Tôi muốn nói, thực chứng là phương cách tuyệt vời nhất, nhưng cần những điều kiện nhân sinh khác với chúng ta. Thế nên, tôi đặt nặng và khuyến khích anh em mở rộng lòng và dùng tri thức để nghiệm chứng mà thôi. Nói cho đúng, kiến tính cần tri thức để nghiệm chứng; dẫu thực chứng mang lại những kết quả thường được giới bình dân gọi là thần thông. Nhưng thần thông để làm gì? Để trở thành ông nọ bà kia thì ngược lại với hành trình tâm linh; bởi đó là ham muốn thế tục. Người nào được sinh ra để đạt đến những quyền lực đó thì lại không ham muốn quyền lực thần thông; như cổ nhân có câu, “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.” Thuyền to sóng cả; cây càng cao chịu đựng áp lực gió càng lớn. Người nào được sinh ra để làm lớn lại phải được rèn luyện, mài dũa nặng nề để có khả năng chịu đựng những áp lực bạo tàn của thế tục.

 
- Thế nên, dẫu thực hư thế nào, hoặc bởi ý định quảng bá kiếm môn sinh mà những điều tiết nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí được viết thêm thắt pha nhiều nét huyền thoại cho ăn khách, sự thể này cũng không ảnh hưởng gì tới hành trình nghiệm chứng tâm linh của mỗi người. Lý do dễ hiểu, chính là chúng ta không tìm tòi năng lực thần thông, không thiết tha tới việc kiến tạo con mắt thứ ba. Chúng ta thường nghe tới danh hiệu huệ nhãn; danh hiệu này chỉ về nhận thức tâm thức chứ không phải giống như con mắt nơi khuôn mặt mỗi người dẫu nhãn có nghĩa là mắt, nhưng huệ là trí huệ, đâu phải nhục thể. Thực ra theo tôi nghĩ, giả sử biết rõ ràng đường đi nước bước mà phải bỏ ra cả đời tu luyện để mở được con mắt thứ ba như được viết nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí thì tôi cũng không theo. Có câu chuyện thiền tông kể rằng, một vị chân nhân trước khi khởi hành chuyến viễn du dặn đệ tử độc nhất của ngài ở lại chăm chỉ tu luyện. Sau ba mươi năm viễn du trở về, vị chân nhân hỏi môn sinh đã đạt tới mức độ nào trong suốt 30 năm tiềm tu. Vị môn sinh hứng khởi khoe với sư phụ rằng đã tu luyện tới mức đi trên nước qua bên kia con sông gần nơi tu luyện. Vị chân nhân thở dài tiếc nuối trả lời, con hao phí quãng thời gian suốt 30 năm để đạt được công sức chỉ đáng mấy đồng kẽm đi thuyền qua sông.

- Sở dĩ tôi phải giải thích lòng vòng cũng chỉ vì ước muốn anh chị em để ý, khi đọc sách để tham khảo, cần có một nhận định chính xác thực hư, những gì có thể áp dụng và những gì bị phóng đại; nếu liều mạng thử, chắc chắn sẽ mang đến những hậu quả tai hại. Quý anh chị em có lẽ còn nhớ rõ hiện tượng “Thanh Hải Vô Thượng Sư” vào mấy năm cuối của thế kỷ XX, đã khiến cho một số người thuộc giới trí thức ham mê quyền lực tâm linh tán gia bại sản, gia đình tan nát đổ vỡ. Nào truyền tâm ấn, nào uống nước tắm vô thượng sư, thôi thì muôn mặt truyền bá, ca tụng, ồn ào, náo nhiệt và cuối cùng ra sao, tôi không cần phải giải thích. Một số vị chân tu thâm nghiêm chứng nghiệm có lên tiếng, nhưng nào ai thèm nghe. Dân chúng là thế, chạy đôn chạy đáo cầu may, không chịu tìm hiểu, suy nghĩ, nghiệm chứng, nên vô tình đã trở thành những con thiêu thân lót đường cho kẻ lạm dụng thực hiện ý đồ, tham vọng thế tục của họ. Tôi chỉ nhắc nhở sơ qua như thế, mong anh chị em để ý đừng dại dột vội tin theo bất cứ gì khi chưa suy nghiệm chín chắn chứ chưa dám nói tới thực chứng.

 
- Tôi nhắc lại, gọi là mật tông chỉ vì không được quảng bá nơi đại chúng hầu ngăn ngừa những kết quả tai hại xảy đến do lòng ham muốn thế tục bình thường nơi con người; bởi thế trong hành trình tu luyện, những hành giả phải trãi qua tại các tu viện mật tông thế nào, những vị tu sĩ không được phép nói, viết, hoặc truyền bá ra ngoài, nên tất nhiên chẳng nên võ đoán làm gì. Những gì chúng ta có thể biết được chỉ là phiếm diện; vì thế không thể nào thực nghiệm. Thứ nhất, vì chúng ta không ở trường hợp của những vị tu sĩ mật tông. Thứ hai, vì căn cơ của chúng ta khác họ. Thứ ba, vì chúng ta còn bổn phận phải gánh.

- Dĩ nhiên, dù cho tông phái nào hoặc hành trình nào cũng cần có mục đích, hướng dẫn, suy nghiệm, và thực hành dẫn đến thực chứng. Nơi trường hợp tâm linh, dù Mật Tông Tây Tạng, Phật học, Ấn học, Lão học, thần học, đều có chung một mục đích, cũng như nơi mỗi người chúng ta, và mục đích đó là sự thức ngộ. Bất cứ ai cũng được sinh ra với niềm khát vọng muốn nhận biết thực sự mình như thế nào, liên hệ giữa mình và vũ trụ, cũng như quyền lực tuyệt đối, được quan niệm và gán cho những danh hiệu khác nhau ra sao. Như mọi người đều biết, các tông phái đạo học, diễn tả cách này hay cách khác đều dẫn tới một điểm duy nhất đó là Quyền Lực Tuyệt Đối đang hoạt động nơi vạn vật qua những phương cách và dạng thức khác nhau. Lão học đưa lên câu nói, Tào như nước ở mọi nơi mọi chốn. Phật học bảo Tâm Phật nơi mọi người. Thần học nói Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ấn học cho rằng hồn hay Atman là một phần tử của Thượng Đế Brahma. Nhận thức và cảm nghiệm này được bổ xung bằng lòng khát vọng thúc đẩy con người kiếm tìm phương cách để nhận thức thực thể sự vật và sự việc.

 
- Nói như thế, câu hỏi nên được đặt ra; đó là tại sao trãi qua bao thế hệ, con người chẳng những đã không thăng tiến tâm linh mà coi chừng càng ngày nhận thức về tâm linh càng kém được nhận biết, càng trở nên lụn bại, hầu như đại đa số quần chúng thường không được nghe nhắc tới; nếu không muốn nói là sự nhận thức hay cổ võ về hành trình nghiệm chứng tâm linh được coi như biến mất nơi nhận thức của nhân loại. Câu trả lời chỉ có thể như không trả lời; vì sự thể cũng tương tự như duyên phận lứa đôi. Tại sao nơi thế gian biết bao người khác đẹp đẽ, thanh lịch, giỏi giang, dễ thương, dễ mến hơn người phối ngẫu của mình mà mình không hề biết cũng như không hề để ý tới? Cho dù nêu lên bất kỳ lý do nào cũng không thể được coi là hợp lý, hợp tình. Nhận thức tâm linh cũng thế, nỗi thao thức bẩm sinh ngự trị nơi mọi người, dù để ý hay không, chỉ người đó mới có câu trả lời đúng đắn nhất. Nhận thức tâm linh bị che mờ nơi phương diện đại chúng nói lên thực tại đau lòng; đó là sự xuống cấp tâm linh nơi nhân sinh. Chính nỗi thao thức tâm linh dẫn dắt những bước chân con người gia nhập tôn giáo, nhưng thử hỏi tôn giáo đã giúp con người được những gì nơi hành trình tâm linh của họ? Tôi dùng ngôn từ giúp, có nghĩa hướng dẫn, chia sẻ, khuyến khích, để mỗi người nhận biết hành trình nào họ nên theo hầu thỏa mãn nỗi khát vọng tạo nên niềm thao thức tiềm ẩn nơi cõi lòng. Thử đặt vấn đề, thực thể và mục đích của tôn giáo là gì? Chúng ta gia nhập hoặc theo tôn giáo với mục đích nào, và đã đạt được những gì tạm gọi lợi ích cho hành trình thức ngộ của chúng ta, hay là chúng ta đã khoán trắng cho những vị rao giảng về tôn giáo cuộc đời tâm linh của mình, tưởng rằng cứ nghe cho qua, tuân giữ lề luật tôn giáo, và cầu mong được giải thoát để lòng ruột được an bình cho qua kiếp người? Anh em nên biết, cuộc đời là cơ hội; chúng ta đã không thể nhờ bất cứ ai sống dùm cho mình thì cũng đừng hòng nhờ vả, hay chờ đợi bất cứ đấng nào thức ngộ cho mình. Một cánh tay giơ lên, và đó là chủ nhà.

- Thưa bác, đây là lần thứ nhì cùng với anh em nghe bác nói nên thực ra có nhiều vấn đề cháu chưa được nghe. Do đó có thể ý nghĩ của cháu trùng hợp với điều bác đã giải thích. Tuy vậy, cháu xin nêu lên nhận định về sự thiếu khuyến khích con người nơi hành trình tâm linh. Có thể nói, chính vì người ta không nhận biết thế nào là hành trình tâm linh; do đó dẫu nghe được ai nhắc đến cũng chẳng thể nhận thức được. Và cũng có thể nói rằng, nơi tôn giáo các vị rao giảng cũng không biết hoặc không để ý tới nỗi thao thức bẩm sinh nơi lòng mình thì sao có thể hướng dẫn người khác; bởi họ được huấn luyện nơi môi trường nhấn mạnh sự tin tưởng và cầu khẩn. Thực lòng mà nói, chưa chắc các vị ấy đã rờ được tới điều họ tin, dẫu khuyến khích hay dạy dỗ người khác tin, vì nếu đã biết, đã đụng chạm tới được, đâu cần phải tin. Hơn nữa, cầu khẩn những gì mình chưa có, không bỏ công sức thực hiện thì dẫu có cầu đến muôn đời cũng như cuội; thế thì những người tin theo lời rao giảng của họ sao có thể tìm được con đường thức ngộ cho riêng mình. Đã không có thì lấy gì mà giúp! Như vậy, thưa bác và mọi người, nếu xét theo phương diện thức ngộ tâm linh, các nhà rao giảng tôn giáo kể như không có gì dính líu tới tâm linh, có chăng dùng sáo ngữ về tâm linh vì tôn giáo là tổ chức của con người được thiết lập dựa trên lòng thao thức tâm linh bẩm sinh, nhưng đã không để ý đến tâm linh nên họ đã biến tôn giáo trở thành tôi mọi cho luân lý nhân sinh thay đổi tùy thời, tùy nơi.

- Thế anh muốn kết luận ra sao?

- Thưa bác, cháu thấy không có gì phải kết luận; vì sự thể là chính nó; bởi đối với những người vô minh sao họ có thể nhận thức được sự vô minh của họ nếu không suy nghiệm. Chỉ suy nghĩ sao cho phát triển tổ chức nhân sinh dựa vào nỗi thao thức bẩm sinh nơi con người, và chỉ đặt vấn đề lượng thì sao có thể thoát ra được điều nhà Phật gọi là dục, phương chi nói đến chuyện thức với ngủ. Cháu tự hỏi, nếu con người không có nỗi khát vọng nhận biết chính mình, không cần biết mình được sinh ra để làm gì, không đặt vấn đề mình từ đâu tới và rồi sẽ đi về đâu thì chẳng có gì phải nói tới. Họ đâu cần đi chùa lễ Phật, đâu cần tới nhà thờ cầu Chúa. Cháu đọc Phúc Âm, đọc kinh nhà Phật chẳng hạn như Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác, Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh của Lão học, Bhagavad Gità của Ấn, có thấy đoạn nào, câu nào nói tay phải gõ mõ, miệng ê a, rồi cúng giường, bán chiếu, khất thực, ban phước đâu. Theo như cháu được biết, những phép tắc này được bày ra để giúp định tâm nơi hành trình nghiệm chứng, thực chứng chứ đâu phải cứ làm như thế thì được giải thoát. Rồi nào cầu hồn, cầu siêu để được lên niết bàn, thiên đàng, cháu nghĩ, muốn đạt được niết bàn, thiên đàng thì cần phải biết niết bàn là gì, nơi nào, hoặc thiên đàng ra sao. Cứ thử đặt vấn đề, cầu khẩn để được tới những nơi chốn ấy phải chăng mình chán sống trong khi lại sợ chết. Ôi, nói gì cũng chẳng được, và cũng không nên nói; vì không cách nào giúp được trong trường hợp người ta không muốn nhận biết, và đồng thời đối với những người không đủ khả năng nhận biết do không nghiệm chứng thì chỉ nên im lặng; bởi không ai có thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vô được. Từ nhận định này, cháu thấy nơi Phúc Âm có câu nói thật tuyệt vời áp dụng nơi thực tế nhân sinh, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Hơn nữa, bất cứ tư tưởng, lời nói ra sao không thuận đối với quan niệm của một tổ chức nào đó đều bị thành viên của tổ chức ấy lên án. Cháu chỉ có câu hỏi đã bao lâu nay cứ khúc mắc nhưng vẫn chưa có câu trả lời và đó là vì lý do gì con đường thức ngộ hầu như bị bịt kín nơi cõi nhân sinh trong khi đạo học đã xuất hiện những bao ngàn năm!

- Chú mày nói gì? Vậy lý do gì chúng ta tụ họp nơi đây nghe bác nói mà bịt kín, bịt hở! Theo tớ thấy, cho dù mang nặng khát vọng hoặc thao thức, thao ngủ, nhưng biết mò nơi mô, làm răng mà mò. Mò riết tới khi không còn răng nữa thì cũng đành âm thầm chấp nhận thân phận kiếp người chờ ngày xuống lỗ chứ đâu phải chúng tớ lười suy tư, thiếu nghiệm chứng. Muốn nghiệm nhưng không biết nghiệm thế nào, nghiện ngập thì dễ chứ nghiệm chứng, thực chứng, từ ngày cha sinh mẹ đẻ tới giờ nào đã nghe thấy, phương chi thực hành, thực tỏi. Sĩ nhà con nhảy vô oang oang phát biểu hình như cho hả hơi men, nhưng nghe cũng được.

 
Vấn đề được chủ nhà nêu lên không hiểu sao đánh động lòng ruột đám người chếnh choáng hơi men. Hình như ai cũng mang máng nơi tâm trí những khúc mắc về rắc rối dường như đối nghịch trong suy tư giữa nghi thức thờ phượng, cúng bái, với sự chấp nhận cho qua, chẳng khác gì sự áp dụng những lời giảng giải của các vị rao giảng đối với cuộc đời sinh động đang phải đối diện từng giây từng phút. Cố tình tin tưởng vào những điều được nghe hầu có được nỗi an tâm sinh sống; mà nào tâm trí chịu nghỉ yên. Nỗi thao thức lơ mơ luôn dằn vặt, càng cố quên lại chỉ càng khiến thêm khắc khoải. Muốn giải quyết cho lòng ruột khỏi dao động thì chỉ càng rối tung lên. Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến mà sao lúc nào tâm trí cũng bị nỗi e sợ bị đày ải dằn vặt. Phật từ bi giải thoát con người khỏi vòng hệ lụy thế trần mà sao vẫn ăn không ngon, ngủ không yên. Cuộc đời thăng trầm, lận đận đối nghịch với những ước mơ, ý muốn. Diệt dục làm sao khi cơn đói trờ tới, dù không muốn ăn cũng phải ăn, rồi nào tham sân si sao có thể tránh vì nếu không có tham sân si, sao an hưởng thú vui cuộc đời.

Sỹ nhà con hùng hổ nói, nửa diễu, nửa thật, nhưng hình như mọi người còn đang bận tâm với những gì gia chủ nêu lên khiến bầu không khí bình thường giao động chợt trở nên hoàn toàn im lặng, lách cách đây đó tiếng chai bia chạm bàn. Cụ Tài giơ tay khoa nhẹ ngang vai lên tiếng,

- Vài tuần nữa linh mục bạn tôi sẽ trả lời vấn đề này. Tôi muốn giải quyết cho xong phần mật tông Tây Tạng. Có điều, chúng ta nên để ý, tất cả mọi sự đều bắt nguồn từ con người và cho con người dẫu chỉ là ý thích, ham muốn, cho tới tâm linh. Hành trình tâm linh không thỏa mãn nhu cầu vật chất, danh vọng nên không được để ý. Mật tông thực sự tin vào luân hồi, hóa thân, đồng thời thực nghiệm một vài loại Yoga thăng tiến năng lực xác thân hầu đạt tới thực trạng tạm được gọi là kiến tính, huyền đồng. Thực trạng này có nghĩa thực chứng trạng thái Atman hòa nhập làm một với Brahma, hoặc nói theo ngôn từ Kytô giáo, đó là nhận chân Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

- Thưa bác, Tình chợt lên tiếng cắt ngang, tại sao lại phải thực hành Yoga để thăng tiến năng lực xác thân mới có thể đạt tới kiến tính, kiến toán trong khi kiến tính đâu đòi hỏi phải có vai u thịt bắp, hùm ăn bảy ngày không hết thịt? Chẳng lẽ những người nhỏ con như tụi cháu không hy vọng gì kiến tính được sao? Ôi, uổng công nghe ngóng, tổn ải rượu thịt, cá mú, tôm hùm, tôm cọp.

- Chú mày sao ăn nói lung tung, tôm hùm, tôm cọp nào có chi dính líu tới vai u thịt bắp, lại còn nhào nháo với kiến tính, kiến toán, Sỹ nhà con nhào vô lên giọng, bộ chú mày xưa nay yên lặng tưởng mọi người cho rằng chú mày không biết nói hay sao?

- Tôi chỉ đặt vấn đề về sự liên hệ giữa Yoga và kiến tính bởi Lục tổ Huệ Năng phán rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên bày ra thiền hành, thiền tỏi. Và cũng bởi vì đem hành tỏi xào chua ngọt với tôm hùm, tôm cọp nhậu với bò đi ông (Napoléon) thì cho dù sư tử cũng lật gọng chứ nói chi tới sư ông, sư cụ.

- Chú Tình, cóc nghiến răng động tới trời; chú mày động khẩu coi chừng phiền hà tới anh em khác. Yêu cầu hai chú im lặng nghe cụ giải thích. Ông Thung phải lên tiếng chỉnh đốn hai cái mỏ.

- Nơi Ấn học quan niệm rằng Brahma là Thượng Đế ngự trị mọi nơi mọi chốn, và hồn hay linh hồn của mỗi người được gọi là Atman. Brahma cũng chính là quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi vũ trụ. Con người liên lạc với Brahma, nói cách khác, liên lạc với Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng Brahma chính là không khí, và như anh em đã biết, nguyên tắc căn bản của Yoga dùng tâm trí, ý định hướng dẫn không khí luân chuyển theo thứ tự nào đó qua các trung tâm huyệt đạo để phát triển năng lực nội tại. Tôi phải nhắc tới ngôn từ Quyền Lực Hiện Hữu khi nhắc tới danh hiệu Brahma để anh em tránh khỏi nhận thức sai lầm bởi lệ thuộc ngôn từ mà tưởng nghĩ Brahma là một đấng, một sự nào đó ngự trị nơi chốn xa vời chờ con người cầu khẩn để ban phước lộc hoặc những gì theo ý họ thích. Hình như chúng ta đã nhắc tới Hiệp Khí Đạo với nguyên tắc ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đả thông kinh mạch. Sự thực hành dùng tâm ý dẫn không khí luân chuyển qua các trung tâm huyệt đạo này được gọi là Yoga. Cũng từ nguyên tắc này phát sinh thiền, quán tưởng, vân… vân. . .

- Sở dĩ phải luyện tập xác thân chuẩn bị trực diện với Thượng Đế, nói cách khác, hoà nhập với Brahma do có sự giải thích rằng, thân xác con người chẳng khác gì ngọn đèn trăm oắt không thể chịu đựng nổi dòng điện cả triệu oắt, như thế, nếu muốn hòa nhập với Brahma, xác thân phải được rèn luyện tới mức nào đó mới có thể chịu đựng nổi. Tuy nhiên, nếu chỉ dùng lý luận của sự hiểu biết bình thường nơi vị thế bàng quang, chúng ta không thể có được cảm nhận chính xác chẳng khác gì nếu không biết uống rượu bia thì sẽ chẳng bao giờ cảm nhận thực sự được cảm giác cũng như ảnh hưởng của rượu bia đối với xác thân và tâm tính cùng với tâm trạng ngà ngà như thế nào. Người thực hành Yoga mới có thể thực chứng; chúng ta bàn qua, tán lại chỉ giống như ăn bánh vẽ hoặc ngồi trước bàn nhậu mà không ăn, đói vẫn hoàn đói; có tưởng tượng đến mấy thì càng nói chỉ càng chứng tỏ không biết mình nói gì mà thôi. Thời giờ cũng muộn rồi, anh em để tôi tóm tắt khái niệm về Mật Tông Tây Tạng và chúng ta tan sòng.

- Có một điều anh em nên để ý; đó là, cũng như Yoga của Ấn, Mật Tông Tây Tạng rất chú trọng tới những câu mật chú. Những câu mật chú này được cho là sản phẩm của những vị đạt tới quyền năng nào đó để lại; chúng mang nguyện lực mà vị đó ám đặt vô. Muốn sử dụng mật chú phải có lòng tin tưởng tuyệt đối nào đó cũng như sự thực hành để tập trung ý định, ước muốn, và lòng thành của hành giả. Chẳng khác gì chúng ta hay nghe nói về những gì được gọi là thần chú của các pháp sư, thầy bùa, thầy ngãi. Dĩ nhiên, trong giai đoạn thực nghiệm những câu mật chú và sau đó thực hiện chúng phải tuân theo những điều kiện kiêng cữ và quy luật rất khắc nghiệt. Tất nhiên, bất cứ gì cũng có giá phải trả nếu hành giả muốn đạt được. Nơi cuốn Mật giáo Tây Tạng có viết, “Thần lực và hiệu quả của một thần chú tùy thuộc vào thái độ tinh thần, tri thức, ý thức trách nhiệm, sự thành thực của tâm hồn cá nhân. Các thần chú chỉ có thần lực và có ý nghĩa đối với người thụ pháp, nghĩa là người đã trãi qua kinh nghiệm từ đó phát xuất ra lời nói hay công thức thần chú; nó dính liền với người ấy một cách keo sơn trong chiều sâu kín nhất của thực thể họ” (MGTT; tr. 28). Nơi cuốn Á Châu Huyền Bí, tác giả ghi rõ ràng mối nguy hại của khoa pháp môn và sự sử dụng mật chú, “Người nào kiểm soát và sai khiến được thần linh phải chịu nhiều điều nguy hiểm. Thần linh không phải chỉ là những vật vô tri trong bàn tay của y. Đó là những nhân vật có trí khôn và ý chí riêng biệt. Họ luôn luôn có thể nổi loạn chống lại người đã khuất phục họ. Tuy họ tuân lệnh nhà phù thủy đã làm chủ được họ và phụng sự người ấy hết lòng, nhưng nếu nhà phù thủy mất sự tự chủ và ý chí của y bị sút kém, thì khi đó, vài loại thần linh có thể phản công trở lại và tác hại, gây cho y những sự khó khăn bất ngờ như tai họa hoặc chết bất đắc kỳ tử. Với sự trợ giúp của những thần linh đó, người ta có thể làm được những việc phi thường, nhưng khi nhà phù thủy không đủ sức kiềm chế thần linh, họ có thể phản động lại một cách trắng trợn và làm hại người đã khuất phục được họ” (ACHB; Tr. 87-88).

- Thưa bác, như vậy thì lối nào các nhà phù thủy, pháp sư cũng đều bị phản thùng; vì khi về già chắc chắn ý chí sẽ bị sút kém, sự tự chủ lại càng tệ hại hơn, Sỹ nhà con cắt ngang…

- Im đi cho người ta nhờ ông ơi, một cánh tay đưa lên đồng thời miệng phát thanh chặn lời nói Sỹ nhà con.

- Anh muốn nói gì, anh Tình?

- Cháu có nghe các cụ già nói chuyện về phù thủy luyện âm binh, hoặc sai âm binh dùng gầu bằng lá mít tát nước, hái trộm cà pháogiống như những chuyện thần thoại nhưng không để ý. Tuy nhiên, ngày còn ở Việt Nam, người em họ cháu bị bệnh gì không biết, cứ đau bụng hoài, thuốc thang nào cũng không chữa khỏi. Cuối cùng người bố đem anh ta đến gặp vị pháp sư. Sau khi nghe kể về bệnh trạng, vị pháp sư đó lâm râm đọc gì không biết và lấy một chiếc lá cây còn tươi để trong hộp dắt vô cạp quần anh ta, thế là bệnh hết ngay từ lúc đó. Bây giờ nghe bác nói về mật chú, thần chú, cháu mới tin là chuyện bùa ngải có thật. 

- Anh em làm ơn nhớ kỹ một điều; đó là có những thực thể hữu hình cũng như vô hình mà chúng ta đã không hoặc chưa bao giờ nhận biết. Bởi vậy, thái độ khôn ngoan nhất là mở rộng tâm hồn quan sát và nhận định hầu nâng cao tâm thức nơi mỗi người. Nếu tôi không lầm thì trong anh chị em chúng ta, đôi người có kinh nghiệm về cầu cơ và thường đa số nghe nói về cầu cơ, nhưng cũng như các vấn đề khác, chúng ta ơ hờ không đặt vấn đề về hiện tượng này. Để chứng thực, tôi đề nghị, ai trong quý anh chị em đã thực chứng, tôi muốn nói, ai đã tham gia cầu cơ, làm ơn giơ tay. Bốn cánh tay giơ cao.

- Xin cảm ơn. Quý anh chị có thể giải thích hoặc trình bày một đôi sự kiện cho mọi người về kinh nghiệm cầu cơ của mình ra sao được không?

- Thưa bác và các anh các chị, ngày còn nhỏ cỡ bẩy hoặc tám tuổi chi đó, cháu đã thực sự tham gia cầu cơ nhưng cũng không để ý mấy. Kinh nghiệm của cháu cũng như mấy chị em trong nhà về trò chơi cầu cơ chỉ là chuyện vui thường tình vì thấy hay hay nên cũng chẳng rút tỉa được chi. Số là bố mẹ cháu làm nghề buôn bán. Nhà ở ngay trên mặt đường đông người qua lại nên bố mẹ mở tiệm chạp pô, bán đủ mọi thứ từ gạo thóc, thuốc men cảm cúm, đậu đen đậu xanh, cho đến dầu hôi, nước mắm. Không hiểu từ bao giờ và do ai trong chị em cháu học ở đâu được trò chơi này; thế là chúng cháu có được một bàn chữ viết trên tấm bìa. Sau này cháu nghe nói cơ phải dùng miếng ván hòm cắt thành hình trái tim, nhưng ngày đó chúng cháu dùng chiếc chén uống trà của bố làm cơ để chạy. Không hiểu sao, qua một thời gian, chỉ cần đặt tay vô chiếc chén úp, chưa kịp đọc thần chú, niệm chú gì đó thì cơ đã chạy. Cháu xin kể ba trường hợp điển hình để tùy ý bác và anh chị em nhận định. Chị Thanh ngưng nói hình như để tâm tưởng nhớ lại. Chiều hôm ấy, có một bà nhà quê đi ngang, thấy ba bốn đứa chúng cháu đang xúm xít cầu cơ, bà đứng lại xem mấy đứa trẻ gái này bày trò gì. Chẳng nói giấu gì, gia đình nhà cháu có hai anh trai lớn và năm chị em gái sàn sàn tiếp theo; nói theo kiểu Tú Xương, “Vợ quen dạ đẻ cách năm đôi.” Đàng này, hai người em gái của cháu lại là song sinh nên ngũ long công chúa thành hình trong chỉ bốn năm. Hình như năm đó chị cháu lên mười, cháu lên chín, hai em song sinh bẩy tuổi, và một người lên sáu cùng cậu em út lên năm. Bác và quý anh chị đều biết, con gái từ sáu đến mười tuổi thì thân xác cũng sàn sàn ngang nhau. Thấy người đàn bà đứng lại ngó, cháu tinh nghịch hỏi hồn rằng bà nhà quê này đi đâu. Hồn cơ trả lời, bà ấy định nấu canh rau đay nên ra chợ mua dúm mắm tôm. Cháu lại hỏi, trong túi bà ấy có những gì. Hồn trả lời, trong túi bà ấy có miếng trầu, có cau, có thuốc nhưng thiếu vỏ. Bà ấy sợ quá bỏ đi mất. Trường hợp khác, em gái bé nhất của cháu lúc mới sáu tuổi còn nói ngọng thay vì nói “Hồn,” cô ấy chỉ nói được “Ồn ơi ồn.” Có lần cô hỏi hồn tên gì;  hồn cơ trả lời tên một người Tầu. Một hôm, chẳng biết hỏi câu gì, một người em sinh đôi hỏi, sao hồn lên nhanh quá vậy, hồn cơ trả lời “Permanent.” Chúng cháu còn bé đâu biết permanent nghĩa là gì. Thế rồi hỏi hồn cơ học đến đâu, và được trả lời là cử nhân văn chương. Trường hợp khác, một hôm, cháu nhờ gọi hồn một người mới chết. Ông ta là người có chức vị trong làng mới chôn được hai ngày. Hồn cơ nói không được. Cháu nghịch ngợm chạy chữ, thì đứng chổng mông mà gào. Hồn trả lời, ông ấy chửi cho ấy. Tuy nhiên, sau ba giờ chiều, gọi cơ không lên. Có lần cháu hỏi thì hồn cơ cho biết ba giờ chiều phải trở lại ngục. Còn nhiều những thứ vớ vẩn của tuổi con nít liên hệ với cầu cơ nhưng thôi, cháu nghĩ quá đủ. Dẫu theo đạo Công giáo và nghe được nhiều giai thoại thế nọ thế kia cũng như cho rằng các hồn là ma quỷ, với lắm đề nghị, đe dọa, nghe đến mà phát khiếp về cầu cơ, nhưng qua thực chứng cầu cơ hồi còn nhỏ, đồng thời qua những suy tư theo năm tháng, cháu thấy hình như thế giới bên kia rất gần với thế giới chúng ta. Nghe những chuyện ma quái trả thù chuốc oán, nếu cháu không lầm thì đó chỉ giống như những câu chuyện răn đời, khuyên người ta làm lành lánh dữ. Cháu cũng đọc một số sách vở thì thấy các hồn không được phép làm hại bất cứ ai, và nếu có thể nói, đó là luật lệ rõ ràng; không hồn nào có quyền đụng chạm đến bất cứ người còn sống nào. Cháu không hiểu về phương diện bùa ngải có liên hệ thế nào đối với những hồn đã khuất do tham vọng của pháp sư hoặc thày bùa, thày ngải, không học đến nơi đến chốn nên đã lạm dụng niềm tin làm hại đến con người. Theo như cháu nhận biết, nếu đã không thể giúp gì cho chúng ta, các hồn đã khuất không được phép làm hại bất cứ ai. Thế nên, ai nói mặc ai, đôi khi cháu nghe thấy người ta nói về cầu cơ cứ như là những sự gì huyền bí lắm hoặc đáng sợ lắm. Ông bà mình có câu, “Điếc hay hóng, ngọng hay nói” quả cũng không sai chút nào.

- Vậy tại sao tôi cầu cơ không lên? Tình hỏi.

- Ai mà biết, chị Thanh trả lời, cũng có nhiều người cầu, cơ không lên.

- Có lẽ chị thuộc họ hàng nhà ma.

- Ma hay không thì em không biết, nhưng nó lên thì nó lên.

- Vấn đề cơ lên hay không có thể tùy thuộc bản chất mỗi người, cụ Tài giơ tay ra hiệu ngưng nói. Chẳng hạn như những người lên đồng, họ phải được sinh ra với đặc tính mẫn cảm mới có thể lên đồng. Chúng ta cũng thấy rõ, một số nghệ sĩ họ khóc rất thực nơi vai trò họ diễn. Chúng ta không làm được như thế vì chúng ta mẫn cảm không đủ. Tôi chỉ muốn nhắc nhở, quí anh chị em đừng vội khép kín tâm hồn mà cần mở rộng để nhìn nhận thực thể sự vật và sự việc như chính nó. Có như thế, chúng ta mới cảm nghiệm được nghi thức thờ phượng, cúng tế, đặc biệt trong trường hợp nhận thức về Mật Tông Tây Tạng. Dĩ nhiên, những nghi thức thờ phượng hay cúng tế đòi hỏi một tấm lòng chân thành, ý định kiên vững, và ước muốn mạnh mẽ. Lòng không chân thành, tâm ngơ ngáo, thực hiện nghi thức lấy lệ thì không thần thánh nào chứng giám. Hơn nữa, “Từ cái biết mà sinh ra niềm tin; từ niềm tin sinh ra sự mê tín khi không có kinh nghiệm để hiệu chính niềm tin” (MGTT. Tr. 31).

- Nói về Mật Tông Tây Tạng, chúng ta cần nhận biết những quan niệm liên quan và những điều kiện cần thiết như kinh nghiệm và niềm tin phát sinh từ nghiệm chứng. Thực ra, đã nghiệm chứng được thì chẳng có gì phải nói đến niềm tin, nhưng tôi dùng ngôn từ niềm tin phát sinh từ nghiệm chứng có nghĩa do thực nghiệm nên không gì có thể lay chuyển được gọi là kiên định.

- Mật Tông Tây Tạng có thể nói, bao gồm một phần thực nghiệm Yoga của Ấn và nghiệm chứng kiến tính nhà Phật. Dẫu rằng Ấn học cũng có chi phái mật tông nhưng Mật Tông Tây Tạng, mật tông nhà Phật có điểm không tương đồng với Ấn. Mật tông Ấn chính là sự thực hành và nghiệm chứng Yoga để phát triển năng lực nội tại, chuẩn bị thân xác chịu đựng cường mạnh hầu đạt tới sự hoà nhập với Brahma. Cũng như mọi đạo học, điểm cùng đích chính là hợp nhất với Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi vũ trụ. Tôi cần lưu ý anh chị em điểm này. Chính ước muốn hòa nhập với Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi vũ trụ là một ước muốn sai lầm bởi dù ước muốn hay không thì Quyền Lực Tối Thượng vẫn đã và đang hoạt động và hiện thể nơi mọi sự. Bởi thế, ước muốn hòa nhập hay thăng tiến đều do sự thiếu nhận thức nên phát sinh ước muốn, tạo những hoạt động, hành động khiến hành giả kiến tạo những hoạt động, hành động sai lầm chỉ làm khổ mình chẳng khác gì Pascal đã nói, “Con người không phải là thánh, chằng phải là thú, nhưng đáng thương thay, những kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú;” biến thành thú bởi vì chạy theo thú tính làm khổ chính mình. Thiển nghĩ, ước muốn này thành hình do quan niệm một thượng đế hữu ngã.

- Thưa bác, chị Tình rụt rè lên tiếng.

- Chị muốn nói gì?

- Thưa bác, nếu cháu không lầm thì Thượng Đế hay Thiên Chúa cũng như nhau.

- Chị nói đúng. Thượng Đế hay Thiên Chúa cũng chỉ là danh hiệu; do đó, tôi thường hay dùng danh hiệu Quyền Lực Hiện Hữu Tối Thượng.

- Thưa bác, thế sao bác nói hữu ngã?

- Xin lỗi anh chị em; một điều quá ư căn bản, tôi nghĩ ai cũng biết nên đã không dám nhắc tới e bị cho rằng khinh thị người khác. Thế nên, bất cứ gì anh chị em thắc mắc, cứ tự nhiên đặt câu hỏi. Tôi nói rất nghiêm chỉnh; bất cứ vấn đề nào dù nhỏ mọn tới đâu, hoặc bất cứ câu hỏi nào dẫu bị cho là ngớ ngẩn đến mấy, anh chị em cứ nêu lên. Chẳng hạn vấn đề chị Tình vừa nhắc tới, Thượng Đế hữu ngã.

- Nơi cuộc sống hữu vi, chúng ta thường quá quen thói phân chia những trạng thái đối nghịch; chẳng hạn đúng sai, phải trái, trên dưới, Ying Yang, trắng đen, nghĩa là có bên này thì phải có bên kia được gọi là hữu vi hay hữu ngã. Nhìn vào thực tại, có những thứ không hoàn toàn trắng mà cũng không hoàn toàn đen chẳng hạn cà phê sữa. Khi nói đến thực trạng này, danh hiệu tạm gọi là nhất nguyên. Chúng ta sẽ hiểu rõ hơn khi bàn về Lão học nơi Đạo Đức Kinh. Nơi Ấn học, danh hiệu Thượng Đế được gọi là Brahma. Hồn mỗi người được gọi là Atman, một phần tử của Brahma. Thế nên cùng đích của hành giả tu luyện Yoga là hòa nhập với Brahma. Quan niệm này theo lối nhìn hữu vi, Brahma được coi như ở bên ngoài mặc dầu kinh Chí Tôn Ca (Bhagavad-Gita) nói lên rất rõ ràng Brahma hiện thể và hoạt động nơi mọi sự mọi vật. Mọi sự, mọi vật hiện hữu trong Brahma nhưng Brahma không hiệu hữu nơi chúng. Chúng ta có thể dùng hình ảnh biển và mọi sinh vật trong biển. Mọi sinh vật ở trong biển nhưng biển không thể ở trong những sinh vật. Lối phát biểu, Thượng Đế tạo dựng muôn loài chứng tỏ quan niệm Thượng Đế bên ngoài vạn vật; rõ ràng đây là lối nhìn hữu vi, hữu ngã về Thượng Đế cũng giống như quan niệm nơi Thiên Chúa giáo cho rằng Thiên Chúa tạo dựng muôn loài từ vô cùng. Nếu tôi không lầm thì quan niệm về một Thiên Chúa hữu ngã tạo dựng muôn loài cũng giống như quan niệm Ấn học nhưng chỉ khác danh hiệu. Chúng ta thử xét, lửa hữu ngã hay vô ngã. Ai cũng có thể trả lời hữu ngã vì chúng ta có thể nhìn thấy và có kinh nghiệm sử dụng lửa. Nhưng nếu nhìn theo phương diện khác, câu hỏi được đặt ra, lửa tốt hay xấu, đúng hay sai, chúng ta phải công nhận sự tự nhiên của lửa là không đúng và chẳng sai. Thế nên, bảo lửa hữu ngã cũng trật mà vô ngã cũng trật. Qua khái niệm về lửa, nhận thức nhất nguyên phần nào được nhận biết, và như vậy chúng ta đã chớm bước vào điểm chính yếu của đạo học Đông Phương, đạo học nhất nguyên bao gồm Phật học và Lão học, đạo học vô ngã, và từ đó chúng ta có thể phân định sự khác biệt giữa mật tông Phật học và mật tông Ấn học.

- Thưa bác, đã mật sao còn phân chia mật Phật và mật Ấn? Có cái nào mật...

- Anh Tình muốn nói mật chuột phải không?

Cả đám cười thoải mái. Cũng phải cảm ơn những tâm hồn bán trời không văn tự này. Tâm trí mọi người đang căng thẳng nhận định về vô ngã, hữu ngã, mật tông, đường tông, thế mà dám liên tưởng đến mật chuột vì làm sao ai có thể thấy mật chuột bao giờ!

- Thưa bác đúng, bởi cháu chưa bao giờ thấy mật chuột cũng như lần đầu tiên nghe thấy mật Ấn.

- Mật Tông Tây Tạng tức là mật tông nhà Phật. Ấn học đã có tự bao ngàn năm tất nhiên có Mật Tông Ấn học. Nói cách khác, Mật Tông Ấn học được hiểu thực ngiệm Yoga. Dẫu Yoga chỉ là phương tiện thực nghiệm hành trình Atman hòa nhập Brahma, nhưng nơi hành trình hữu vi, con người không thể đạt tới lý thuyết dùng Yoga hòa nhập thượng đế Brahma; bởi vì hồn con người, Atman không hữu ngã; cho dù chúng ta cứ tưởng hữu ngã như nhận thức về lửa. Nói rằng lửa nóng, có thể nhìn thấy nên lửa hữu ngã chưa chắc đã đúng. Vậy lửa tốt hay xấu chúng ta trả lời thế nào. Dùng lửa nấu ăn, sưởi ấm, chúng ta nói lửa tốt. Cho tay vào lửa, nó có còn tốt không? Lửa hữu ngã hay vô ngã, chúng ta không thể xác quyết một chiều. Như thế, tôi yêu cầu anh chị em, từ nay chúng ta không cho rằng bất cứ gì thế nào mà đành chấp nhận nghiệm chứng trước, trả lời sau, nó thế nào, chấp nhận nó thế ấy.

- Sự khác biệt giữa Mật Tông Phật học và Mật Tông Ấn học rất rõ ràng. “Mật tông Phật giáo hoàn toàn khác hẳn mật tông của Ấn giáo. Tuy cả hai đều sử dụng những phương tiện giống nhau như thần chú, phương pháp luyện luồng hỏa hầu (Kundalini) nhưng mục đích và cứu cánh thì hoàn toàn khác hẳn nhau. Một bên chủ trương khai mở trí tuệ để hoàn toàn giải thoát khỏi luân hồi trong khi một bên chỉ chú trọng đến việc phát triển những quyền năng nội tại để đạt đến trạng thái tuyệt đối (Brahman). Một bên tìm cách quên mình (vô ngã) và một bên tìm cách phát triển bản ngã của chính mình (hữu ngã)”  (ĐMQXT; Tr.255).

- Chúng ta thấy rõ, quan niệm dẫn dắt hành động, nếu không muốn nói quan niệm phát sinh hành động. Quan niệm Thượng Đế hữu ngã phát sinh phương pháp phát triển năng lực nội tại. Quan niệm Thượng Đế vô ngã phát triển nhận thức tâm linh. Nói theo Phật học, “Mặc dù đức Phật (Thích Ca) đã giảng dạy rất nhiều pháp môn khác nhau nhưng Phật giáo thường được chia ra làm ba con đường chính: Nam Tông (tiểu thừa) Bắc Tông (Đại Thừa) và Mật Tông, chẳng khác gì thờ phượng, minh triết, và thiền tông. Theo sách vở mật tông, nếu theo Bắc hay Nam Tông, một người cần phải trãi qua vô lượng vô số kiếp tu hành mới có thể đạt đến quả vị Phật, nhưng theo Mật Tông thì có thể đạt đến ngay trong một kiếp” (ĐMQXT; Tr.151). “Tôn giáo Tây Tạng thường chú trọng rất nhiều về cõi giới bên kia cửa tử, hầu như câu chuyện nào cũng đều đề cập đến cõi giới này. Quan niệm thông thường nơi Tây Tạng cho rằng linh hồn con người vốn bất tử và di chuyển qua muôn ngàn kiếp sống luân hồi để học hỏi và thay đổi. Điều này thực ra không thuận lý với Phật học vì Phật học không hề chủ trương có một cái gì trường tồn bất biến như linh hồn. Nói cho đúng hơn thì họ tin rằng sinh lực hay sự sống tạo ra bởi trạng thái tâm và sinh lý của một sinh vật đều do nhân duyên tạo thành và do nghiệp dẫn dắt trong sáu nẻo luân hồi. Tất cả nhân duyên đều nương tựa vào nhau và tạo ra mọi sự, mọi vật; không vật gì có thể hiện hữu một cách riêng rẽ. Rời bỏ nhân duyên này thì không còn gì nữa. Vì bị vô minh che phủ, vì không hiểu rõ thực tướng của vạn vật mà con người tin rằng thế gian này là thực nên cứ khư khư bám víu lấy nó rồi từ đó sinh ra chấp ngã. Từ sự chấp rằng có một cái "ta" nên mới có sự phân biệt và là đầu mối tạo ra khổ não” (HTTT; Tr.28).

- Quan niệm linh hồn trường tồn trãi qua các kiếp luân hồi phát sinh từ Ấn học chứ không phải từ Phật giáo. Ấn học quan niệm Atman có được kiếp làm người như phương tiện thức ngộ để hòa nhập với Thượng Đế Brahma. Nói rằng kiếp người là cơ hội cho Atman học những bài học thức ngộ, nhưng thực ra theo Ấn học, không phải Atman hay thân xác tự làm mà chính là Brahma dùng thân phận kiếp người để thực hiện hoạt động của Ngài.

- Cũng như Mật Tông Ấn, Mật Tông Tây Tạng sử dụng chú thuật, tuy nhiên, “Mặc dù bề ngoài chú thuật Tây Tạng và Ấn Độ có vẻ giống nhau, sự thực, chúng chẳng những khác nhau về phương pháp và đối tượng mà trên bình diện lịch sử và tâm niệm các câu thần chú của Phật giáo có một ưu thế rất rộng. Điều khác biệt chính yếu là chú thuật Phật giáo không thuộc về âm tạo lực có tính cách thần quyền. Khái niệm về âm tạo lực (Sakti) tức năng lực sáng tạo thuộc âm tính của một Thượng Đế tối cao (Siva) hay của một đa số thần linh phụ thuộc, tuyệt đối chẳng có một vai trò gì trong Phật giáo; còn trong chú thuật của Ấn Độ giáo thì năng lực sáng tạo là trung tâm điểm của vấn đề. Ý niệm trung tâm của Phật giáo là trí bát nhã. Xen vào các lực điều động vũ trụ và khiến chúng phục vụ cho mục đích của mình có thể phù hợp với các thần chú Ấn Độ, nhưng không thích hợp với Phật giáo. Phật giáo không ước mong xen vào bất cứ một nguyên động lực nào, mà ngược lại, nó cố gắng thoát khỏi các động lực đó, các sức thúc đẩy vây quanh nó lâu dài, khi nó còn ở trong vòng luân hồi. Nó cố gắng thâm nhập vào các động lực đó là để tự giải thoát khỏi sức ngự trị của chúng. Chú thuật Ấn chủ trương sao cho sức toàn năng hợp lại nơi Sakti. Vũ trụ nẩy nở trong sự hòa hợp giữa Siva và Sakti. Hành giả mật tông Phật không tìm cầu sự nẩy nở của vũ trụ, mà lại mong cho nó rút lui trong cái không sinh, không tạo lập, làm cơ sở cho mọi sự diễn tiến: chính từ tánh không phát xuất ra mọi sáng tạo, và mọi sáng tạo đều siêu việt là nhờ đó (Tính Không). Lãnh hội được “Tánh không,” ấy là trí bát nhã. Thực hiện được cái trí tối thượng ấy trong cuộc đời là giác ngộ (bồ đề), nghĩa là khi trí bát nhã hay tánh không, hay cái âm tính vĩnh viễn bất động, thường tịch, bao hàm tất cả, đón nhận tất cả, và từ đó hiện ra tất cả, mà hòa hợp với nguyên lý có động tính dương của lòng bi hoạt động, của động lực tỏa khắp mọi nơi từ tình thương tích cực, đại diện cho phương tiện thực hiện, thì lúc bấy giờ được gọi là hoàn toàn thành Phật” (MGTT; Tr.127-129). “Hệ thống của Ấn Độ giáo thì nhấn mạnh hơn khía cạnh tĩnh nhiên của các trung khu, đồng hóa chúng với các yếu tố căn bản và các lực phổ biến, do đó, đem vào các trung khu tâm lực một nội dung khách quan; dưới hình thức những chủng tử âm nhất định với những thiên chức cai quản chúng nó. Hệ thống Phật giáo thì ít chú ý đến khía cạnh khách tĩnh của các trung khu, mà lại quan tâm đến cái gì chạy qua các trung khu ấy, và các chức năng động chuyển của chúng nó, nghĩa là quan tâm đến sự biến đổi dòng năng lực tự nhiên của vũ trụ thành tiềm năng tinh thần” (MGTT; Tr.180).

- Thêm vào đó, nơi hành trình tu luyện của Mật Tông Tây Tạng còn nhiều cấm kỵ cũng như mật chú, hóa thân, mà nếu chỉ phiến diện nhận định tất sẽ rơi vào lắm ngộ nhận, nhiều sai lệch nhận thức. Sở dĩ tôi đặt vấn đề về kinh nghiệm cầu cơ vì thường người ta nghĩ phải có câu thần chú nào đó cơ mới nhập, nhưng như chị Thanh trình bày, chưa đọc thần chú thì cơ đã lên. “Các thần chú tự bản tính riêng của chúng không tác động được mà chính là nhờ sự trung gian của tâm thức đã có kinh nghiệm về nó. Chúng nó không có tự lực, chúng chỉ là những phương tiện tập trung các lực đã có sẵn, giống như một thấu kính hội tụ, tự nó không có một chút nhiệt nào, nhưng dùng nó một cách thích hợp, nó có thể biến đổi các tia nắng vô hại của mặt trời thành tác nhân gây ra hỏa hoạn” (MGTT; Tr.29). “Chỉ sau một thời gian chuẩn bị và thực hành dưới hình thức tập luyện liên tục thì các thần chú mới có thể có một ý nghĩa, vì chỉ lúc đó chúng mới đánh thức được nơi người thụ pháp các lực được dồn chứa trong suốt các kỳ thí nghiệm trước và mới có thể tạo ra được các hiệu quả mà lúc sáng chế ra, lời chú đã nhắm đạt được” (MGTT; Tr.29-30).

- Tới đây, chúng ta đã phần nào hiểu được điểm chính yếu của Mật Tông Tây Tạng. Mật Tông Tây Tạng phần nào tổng hợp giữa hai đạo học, Ấn học và Phật học. “Phật giáo Tây Tạng không bao giờ bỏ mất mối liên hệ của nó với các truyền thống đã bắt rễ trong đất Ấn; nó có kỹ thuật của sinh lực thừa để ngự trị sinh lực còn sống động cho đến ngày nay” (MGTT; Tr.203).

- Thưa bác, tại sao nơi một số sách, tác giả viết rằng những hành giả thực tập Yoga hoặc thực nghiệm mật tông có được năng lực thần thông?

- Cũng có thể tác giả trước tác đã không thực sự nghiệm chứng nhưng viết với mục đích quảng cáo cho giới bình dân tăng thêm lòng mộ mến hoặc với ẩn ý nào đó. “Chúng ta thường quan niệm quyền năng là một cái gì có thể sở hữu, một phép lạ, một cái đũa thần chỉ đá hóa vàng, hô phong hoán vũ hay bay nhẩy trên không trung. Tóm lại, khi sở hữu quyền năng họ có thể làm bất cứ gì theo ý muốn. Đó là một quan niệm ấu trĩ xuất phát từ trí tưởng tượng và lòng tham lam ích kỷ. Đối với những con người ích kỷ, thế giới này quá phiền phức, chướng ngại cho bản ngã của họ nên phải tìm cách thay đổi nó cho hợp với mình. Đàng khác, quan niệm này bắt nguồn từ bản ngã kiêu căng vì nghĩ rằng có thể đạt được tất cả những gì họ muốn và lòng tham của họ không bao giờ có đáy, bởi không thể thỏa mãn quá nhiều tham vọng điên cuồng nên cần phải có thêm quyền lực, một thứ quyền lực siêu nhiên do chính nó tưởng tượng” (ĐMQXT; Tr.75-76). Chúng ta đã bao giờ tự hỏi để trả lời về mục đích cuộc đời của mình chưa? Nếu chưa tìm được giải đáp cho chính mình thì dẫu có thân xác nhưng mình đã vẫn chưa sống từ bao lâu nay.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 6

 

 
Nơi một phương trời khác cũng có những thực nghiệm dẫu không giống như Mật Tông Tây Tạng nhưng kết quả được coi tương tự tại vùng Trung Đông đó là Điểm Đạo Ai Cập. Điểm minh chứng của sự thực nghiệm Điểm Đạo Ai Cập còn sót lại nơi thế giới loài người có thể chứng thực đó là những kim tự tháp rải rác vùng sông Nile mà các nhà nghiên cứu đưa ra nhận xét các kim tự tháp này được xây nơi những địa điểm phù hợp với chòm sao thất tinh bắc đẩu trên bầu trời. Một vài nơi khác cũng có kiến trúc giống như kim tự tháp được kiến tạo; điều này minh chứng Điểm Đạo Ai Cập đã phát triển và ảnh hưởng tới những vùng dân chúng xa xôi ngoài vùng Trung Đông. Quý anh chị thử nhớ lại những gì được nghe hoặc đọc về nên văn minh Ai Cập thuở xưa đã tiến tới giai đoạn cực thịnh. Nhưng đồng thời, tôi đề nghị quý anh chị nên hướng nhận xét về chiều hướng minh triết thay vì tâm trí thường bị ảnh hưởng bởi lối nhìn phiếm diện do đã được nghe quá nhàm tai để rồi định hướng quan niệm theo văn minh kỹ thuật của ngày nay. Nền văn minh minh triết Ai Cập thời trung cổ đã đào tạo nên những bậc thày của tư tưởng, của triết lý, tâm linh, lan đến toán học, thiên văn học và phát triển thêm về kỷ hà học. Chúng ta ai không cảm thấy quen thuộc với những tên của các vị hiền giả, thức giả như Platon, Pythagore, Thales, Lycurgue, Solon, Jamblique, Plutarque, Hérodote, các vị này là những người ngoại quốc đã được điểm đạo theo khoa Huyền Môn Ai Cập. Herodote đã viết, “Đối với những điều huyền bí đó mà tôi đã được biết đầy đủ, tôi có lời cam kết phải giữ một sự im lặng hoàn toàn” (ACHB; Văn học – XìTrum.net; Chương 7).

 
- Lên internet, chúng ta đọc thấy có tác giả bài viết cho rằng nền văn mình Ai Cập phát triển từ hơn mười ngàn năm trước Công Nguyên (10.000 TCN). Châu thổ sông
Nile là nơi khởi đầu một nền văn minh sớm của thế giới. Cùng với sự xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ là các công trình xây dựng vĩ đại trên một khu vực tập trung dày đặc. Ai Cập cổ đã để lại và đóng góp cho nhân loại một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại, đó là Kim tự tháp Giza và tượng nhân sư Sphinx khổng lồ. (Wikepidia) Sự tiến triển và biến chuyển của Ai Cập được chia thành những thời đại; chẳng hạn, thời kỳ tiền triều đại từ năm 12.000 TCN (trước công nguyên) đến 3.200 TCN, thời kỳ sơ triều đại từ 3.100 TCN đến 3.000 TCN.

- Các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật Nekhen vào năm 1894. Trong ngôn ngữ Ả Rập được gọi là Kom El-Ahmar. Tuổi của những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3.200 TCN. Tuy nhiên, gần đây các nhà khảo cổ lại tìm thấy những ký hiệu trên đồ gốm Gerzean 4000 TCN có sự tương đồng với chữ viết cổ Ai Cập. Các nhà nghiên cứu xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình là lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới. Những thầy tu thảo ra những chữ tượng hình Ai Cập cổ từ triều đại đầu tiên (2925 - 2775 TCN).

- Sự thể các tác phẩm hội họa Ai Cập cổ tồn tại cho đến ngày nay có thể do khí hậu khô của sa mạc và điều kiện thiếu ánh sáng của các hầm mộ. Những bức vẽ của Ai Cập cổ miêu tả về một thế giới vui tươi cho những người chết ở cõi vĩnh hằng. Nhiều bức họa vẽ cảnh đi vào cõi âm nhằm che chở người chết; họ đi về với thế giới thần linh; vì người Ai Cập tin rằng sự chết chỉ là sự chuyển chỗ ở sang một thế giới các vị thần và sẽ phù hộ cho những vị pharaoh và các triều đại đang trị vì nước Ai Cập. Người Ai Cập cổ sáng chế ra giấy papyrus; giấy này được làm từ cây papyrus mọc ở châu thổ sông Nile. Công nghệ làm giấy papyrus không được ghi lại và bị thất truyền theo thời gian; tuy vậy, vào năm 1940, các học giả nghiên cứu Ai Cập cổ đã phục hồi được công nghệ này. Người ta đã tìm thấy những tấm giấy có kích thước khá lớn, dài hàng mét. Giấy papyrus được người Ai Cập cổ dùng vào các việc ghi chép lại các cảnh sinh hoạt bao gồm văn học, tôn giáo, lịch sử và các công việc hành chính.

- Theo các nhà khảo cổ, chữ tượng hình Ai Cập thời cổ đại không còn được sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Khoảng thế kỷ 15, người ta bắt đầu giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự Ai Cập. Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được đặt ra bắt chước theo văn tự Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La Tinh đã dựa theo mẫu tự Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh, các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập.

- Quan niệm về thế giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay quan niệm tôn giáo, tín ngưỡng kéo dài trên dưới 3.000 năm trong khoảng thời gian giữa hai tôn giáo, Thiên Chúa giáo và đạo Hồi. Thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm là một thế giới hỗn mang của vật chất là nước. Vị thần đầu tiên, thần Râ-Atum, hàng năm xuất hiện như nước lũ của sông Nile ở xứ sở Ai Cập. Thần Râ sinh ra các bọt nước, từ đó biến thành thần Shu (không khí) và Tefnut (hơi nước). Thế giới được tạo ra khi thần Shu và Tefnut sinh ra hai đứa trẻ: Nut (bầu trời) và Geb (mặt đất). Con người được tạo ra khi thần Shu và thần Tefnut sơ ý bị lạc trong hoang mạc đen tối. Thần Râ dùng đôi mắt của mình đi tìm họ và trong khi xúc động về sự đoàn tụ, nước mắt sung sướng của thần Râ đã tạo nên loài người. Con trai của thần Geb là Osiris được cử làm vua của Ai Cập cổ đại. Người em trai của Osiris là Seth được xem là kẻ xấu xa trong vũ trụ. Seth đã giết Osiris và tự lên ngôi là vua Ai Cập. Sau khi giết Osiris, Seth thách đấu với con trai của Osiris (Horus) và bị thua. Seth bị đày đến sa mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi Anubis và biến thành thần của sự chết. Horus bắt đầu lên ngôi vua và trở thành pharaoh.

- Còn rất nhiều truyền thuyết xung quanh các triều đại Ai Cập. Nhưng thế giới của người Ai Cập luôn xoay quanh các điều thần bí về con sông Nile và sa mạc, tạo nên một niềm tin về các thế lực thần bí, luôn lôi kéo con người phải thần phục các pharaoh như những vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trông coi dân Ai Cập và dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt để đưa đến cho thần dân Ai Cập một cuộc sống yên lành bên cạnh pharaoh và dòng sông Nile giàu có và thần bí.

 
- Nữ thần Isis đại diện cho sao Sirius, một ngôi sao rất quan trọng đối với người Ai Cập cổ. Trong quyển sách Echoes of Ancient Skies, tiến sĩ thiên văn khảo cổ học Ed Krupp viết: "Sau khi biến mất khỏi bầu trời đêm (trong 70 ngày) cuối cùng thì sao Sirius xuất hiện trở lại vào buổi bình minh trước khi mặt trời lên. Điều này xảy ra mỗi năm được gọi là ngôi sao mọc cùng lúc với mặt trời và trong ngày đó sao Sirius có thể nhìn thấy chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn trước khi bầu trời trở sáng. Trong Ai Cập cổ đại, hiện tượng xuất hiện trở lại thường xuyên này của Sirius rơi gần đúng vào Hạ Chí và trùng với mùa lũ của sông
Nile. Isis đại diện cho Sirius, được gọi là "Nữ thần của năm mới" (Internet).

“Năm mới của người Ai Cập được đặt theo sự kiện này. Các văn bản tế lễ năm mới ở Dendera nói rằng nữ thần Isisđi ra khỏi sông Nile và vì thế nước dâng lên. Theo nghĩa ẩn dụ là thiên văn học, thủy lực, tình dục, và nó đồng nghĩa với những chức năng của thần Isistrong thần thoại. Sirius hồi sinh sông Nilecũng như Isis hồi sinh Osiris. Thời gian mà thần Isistrốn khỏi thần Seth là khi mà Sirius biến mất (70 ngày) trên bầu trời đêm. Nữ thần Isis sinh hạ ra thần Horus cũng như Sirius sinh ra năm mới, và trong những đoạn văn thì Horus và năm mới được coi như nhau. Thần Isis là phương tiện để tái sinh cuộc sống và trật tự. Tỏa sáng vào một thời khắc, một buổi sáng mùa hè, nữ thần đã khơi dậy sông Nile và bắt đầu một năm mới." Robert Bauval tin rằng tôn giáo của Ai Cập là khởi nguồn của đạo Thiên Chúa. Ông ta cũng cho rằng những câu chuyện Cựu Ước nơi Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo được biến cải từ những truyền thuyết của Ai Cập, ví dụ như sự phục sinh. Thậm chí ở một số quốc gia trên châu Âu còn có thể thấy được những đền thờ nữ thần Isis như Italia, Pháp, Đức, Anh, tất nhiên là hình ảnh của nữ thần Isis được truyền tải dưới một hình dạng khác. Vị hoàng đế Napoleon và toàn bộ những tướng lĩnh thân cận của mình đều là thành viên hội Tam Điểm khi đóng chiếm Ai Cập đã tiếp nhận những tri thức kì bí. Paris nơi thường được gọi là kinh đô ánh sáng cũng ẩn chứa một bí mật. Bí mật này nằm ở đại lộ Champs-Élysées được hướng 26 độ về phía đông nam, tạo góc chính xác với đường chân trời hướng tới ngôi sao của Isis (Sirius) mà từ Paris có thể nhìn thấy được. Paris có nghĩa là par-isis, “For-Isis,” một thành phố của nữ thần Isis” (Internet).

- “Trên ngôi mộ ít tiếng tăm của pharaoh Ankhtifi, người cai trị vùng phía nam Ai Cập, người ta đọc thấy dòng chữ: ‘Tất cả giới quan quyền ở Ai Cập đói đến độ phải ăn thịt con cái của họ.’Các pharaoh từng xây dựng những công trình đồ sộ nhất trong thế giới cổ đại, các kim tự tháp tại Giza, nhưng sau gần một nghìn năm ổn định, giới quyền lực đầu não tan rã; vương quốc nhanh chóng đi vào hỗn loạn trong vòng hơn 100 năm. Cho tới cách đây khoảng 4.200 năm (tính ngược lại từ năm 2000), nền văn minh vĩ đại đầu tiên ở Ai Cập đã hoàn toàn sụp đổ. Giáo sư Fekri Hassan, từ Đại học London, Anh, đã kỳ công làm sáng tỏ bí mật này. Fekri bắt đầu bằng việc nghiên cứu những ghi chép tỷ mỷ từ thế kỷ thứ 7 về các trận lụt của sông Nile, con sông có vai trò trung tâm trong đời sống của người dân vùng này. Ông nhận thấy nhiều trận lụt với quy mô khác nhau đã diễn ra, trở thành nguồn cấp nước sống, còn cho tưới tiêu trong vùng. Nhưng ông không có số liệu nào của năm 2.200 trước Công nguyên.”

- “Trong khi đó, ở nước láng giềng Israel, người ta tìm thấy tại một hang đá dấu vết của đợt biến đổi khí hậu lớn nhất trong 5.000 năm: Trận hạn hán nặng đúng vào năm 2.200 trước Công nguyên đã làm suy giảm 20% lượng mưa. Vì Israel và Ai Cập nằm trong các hệ thống thời tiết khác nhau, Fekri tiếp tục tìm kiếm những bằng chứng khí hậu khác.” Sau cùng, đã có thêm một dấu vết mới. Nhà địa chất học Gerard Bond, Đại học Columbia, Mỹ, phát hiện ra rằng châu Âu đã từng trãi qua các thời kỳ cực lạnh - thời kỳ băng hà, lặp lại sau mỗi 1.500 năm và kéo dài trong 200 năm. Một thời kỳ cực lạnh như thế diễn ra đúng vào năm 2.200 trước Công nguyên. Người ta cũng tìm thấy dấu vết của đợt biến đổi khí hậu rất lớn ở thời điểm này trên khắp các vùng còn lại của thế giới, từ Indonesia tới Địa Trung Hải, từ Greenland tới Bắc Mỹ. “Có thể, đợt biến đổi khí hậu nghiêm trọng đã gây ra cái chết hàng loạt của loài người cách đây 4.200 năm. Còn với Ai Cập, hạn hán đã hành hạ vùng đất này dai dẳng, cuối cùng quật ngã một trong những nền văn minh rực rỡ nhất của loài người. Fekri đã chứng minh được rằng những gì viết lại trên ngôi mộ của Ankhtifi là hoàn toàn đúng sự thật. Thiên nhiên đã đẩy con người đến bước đường cùng. (B.H. Theo BBC, Việt Báo, VNExpress). Sau này, Ai Cập trở thành một tỉnh của đế chế La Mã vào năm 30 trước công nguyên.”

- Qua một số nghiên cứu tìm hiểu đưa đến nhận định về Ai Cập thời cổ như tôi tóm gọn lại trên internet và vừa đọc cho anh chị em nghe, chúng ta nhận thấy cuộc đời, đại khái nói chung, mọi sự đang biến chuyển, và không có gì được gọi là cố định, trường tồn. Một nền văn minh lâu đời như Ai Cập bây giờ cũng đã được coi như đi vào lãng quên. Những truyền thuyết, những công trình, những quan niệm đã đứng vững và hoành hành cũng như áp đặt trên nhân sinh qua bao thời đại nay đi về đâu!

- Tôn giáo Ai Cập cho rằng nếu bảo tồn được thể xác thì linh hồn có thể được đầu thai nên người Ai Cập có tục ướp xác và đúc mặt nạ để linh hồn có thể nhận ra phần thể xác của mình; sau này tục ướp xác và đúc mặt nạ đã được người La Mã tiếp thu. Trong tín ngưỡng của người Ai Cập cổ đại có niềm tin rằng; sau khi ướp xác, linh hồn của họ sẽ được lên thiên đàng như các vị thần. Tục ướp xác được xuất phát từ truyền thuyết thần Osiris bị em trai mình là thần Seth giết xé làm 14 mảnh quăng đi khắp nơi, và sau đó được thần Isis tìm lại quấn thi thể trong lớp vải, nhưng thần Isis chỉ tìm được 13 phần thi thể còn lại một phần đó là bộ phận sinh dục; bộ phận đó được thần Isis làm lại bằng vàng. Sau đó nữ thần Isistrốn vào sông Nile trong 70 ngày và sau đó sinh hạ ra thần Horus; về sau Horus đi tìm Seth để báo thù cho cha. Quá trình 70 ngày kết thúc Osiris đã phục sinh; ông đã nhường lại ngôi báu cho con trai mình và trở thành vị vua cai quản cõi chết. Trong các tài liệu cổ, Osiris được miêu tả là một vị vua với nước da màu xanh (màu tượng trưng cho sự tái sinh), người dâng nước sông Nile. Thật là trùng hợp khi trong truyền thuyết có nhắc đến lục địa Mu (được gọi là Atlantide?) với chủng tộc người da xanh. Phải chăng những con người đầu tiên đặt chân lên Ai Cập là những con người đến từ lục địa đã mất này? Họ đem theo những tri thức vĩ đại về khoa học, thiên văn học mà con người lúc bấy giờ cho rằng đó là sức mạnh của thần thánh. Khi quá trình ướp xác diễn ra trong 70 ngày với đủ các phương thức bí truyền, xác của họ sẽ được đưa qua sông Nile. Sông Nile chính là biểu tượng của giãi ngân hà (Milky Way); linh hồn người chết sẽ vượt qua ngân hà đến với thiên đàng nơi mà thần Osiris ngự trị.

- Nguyên tắc ướp xác của Ai Cập cổ đại dựa trên việc làm mất nước trong cơ thể người chết và lấy đi các bộ phận dễ phân hủy như nội tạng và bộ não. Nghệ thuật lấy não người chết của người Ai Cập cổ thật tài tình; nó đã nhiều năm làm các chuyên gia giải phẫu lúng túng về phương pháp bảo vệ hộp sọ của người chết trong khi não được lấy ra một cách hoàn hảo. Bước tiếp theo, xác ướp được để trong natron (quan tài bằng sậy) khô khoảng 70 ngày để thanh trùng. Cuối cùng là nhồi cỏ khô, thơm vào phần rỗng của nội tạng, xoa dầu thơm và quấn vải lên thi thể một cách cẩn thận và chu đáo. Các ngón tay của xác ướp được lồng bằng các ống vàng. Não và nội tạng khi lấy ra khỏi xác ướp được cất giữ ở 4 chiếc bình.

- Người Ai Cập cổ quan niệm về sự chết như một sự chuyển tiếp một cuộc sống khác ở thế giới bên kia, thế giới cõi âm. Nghi lễ về cái chết là một sự kiện quan trọng và tỉ mỉ nhằm tiễn đưa người chết về với cõi vĩnh hằng. Người Ai Cập cổ quan niệm con người có cả phần thể xác và phần linh hồn; chính vì vậy, các nghi lễ là thể hiện sự chuẩn bị cho thể xác và linh hồn có được sự hòa hợp khi về cõi âm. Họ tin tưởng rằng, nếu thi thể được bảo quản tốt nhất thì linh hồn sẽ tái hòa nhập sau một thời gian nào đó. Điều kiện để linh hồn mau chóng trở lại hòa nhập vào thể xác là xác phải được một người thầy tu lành nghề bảo quản nguyên vẹn cơ thể, khuôn mặt được như lúc còn sống, và cơ thể phải được ướp hương thơm. Đầu tiên, cơ thể người chết sau khi đã được lấy đi nội tạng, sẽ được cho vào một quan tài nhỏ bằng sậy vùi vào cát nóng nhằm làm khô xác để cho cơ thể không thể phân hủy sau này, sau đó thì mới mai táng trong hầm mộ.

- Thuật ướp xác của người Ai Cập ra đời từ năm 2700 TCN. và kéo dài đến tận thế kỷ thứ 5. Người Ai Cập cổ cho rằng sau khi chết, hồn người ta sẽ được về nơi sự vĩnh hằng ở thế giới của các thần linh; nên việc ướp xác cũng là sự thể hiện niềm tin cho sự trường tồn của vương quốc Ai Cập.

- Chúng ta thấy, để có một ý niệm đại cương, người ta phải sưu tầm những di tích văn minh mà những dân tộc thuộc nguồn gốc châu Atlantide đã bỏ sót lại. Người ta phải truy nguyên qua những nghi lễ đã suy tàn của những thổ dân Incas hay Mayas, đến sự thờ phượng thuần khiết hơn thuộc về tổ tiên của các dân tộc này. Những sự sưu tầm đó giúp ta khám phá ra cái mục tiêu tối thượng của sự thờ phượng của họ; đó tức là ánh sáng, biểu hiện bởi ngôi mặt trời. Bởi lẽ đó, họ dựng lên khắp nơi bên Mỹ Châu thời cổ những ngôi đền hình kim tự tháp để thờ mặt trời. Những ngôi đền đó đều là những kiến trúc một kiểu, hoặc có sửa đổi hình dáng chút ít, với những ngôi đền tương tự đã từng có ở châu Atlantide (ACHB; Tr.25). Trong nền tôn giáo cổ Ai Cập, Râ, thần Thái Dương là vị chủ tể, là đấng sáng tạo ra vạn vật vô sinh bất diệt, là cha và đấng sáng tạo của tất cả các vị thần linh khác (ACHB; Tr.27).

- Thưa bác, một cánh tay giơ lên, phỏng có gì liên hệ từ quan niệm truyền thuyết huyền bí của người Ai Cập thời cổ đối với huyền thoại con cháu Thái Dương thần nữ của người Nhật?

- Ah! Tôi chưa bao giờ để ý về vấn đề này. Hơn nữa, một đàng là lý thuyết tâm linh được dùng làm căn bản niềm tin đưa đến thực hành áp dụng trong diễn tiến nhân sinh dẫn tới tôn giáo được gọi là Điểm Đạo Ai Cập; đàng khác là huyền thoại khai sinh dân tộc không liên hệ chi tới tôn giáo hoặc tín ngưỡng; chúng ta thấy ảnh hưởng của hai sự thể đối với tâm linh và nhân sinh rất khác biệt. Quan niệm hay tạm gọi là huyền thoại dân tộc Nhật là con cháu Thái Dương thần nữ cũng tương tự huyền thoại phát sinh dân tộc Việt Nam. Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, “đẻ” trăm trứng và sinh ra trăm con; năm mươi con theo cha lên núi; năm mươi con theo mẹ xuống vùng biển tạo thành nguồn gốc con rồng cháu tiên của dân tộc Việt Nam. Thử hỏi huyền thoại này ảnh hưởng gì đến cuộc sống nhân sinh của chúng ta, phương chi nói tới so sánh hoặc liên hệ từ huyền thoại tới niềm tin và thực hành nghi thức tôn giáo. Hơn nữa, đa phần chúng ta quan niệm không rõ ràng, hoặc do không để ý, hoặc không có phương tiện nghiên cứu nên chấp nhận cho qua. Chẳng hạn, nói về huyền thoại ngồn gốc dân tộc không ảnh hưởng chi tới cuộc sống con người, nhưng niềm tin lại ảnh hưởng mạnh mẽ nơi cuộc sống nhân sinh. Dẫu quan niệm dẫn đến niềm tin nhưng huyền thoại không tạo được niềm tin; vì huyền thoại không đụng chạm chi tới cuộc sống. Xét theo phương diện nào đó, huyền thoại mang phần nào tính chất quan niệm, nhưng huyền thoại không phát xuất từ lòng khát khao nhận biết về chính mình, về liên hệ sự hiện hữu của mình đối với dòng sinh hóa nhân sinh dẫn dắt con người tới niềm tin, thường được hiểu lầm với danh hiệu đức tin. Xét về phương diện niềm tin, chúng ta thường lẫn lộn với đức tin. Dẫu niềm tin tăng, hoặc tạo thêm năng lực nơi con người, đức tin là thực thể năng lực nơi con người. Có thể nói, đức tin là thực thể nội tại nơi con người mà đã không được nhận biết.

- Thưa bác, Sỹ nhà con cắt ngang.

- Khoan đã, anh Sỹ, có phải mọi người lần đầu nghe thấy tôi phân tích niềm tin và đức tin phải không? Tôi biết mọi người đang đặt câu hỏi về niềm tin tạo năng lực khác với đức tin là thực thể năng lực thì có thể nói niềm tin kiến tạo đức tin phải không? Thứ nữa, tại sao có những đức tin khác nhau như đức tin Phật giáo, đức tin Công giáo, đức tin Ấn giáo, đức tin Tin Lành, Thệ Phản. Tôi có thể tóm gọn một câu, người ta đã hiểu lầm về thực thể mang danh hiệu đức tin và thường chỉ cho rằng đức tin cũng giống như niềm tin. Điều này có nghĩa những gì được tổ chức tôn giáo cho là đúng, là hợp với giáo lý của giáo phái ấy thì được gọi là đức tin. Thực ra, đó chỉ là niềm tin, là quan niệm kết quả của suy luận hay nhận thức. Đàng này, đức tin là năng lực nội tại bẩm sinh mà chúng ta đã đang không nhận biết. Niềm tin có thể giúp thêm năng lực, chẳng hạn chúng ta nghĩ rằng làm nhà hàng có lời nhiều nên đem hết năng lực, cố gắng làm nhà hàng. Niềm tin tưởng này làm tăng năng lực giúp con người chịu đựng hầu vượt qua thử thách khó khăn trong thời gian thực hiện mục đích, hoặc đối diện với những chướng ngại, thất bại, mong đạt tới thành quả ước muốn. Tuy nhiên, kết quả ra sao mọi người đều biết. Đâu phải ai làm nhà hàng cũng thành công bởi còn bị lệ thuộc nhiều yếu tố xã hội nhân sinh đồng thời. Ông bà mình thường nói, “Làm giầu có số, ăn cỗ có phần.” Cũng một cửa tiệm, người này đứng bán hàng thì khách khứa vào ra tấp nập trong khi người khác đứng bán, mặt meo như khỉ ăn mắm. Niềm tin chính là niềm hy vọng của ước mơ, mà ước mơ thường không có gì bảo chứng, không dựa trên bất cứ thực tại nào; bởi nếu đã có cơ sở làm nền tảng cho ước mơ, ước mơ lúc ấy đã trở thành chương trình hoặc dự án để thực hiện. Tất nhiên, dự án không phải là ước mơ dẫu chất chứa hy vọng hiện thực.

- Quý anh chị theo Công giáo hoặc Kytô giáo làm ơn nghe cho rõ và chịu khó suy nghĩ, nghiệm chứng câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc.11:23). Khi bảo núi xê đi có nghĩa bày tỏ ước muốn, ý định; điều này nói lên một thực thể đó là ước muốn, ý định tự nó đã mang quyền lực nào đó có thể di chuyển được ngọn núi. Quyền lực này nơi mọi người nếu nói theo câu Phúc Âm; vì ngôn từ “Kẻ nào” có nghĩa bất cứ ai, không phân biệt màu da, sắc tộc, kiến thức hoặc thời đại. Vấn đề được đặt ra lại là chúng ta có nhận biết quyền lực này nơi mình hay không, và nếu đã nhận biết, có tìm cách nào để sử dụng được quyền lực này nơi mình hay không. Đây chính là một điểm nhỏ nơi câu hỏi đầu tiên và cũng là cuối cùng cho hành trình tâm linh, “Tôi là ai,” tôi thế nào đối với vũ trụ liên miên biến chuyển. Câu hỏi này bày tỏ lòng khát khao bẩm sinh về nhận thức chính mình trong liên hệ cuộc sống với dòng sinh hóa nơi hành trình biến chuyển của vạn vật. Bởi đó, đạo học Đông Phương dẫn đến nhận thức con người là tiểu vũ trụ. Muốn nhận biết đại vũ trụ cần phải nhận biết chính mình. Anh Sỹ, anh muốn hỏi gì?

- Thưa bác, giả sử con muốn ngọn núi xê đi, thế rồi ngày này qua tháng khi đào từng xe đất chuyển chúng tới nơi khác thì ngọn núi cũng rời. Ý định dẫn tới thực hành của việc đào đất di chuyển ngọn núi được thực hiện thì đó là đức tin hay niềm tin?

- Niềm tin dẫn đến hành động dời núi và khi núi đã được dời, niềm tin mất dẫu niềm tin kiến tạo năng lực kiên nhẫn đào đất di chuyển ngọn núi sang chỗ khác. Đức tin là năng lực, quyền lực nội tại đã có sẵn, nếu nói theo Phúc Âm, và cũng chỉ Phúc Âm nói về quyền lực này. Điều kiện chỉ là không nghi ngại. Anh em thử suy nghĩ thêm, điều gì mình không nghi ngại tất nhiên mình đã chứng thực, đã nghiệm chứng rõ ràng. Những câu nói nơi các đạo học cần được nghiệm chứng kỹ lưỡng. Phao Lô nơi thư thứ nhất gửi Thesalonikê khuyên nhủ, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-22). Mới nghe thì thấy khơi khơi nhưng áp dụng vô thực thể cuộc sống không đơn giản chi; cũng nhu nhắm mắt để rồi tưởng rằng mặt trời không soi sáng. Nghiệm chứng không phải là cho rằng, tin rằng thế này, thế kia mà chính là đã thực sự kinh nghiệm được. Tôi đưa ra thí dụ; ngày còn nhỏ, chúng ta thử hết mọi sự, không tin rằng lửa nóng, đến khi bị phỏng tay bởi rờ vô lửa. Sự thực chứng này không ai xóa bỏ hoặc giải thích cho người chưa bao giờ rờ vào lửa có thể cảm nhận được. Nghiệm chứng, thực chứng rất khác biệt với sự hiểu biết do nghe giải thích. Các anh em đã nghe hay đọc công án “Uống trà” bao giờ chưa?

- Uống trà. Hưng nói.

- Nhưng thưa bác, lại Sỹ nhà con lên tiếng, thế sao có câu nói, lửa thì không nóng nhưng tại vì mình cảm thấy nó nóng?

- Đây là câu nói của Huệ Thi được viết thêm vào phần cuối của Kinh Nam Hoa của Trang Tử. Nếu suy nghĩ, nghiệm chứng nơi cuộc đời, câu này không nói gì về lửa nhưng chỉ dùng lửa để ám chỉ một thực thể trạng thái tâm tình nơi một người. Đã có ai nghiệm chứng câu nói này bao giờ chưa?

Môt cánh tay giơ lên, Thanh, chủ nhà.

- Anh Thanh, anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi.

- Thưa bác, con muốn nói với anh Sỹ.

- Thì anh cứ nói.

- Chú Sỹ, chú mày nói như cái đếch.

- Mọi người ngớ ra, và Thanh nói chỉ có thế, không hơn, không kém.

- Sao anh dám nói thế? Trong khi bàn luận, chẳng có gì được cho là đúng, chẳng có gì bị cho là sai; vì ý kiến chỉ là phương tiện dẫn đưa đến nhận thức. Đàng này anh không cho rằng đúng, chẳng cho rằng sai, lại bày thêm ra “cái đếch.” Thế cái đếch của anh là thứ gì? Nếu tôi hỏi đúng, anh nên cảm ơn mới phải. Nếu tôi hỏi sai, mời anh minh chứng, cớ sao nói như cái đếch. Sỹ nói một hơi không kịp thở, thái độ nhơn nhơn tự đắc ra chừng có cơ hội bày tỏ sự cả sáng.

Cụ Tài mỉm cười; Thanh cũng không nói chi. Mọi người ngớ ra, chẳng hiểu Thanh có ý gì sau cả phút im lặng. Xưa nay Thanh không bao giờ nói cà tửng, thế sao hôm nay lại sinh ra ngang ngược như vậy!

- Có ai hiểu anh Thanh nói gì không? Cụ Tài hỏi.

- Hắn nói như cái đếch! Hưng lên tiếng trong khi cười mỉm chi, lặp lại, “Lửa thì không nóng.”

- Hình như anh Thanh và anh Hưng đã nghiệm chứng được câu “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Tôi nghĩ, hai anh không nên nói gì thêm, hãy để mọi người nghiệm chứng câu nói này may ra nó trở thành cơ hội cho bất cứ ai nơi hành trình nhận thức; coi chừng nếu giải thích chỉ làm hại họ. Tôi chỉ muốn nhắc nhở quý anh quý chị, nếu muốn nghiệm chứng câu nói này, nên áp dụng đề nghị của Phao Lô nơi thư thứ nhất gửi Thesalônikê, “Hãy nghiệm xét mọi sự.”

- Thưa bác, sao có thể nghiệm xét mọi sự. Cuộc đời quá ngắn ngủi, thời giờ đâu mà nghiệm xét mọi sự! Sỹ chêm vô.

- Lại nói như cái đếch! Thanh quất thêm.

- Đúng, nói như cái đếch! Hưng đế vô.

Thế là Sỹ đỏ mặt, tía tai,

- Mẹ kiếp,

Cụ Tài giơ tay ra hiệu Sỹ ngưng, đoạn nói, anh Sỹ, nghiệm xét mọi sự, thử xét tâm tình của anh bây giờ và tâm tình khi hỏi! “Lửa thì không nóng!”

- Ah! Đoạn hắn đứng lên, chắp tay vái Thanh một vái trong khi lặp lại, “Nói như cái đếch.”

Cụ Tài lên tiếng,

- Khá lắm!

Thanh thấy Sỹ vái mình trong khi miệng lẩm bẩm nói như cái đếch chỉ nhẹ nhàng lặp lại, “Nói như cái đếch.”

- Mấy ông làm chuyện gì lạ vậy? Vợ Sỹ thấy chồng diễn xuất kỳ cục lên tiếng,

- Ông ấy đang cảm ơn Thanh vì đã bảo “nói như cái đếch,” Hưng trả lời.

- Anh Sỹ, cụ Tài nói, thế là đủ, chẳng nên nói ra, coi chừng nói chỉ có hại cho những anh chị em khác.

- Dạ, Sỹ lên tiếng! Đúng là nói như cái đếch.

Vợ Sỹ thấy chồng trả lời cụ Tài như thế, cảm thấy khó chịu nên lớn tiếng,

- Cái ông quỉ này, dám nói với cụ như thế sao!

- Bu mày nói như cái đếch! Sỹ không giải thích, chỉ ỡm ờ trả lời vợ.

Chị Sỹ lại càng không hiểu mấy người đàn ông giờ này thế nào mà ăn nói lung tung, chẳng ra môn, ra khoai chi hết.

- Có thể anh đã hiểu tại sao tôi không trả lời khi anh hỏi hòa thượng Hương Nham đã ngộ về chuyện gì, anh Sỹ!

- Thưa bác, nói vậy nhưng không phải vậy, Sỹ đáp.

- Giỏi, cụ Tài tiếp.

Chị Sỹ lại càng cảm thấy lạ lùng vì cụ Tài hỏi một đàng, Sỹ trả lời một nẻo thế mà còn được cụ khen giỏi. 

 
- Trở lại vấn đề Điểm Đạo Ai Cập. Dẫu Điểm Đạo có lý thuyết về nguyên thủy hiện hữu của các vị thần minh, sự thực nghiệm của Điểm Đạo Ai Cập mang mục đích để môn sinh thực chứng sự hiện hữu của linh hồn của mình qua kinh nghiệm thoát hồn nơi nghi thức được gọi là Điểm Đạo. Chúng ta kinh nghiệm được, quan niệm thay đổi, lối nhìn thay đổi, hoặc ngược lại, nhưng kinh nghiệm đã qua không thể thay đổi do không ai tắm hai lần trong một dòng nước vì mọi sự đang biến chuyển; trong đó chính quan niệm cũng đang biến chuyển, và dĩ nhiên, bất biến không thể phát sinh biến chuyển; bởi bất biến kể như chết. Kinh nghiệm bất biến nhưng thực thể tạo nên kinh nghiệm vẫn luôn luôn biến chuyển. Đàng khác, một khi tự do được tôn trọng thì không còn sự áp đặt người khác phải hiểu hoặc nhận định theo chiều hướng của mình. Đây là nguyên nhân kiến tạo tinh thần tôn trọng niềm tin của người khác. Điểm Đạo Ai Cập không giải thích, không quảng cáo chỉ giúp phương tiện cho môn sinh thực chứng.

- “Những cuộc lễ điểm đạo huyền môn Osiris là nghi lễ thâm diệu và huyền bí. Cuộc hành lễ này không gì khác hơn là một sự phối hợp giữa những mãnh lực thôi miên, phù phép, và tâm linh nhằm giải thoát tâm hồn người thí sinh khỏi sự trói buộc của thể xác nặng nề trong vài giờ, có khi trong vài ngày để cho y có thể nhớ trong suốt cuộc đời còn lại của y, cái kỷ niệm của một kinh nghiệm độc đáo ghi dấu một ngày quyết định trong đời y, và để cho y xử thế một cách thích đáng sự tồn tại của linh hồn sau khi chết, mà phần đông nhìn nhận như một tín ngưỡng tôn giáo. Người đạo đồ từ kinh nghiệm này có thể đem giảng dạy với một đức tin đã được tăng cường bởi bằng chứng cụ thể do kinh nghiệm bản thân” (ACHB; Tr.126).

 
- “Những cuộc lễ điểm đạo này luôn luôn được cử hành vào lúc ban đêm. Người thí sinh được đặt trong trạng thái xuất thần trong một thời gian dài ngắn không chừng, trình độ điểm đạo càng cao thì cơn xuất thần của y càng dài và càng sâu hơn. Những vị tăng lữ canh chừng y suốt những giờ ban đêm dành cho cuộc lễ này. Đó là cảnh tượng thường diễn ra trong những cuộc lễ điểm đạo huyền môn từ những thời đại cổ xưa trong dĩ vãng. Nó có ý nghĩa gì? Sự sát hại Osiris tức là việc đặt người đạo đồ trong một trạng thái chết giả, nghĩa là trong sự kết hợp tâm linh với Osiris, người sáng lập ra tổ chức huyền môn này. Bằng phương thức thôi miên, gồm có việc sử dụng những chất hương liệu rất mạnh, dùng hai bàn tay truyền nhân điện dọc theo thân mình, cùng với việc sử dụng một chiếc đũa thần; ngườì thí sinh được đưa vào một trạng thái đồng thiếp làm cho y mê man bất tỉnh như người chết. Xác thân y tê liệt, nhưng linh hồn y vẫn tỉnh táo và nối liền với thể xác bằng một sợi dây từ điển vô hình mà chỉ vị chủ lễ điểm đạo có thần nhãn mới nhìn thấy được. Như vậy, mặc dù mọi hoạt động thể xác đã ngưng, nhưng nguồn sinh lực vẫn tồn tại. Tất cả ý nghĩa và mục đích của cuộc điểm đạo này là để dạy cho người thí sinh biết rằng vốn không có sự chết. Người thí sinh được truyền thụ cái chân lý đó bằng một phương pháp rõ ràng và thực tế nhất; nghĩa là bằng cách làm cho y kinh nghiệm qua chính bản thân mình mọi diễn biến khách quan của sự chết; bằng cách dùng một phương pháp huyền bí để đưa y lọt vào cõi giới bên kia. Cơn đồng thiếp của y thâm sâu đến nỗi người ta đặt y trong một cái hòm đựng xác ướp có vẽ tranh ảnh và khắc chữ bên ngoài; nắp hòm được đóng chặt và khóa lại cẩn thận. Xét về bên ngoài, thì y là một người đã chết, nhưng khi cơn đồng thiếp của y hết kỳ hạn, người ta mở nắp hòm ra, và bằng những phương tiện thích nghi, y được làm cho tỉnh dậy. Đó là ý nghĩa của lời huyền thoại tượng trưng nói rằng những mảnh xác bị tách rời của Osiris được ráp nối lại và làm cho ngài được hồi sinh. Sự phục sinh bí hiểm và hoang đường của Osiris không khác gì hơn là sự tỉnh dậy của người đệ tử huyền môn sau cuộc lễ điểm đạo” (ACHB; Tr.105-106).

 
- Thưa bác, theo cháu đọc đâu đó, hình như Kim Tự Tháp chính là nơi dành riêng cho nghi thức Điểm Đạo mà thôi. Thanh lên tiếng hỏi.

- Anh nói đúng, “Những sử gia thận trọng cho biết rằng người ta không hề tìm thấy trong kim tự tháp một quan tài, một xác chết, hay một cỗ xe tang nào, dầu có vài truyền thuyết cho rằng một trong những vị vua Ai Cập có cho dựng trước cửa cung một cái hòm đựng xác ướp bằng gỗ chạm trổ rất khéo, mà người ta đã lấy từ kim tự tháp đem về. Trên những vách tường kim tự tháp không thấy có khắc những chữ ám tự hay chạm hình nổi hoặc tranh vẽ những sự việc xảy ra trong thuở sanh tiền của nhà vua đã băng hà. Nói tóm lại, không hề có những gì mà người ta thường thấy bên trong tất cả những ngôi mộ và lăng tẩm khác của Ai Cập. Các vách tường bên trong kim tự tháp đều trống trơn, không trình bày những mỹ phẩm như tranh vẽ, hình nổi hay ám tự để trang hoàng cho đẹp mắt mà các vị vua Pharaoh thường hay bày biện trong các lăng tẩm của họ, cũng không có dấu vết nào của sự trang trí mà người ta thường thấy ở những ngôi mộ quan trọng nhất của xứ Ai Cập” (ACHB; Tr.34). “Chỉ có một chiếc hòm trống trơn bằng đá đỏ, không đậy nắp, đặt dưới đất trong phòng lớn mà về sau người ta gọi là vương cung. Nhưng hai bên chiếc hòm bằng đá này không có khắc những ám tự hoặc tranh vẽ theo thủ tục thông thường của nền tôn giáo cổ Ai Cập. Cỗ quan tài nằm giữa phòng đầu xoay về hướng Bắc, chân về hướng Nam, năm mươi thước cao hơn mặt đất, trong khi ở những nơi khác người ta thường đào hầm đặt quan tài sâu dưới lòng đất theo tập tục thông dụng khắp xứ Ai Cập cũng như mọi nơi trên thế giới nếu không hỏa thiêu hay điểu táng” (ACHB). Trên vài ngôi mộ cổ ở Ai Cập có ghi thêm vào tên họ người chết mấy chữ "được hồi sinh" hay "người đã tái sinh hai lần." Những câu này diễn tả trình độ tâm linh của người chết đã được điểm đạo.

 
- Thưa bác, Sỹ hỏi, những phù phép các vị chân tu Điểm Đạo Ai Cập dùng có giống như những phù phép của các pháp sư, thày bùa, thày ngải không?

- Nói đến Điểm Đạo, chúng ta cũng nên biết về khoa pháp môn và đặc tính của khoa này. “Muốn có được cái bản lĩnh đó, người học khoa pháp môn phải trãi qua một thời kỳ tập sự lâu dài và nguy hiểm. Bởi đó khoa pháp môn bao giờ cũng vẫn là cái sở đắc của một thiểu số người. Tuy nhiên, thật là một điều nguy hại cho nhân loại nếu những bí thuật của khoa pháp môn được tiết lộ cho mọi người bởi vì những kẻ hung dữ có thể lợi dụng khoa này để làm hại kẻ khác vì mục đích ích kỷ, còn về phần người thổ lộ thì sẽ mất hết quyền năng, không còn hiệu lực gì nữa. Thật ra, theo những luật lệ của khoa pháp môn, mỗi thày pháp có bổn phận phải truyền pháp cho một người đệ tử trước khi qua đời, để cho khoa pháp môn được tồn tại mãi mãi trong nhân loại” (ACHB; Tr.84-85).

 
- “Hơn nữa, dẫu các điều giáo huấn cao thường được xem như bí mật hay bí truyền, tuy thế, không bao giờ định ý ngăn cản một ai đạt được các trình độ cao hơn về kiến thức được cổ võ, mà chỉ là một sự cố gắng nhắm tránh những cuộc trò chuyện bép xép và những suy luận vô ích; nó lôi kéo người dốt vào những nhận thức sớm về các tình trạng tâm thức cao, mà chưa hề có những cố gắng cần thiết để đạt đến các tình trạng ấy bằng phương tiện kinh nghiệm” (MGTT; Tr.43). Chẳng hạn nơi Mật Tông Tây Tạng, “Từ thời xa xưa, trong kinh điển của “Đại Chúng bộ” đã có những tập công thức ảo thuật mang tên là Đà La Ni hay Đái Trí Tạng. Đà La Ni là những phương tiện để định tâm tại một tri thức hay một ảnh tượng thấy được trong thiền định. Chúng nó có thể nhân cách hóa cái tinh yếu của một lời dạy cũng như kinh nghiệm của một trạng thái tâm thức nhất định; trạng thái này nhờ vậy có thể được nhắc lại hay tái tạo tùy ý và bất cứ lúc nào. Do sự kiện này, chúng cũng có thể đuợc gọi là Đái trí hay Tiếp trí. Xét về tác dụng hay chức năng thì chúng chẳng khác gì thần chú, nhưng trước nhất chúng là sản phẩm và là phương tiện phụ giúp cho thiền định. Nhờ trầm tư (chỉ quán) người ta đạt được một chân lý; nhờ Đà La Ni, người ta xác định nó và người ta bảo tồn nó” (MGTT; Tr.35). Các thần chú dùng trong pháp thuật tự bản tính riêng của chúng không tác động được mà chính là nhờ sự trung gian của tâm thức đã có kinh nghiệm về nó. “Chúng không có tự lực, chúng chỉ là những phương tiện tập trung các lực đã có sẵn, giống như một thấu kính hội tụ, tự nó không có một chút nhiệt nào, nhưng dùng nó một cách thích hợp, nó có thể biến đổi các tia nắng vô hại của mặt trời thành tác nhân gây ra hỏa hoạn” (MGTT; Tr.29). “Như vậy, chỉ sau một thời gian chuẩn bị và thực hành dưới hình thức tập luyện liên tục thì các thần chú mới có thể có một ý nghĩa, vì chỉ lúc đó chúng mới đánh thức được nơi người thụ pháp các lực được dồn chứa trong suốt các kỳ thí nghiệm trước và mới có thể tạo ra được các hiệu quả mà lúc sáng chế ra, lời chú đã nhắm đạt được” (MGTT; Tr.29-30)

 
Chúng ta tạm ngưng phần Điểm Đạo Ai Cập tại đây. Dẫu còn nhiều vấn đề kỳ bí, hãy để những ai muốn đào sâu tự mình tìm hiểu. Lần tới, chúng ta sẽ nói về Lão học.

- Thưa bác, xin cho cháu hỏi một câu cuối cùng…

- Anh cứ nói.

- Thưa bác, theo như phần tóm lược đại cương về Điểm Đạo Ai Cập, bác nói tới quan niệm tâm linh của người Ai Cập cổ đại ảnh hưởng tới quan niệm của Thiên Chúa giáo. Như vậy, có gì minh chứng đích xác về niềm tin sống lại nơi Kytô giáo phát nguồn từ thần giáo Ai Cập chăng?

- Những gì tôi đọc từ internet đại khái chỉ là những nhận xét của các tác giả tóm gọn chứ không phải sự nghiên cứu đã được cẩn thận tìm tòi, nghiên cứu, cho nên tôi không trả lời được về niềm tin nơi Kytô giáo có bắt nguồn từ huyền thoại sống lại của Osiris hay không. Nói cho đúng, niềm tin về sự sống lại của Osiris chỉ là huyền thoại như những huyền thoại khác, không phải thực thể nghiệm chứng hoặc sự thể lịch sử; nó chẳng khác gì huyền thoại con cháu Thái Dương Thần Nữ của người Nhật hoặc con Rồng cháu Tiên của người Việt chúng ta. Thêm vào đó, nguồn gốc thần thánh nơi Điểm Đạo Ai Cập được cho rằng từ hơi nước bốc lên cô đọng lại; vậy thử hỏi hơi nước ở đâu ra. Đặt vấn đề như vậy, huyền thoại hay quan niệm về thần thánh của người cổ đại Ai Cập không phải là huyền thoại tôn giáo và như thế dầu danh hiệu mang chữ “Đạo,” nhưng tôi cho rằng Điểm Đạo không phải là một tôn giáo. Tôn giáo phát khởi do lòng khát vọng bẩm sinh tự tâm hồn con người, và để bày tỏ lòng khát vọng này, mọi suy tư được bày tỏ qua ám định sau đó kiến tạo ước định, nghi thức của tập thể, những người có cùng chiều hướng tạo thành tổ chức. Anh chị em nhớ cho rằng, mọi đạo học đều bắt nguồn từ chiêm nghiệm về thực thể hiện hữu chính bản thân hành giả dẫn tới Quyền Lực Uyên Nguyên tối thượng nguồn gốc của mọi sự hiện hữu, hữu hình hay vô hình. Đàng này, quan niệm gốc gác của các vị thần phát sinh từ hơi nước nên đó chỉ là huyền thoại. Ngược lại, quan niệm hay niềm tin sự sống lại xác thân nơi Kytô giáo dẫu cho bị ảnh hưởng hoặc được khơi nguồn từ huyền thoại sống lại của Osiris thì niềm tin sống lại nơi Kytô giáo hoàn toàn tách biệt với quan niệm Điểm Đạo. Điểm Đạo Ai Cập chủ đích thực nghiệm thoát hồn để người trong cuộc kinh nghiệm thực thể hiện hữu chính mình. Hành trình thực nghiệm thoát hồn này phải được chuẩn bị và bổ túc bởi nhiều phương diện tâm linh chẳng hạn niềm tin, lòng khát vọng, ước muốn, niềm xác tín qua sự huấn luyện, dạy dỗ. Tuy nhiên, đa số người ta không để ý phân biệt và nhận định; nên bất cứ niềm ước mơ được ám đặt nơi hình thức nào đều bị cho là tôn giáo. Chẳng hạn, Khổng giáo không phải là tôn giáo nhưng những người tin theo đạo Khổng cho rằng Khổng giáo là một tôn giáo như lối phát biểu tam giáo, Nho, Phật, Lão.

 

- Thưa bác, như thế, niềm tin có thể sai lầm.

- Tôi có thể nói luôn luôn sai lầm. Lý do, tin theo một cách mù mờ hoặc tin theo lời nói, lời giảng thuyết của ai đó đều đặt trên căn bản vô minh, lười suy tư, nghiệm chứng nên luôn sai lầm. Không phải do mình nghiệm được nên không dính dáng gì tới mình. Có lẽ đây là nguyên nhân Thích Ca dạy, “Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Đồng ý rằng, nhiều khi niềm tin không sai trật nhưng vì nó chỉ là niềm tin thiếu nghiệm chứng nên vô bổ. Thí dụ, chúng ta tin rằng mỗi người có hồn hay linh hồn; điều này không sai nhưng đã bao năm tháng nơi cuộc đời mỗi người, niềm tin này giúp ích gì nơi cuộc sống, đặc biệt nơi hành trình tâm linh, hoặc giúp ích gì cho nhận thức hầu thỏa mãn lòng khát vọng tiềm ẩn bẩm sinh nơi mình. Dẫu chúng ta tin rằng sau khi chết, linh hồn sẽ bị xét xử về những hành vi nơi cuộc đời của mình để rồi cố gắng sống tốt lành khỏi bị phạt sau này thì sự cố gắng sống tốt lành thì cũng chính là con đẻ của sự sợ hãi bị phạt sau này chứ niềm tin linh hồn sẽ bị xét xử sau khi thân xác chết không giúp ích gì cho nhận thức về sự hiện hữu của mình, cũng không giúp ích gì để thỏa lòng khát vọng nơi mình. Cũng như thế, nếu chúng ta tin rằng phải sống tốt lành để khỏi bị luân hồi thành những thứ mà chúng ta không muốn hoặc e ngại sẽ xảy đến cho mình nơi kiếp sau thì niềm tin này cũng là con đẻ của sự sợ hãi điều mình không muốn chứ không giúp ích gì cho hành trình tâm linh chút nào. Bởi thế, chỉ những người dùng nhận thức đặt vấn đề nghiệm chứng về thực thể hiện hữu của chính mình để rồi nhận ra mọi ước muốn, ước mơ, tham vọng, mưu mô, ý định, ý nghĩ phát xuất từ một thực thể nào đó nơi con người của mình được gọi là linh hồn, và từ nhận thức được nghiệm chứng này hướng dẫn cuộc đời mình, hướng dẫn suy tư, ước muốn đối chiếu với kinh sách đạo học hầu nhận biết hành trình nào mình nên theo, lối sống nào mình nên áp dụng nơi cuộc đời; niềm tin phát xuất từ nhận thức được nghiệm chứng này mới không bị sai lầm. Không trãi qua hành trình nghiệm chứng, niềm tin có được từ nghe sao biết vậy đều vô bổ, đều được coi là sai lầm bởi mình nghĩ rằng, hoặc cho là tin nhưng không phải niềm tin của mình mà là của người khác. Thử hỏi, người khác ăn mình có no không? Hoặc người khác uống bia mình có say, có lâng lâng để rồi ăn nói bạt mạng không? Người khác cầm dao cắt tay họ chảy máu mình có đau không?

- Thưa bác, nhưng đạo Công giáo dạy phải tin xác loài người ngày sau sống lại, Sỹ nhà con lên tiếng chen vô.

- Đúng là không thể bổ đầu bò để nhét óc chó vô được; mà cố tình nhét óc chó vô, thì đầu bò cũng không thể nào sủa gâu gâu. Bác đã giải thích như thế còn cố gân cổ ra mà cãi. Tình cắt ngang lời Sỹ.

Cả bọn phì cười vì câu nói dí dỏm, coi thường lời nói của Sỹ. Không ngờ anh chàng lầm ngầm mà xổ ra câu nào câu nấy cay cú như thế.

- Anh Sỹ, cụ Tài lên tiếng, nơi đây chúng ta không nói về niềm tin tôn giáo. Điều mà tôi muốn nói là niềm tin thiếu nghiệm chứng thường được gọi là tin thì luôn luôn sai lầm vì nó không phải tự mình kinh qua. Tôi cũng đã nói rõ rằng; tôi không biết về ảnh hưởng của huyền thoại sống lại của Osiris liên hệ hoặc ảnh hưởng tới niềm tin xác thân sống lại nơi Kytô giáo ra sao. Điều tốt nhất, anh hãy tự nghiệm chứng điều anh được dạy dỗ. Ở đây, chúng ta không nói đến Kytô giáo dạy, Phật giáo dạy, Ấn giáo, hay bất cứ tôn giáo nào dạy phải tin thế nào. Anh không chấp nhận những luật điều hoặc niềm tin của bất cứ tôn giáo nào thì anh không thuộc về tôn giáo đó. Hoặc miệng anh nói rằng tin theo nhưng lòng ruột anh còn khúc mắc thì anh phải tự mình tìm kiếm thỏa mãn lòng khát vọng bẩm sinh của anh. Anh không nhớ câu chuyện mười nàng trinh nữ nơi Phúc Âm sao. Năm nàng trinh nữ suy nghĩ, đặt vấn đề có thể thời giờ rước dâu bị trễ nên mang thêm dầu thì được cho là khôn ngoan. Năm nàng khác chỉ tuân theo sự bảo sao làm như vậy nên đã không chịu suy nghĩ, đặt vấn đề; do đó bị cho là ngu muội. Cũng phải nói cám ơn anh đã nêu lên thắc mắc nhưng thắc mắc trật. Mặc dầu thế, nó cũng là cơ hội cho mọi người đặt lại vấn đề về niềm tin của mình.

- Nhưng thưa bác, điều cháu muốn nêu lên lại chưa kịp nói hết; cái thằng khỉ kia nó đã vội sủa. Số là nơi Phúc Âm có câu, “Thần Khi mới tác sinh, xác thịt không ích gì” (Gn. 6:63). Thế thì mắc mớ gì phải nói đến thân xác sống lại. Cháu trộm nghĩ, vì linh hồn tức là thần khí nên không thể chết được, cho nên thân xác chỉ là phương tiện trong giai đoạn thời gian thuộc không gian nào đó như cơ hội cho hồn hoạt động, tạm gọi là luân hồi đi, cháu nghĩ mới hợp lý hợp tình; chứ đã phán xét, rồi hoặc là lên hoặc là xuống đời đời thì sống lại làm gì cho thừa thãi mà phải tin. Sỹ cố giãi bày quan điểm của mình về sự sống lại xác thân.

- Anh chị em nên nhớ lại, lý thuyết Luân Hồi phát xuất từ Ấn học. Lý thuyết này quan niệm rằng vì Atman là một phần của Brahma nên không thể chết được và mọi sự, mọi việc nơi cuộc đời chính là hành động của Brahma; thế nên nếu Atman chưa giác ngộ để trở về cõi uyên nguyên với Brahma thì sẽ được cho thêm cơ hội khác để học hỏi những điều phải học để giác ngộ chứ không phải một cuộc vay trả luân lý, sống cuộc đời không nên, kiếp sau sẽ trở thành con sâu, con bọ, đáng kinh khiếp theo quan điểm nhân sinh. Riêng phần đối chiếu niềm tin được dạy dỗ và Phúc Âm, tôi không có ý kiến vì tôi không bắt ai phải tin bất cứ điều gì, mà tôi thấy nên học từ Thích Ca, “Lời ta nói như chiếc bè; ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.” Ai nghĩ sao thì nghĩ, hiểu sao thì hiểu chứ đừng vội tin, nhất là không có gì phải hay trái nơi đây. Đúng hay sai, phải hay trái tự nơi mình nhận thức; sự thể, sự việc hiện hữu đâu lệ thuộc quan điểm mình cho là đúng hay sai. Riêng vấn đề này, quý anh chị làm ơn hãy đợi tới phần nói về Phúc Âm; chẳng có gì phải vội vã và ấm ức lúc này. Tuy nhiên, chắc quý anh chị ai cũng biết, nơi Phúc Âm lại có câu, “Phúc cho kẻ không thấy mà tin.” Tôi chân thành khuyến khích quý anh chị để tâm nghiệm chứng ngôn từ được gọi là tin được dùng nơi Phúc Âm, hy vọng đầu bò có thể sủa gâu gâu chăng. Cụ Tài vừa nói vừa mỉm cười trong khi liếc mắt nhìn Tình khiến ai nấy cảm thấy vui vui nhớ lại lời phát biểu của anh chàng lầm ngầm.

- Thưa bác, Thanh lên tiếng, có thể rằng người tiền cổ Ai Cập đã nhận ra thực thể thân xác con người bao gồm hầu hết là nước, cỡ 85 phần trăm như khoa học ngày nay chứng minh nên huyền thoại Osiris được sinh ra bởi hơi nước có nguyên nhân từ nhận thức ấy chăng? Thêm vào đó, nếu cháu không lầm thì vị thế và cơ cấu của Kim Tự Tháp chứng tỏ một trình độ nhận thức về toán học và kỹ thuật khá cao. Mới cách đây mấy ngày, cháu đọc nơi net nói về sự thể Kim Tự Tháp trên khắp thế giới bắt đầu phát ra chùm tia năng lượng gì gì đó bắn lên bầu trời mà người ta đã có thể chụp hình được. Cháu cũng đọc đâu đó về nền văn minh Maya thời cổ đại rất phát triển; họ đã phát triển khái niệm “số 0” sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm, đồng thời kết quả tính toán về thiên văn học theo một không gian và thời gian dài cực kỳ chính xác. Dẫu hệ toàn thân của họ là 20 bắt nguồn từ nhận thức mười ngón tay, mười ngón chân, nhưng họ đã xác định chính xác độ dài của một năm là 365 ngày tức là thời gian trái đất quay hết một vòng quanh mặt trời, nhưng không hiểu tâm linh họ tiến tới đâu…

Cụ Tài ra hiệu cho Thanh ngưng, đoạn nói,

- Nhà bác học Albert Einstein có câu nói, “Trí tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức.” Tôi thuộc thế hệ già rồi; hơn nữa, những sách vở ngày xưa tôi tra cứu và nghiệm chứng không thể nào bằng những kiến thức được đăng trên hệ thống internet ngày nay. Mặc dầu biết được như thế, anh chị em cũng nên hiểu cho, với tuổi gần đất xa trời, sự tìm tòi hiểu biết sẽ chậm chạp hơn bất cứ anh chị em nào nơi đây; nên tôi khuyến khích mọi người nên tìm hiểu cho thấu đáo những vấn đề mình cảm thấy thao thức. Chẳng những thế, khi tìm hiểu qua sách vở hay qua mạng lưới điện tử, chúng ta cần tận dụng sự tưởng tượng nơi mình để nhận thức thêm về điều mà ngôn ngữ không diễn tả được, hoặc tác giả đã không để ý mà viết ra. Tôi cũng có xem qua một số bài viết về lịch sử nền văn minh Maya nhưng không muốn đá động đến vì điểm chính yếu mà tôi muốn tìm là nhận thức tâm linh. Có giả thuyết nền văn minh Ai Cập được coi là tiếp nối của nền văn minh Maya, và nền văn minh Maya bắt nguồn từ những người chạy thoát khỏi sự chìm ngập dưới biển của châu Atlantide; nền văn minh này kiến tạo nên những Kim Tự Tháp; và mới đây, tôi cũng đọc qua sự phát sinh năng lượng của Kim Tự Tháp, nhưng những sự kiện này quá bất ngờ, tôi chưa suy nghĩ được gì có thể liên hệ tới hành trình tâm linh con người. Hy vọng anh chị em nào tìm hiểu và suy nghiệm thêm; may ra chúng ta thăng tiến phần nào sự thức ngộ nơi mỗi người chăng. Thôi, thời gian cũng muộn rồi, chúng ta tạm ngưng. Lần tới chúng ta sẽ nói về Đạo Đức kinh.

- Chủ xị cho lần tới, giọng Tình kéo dài

- Lần tới mời cụ và anh em quá bộ đến nhà tôi, ông Thung lên tiếng.

- Đến nhà anh thì ai cầm chịch, rồi lấy gì mà uống; chẳng lẽ trà và bánh ngọt thì có gì hứng khởi cho đầu óc thông minh hơn. Không được, đến nhà anh, lão thì có nhưng đạo thì không! Chán chết! Sỹ nhà con vội vàng nêu ý kiến.

- Chú mày năng lực được bao nhiêu mà thông với minh, thông manh thì có, lại còn đòi thông minh hơn; phỏng chú có biết chú nói gì không?

- Anh nói gì, bộ một tiểu đội mà chưa đủ năng lực sao; gấp mấy lần anh rồi! Thế hun đít cảnh sát mới thông minh sao!

Số là tuần trước trời mưa dai dẳng khiến đường xá ướt nhèm. Chị Thung nấu món canh chua nhưng nhà hết me gói khiến ông Thung phải lái xe ra chợ. Gặp khúc đường đang sửa, bùn đất vữa nơi mặt lộ, chiếc xe cảnh sát phía trước nối tiếp đoàn xe với tốc độ cỡ ba mấy, bốn chục miles. Ông Thung trờ tới, ác hại thay, không hiểu chuyện gì phía trước khiến xe cảnh sát thắng gấp. Do thắng vội, xe ông Thung trượt trên bùn, cát nên đụng nhẹ vào cảng sau xe cảnh sát. May mắn, gặp được người cảnh sát trung niên dễ dãi, lại chẳng có gì hư hại nên ông Thung không bị chi rắc rối, không ticket, không warning.

- Tớ đụng nhẹ để nhắc nhở ông ta quên không gắn phía sau bảng “Don’t Kiss Me.” Tớ đã chỉ cho ông ta sự thiếu sót; do đó không phải lỗi ở tớ mà lỗi ở cảnh sát. Chú mày đâu biết chi mà hun với đốt.

- Vâng, đúng rồi, ông cảnh sát nên cảm tạ và lỡi ngãi vì bị hun đít xe.

- Thôi, thôi, được mời lại còn chảnh. Giỏi lắm thì cũng chỉ uống một ly đã hơn ai, Tình đế vô. Tuy nhiên, nhà anh cả quá cận với hàng xóm lại hơi rộng nên có lẽ không đủ chỗ cho đám này đàn đúm, lỡ ca ok, oca phiền hà đến hàng xóm láng giềng. Tôi đề nghị, nếu không có ai xung phong thì xin mời về nhà tôi. Chuyến biển vừa qua tôi vớ được một đám nhệch (lươn biển), bán không ai mua, ăn chưa hết, mời bác và quý vị thưởng thức lẫu nhệch với bún, nhậu cá khoai kho tiêu sả ớt kèm theo rau diếp, lá thơm cây nhà lá vườn cả một rừng. Ai không đồng ý thì giơ tay; ai đồng ý, yêu cầu ngồi im.

- Lẫu nhệch tạm được nhưng có phơi được ít nhệch khô nào không? Nhậu nhệch khô nướng đã quên chết. Nếu chú không có, tôi ủng hộ một ít, hay là đem nhệch và cá khoai sang nhà tôi nhậu, tôi phụ thêm nhệch khô nướng. Hê, hê, chú Sỹ thừa năng lực bê sang vài chai rượu, ít két bia để minh chứng xem có thông minh hơn được chút nào chăng!

- Để tôi đem rượu sang, ai phúng điếu bia cũng được. Tôi có mấy chai “Bò Đi Ông,” Mờ mờ, Henessy, Cordon Blue, Cordon bliếc gì đó và chai Crown Royal to tổ bố chẳng biết làm gì với chúng, chỉ chật chỗ; tôi sẽ mang tới có lẽ đủ để chú Sỹ say quên đường về cho chừa.

- Hoan hô anh cả! Không ngờ năng lực của anh mạnh đến thế, nhà con sẽ cung phụng bốn két mười hai chai Heineken.

- Nếu anh em nào có cơ hội, nên đọc cuốn Đạo Đức Kinh trước khi chúng ta gặp nhau nói về Lão học lần tới. Dẫu Đạo Đức Kinh chỉ có trên dưới năm ngàn chữ nhưng có khá nhiều vấn đề được đề cập. Hơn nữa, nếu có thể, anh em cũng nên đọc trước cuốn Nam Hoa Kinh của Trang Tử; vì Nam Hoa Kinh phụ giúp cho hành trình nghiệm chứng Đạo Đức Kinh hoàn hảo hơn. Chúc quý anh chị em những ngày sắp tới may mắn….

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 7

 

 

Chiều nay, trời mưa nên không có đám nhóc nhưng lại có vợ chồng Tiên quán phở và cô con gái. Tiên mang theo một đùi dê hấp rượu mùi vị khác thường khiến ai nấy lòng ruột xốn xang, và vì chưa khai mạc do cụ Tài và Hưng chưa tới nên đành uống bia dằn bụng. Mấy người đàn ông, nhóm năm, nhóm ba bàn chuyện trời mây trăng nước hoặc vài vấn đề thiết thực làm ăn. Phía các bà, các chị cũng thế, nhóm nói chuyện ăn mặc hoặc chợ búa, mua bán; nhóm bình phẩm, nhận định người nọ, người kia. Sáu đứa trẻ, ba đứa con nhà Thanh, hai đứa con nhà Tình, cộng thêm con gái nhà Tiên bán phở, chia phe thảy bóng rổ lúc trời ngưng mưa.

 
Sau khi chuẩn bị và kiểm soát món ăn chờ được dọn lên bàn, Thanh ra vườn hái mấy trái ớt tươi hầu giúp cho khẩu vị thêm đậm đà khi ăn món lẫu nhệch. Thanh chọn những trái ớt ương ương, mang màu hung hung gần chín tới. Loại ớt này ăn dòn, không cay gắt mà hương vị lại thơm. Mới bất một cây mà đã cả vốc ớt, Thanh phải bỏ vô túi áo vì khi ra vườn quên không mang chiếc rá hoặc bao nylon để đựng. Tay hái ớt, mắt nhìn những màu sắc xanh xanh của lá cây, đỏ đỏ ớt chín, hung hung hoặc xanh đậm hơn pha ố vàng của những trái ớt đang chờ được bất, Thanh miên man nghĩ tới sự hòa hợp tự nhiên của màu sắc rồi liên tưởng đến cuộc sống con người; chợt nhớ nơi cuốn sách nào đó có câu nói, “Cuộc đời sẽ dẫn dắt một người đi đúng con đường họ phải trãi qua.”

 
Từ thuở nhỏ tới ngày vượt biên, có bao giờ anh dám mơ tưởng ngày nào đó sẽ được đặt chân nơi miền đất Âu Châu hoặc Mỹ quốc. Thế rồi vượng lên tâm tình cảm thương cho anh em họ hàng, những người kém may mắn, thời này đang phải bươn trãi kiếp sống, vật lộn tiêu hao tháng ngày sao cho có miếng cơm manh áo; rồi nào con cái nheo nhóc, vợ chồng lầm than mà vẫn lâm cảnh thiếu hụt, giựt gấu vá vai. Hình ảnh những trẻ em trên net nơi những bãi rác kiếm bao nylon đã bao lần gợi lại nơi tâm trí; Thanh chợt thở dài cảm thương cho phận người. Ôi, Thanh thầm hỏi, không biết những em nhỏ đó có cơ hội nào được nghe đến hai tiếng “Tương lai,” hay vì những đống rác quá cao so với thân xác các em nên đã bịt kín khoảnh trời trước mặt! Con đường nào cho các em đi, và nơi một xã hội con người mưu sinh khổ hơn con vật thì lấy gì làm căn bản để thăng tiến; đầu óc nào dám nghĩ đến ngôn từ thần thánh ấy. Ôi, tương lai! Tương lai dân tộc!

 
Những trái ớt nhắc nhở anh bữa nhậu sắp đến; nhệch khô nướng, lẫu nhệch, cá khoai kho tiêu sả, đùi dê hấp rượu, cơm, bún, rau rợ thập cẩm, rồi rượu, bia, nước ngọt, nước trà…, anh tự hỏi mình có thể làm gì giúp anh em, họ hàng nơi quê nhà. Một đất nước nghèo nàn tận cùng xã hội thì có bao nhiêu tiền gửi về cũng chỉ như gió thổi qua nhà trống. Trên net, rồi nghe tới, nghe lui, biết bao chuyện chẳng nên đã xảy ra cũng chỉ vì hoàn cảnh bần hàn. Có câu nói, bần cùng sinh đạo tặc, đói làm giặc, túng làm liều. Mấy lần gửi tiền để người em họ tráng xi măng nền nhà cho sạch, tránh cảnh mấy đứa trẻ lê la bụi bậm, và người em thì qua lá thư nào cũng dùng ngón đòn kêu ca nhà cửa tường xiêu, vách nát. Hình như xã hội ấy đã biến con người thành thứ lừa đảo, kiếm đủ mọi cách để lạm dụng tình thân, miễn sao thêm được chút nào hay chút ấy. Dẫu ruột thịt, thế mà chỉ vì muốn moi móc của không cần mồ hôi, người ta đã dùng những ngôn từ một cách sắc sảo, độc ác khiến cho người đọc mang cảm nghĩ tội lỗi nếu không cho họ tiền. Cô em họ bán nước đá nơi một góc chợ, mình gửi tiền hàng tháng cho ba đứa con cô ta đi học; mới được tháng thứ ba, đã nghe tin cô ta nghỉ bán nước đá, viện cớ mỗi ngày chỉ lời được hơn trăm ngàn (Tiền VN năm 2015). Nỗi buồn bực nào đó dâng lên nghèn nghẹn cổ, Thanh thở dài! Mình làm được chi!

 
Tiếng xe máy bể ống bô xé không gian vòng về phía sân sau nhà cắt ngang tâm tưởng khiến Thanh ngẩng lên nhìn. Sỹ nhà con đeo cặp kiếng đen úp chụp nửa khuôn mặt; phía sau, chị vợ thoải mái đôi tay bám vai chồng. Ah! Hôm nay chị này diện đúng mốt anh hùng xa lộ, quần ống tuýp, áo ngắn tay, trễ lưng, tóc cột đuôi ngựa. Dẫu có chút tuổi, con cái cả tá, nhưng trời ban cho chị ta thân hình thon thả, mi nhon, lại luôn luôn tươi trẻ. Nhìn cặp vợ chồng này đi xe máy thấy cũng hay hay, chỉ tội nó kêu phá làng phá xóm, điếc cả tai.

- Vô thôi, bác tới rồi, Sỹ hướng về Thanh la lớn.

- Sao ông biết? Thanh hỏi.

- Tớ chạy phía sau xe của Hưng mà. Vô thôi!

- Sao giờ này ông bà mới tới? Tụi nhóc đâu?

- Cái quân Mỹ vàng ấy đâu biết ăn lẫu nhệch nên tớ phải tha về một giỏ Kentucky fried. Trên đường về, không biết đứa nào hếch mắt lên, đường thì chẳng chạy, lao ngay xuống rãnh nên kẹt xe cả nửa tiếng đồng hồ; bởi vậy, tớ vác cái ông bể bô này e lỡ kẹt đường nữa thì lách cho tiện.

- Tưởng ông bà tham gia trình diễn hoa hậu xa lộ chứ.

- Anh Thanh lầm to rồi. Ông ấy đâu chịu; sợ đông người chiêm ngưỡng mòn vợ ổng thì sao! Chị Sỹ lên tiếng.

- Bu mày nói đúng đó. Lỡ thằng nào nó bợ mất bu mày thì lấy ai thưa kinh!

- Ối dà! Từ ngày lấy nhau đến giờ ông mới nói được một câu nghe tàm tạm.

Ông Thung mở cửa sau bước ra, lên tiếng,

- Cụ tới rồi, các ông các bà đi du hí mãi đâu mới về?

- Ông sắp xếp anh em an vị; tôi còn phải rửa món cay đắng này, Thanh trả lời.

 
- Hôm nay anh cả làm chủ xị, có chị hai chứng dám nếu không lại bảo tụi này không biết kính lão đắc thọ. Sỹ nhà con chưa kịp ngồi vô ghế đã oang oang phát biểu.

- Các chú định đưa lão vào rọ hay sao! Chẳng nói giấu gì cụ và anh em, mấy cháu nhà tôi chúng biết bố chúng không uống rượu nên biếu rượu để chưng, ngụ ý luôn luôn nhắc nhở lòng hiếu thảo của con cái mỗi khi ai vô nhà. Thế nên, thứ nhất, nhà tôi không có tủ chưng chén kiểu, ly cảnh, phương chi chưng rượu. Đàng khác, quăng vô thùng rác thì tiếc, để vô góc nhà e bị mốc hoặc bay hơi hết chăng. Điều khốn khổ nhất lại là chúng chiếm hết chỗ đi lại; thôi thì mang qua đây nhờ quý vị rước đi cho nhà cháu nhờ. Nhưng mọi sự kể ra cũng chưa phiền hà bằng nỗi e sợ của chị hai…

- Cái ông này, chị Thung kêu lên…

- Cái với con gì, ông Thung quay qua vợ giả bộ oan uổng, bà ấy cứ sợ lỡ tôi uống say ngủ quên.

Mọi người phá lên cười trong khi chị Thung cảm thấy hơi lạ không hiểu vì sao họ cười. Ông Thung giơ tay làm hiệu, nói tiếp,

- Vì chúng tôi, kể là cũng có tí tuổi, không biết sống chết lúc nào, nên tối nào cũng tụng kinh. Bà ấy sợ tôi uống say ngủ quên tụng kinh. Bằng chứng là mấy lần đầu nhóm họp với anh em để nghe cụ nói, lỡ về muộn nên bà ấy cứ cằn nhằn ham vui quên cả kinh sách. Mà đâu phải nhắc nhở nhiều chi, bà ấy nhắc đi, nhắc lại ít ít thôi, cả ngàn lần. Tôi xin phép được hỏi cụ và anh em, dẫu có tí tuổi nên hay quên thì cũng chỉ cần một vừa, một phải, dăm bảy trăm lần là quá đủ, đàng này cả ngàn lần; do đó cuối cùng tôi phải bợ bà ấy đi theo để được chia sẻ thú đau thương cùng tôi cho trọn đạo nghĩa vợ chồng. Đến đây, tôi xin hết lời, cảm ơn cụ và quý anh em đã chịu khổ nhịn thèm để nghe.

 

Thế là ầm lên những tiếng vỗ tay, cười nói hả hê. Chị Thung thấy lòng mình vui vẻ thoải mái với mọi người, không ngờ ông Thung dạo này ăn nói hoạt bát, lanh lợi ngược hẳn lại kiểu cách đã bao lâu nay kín đáo, nhẹ nhàng, và chừng mực, e mất lòng người khác hoặc lỡ mang tai tiếng. Ông Thung lấy chai Hennessy XO, mở nắp, rót vô ly của cụ Tài, sau đó rót cho mình, đoạn chuyền cho người kế tiếp. Đến người cuối cùng bên tay phải cụ Tài là anh Thanh thì chai rượu cũng vừa hết.

 
* * *

 
- Hôm nay chúng ta nói về Lão học, cụ Tài lên tiếng sau khi bàn ăn đã được dọn dẹp sạch sẽ chỉ còn lại chén, tách uống trà và những chai bia. Đã có anh chị em nào đọc qua cuốn Đạo Đức Kinh chưa?

- Thưa bác, cháu có đọc bản dịch và diễn giải của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần và một đôi bài viết trên internet, nhưng cháu cảm thấy hình như các tác giả cứ lòng vòng phía ngoài, hoặc nhận định Lão học một cách quá ư phiến diện, hay cho rằng Đạo Đức Kinh là một thứ triết lý nhận định về cuộc sống. Đại khái, nói chung, dẫu có người Tây phương nghiệm chứng phần nào về Lão học đã đào sâu về những kinh sách, quan niệm thời hơn kém ba ngàn năm trước được coi như những thành phần cấu tạo nên Đạo Đức Kinh, nhưng hình như lối nhận định của họ vẫn bị ảnh hưởng nặng nề diễn giải cho người khác hiểu chứ không nói lên được kinh nghiệm nghiệm chứng hay thực chứng những công án nơi Lão học. Cháu dùng ngôn từ công án để chỉ về những câu nói có vẻ nghịch thường nơi Đạo Đức Kinh; thí dụ, “Người biết không nói, kẻ nói không biết,” hoặc “Đi xa tức là về gần.” Nếu cháu không lầm, đa số các tác giả người Việt hay Tàu đều đã có những nhận định sai lầm về Lão học, ngay nơi câu khởi đầu của Đạo Đức Kinh, “Đạo khả đạo phi thường đạo.” Thiển nghĩ, theo ngôn ngữ, không thể dịch tên riêng nhưng họ đã diệt tên riêng, biến chữ “Tào” sang chữ “Đạo.” Tào có nghĩa quyền lực tối thượng, thực thể Uyên Nguyên, hoặc Thượng Đế, Thiên Chúa, Ông Xanh, Ông Trời thế rồi giải nghĩa Tào là Đạo, Đạo là đường, “The Way” để suy luận theo lối nhìn triết học và cho rằng Lão học là đường lối dạy con người theo lối sống thế tục trong khi Lão học, Phật học, Trang Tử, Ấn học, Kinh Thánh, Phúc Âm, là những đạo học, những phương tiện cho con người nghiệm chứng nơi hành trình tâm linh hầu thức ngộ. Thưa bác, đại khái như thế, nói ra vô cùng và cũng chẳng nói được gì. Thanh nói một hơi và cho rằng chẳng nói được gì.

 
- Anh chị em đã có ai nghiệm được câu nói của Lão học, “Người biết không nói; kẻ nói không biết” chưa? Đã có lần tôi nhắc qua nhưng nếu không để ý nghiệm chứng, chắc có lẽ anh em đã quên.

- Thưa bác, cháu có thể kể về trường hợp nghiệm chứng của mình không vì cháu thấy lần trước bác giải thích và thường thì nhắc đến ngôn từ nghiệm chứng, thực chứng chứ chưa dẫn dắt chúng cháu nghiệm chứng. Thế nên, cháu nghĩ kể lại kinh nghiệm nghiệm chứng may ra mang lại hữu ích chăng; cháu không dám đoan quyết.

- Anh nói đúng, và tôi đã cố ý không trình bày bất cứ kinh nghiệm nghiệm chứng nào vì như tôi đã nói, giải thích chỉ làm hại anh em; có chăng chỉ giải nghĩa phớt qua với chủ đích thách đố, nhưng hình như anh em thấy tôi già cả không thèm chấp; nên không ai nổi tự ái lên mà đào sâu vô những công án; nói cách khác, nghiệm chứng hoặc thực chứng công án. Sách vở cũng không trình bày bất cứ hành trình nghiệm chứng nào, mà có chăng chỉ nói phớt qua hay giải nghĩa; nên người đọc nếu không để ý sẽ không bực mình vì lối nói mù mờ do tác giả đã không kinh qua nghiệm chứng thì cũng chẳng nhận thức được gì. Mời anh chia sẻ.

- Thưa bác và mọi người, lần trước hình như chú Sỹ ngộ được câu “Nói như cái đếch,” chú có giải nghĩa được nhận thức đó không?

- Thì có gì đâu, người dùng câu, “Nói như cái đếch” không bực tức mà người nghe lại xốn xang lòng ruột thì câu nói đó tự nó là nó, lòng ruột người nghe xốn xang hay không tùy lòng ruột của mình. Nói cách khác, câu nói, “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng” không nói gì về lửa mà nói về phản ứng ngay tại tâm tư của mình. Cháu chỉ biết nói thế, không hiểu đúng hay sai, thưa bác.

- Tôi nghĩ mọi người đều hiểu, và anh Sỹ giải thích rất rõ ràng, nhưng có anh em nào nghiệm chứng được câu nói đó, làm ơn giơ tay.

Ba cánh tay giơ lên, Sỹ nhà con, Thanh, và Hưng.

- Trước khi anh Thanh trình bày hành trình nghiệm chứng riêng của mình, tôi muốn nói về nguyên tắc nghiệm chứng. Nếu anh chị em thực sự muốn áp dụng; tất nhiên, anh chị em sẽ cảm nhận được niềm vui không thể diễn tả. Đó là, đem câu nói nào đó khó hiểu hoặc nghịch thường đối với mình áp dụng nơi chính mình; nghĩa là mình đứng vào trường hợp của câu nói đó để rồi lục lọi nơi kinh nghiệm ở quá khứ của mình. Suy nghĩ tới, suy nghĩ lui, kiếm đủ mọi cách, giải đủ mọi kiểu sao cho câu nói nghịch thường đó có ý nghĩa nơi nhiều trường hợp, đặc biệt trường hợp nào đó tương tự nơi kinh nghiệm của mình. Tôi chỉ có thể đề nghị như thế. Vấn đề không phải là sự giải nghĩa của tôi mà chính là sự thực hành của mỗi người. Xét thế, có nói thêm cũng vô ích vì dẫu nói thêm cũng chẳng nói được gì. Nào, mời anh Thanh.

- Thưa bác, cháu xin nói thêm một câu về phương pháp nghiệm chứng. Đó là, bất cứ câu nào nói về vấn đề hay sự gì, cũng đang nói về tâm hồn của chính người nghiệm chứng. Ai có tai thì nghe. Bây giờ cháu xin trình bày hành trình nghiệm chứng của mình về câu nói nơi Lão học, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.”

 
- Số là năm 1975 cháu học gần xong lớp 12 thì chạy loạn ngày 30 tháng tư. Ba tháng sau được định cư tại Mỹ. Bố cháu có việc làm tại lò mổ heo, làm những công việc nặng mà người Mỹ không ai muốn làm như quét dọn chuồng nhốt heo, rửa những xoong, chảo, đường kính cao hơn đầu người cũng như quét dọn chung quanh bên ngoài xưởng nhốt heo. Được ít ngày cháu cũng nhận được việc làm tại hãng cung cấp nước cho thành phố, làm những công việc của một người phụ cho nhân viên để học thêm những công việc chuyên môn như cắt ống nước, làm ren ống, đào đất cho thợ sửa những ống nước bị rò rỉ. Sáu tháng sau, khi thấy gia đình tạm yên ổn với đồng lương nhân công của bố cháu, cháu nghỉ việc và nhập học lớp 11 vì nhà trường nói cháu cần học hai năm trung học chuẩn bị Anh văn trước khi lên đại học. Năm 1978 nhân tiện ghé qua một tiệm sách tiếng Việt tại thành phố Chicago vào hai tuần nghỉ thường niên khi về thăm gia đình, cháu mua những cuốn Phật Học Tinh Hoa, Lão Học Tinh Hoa, Tinh Hoa Đạo Học Đông Phương, Cái Cười Của Thánh Nhân và một vài cuốn khác để đọc dần. Cháu đọc cuốn Lão Học Tinh Hoa trước; vừa mở sách, ngay nơi trang thứ hai phía dưới nơi góc phải được in câu, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri,” đồng thời cũng in thêm câu dịch nghĩa, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Thế là lòng ruột của cháu nổi lên một trận hoang mang. Cháu đọc hết cuốn sách nhưng cũng chẳng biết đại khái cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần bàn luận những gì mà tâm trí lúc nào cũng vương nỗi thắc mắc vì câu nói nghịch thường, người biết không nói; kẻ nói không biết.

- Ngày qua tháng lại, những cuốn sách khác đã được đọc hết, cháu đọc lại cuốn Lão Học Tinh Hoa… Tính cho tới năm 1989 vị chi 11 năm sau, cháu đã đọc cuốn này 5 lần mà cũng chẳng hiểu được gì. Sách nhà Phật, cháu muốn nói sách viết về Phật học chứ không phải sách viết về Phật giáo; cụ Nguyễn Duy Cần cũng như các tác giả khác nói về nào là định tâm, quán tưởng, công án, tùm lum tà la. Những sách giảng kinh chẳng hạn Kinh Kim Cang, Kinh Viên Giác, Kinh Đại Niết Bàn, còn bày vẽ thêm tâm Phật, tánh Phật; rồi nào “Kiến tính thành Phật,” ngược lại gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp; nào ngũ tổ Hoàng Nhẫn cầm gậy đánh chó giơ lên thách đố trước ba ngàn môn đồ, ”Nói đi, cái này là cái gì; nói rằng nó là cây gậy đánh chó, ta đánh cho 30 hèo; nói rằng nó không phải là cây gậy đánh chó ta cũng đánh cho 30 hèo; nói đi, nói đi,” trong khi ba ngàn môn đồ miệng như ngậm thóc, không ai dám lên tiếng. Sách về Ấn học cũng thế, nào là Hattha Yoga, nào Kyrâ Yoga, muôn ngàn thứ công phu, quán tưởng, quán tính. v.v… Sách nào cũng hay, pháp nào cũng tuyệt vời nhưng chẳng giúp ích gì cho cháu. Nơi cuốn Phật Học Tinh Hoa, cụ Nguyễn Duy Cần còn ghi lại câu truyện thức ngộ của hòa thượng Hương Nham và cũng chẳng giải thích gì. Cụ còn ghi lại một số truyện nơi Nam Hoa Kinh và những câu nói khác thường, đóng thành cuốn Cái Cười của Thánh Nhân. Qua sách vở, cháu thấy nơi vườn đạo học đông phương được ghi lại lắm vị chân nhân, nhiều người thức ngộ, kẻ thì đốn ngộ, rồi nào tiệm ngộ, lại đến tông phái này, đạo giáo kia, chỉ những danh hiệu không cũng nhớ chẳng hết phương chi phép tắc, pháp tắc, rồi kinh, rồi niệm, bùa nọ, chú kia, nhào nháo như món gâm bô của Mỹ. Đọc những sách đó, cháu cảm thấy mình ngơ ngơ chứ không ngộ được chút nào. Thế nhưng, câu quỷ quái, người biết không nói; kẻ nói không biết cứ như tà ma, luôn luôn ám ảnh tâm tư. Do đọc những sách về đạo học Đông Phương, cháu bị tiêm nhiễm nên phần nào, chắc cỡ chững vài phần trăm, nói ngang giống họ; bởi vậy đôi khi vô tình nói về vấn đề nào đó, bạn bè, người chung quanh đều lên án cháu nói ngang, hoặc khác thường. Có điều, cháu đồng ý với tác giả Lin Yu Tang khi ông viết nơi cuốn được dịch là Một Quan Niệm Sống Đẹp, “Bên Tây Phương không có đủ nhà tù để nhốt kẻ điên trong khi nơi Đông Phương chúng tôi, có người điên nào thì lại được vô cùng kính trọng và sùng bái; chẳng hạn, Lão tử, Thích Ca, Giêsu.”  

- Thế rồi cháu để ý tới cuốn Kinh Thánh sau khi đọc về mấy kinh chẳng hạn kinh Bhagavad Gìta, được dịch là Chí Tôn Ca, kinh Viên Giác. Có điều lạ lùng, vì theo đạo Công giáo nên khi để ý, cháu thấy mấy Phúc Âm còn nói ngang hơn mấy vị chân sư, tổ sư. Thế mới lạ kỳ, nhưng sao không thấy ai cho là nói ngang, nói ngược; trong khi những lời viết trong đó còn nghịch thường hơn; chẳng hạn, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết,” hoặc, “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất nó.” Nơi cuốn Cái Cười Của Thánh Nhân, cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại hai câu, khi mới đọc chúng khiến cháu giật mình, đó là, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương,” và câu khác, “Thượng Đế và Satan là một.”

- Cháu đánh đàn cho ca đoàn hát nơi nhà thờ nên để ý nghe giảng giãi Phúc Âm, nhưng chỉ thấy Phúc Âm được giải nghĩa như những bài học luân lý. Dĩ nhiên, nếu hiểu Phúc Âm theo quan điểm luân lý thì phải đối diện với câu nọ chống nghịch lại câu kia không thể nào hòa giãi hợp lý hợp tình được. Tuy nhiên, cháu không dám ý kiến, ý bọ, bởi e rằng bị kết án rối đạo thì quả là phiền. Nói ra thì mang họa mà không nói ra thì lòng ruột ấm ức. Thôi đành học theo Khổng học, ngũ thập tri thiên mệnh. Chuyện đời là thế, nên sống sao cho êm đẹp mọi bề; bởi chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết. Đôi lần nghe giảng giãi câu Phúc Âm, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.” Cháu tìm hiểu lỗ kim là thế nào và nhận ra, cho dù được ám chỉ là chiếc cổng hẹp hoặc lỗ kim may vá thì cũng không cách nào con lạc đà chui qua được. Hoặc câu, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi,” đâu ai áp dụng theo nghĩa từ chương hay luân lý đâu. Cháu nghĩ, nếu hiểu theo nghĩa từ chương, đó là một kiểu khuyến khích con người sống buông thả một cách tuyệt vời.

- Cháu cũng đọc những câu truyện khuyến khích suy tư chẳng hạn nơi 12 cuốn sách của Anthony de Mello hoặc những công án, nhưng không hiểu tại sao câu nói nơi Lão học cứ luôn luôn dằng dai ám ảnh chẳng khác gì quỷ ám, ma đùa, hết tháng nọ qua tháng kia rồi năm này qua năm khác. Mãi cho tới năm 1989, tức là hơn kém 11 năm, vô tình cháu đọc cuốn Hành Trình Về Phương Đông, bản dịch từ cuốn The Journey to the Far East, cháu không nhớ rõ người dịch là Nguyễn Hữu Kiệt hay Nguyên Phong. Về sau cháu được biết tác giả bản tiếng Anh là một người Mỹ, sinh sống tại Texas, sách được viết qua dạng tập truyện ngắn và dùng lối nhìn vật lý để minh chứng quyền lực hiện hữu hay quyền lực sự sống đang hoạt động nơi mọi loài, mọi vật. Nhờ nhận thức này, cháu bạo phổi, thay vì dùng danh hiệu Thượng Đế, Ông Trời, Thiên Chúa, Chân Như, Brahma, Tào, v.v. để chỉ về quyền lực tối thượng, cháu dùng danh hiệu Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự Sống nơi mọi loài, mọi vật. Từ đó, cháu nhận thấy những ngôn từ chẳng hạn tạo dựng, hoặc ban phát hay gì gì đi nữa đã bị dùng sai hoặc cố tránh né do không dám chấp nhận thực thể quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống đang chan hòa và hoạt động cũng như ngự trị nơi muôn loài.

- Thế rồi bỗng một hôm vô quán cà phê của một cặp vợ chồng quen biết, cháu gặp trường hợp họ đang tranh luận về sự ăn mặc và cung cách sống của đứa con gái 14 tuổi. Nói qua nói lại, vô tình cháu hỏi một câu ngây ngô, “Vậy giả sử chị thương anh ấy hơn là ý kiến riêng thì sao!” Đồng thời câu hỏi tiếp theo, chị thương anh ấy đến độ nào? Chị ta trưng lên nhiều sự việc, khía cạnh, đầy vẻ ngớ ngẩn và nói đó là dấu hiệu của tình yêu. Cuối cùng, chị ta đâm quạo, phát biểu, câu hỏi gì kỳ vậy, yêu thương thì chỉ biết chứ sao có thể nói được; ngôn bất tận ý. Vừa nghe thấy trả lời thế, cháu nghiệm được câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Theo cháu, câu này chính thức phải là, người biết nhưng không thể nói và càng cố gắng giải thích thì cũng chẳng giải thích được gì. Sở dĩ câu này dằng dai 11 năm làm khó cháu có thể bởi vì người ta cố ý cắt bớt, thay vì không thể nói lại đánh lận con đen, và cũng không thèm đưa thí dụ.

- Để kết luận, cháu thấy muốn nghiệm chứng câu nào hay công án nào, việc đầu tiên là tâm trí luôn luôn bị câu đó luẩn quẩn thách thức. Thứ đến cần phải suy nghĩ bằng mọi cách đồng thời tìm hiểu qua mọi phương diện sống. Cuối cùng, một điều không thể thiếu đó là cơ hội. Nếu tâm trí không luôn luôn để ý, cháu tạm gọi là luôn luôn định tâm tìm hiểu, cơ hội có tới cũng không thể nào kiếm lại, chẳng khác gì “Phúc bất trùng lai.” Qua kinh nghiệm này, để nghiệm chứng, cháu thấy cần phải hòa mình vào câu nói, đóng một vai trò nào đó vì cái gốc của câu nói ngay nơi chính mình. Bởi thế đã có câu nói, bất cứ những gì chúng ta có thể hiểu được đã có sẵn trong ta. Những gì không được sinh ra với chúng ta, sẽ không bao giờ chúng ta có thể hiểu được.

 - Khi đã ngộ được câu đó, đối với những câu khác, ý tôi muốn nói, những công án khác? Cụ Tài lên tiếng hỏi.

- Có thể rằng, thưa bác, qua 11 năm tâm trí vật lộn với nỗi thao thức nhận biết, cháu đã có được thói quen, tạm gọi như vậy để áp dụng vào sự nhận thức những vấn đề khác. Có điều, mình có được niềm vui bất tận, nhưng đồng thời lại trở thành cô độc tuyệt đối bởi không kiếm được ai chia sẻ, thách đố thăng tiến thêm. Ngay cả đối với vợ mình là người thân thiết nhất, hiểu mình nhiều nhất, cũng như mình biết nhiều nhất vẫn vô phương thông cảm, có chăng được, hay bị chấp nhận mình, rất phù hợp câu nói, “Người biết không nói.” Riêng đối với những công án khác, hay những câu nói đạo học khác, hình như chúng cùng nhau tụ hội thành một chân trời mở rộng cho mình xông xáo tạo thêm năng lực chấp nhận nỗi cô độc nhân sinh. Nhưng thật lạ, hình như sự cảm nghiệm hay nghiệm chứng tạo nên thực trạng hơi kỳ cục và đó là sự nghiệm chứng cá nhân chỉ đúng nơi tâm tưởng, chẳng nên rao bán hay nói ra, bởi nói ra sẽ trở thành cớ cho những đầu óc thế tục vấp phạm.

- Lại càng cô độc, Hưng đế vô.

- Vâng, thưa đúng như thế. Thật ra, khi đã tự mình nghiệm chứng được công án nào đó tất nhiên có được kinh nghiệm; nên sẽ nghiệm chứng những công án khác dễ dàng hơn; do đó dễ gặp phải một lầm lỗi dễ thương hơn, có thể do lòng tốt muốn khuyến khích người khác thức ngộ, và cũng có thể có ý định tìm hiểu xem điều mình cảm nghiệm được có thực sự không còn thiếu sót chăng. Người có ý định nghiêm chỉnh như thế sẽ dễ dàng chia sẻ nhận thức với người khác. Nhưng sau một thời gian, hồi tưởng lại, chắc chắn người ấy sẽ nhận ra bao cố gắng của mình đều tốn công vô ích. Cháu chỉ dám nói về kinh nghiệm cá nhân của mình. Lần đầu tiên nghe thấy câu, “Không thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vào được” đã khiến cháu giật mình. Nó gợi lại đã không biết bao lần ăn năn vì ý định tốt lành của mình vô tình kết quả đúng vào trường hợp câu nói nơi Phúc Âm, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Ăn năn chẳng biết bao lần và vấp phạm cũng không thể đếm được khiến cháu sinh mặc cảm và tự hỏi bộ mình muốn nổ sao!

- Vậy anh giải quyết cách nào? Cụ Tài lên tiếng, tôi hỏi với mục đích ngăn ngừa, hoặc nói cách khác, một ngày nào đó có những anh em nơi đây tới thời điểm thức ngộ, họ biết trước để tránh bớt mặc cảm kết án chính mình.

- Thưa bác, thấy người ta luẩn quẩn trong nhận thức hạn hẹp thế tục nên mình muốn giúp họ nhận thức vượt lên, nhưng mình nói gà, họ nói thóc. Nhiều khi có người nói như tát vào mặt mình, và chắc chắn họ sẽ cho mình là thằng khùng. Đúng, dưới con mắt nhận định thế tục, người thức ngộ đúng là thằng khùng; thằng khùng bởi vì ngu xuẩn dám đem của thánh cho chó, và cũng bởi nếu một người chưa ngộ được câu nói quá ư đơn giản, không thể bổ đầu bò mà nhét óc cho vô được. Cháu đang có ý định sẽ tìm tòi nơi kho tàng Tục Ngữ, Ca dao xem có được câu nào nói về trường hợp này không. Dĩ nhiên, khi nhận ra lòng tốt, ý định ngay chính nơi mình đã trở thành cớ vấp phạm cho người khác, và đã nhận thực được lời cảnh cáo nơi kinh sách cháu đã quyết định dẹp bỏ cái lòng tốt ngây ngô của mình để mở rộng lòng chấp nhận người khác như chính họ; họ ra sao, hãy để họ an vui với thú vui của họ. Tuy nhiên, thấy người ta luẩn quẩn mà không nhào vô giúp họ chắc chắn được gọi là độc ác. Ôi, cái lòng tốt hại mình, phiền lòng người này, quả là đáng chán. Có lần cháu nghĩ tới cảnh con nhặng xanh bay tới đậu trên xác một con chuột chết xình, đẻ trứng và chúng nở ra những con giòi bò lổm ngổm, ăn thịt vữa nơi xác con chuột chết xình. Khi đẻ xong, con nhặng xanh bay đi thì những con bọ lên tiếng khinh khi cho rằng con nhặng xanh ngu xuẩn vì không biết thưởng thức thiên đàng chúng đang an hưởng. Nghĩ như thế nhưng cháu tự hỏi lại, mình là con nhặng xanh hay là con bọ đang lúc nhúc nơi xác chuột chết!

- “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói,” Sỹ nhà con lặp lại câu cách ngôn nơi Kinh Thánh; “Đừng đàm luận với kẻ ngu xuẩn, kẻo cả con nữa, con sẽ trở nên gìống nó.” (KT)

- Thế anh quyết định ra sao? Cụ Tài lại hỏi.

- Thưa bác, cháu chẳng quyết định được như thế nào vì không nói thì độc ác, mà nói ra lại trở thành cớ cho người khác vấp phạm. Trạng thái này giống như thân phận chiếc lưỡi bị kẹp giữa hai hàm răng, trên đe, dưới búa.

- Tôi tóm lược đại khái về hành trình nghiệm chứng; anh em nên để ý. Đó là luôn luôn đặt vấn đề về một câu nói, về một công án nào đó qua nhiều phương diện nhưng tâm điểm là chính mình. Kiểm chứng hay lục lọi nơi kinh nghiệm quá khứ, câu nói đó rơi vào trường hợp nào trong cuộc đời của mình. Đặc biệt, không nên sợ sai lầm vì diễn trình này chỉ xảy ra nơi tâm trí anh em, đâu ai có thể biết được. Đây chính là thực hành định tâm; tâm trí luôn được định nơi một câu nói để suy nghĩ, suy nghiệm. Tuần này, tháng này, năm này chưa nghiệm ra, cứ tiếp tục suy nghĩ tới khi nào nghiệm được mới thôi. Chúng ta biết rõ, thân xác chúng ta, cuộc đời mỗi người, và những hoạt động hay sự việc xảy đến chung quanh, cũng như sách vở, internet, những cuộc nói chuyện với người khác, đều là phương tiện giúp chúng ta thức ngộ. Vấn đề chỉ là chúng ta có liên tục để ý tìm hiểu hay suy nghiệm câu nói đó hay không. Tất cả những sự giải thích, giải nghĩa cũng chỉ đều là phương tiện. Cho tới khi tự mình nghiệm được câu nói hay công án nào đó; những công án khác sẽ dề dàng được nghiệm chứng. Tuy nhiên lại cần để ý câu nói nơi Lâm Tế Lục, “Gặp Phật giết Phật; gặp pháp bỏ pháp.” Tất cả những gì được gọi là giải thích đều không phải tự mình, chúng chỉ là phương tiện chứ không phải tự mình chứng, chúng là sản phẩm của người khác, không phải là điều mình ngộ. Và khi đã ngộ rồi chúng ta lại phải đối diện với một thế giới hữu vi tràn ngập chung quanh. Lời khuyên tuyệt vời chúng ta có thể thấy nơi Kinh Thánh. Nơi Cựu Ước thì rõ ràng, mộc mạc, “Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn kẻo nó khinh thị nét tinh tế của lời con nói.” Nơi Phúc Âm, chúng ta đọc được, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo…”

- Thưa bác, một cánh tay đưa lên.

- Anh Sỹ muốn nói gì?

- Thưa bác, tại sao lời Kinh Thánh nặng nề khinh thị con người như thế? Giọng Sỹ có vẻ bực bội.

- Tại ngu quá mà, Tình đế vô.

- Người ta bảo ngu như lợn thì người ngu được gọi là lợn chứ có gì mà phải sao với giăng, Phủ lên tiếng.

- Chả biết ai ngu, bạn của người ngu có lẽ ngu hơn đứa ngu, Sỹ đáp trả.

- Yêu cầu anh em nghe bác phá ngu, ông Thung đành dẹp loạn.

- Tại anh theo đạo Công giáo nên cho rằng lời Kinh Thánh là Lời Chúa, và cũng cho rằng Chúa không có quyền ăn nói cay đắng như thế. Lời Kinh Thánh là những lời khôn ngoan trãi dài từ thế hệ này qua thế hệ khác được gom tóm lại dưới mọi hình thức hầu giúp con người thức ngộ. Tôi nói anh em nên để ý, những lời khôn ngoan khi đến tai những kẻ thế tục mang vẻ rất ác nghiệt, khinh thị. Thứ nhất, những lời khôn ngoan chỉ nói về tâm linh, nên là phương tiện cho những hành giả tâm linh thức ngộ. Thứ hai, tất nhiên, nơi hành trình tâm linh, bất cứ những gì cản trở phải được dứt bỏ. Đâu phải phi lý mà nơi Lâm Tế Lục có câu “Gặp Phật giết Phật, gặp pháp bỏ pháp, không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Đến ngay những lời giải thích, giải nghĩa, pháp của vị này, lời khuyên của vị kia cũng bị coi như cản trở thì những kẻ chạy theo thế tục để đạt được lợi nọ ích kia và bị coi là heo, là chó hãy còn quá nhẹ. Đồng ý rằng chúng ta vì có cuộc sống nhân sinh nên phải chăm sóc cho thân xác và bảo vệ cuộc sống nơi mình, nhưng cuộc sống nhân sinh không thuộc về chúng ta mà chỉ là phương tiện, là cơ hội cho chúng ta thức ngộ. Không biết dùng cuộc đời này để thăng tiến tâm linh, để thức ngộ thì có gọi là ngu, là lợn hay chó nào khác chi vì cả đời cũng chỉ kiếm miếng ăn sống qua ngày rồi chết không hơn.

- Ới ngu ơi là ngu, Tình kéo dài giọng than.

- “Sống ở trên đời, ăn miếng dồi chó; chết xuống âm phủ, biết có hay không.” Người Mỹ có câu nói, “You are what you eat.” Thích ăn dồi chó mà không chấp nhận bị gọi là chó mới là điều lạ thường. Phủ chêm vô.

- Ăn thịt lợn thì giống lợn, nhưng Kinh Thánh nói là heo chứ đâu phải là lợn mà chạnh lòng… ha ha. Hưng lên tiếng.

- Mấy cái ông này, bác đang nói thì cứ rối lên heo với chó, vợ Sỹ than!

 
- Tuy nhiên, cụ Tài giơ tay ra hiệu và nói tiếp, không phải cứ suy nghiệm là có thể tự động ngộ được một công án hay câu nói bất thường. Luôn luôn định tâm về một công án cũng cần cơ hội để thức ngộ. Vì tâm trí luôn luôn định hay để ý về điều nào đó nên khi gặp lại được sự kiện nơi quá khứ hoặc vô tình sự kiện nào đó chung quanh phù hợp kích hoạt sự nhận thức, hành giả, người nghiệm chứng mới có thể ngộ. Tôi đưa ra một công án rất thường để anh em thử nghiệm chứng, “Đánh mày, đánh tao.” Tôi nói trước, anh em nên để ý may ra có thêm kinh nghiệm về nghiệm chứng. Bây giờ chúng ta bắt đầu đề mục chính đó là Lão học. Ngưng một chút, cụ tiếp,

- Cũng như tất cả các đạo học khác, không ai có thể minh định chính xác Lão học có từ bao giờ. Xét ngay như mấy cuốn Phúc Âm sinh sau đẻ muộn nhất cũng chỉ biết được viết vào khoảng năm 70 đến 100 năm sau Công Nguyên. Một số nhà nghiên cứu về Lão học cho rằng sự thành hình của Lão học được gom tóm trong một thời gian dài từ ba ngàn cho tới sáu trăm năm trước Công Nguyên. Cũng giống như Tục Ngữ, Ca Dao của dân tộc Việt Nam, trãi qua các thời đại, những câu khôn ngoan được sắp xếp lại đồng thời bổ túc, thêm mắm, thêm muối, sao cho hợp lý, hợp tình nên khi đọc, chúng ta thấy đôi khi tư tưởng thay đổi bất chợt, không liền lạc chuyển tiếp như những câu truyện chúng ta thường đọc. Một điều nên để ý đó là tất cả các đạo học đều nói về tâm linh, về nhận thức sự hiện hữu của con người và sự liên hệ giữa con người với Quyền Lực Hiện Hữu, hoặc Quyền Lực Sự Sống tối thượng nơi con người và nơi tạo vật. Nói đúng hơn, ai cũng đang có sự sống, quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi mình nhưng không được để ý. Đạo học nói về sự sống này nơi mỗi người, và hành trình cũng như phương cách để nhận thức bản thân, mà lục tổ Huệ Năng gọi là bản lai diện mục. Nhà Phật gọi là Tính hay Tánh, và chúng ta thường gọi là linh hồn. Bên Ấn học gọi là Atman.

- Lão học dùng danh xưng Tào để chỉ về Quyền Lực Tối Thượng, Quyền Lực Hiện Hữu, Sự Sống hay Thượng Đế. Nếu đem so sánh danh xưng, chúng ta thấy nhà Phật với danh hiệu Chân Như, Ấn học thì gọi là Brahma, Kinh Thánh gọi Thiên Chúa. Và nếu so sánh các cách thức hay phương pháp để thức ngộ, tức là để nhận thực được bản lai diện mục của con người thì quá nhiều, muôn ngàn pháp không thể kể cho xiết chẳng khác gì ngạn ngữ chúng ta thường dùng, “Đông thày thối ma, nhiều cha con khó lấy chồng.” Tuy nhiên, mục đích của các pháp, các hành trình, cho dù chiêm nghiệm, chiêm niệm, hoặc minh triết, tựu trung chỉ là, tôi tạm mượn nguyên tắc của lục tổ Huệ Năng, “Kiến tính thành phật.” Tất cả các đạo học là sản phẩm nghiệm chứng của các nhà thức ngộ, những người đã kiến tính, đã nhận thực được mình là ai, mình thế nào, liên hệ ra sao đối với thế giới, vũ trụ này và với Quyền Lực Hiện Hữu Tối Thượng đang hoạt động nơi mình, cũng như nơi vũ trụ vô biên giới này. Thế nên, Lão học chính là thành quả gom tóm sự khôn ngoan về hành trình nhận thức tâm linh từ ngàn xưa của dân tộc Trung Hoa, và cuốn sách được dịch là Đạo Đức Kinh hay còn được gọi là Tào Tề Chinh, xuất hiện cỡ sáu trăm năm trước Công Nguyên. Biết như thế, bây giờ chúng ta thử xét xem, Lão học nói gì, và diễn đạt thế nào.


- Ai cũng nhận thấy suy nghĩ rất khó vì muốn suy nghĩ cần có những kiến thức tối thiểu và những mối liên hệ về điều mình để ý tới; thế nên người ta ngại suy nghĩ. Thêm vào đó, tùy theo nhận thức, kiến thức sẵn có, sự suy nghĩ sẽ bị ảnh hưởng để rồi đưa đến những nhận định không được toàn vẹn. Đàng khác, chiều hướng suy tư ảnh hưởng nặng nề đến thành quả nhận định. Chẳng thế mà đã có câu, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (Kiều). Đọc Đạo Đức Kinh, nếu vội đọc nhận định của những diễn giả chúng ta sẽ bị ngụp lặn trong muôn ngàn rắc rối do những chủ đích đã được định sẵn và dùng Lão học như phương tiện biện minh cho kết quả mà học giả, diễn giả, muốn nhắm tới. Có người nhìn Đạo Đức Kinh qua lăng kính chính trị để rồi cho rằng Lão học dạy con người phương cách sống sao cho hợp thời, thuận theo giòng đời. Người khác rút ra những câu nói nơi Lão học với ý định chỉ về khoa chữa trị tâm lý hay tâm bệnh; kẻ lại biến Lão học thành căn bản cho tôn giáo qua cái nhìn luân lý thế tục.

- Một vài tác giả mới đây đã có nhận định khác về Lão học qua hành trình cảm nghiệm; chẳng hạn Richard Seymour nơi bài viết, “A Conversation with the Author of Tao Te Ching: Annotated & Explained,” hoặc Casey nơi bài viết “Introduction to the Tao,” nếu chúng ta đọc trên net. Cũng nơi net, vào thời điểm này (2015), có một vài bản nhận định tiếng Việt quá ư sơ sài và cũng chỉ lặp lại đơn sơ, phiến diện về Lão Tử ở Hàm Cốc viết Đao Đức Kinh.

- Đại đa số học giả nghiên cứu về Lão học đều chấp nhận huyền thoại về văn bản Đạo Đức Kinh. Nơi cuốn sách Đạo Đức Kinh của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần, được chép, “Theo sử ký Tư Mã Thiên, Lão Tử là người nước Sở, huyện Khổ, làng Lệ, xóm Khúc Nhân, ở tỉnh Hồ Nam bây giờ. Ở Châu lâu, sau thấy Châu suy, nên bỏ mà đi. Đến cửa Quan, quan lệnh là Doãn Hỉ nói: ‘Ngài toan đi ẩn, xin lượng vì tôi để lại bộ sách’” (ĐĐK; tập I, Tr. 11-12). Tuy nhiên, theo Richard Seymour, Tần Thủy Hoàng đốt sách, giết học trò, Mao Trạch Đông với cách mạng văn hóa nên Đạo Đức Kinh đã không còn giữ được nguyên bản do đã không được viết thành sách mà nguồn gốc lại do truyền miệng chẳng khác gì tục ngữ ca dao. Thế nên, cuốn sách được gọi là Tào Tề Ching (Đạo Đức Kinh) chỉ còn lại một phần nơi những người chạy sang Đài Loan.

- Thiển nghĩ, ngay câu đầu tiên của Đạo Đức Kinh được viết, “Đạo khả đạo, phi thường đạo” đã là đầu mối cho cái nhìn phiến diện của biết bao học giả về Lão học. Chữ “Tào” có giọng đọc hay cách viết giống chữ Đạo nên người ta viết ra thành chữ Đạo, hoặc bởi danh hiệu Tào Tề Ching được phiên âm sang tiếng Việt thành Đạo Đức Kinh nên Tào thường được dịch thành Đạo và lại được suy diễn thành đường lối. Như vậy theo nghĩa này, Đạo Đức Kinh được viết để dạy con người sống cho có đạo đức theo Lão học. Xét theo danh hiệu, Lão Tử có nghĩa một vị thầy đáng kính trọng, không phải tên của một người và danh hiệu này cũng bị hiểu lầm là tên của tác giả cuốn Đạo Đức Kinh.

- Như tôi đã tóm gọn, Tào đại khái có nghĩa Ông Trời, Thượng  Đế, Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự Sống. Chúng ta là hiện thể của quyền lực hiện hữu, sự sống mà nào ai biết, cũng như không hiểu sự sống, sự hiện hữu của mỗi người, của mọi sự, ở đâu ra. Ngay như tư tưởng thầm kín nơi mỗi người cũng phải có sự hiện hữu vì nếu nó không hiện hữu, sao có thể biết. Nói theo nhà Phật, bởi vì không thể đặt tên nên tạm gọi là Tào và Tào thì không thể nghĩ bàn. Nơi Đạo Học Đông Phương, nếu không để ý chúng ta sẽ bị rắc rối, phiền hà rồi suy luận sai lầm, luẩn quẩn trong việc phân định ngôn từ. Pascal có câu nói, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Anh em có thấy điểm nào tương đồng của câu này với câu “Đạo khả đạo phi thường đạo không.” Tôi muốn nói, phải gọi là, “Tào khả Tào phi thường Tào” mới đúng. Mấy anh em Công Giáo nên để ý suy nghĩ câu, Thiên Chúa mà chúng ta có thể hiểu được, nói được thì không phải là Thiên Chúa đích thực. Chúng ta chỉ có thể cảm nghiệm chứ không thể nói được gì. Tôi muốn đưa thêm một thí dụ về sự nhận định phiếm diện đã bao lâu nay để anh em so sánh; chẳng hạn nơi Lão học có câu, “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật.” Cũng vậy, nơi Dịch học cũng nói,“Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái.” Ngay hình vẽ nhất nguyên lưỡng cực được gọi là thái cực sinh lưỡng nghi. Chữ “Sinh” mang nghĩa bao gồm chứ không phải phát sinh ra. Cũng như một người, bao gồm thân xác và linh hồn. Thái cực ngay nơi mình mà có bao giờ để ý đâu trong khi cứ dán mắt vào đồ hình rồi tụng niệm, thái cực sinh lưỡng nghi. Nói rằng Đạo sinh nhất, tất nhiên Đạo ở ngay nơi cái nhất.

- Quá hay, Tình buột miệng!

- Hay gì, Sỹ nhà con vội đế vô. Vậy ông có biết con gà có trước hay quả trứng có trước không?

- Chỉ có thế mà không hiểu, về nhà đuổi gà cho vợ thì sẽ hiểu ngay. Nói rằng con gà sinh trái trứng và trái trứng sinh con gà thì con gà và trái trứng là một chứ không phải là hai. Còn con gà có trước hay trái trứng có trước, thời đó chưa có tôi sao tôi có thể nói; đó là việc của Tào. Mà Tào khả Tào phi thường Tào. Nghe chưa!

- Đúng là thứ đổ bùn sang ao mà cũng nói. Tào gì, tào lao thì nghe rõ.

- Mấy cái ông này, bác đang nói thì cứ chõ miệng vào. Thôi im đi cho người ta nhờ. Vợ Sỹ lên tiếng.

- Thế bu mày vẫn chưa hiểu bác nói gì à? Tào hiện hữu thành bu mày và bu mày với Tào là một vì bu mày bao gồm Tào và cái xác mụ đàn bà… Bu mày đã biết Tào là gì chưa. Người ta đang dùng biện chứng để suy nghiệm… bốp… hắn đập thẳng thừng con muỗi vo ve bên má, miệng lẩm bẩm, mày dám vào phe mụ ấy để dọa tao sao, đoạn ngửa bàn tay phủi con muỗi chết bẹp… trong khi Tình lại a lên một tiếng.

- Có chuyện gì vậy anh Tình, cụ Tài hỏi.

- Thưa bác, đánh mày, đánh tao.

Mọi người chợt vỡ lẽ tại sao cụ Tài đưa lên công án đơn giản.

- Tôi biết nhưng vội hỏi làm những anh em khác mất cơ hội. Đáng lẽ ra tôi chỉ nên hỏi riêng anh. Nhân tiện tôi giải thích thêm, các công án đều là những sự thể đơn thuần, sự việc đơn giản. Nếu để tâm suy nghĩ, cơ hội xảy đến anh em mới có thể ngộ được. Anh em biết bài thơ con cóc không?

- Dạ biết.

- Tác giả bài thơ con cóc muốn nói gì vậy?

- Thưa bác, thì tác giả tả con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc nhảy đi, đúng là thơ con cóc. Sỹ trả lời.

- Cụ Tài cười, như vậy sao có thể áp dụng nơi câu nói, “Lửa thì không nóng?” Thế là Sỹ nhà con ngớ ra, đành im lặng tự hỏi sao có thể liên hệ kỳ cục. Cụ Tài nói tiếp,

- Chúng ta thấy được chính những quan niệm, kiến thức ảnh hưởng tới sự nhận định. Ngược lại, muốn ngộ nơi đạo học, chúng ta cần cảm nghiệm, hòa mình vào câu nói để nghiệm chứng ý ám định của câu nói. Những đạo học Đông phương đều nói về bản thể nội tâm của con người; trong khi chúng ta bị ảnh hưởng lối phát biểu kỹ thuật Tây phương nên chỉ hiểu theo nghĩa từ chương; bởi đó, không để ý đến sự thể tâm tình tác giả bài thơ con cóc muốn truyền đạt nên thường nhạo cười bài thơ này. Có thể nói đại đa số người Tây phương không thể nào cảm nghiệm đạo học Đông phương, mà có chăng chỉ khiến người chân thành tìm hiểu chán nản. Chả thế mà có câu nói, niềm vui của bậc thức giả khiến người ngu bực mình, trái lại niềm vui của người ngu làm bậc trí xót thương. Đa số người Tây phương nhìn đạo học Đông phương như những triết thuyết; tuy nhiên, nếu không cảm nghiệm mà áp dụng đạo học Đông phương như một triết thuyết nơi cuộc đời, sẽ khiến con người rối loạn tâm thần trở thành điên loạn.

- Tào là bản thể nơi chính mình, là tâm hồn, linh hồn của một người. Được sinh dưỡng nơi thế giới hữu vi, chúng ta mơ ước và theo đuổi niềm mơ vật chất nên sinh phiền não, lo lắng. Lão học đề nghị, bớt, càng ngày càng bớt đến độ không còn gì để bớt thì trở về với chính mình, sống huyền đồng với Tào, làm một với Tào. Mọi sự, mọi vật đều là diễn biến của Tào; chuyện phải xảy ra như thế nên Lão học cho rằng, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu,” (Trời, Đất bất nhân, coi vạn vật như loài chó rơm), chưa cúng thì nâng niu, lúc cúng xong rồi thì quăng bỏ. Lẽ trời luôn luôn biến chuyển, sống hòa với lẽ trời, tùy thời, tùy nơi, uyển chuyển như nước.

- Như vậy, Lão học là một lẽ sống chứ không phải một triết thuyết. Lẽ sống này cần nhận biết chính mình thế nào. Để tâm nhận thức, chúng ta thấy, cho dầu suy nghĩ đến cách mấy, chúng ta vẫn hơn tất cả những gì chúng ta có thể nhận biết về chính mình. Tự nhận biết về mình và chấp nhận mình là mình để sống hòa hợp với đời, với Tào.

- Thưa bác, một cánh tay giơ lên, Tùy, con người ít nói, như vậy sẽ bị cho là lập dị vì theo mình mà sống thì sẽ không giống bất cứ ai. Chẳng lẽ, cả thế gian say, một mình ta tỉnh? Coi chừng mà ngược lại! Cháu thấy nó làm sao ấy!

- Bộ anh không biết câu nói của Trang Tử sao, “Vì mình có thân xác như mọi người nên sống như mọi người, nhưng lòng mình thì khác hẳn.” Coi chừng chúng ta thường hiểu lầm điều được gọi là vô vi nơi Lão học theo nhãn quan hữu vi. Nói cho dễ hiểu, khi chúng ta đeo kiếng râm (kiếng mát) sẽ thấy mọi sự đều tăm tối. Muốn nhìn cho rõ, bỏ chiếc kiếng râm đi. Quan niệm, kiến thức của một người chẳng khác gì chiếc kiếng râm. Đàng khác, trời đất xoay vần, biến chuyển, xuân đi, hạ tới, thu về, đoạn biến sang đông; con người không thể thay đổi được thì cần phải sống hòa hợp chứ chẳng lẽ mùa lạnh mặc áo mát, mùa nóng mặc áo rét? Bởi thế, muốn thấy thế giới thay đổi, chúng ta thay đổi lối nhìn, thay đổi quan niệm nơi mình. Tại sao trời lạnh lại cởi trần đi ra ngoài đường rồi càm ràm trời bất công không nắng ấm? Anh em nên nhớ, Lão học là một trong những đạo học Đông phương. Các đạo học không nói về hữu vi mà dùng sự kiện, sự việc hữu vi nói về cuộc sống tâm linh nơi mỗi người. Thế nên, vô vi tức là nhìn thì không thấy gì nhưng mọi sự biến chuyển nơi tâm của mình. Hãy tỉnh thức, nhắm mắt lại để nhìn thấy rõ hơn!

- Tôi nói ra ngoài lề một chút. Đa số người ta cho rằng Lão học dạy về thuật trị nước, giúp vua. Thưa không, vua cũng ở nơi mình, nước cũng ở nơi mình và giúp là giúp chính mình thức ngộ, giúp mình nhận biết chính mình. Chẳng hạn, Tào như nước, muốn sửa gì nơi mình cần phải uyển chuyển, kiên trì. Thử hỏi, đã bao lần anh em quyết tâm, cố gắng chừa sửa một điều chẳng nên nào đó nơi mình, và đã bao năm rồi, anh em đã thực hiện được chưa. Lão học đề nghị trở về nguyên bản với Tào. Tất cả những gì được khuyên để thực hiện cần phải được áp dụng nơi hành trình tâm linh một người chứ mắc mớ gì Lão học nói về việc ông vua trị nước. Nếu nói về việc ông vua trị nước, chúng ta cần gì phải nói nơi đây. Thử hỏi, mấy ông vua thèm nghe ai, trong khi ai chẳng biết giáo đa thành oán; mà có chăng quyền lực tuyệt đối sẽ phát sinh sa đọa tuyệt đối mà thôi; không vậy thì đã có những triều đại bền vững đến muôn đời.

- Thưa bác, sao cụ Nguyễn Duy Cần giải thích vô vi là “làm một cách kín đáo, không tư tâm, không vị kỷ. Người thi ân không biết là thi ân, người thọ ân không dè là thọ ân. Bậc thánh nhân trị nước mà dùng đến đạo vô vi, dân không hay là mình bị trị” (ĐĐK. Tập 1; tr. 24). Hưng hỏi.

- Anh làm cho anh thì có gì mà tư tâm, vị kỷ, nếu không là an nhiên tự tại thì là gì?

- Thưa bác, như vậy chẳng lẽ thiên hạ say hết, một mình ta tỉnh? Rồi sao có thể biết mình tỉnh nếu không có một đường hướng rõ ràng, và đâu là đường hướng?

- Mục đích và cũng là điểm tiên khởi của bất cứ đạo học Đông phương nào cũng chỉ là nhận biết chính mình, trả lời câu hỏi tôi là ai cho tới tận cùng. Nhà Phật thì kiến tính thành phật; Ấn học thì cha ta với ta là một; Lão học thì huyền đồng; Tào, Chân Như, Brahma đã sẵn ở nơi mình, vấn đề chỉ là làm sao nhận ra thực thể, bản lai diện mục, linh hồn nơi mình thì cần phải học nơi đâu. Anh quên câu nói nơi Lâm Tế Lục rồi sao, găp phật giết phật, gặp pháp bỏ pháp. Nếu anh cố theo phương pháp nào đó của người khác, làm sao anh biết mình đi đúng đường hay trật đường, và anh sẽ ra sao khi phương pháp đó không thể giúp gì cho anh được nữa. Tào đã ở nơi mình thì chỉ có phương pháp nơi mình mới có thể kiếm ra Tào nơi mình; vì chúng ta không thể kiếm Tào nơi người khác. Chúng ta nên nhớ một điều, dẫu chúng ta cố gắng đến mấy để chứng tỏ mình thế nọ, thế kia, thì vẫn còn thua kém bổn lai đích thực của chúng ta. Chúng ta thực ra vẫn tuyệt vời hơn tất cả những gì mình đã có thể tưởng tượng về chính mình. Nơi hành trình thức ngộ, chỉ khi nào tự mình ngộ được công án nào đó mới có được kinh nghiệm cảm nghiệm; bởi không ai có thể giải thích được cảm nghiệm của họ cho mình. Chẳng hạn nơi trường hợp của anh Sỹ, hoặc anh Tùy vừa rồi. Bởi đó, hành sự thì nên chuyên tâm, chẳng nên bận tâm về kết quả cũng chẳng nên ngưng trệ hoặc lệ thuộc vào bất cứ gì vì hết thảy hiện tượng đều được phát xuất từ tự tính. Có lẽ anh quên lời khuyên của lục tổ Huệ Năng, “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm,” nhất thiết vạn pháp bất ly tự tính (GLTH; tr. 169).

- Thưa bác, con muốn suy nghĩ lắm nhưng nó cứ tối như đêm ba mươi, chẳng biết suy nghĩ thế nào. Cứ nghe bác nói về chứng với nghiệm khiến lòng ruột xốn xang nhưng càng cố gắng suy, càng rối, càng thử nghiệm càng thấy trống rỗng chẳng biết đường nào mà mò, lối nào mà đi. Vợ Sỹ lên tiếng.

- Vậy chị thấy thế nào về bài thơ con cóc?

- Thưa bác, con thấy bài thơ con cóc nói lên hành động của con cóc, không thêm, không bớt. Chỉ nói con cóc trong hang, con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi. Không nói con cóc nhảy đi đâu, về bên trái hay bên phải, không kể lý do tại sao con cóc nhảy ra hoặc giả dụ có con bọ, con chấy gì trong hang khiến con cóc nhảy đi.

- Chị nói đúng và nhận thức đúng, không thêm bớt, không tưởng tượng hay đặt vấn đề. Nhìn và nhận thức sự vật, sự việc như chính nó. Đây là phương pháp tuyệt vời nhất để nhận thực chính mình thế nào. Mở rộng lòng để nhận thực ra chính mình thế nào là bước đầu cần thiết nơi hành trình kiến tính, hành trình trả lời câu hỏi tôi là ai. Hãy đơn sơ, chân thành nhìn thực vào cuộc đời của mình, chị sẽ biết mình là ai; không cần thêm mắm, pha muối, chẳng cần pháp nào dẫn dắt, không cần suy tưởng; khi đã biết mình là ai, mình thế nào, tất nhiên kiến tính, biết được thực thể, bản lai diện mục của mình thì chị cần gì phải nghiệm, phải chứng vì tất cả đã hiện ra rõ ràng đâu cần cầu mong hay mơ ước chi.

- Thưa bác, thế sao sách vở viết tràng giang đại hải nào là pháp bất nhị bất tam, rồi quán nọ, hàng kia, rồi nào thế liên hoa, liên lá, nào tam bảo, tứ bảo, nào trung đạo hạ đạo, nào tướng, nào quân, ôi thôi lắm phép, nhiều chước, rối tung cả lên. Lại còn tông nọ, phái kia, bắc nam lộn tùng phèo, cả như bác nói cứ đơn sơ ngờ nghệch như bu nó thì dễ quá rồi, chỉ cần vài lon bia hoặc ly rượu thì tha hồ tự tại, tự nhiên, chẳng cần pháp tắc cũng thực hiện được. Sỹ nhà con xổ một tràng dài.

- Anh chưa quán tưởng, chưa đơn sơ, ngờ nghệch, sao có thể biết lắm thế. Hãy cứ ngờ nghệch, đơn sơ như bu nó, tất nhiên anh sẽ ngộ.

- Làm sao mà có thể chấp nhận ngu ngơ như thế. Con bò nó không uống rượu vì nó ngu như bò. Làm người phải biết uống rượu, uống bia, phê hơn uống nước chứ. Chẳng lẽ ăn cơm cũng như ăn thịt ăn cá thì đâu còn sinh thú gì nơi cuộc đời thiên biến vạn hóa này. Thưa bác, vậy đạo học hay những tông nọ, phái kia cố gắng biến con người thành những cục đất, cục đá, ăn không biết ngon, uống không thấy thú vị sao?

- Điều anh vừa diễn giải đúng như định kiến phương Tây khi nhận định đạo học Đông phương. Như thế không thể nào nghiệm chứng được câu nói của Trang Tử, vì ta có xác thân như mọi người nên sống như mọi người, nhưng lòng ta khác hẳn. Tôi không có bản dịch nào khác về Đạo Đức Kinh ngoài bản dịch của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần. Chúng ta thử xét sơ lược xem mục đích của Đạo Đức Kinh ra sao. Có điều, anh em thử áp dụng nghiệm xét về Lão học bằng cách tôi nêu lên những câu nói và anh em nói lên nhận định.


- Câu đầu tiên của cuốn Đạo Đức Kinh, anh em đều biết, đó là “Đạo khả đạo phi thường đạo.” Như chúng ta vừa nhận định thì “Đạo” dịch từ chữ Tào. Và bởi vì dịch thành đạo thì lại bị lệ thuộc ngôn từ mang nghĩa thành đường lối nên đa số các học giả cho rằng Lão học dạy về phương pháp trị dân cho những người cầm quyền mà quên rằng đạo học dùng sự việc thế tục nói về hành trình tâm linh nơi mỗi người. Định hướng như thế, chúng ta cũng nhận thức được Tào hay Quyền Lực Hiện Hữu, Quyền Lực Sự sống, Bản Thể Tuyệt Đối mà nơi các đạo học khác dùng những danh hiệu khác chẳng hạn như atman, linh hồn, tâm phật hay phật tính đang hiện diện nơi mỗi người. Không ai có thể nói gì được về Tào mà chỉ có thể nghiệm chứng.

- Chương hai được dịch nghĩa sự tương đối của sự thể chẳng hạn thấy tốt đã có xấu, có với không cùng sanh, trước và sau cùng theo. Cụ dịch tiếp, “Vậy nên thánh nhân dùng Vô Vi mà xử sự, dùng bất ngôn mà dạy dỗ để cho vạn vật nên mà không cản, sống mà không chiếm đoạt, làm mà không cậy công…” Nào mời anh em cho nhận định. Nhưng tôi nhắc lại, đạo học dùng hữu vi để nói về tâm linh.

- Thưa bác, hành xử vô vi bởi nói ra, giải thích không được nên đâu thể dạy ai bởi dạy dỗ, giải thích đều chẳng nói được gì nên đành bất ngôn.

- Thưa bác, cái này phải dùng gậy ông đập lưng ông mà thôi. Đó là “Người biết không nói; kẻ nói không biết.”

- Ai có nhận định gì nữa không?

- Nhưng, thưa bác, nếu như vậy cách nào để đỡ đẻ tinh thần, giúp người ta thăng tiến?

- Anh đã thăng tiến chưa mà muốn giúp người khác thăng tiến. Chắc anh đã quên câu nói, “Chân thành, năng nổ, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.”

- Nhưng,

- Nhưng cái gì! Tình lên tiếng, nghiệm thì không lo nghiệm, chỉ muốn làm phường phá hoại.

- Có còn anh em nào thắc mắc về điều mà Lão học gọi là Vô Vi không?

- Thưa bác, Tào nơi mình làm mọi sự nhưng không được nhận biết là đang hoạt động chỉ thấy thân xác múa may quay cuồng, tào lao thiên tướng. Nếu hiểu Vô Vi là không làm gì tất nhiên đã nhảy qua phần hữu vi.

- Có lẽ anh em đưa ra nhận định hay hơn tôi mặc dầu khó hiểu hơn nhưng lại chính xác hơn. Nào, chúng ta cùng nâng ly. Không ngờ cái lười biếng do khó giải thích mang lại kết quả chẳng ngờ. Mời, cụ Tài nâng ly mời mọi người.


Chị Sỹ giơ tay,

- Thưa bác, mấy ông ấy nói gì vậy? Thế nào là vô vi, vô viếc, lại còn gập ông đập lưng ông, người biết không nói, kẻ nói không biết.

- Bu mày sao không hỏi nhỏ tôi! Thức thiệt đang chình ình ở đây mà la toáng lên như thế lỡ người ta cho rằng mình là thức giả thì sao. Sỹ nhà con lên giọng kẻ cả. Nào có gì đâu, dễ như ăn ớt. Đối với đạo học thì chỉ có một đường lối duy nhất là nghiệm chứng mà thôi; nhà Phật gọi là kiến Tính. Ai chứng người ấy biết và không ai có thể giải thích cho ai. Tào ở nơi mình, chỉ mình mới có thể chứng được cho mình. Tào là chủ, thân xác, cuộc đời là phương tiện nên không thấy Tào hoạt động, tạm mệnh danh là Vô Vi. Vì không thể nói ra được dẫu mình biết nên gọi là người nói không biết, kẻ biết không nói. Bu mày thương tớ, bu mày biết rõ nhưng bu mày không thể giải thích cho bất cứ cô nào, chị nào để họ thương tớ như bu mày được. Chỉ có thế mà không hiểu. Bu mày mà giải thích cho em nào thương tớ được thì bu mày thức ngộ là cái chắc.

- Cái ông quỷ này, nói đứng đắn coi…

- Đứng đắn như thế mà còn chê. Bu mà không biết giữ thể diện cho phu quân.

- Đúng rồi, hắn bị khinh như chiếc gối ôm nên mới một tá nhóc. Nếu được kính nể chắc chắn không nhà nào chứa nổi! Phủ đấu vô.

- Ngộ mà, mọi người trên đời say, chỉ mình ta tỉnh không ngộ thì là gì? Sỹ làm một hơi bia, nói tiếp, cũng xin cảm ơn anh cả, rượu của anh cả để lâu uống phê thiệt.

- Chúng ta tiếp chương 3, cụ Tài đọc, “Không tôn bậc hiền tài khiến cho dân không tranh dành. Không quý của khó đặng, khiến cho dân không trộm cướp. Vì vậy, cái trị của thánh nhơn là làm cho dân hư lòng, no dạ, yếu chí, mạnh xương. Làm theo vô vi ắt không có gì là không trị.” Đoạn cụ im lặng đưa mắt nhìn thoáng qua.

- Thưa bác, một cánh tay giơ lên, anh Thanh, chủ nhà, nếu coi nhận định, ước muốn thế tục của chính mình là dân chúng thì mới có thể giải thích tạm được. Nói như vậy, đây là phương pháp định tâm, nhận định mọi sự cũng không là gì để nghiệm chứng Tào; vì nói theo nhà Phật, mọi sự không rời tự tính.

- Ai có ý kiến gì nữa không?

Mọi người im lặng vì vẫn còn đang lúng túng bởi nếu hiểu theo nghĩa từ chương của câu nói thì không kiến tạo lòng đua tranh tất nhiên ngu dân để trị. An ổn đấy nhưng dân chúng không có ý chí vươn lên mà có thể càng ngày càng chấp nhận có sao sống vậy ngược lại với cuộc đời luôn luôn biến động thay đổi để thăng tiến. Thế nên, nghe thấy Thanh nêu nhận định cho rằng những ước muốn thế tục nơi mình được coi là dân chúng, mọi người liền nhớ lại lời nhắc nhở của cụ Tài, đạo học nói về hành trình tâm linh nơi một người.

- Tâm động vì còn so sánh hơn kém, vẫn còn lệ thuộc nhĩ ngã phân biệt. Nếu nhìn sự vật và sự việc trái phải cùng là một, đều là hiện thể của Tào thì tâm định. Thế nên, bất cứ những gì xảy đến, ngay như ước muốn tốt lành của mình cũng chỉ là sự biến chuyển của Tào. Không cho gì là quí, chẳng cho gì là hèn không phải là ngu dân vì còn phân biệt quí tiện vẫn còn luẩn quẩn nơi hữu vi phân biệt. Mấy anh em Công Giáo có thể nghiệm câu, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng” theo nhận thức này. Tôi đọc tiếp chương 4,

- “Đạo thì trống không nhưng đổ mãi mà không đầy. Đạo như vực thẳm, dường như tổ tông của vạn vật. Nó làm nhụt bén nhọn, tháo gỡ rối rắm, điều hòa ánh sáng, đồng cùng bụi bặm. Nó trong trẻo thay, lại dường như trường tồn. Ta không biết nó là con ai, dường như có trước Thiên Đế.”

- Thưa bác, nơi kinh Bhagavad Gìtà viết, "Này Arjuna, Ta là Đại Ngã ngự trị trong tâm hồn vạn vật: Ta là lúc khởi đầu, là chốn trung gian và là cứu cánh của vạn vật. Ta là thần chết cấu xé muôn loài, Ta là nguyên ủy của tất cả những gì sắp sửa sinh ra. Trong các phẩm hạnh của nữ tính, Ta là danh giá, là giàu sang, là thịnh vượng, là lời nói, là ký ức, là thông minh, là đức kiên trì và lòng tha thứ... (CTC. Tr. 100-103). Xét như vậy, Tào cũng giống như Brahma nơi Ấn học. Phủ phát biểu.

- Như vậy anh em nhận thấy, những đạo học đều có một điểm chung và đó là Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng đang hoạt động và biến chuyển nơi tạo vật.

- Thưa bác, thế sao nhà Phật nói thuở nguyên thuỷ, Chân Như phẳng lặng, tĩnh tịch, nhưng vì vọng tưởng càng ngày càng chồng chất nên phát sinh vạn vật. Nói như vậy có phải vọng tưởng ảnh hưởng Chân Như? Hưng hỏi.


- Chúng ta vừa nhắc đến lúc nãy, cái một bao gồm cái hai, đối diện cái ba tạo thành vạn vật, Nói rằng vì vọng tưởng chỉ là kiếm lý do nghe cho êm tai. Thực ra, do sự biến chuyển, hoạt động của Chân Như phát sinh vạn vật thì nghe hợp lý hợp tình hơn.

- Thưa bác, như thế ngôn từ sinh có ít nhất hai nghĩa, bao gồm và tạo dựng?

- Nói cho đúng, chỉ là tạm dùng ngôn từ mà thôi. Có lẽ anh đã không để ý đến câu nói nơi Trang Tử, được ý quên lời! Cụ Tài điềm đạm. Nào chúng ta nghe tiếp chương 5,

- “Trời đất không có lòng nhân, coi vạn vật như loài chó rơm. Thánh nhân không có lòng nhân, coi trăm họ như loài chó rơm. Cái khoảng giữa Trời Đất giống như ống bể. Tuy trống không mà vô tận, càng động lại càng khơi ra. Càng nói nhiều, càng không sao nói hết được, thà là giữ lấy cái trung.” Ai có ý kiến gì không?

- Thưa bác, Phủ lên tiếng, vì tất cả là biến chuyển cũng như biểu hiện của Tào nên sống chết, có không cũng giống nhau, trọng hay khinh cũng chỉ nơi Tào nên nói trời đất không có lòng nhân, coi vạn vật như chó rơm. Đại khái, nếu nhìn theo hữu vi thì rõ ràng thấy Tào, hoặc là trời đất không biết coi trọng hoặc thương xót bất kỳ ai. Thánh nhân là người học theo Tào, nghiệm chứng sự hiện diện của Tào nơi mình; nói khác đi, Tào hiện thể nơi thánh nhân để hoạt động; do đó thánh nhân là người thức ngộ, nhận biết mọi sự đều là diễn tiến của Tào. Thánh nhân cũng là một với trăm họ nên thánh nhân không theo về phe phái nào hoặc đúng hoặc sai, hoặc phải hoặc trái do đó được gọi là giữ lấy cái trung; trung nghĩa là ở giữa. Thêm nữa, càng giải thích về bản chất của Tào càng chẳng nói được gì nên tạm gọi là người nói không biết.

- Ai có ý kiến thêm bớt chi nữa không?...

Không thấy ai giơ tay, cụ Tài nói tiếp,

- Tôi chỉ tạm đọc một số câu trong vài đoạn của cuốn Đạo Đức Kinh, bản dịch của cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần. Anh em nhận thấy, nếu định hướng Lão học theo tâm linh, chúng ta sẽ thấy ý nghĩa khác hẳn lối nhìn từ chương. Và cũng vì lối nhìn từ chương này đối với các đạo học, đã phát sinh nhiều điều hiểu lầm. Nhìn một cách tổng quát về các đạo học, con đẻ của đạo học là tôn giáo, nhưng thành viên của những tổ chức tôn giáo đã áp dụng đạo học một cách từ chương, cộng thêm ý định triển dương tổ chức, đôi khi còn vì tham vọng muốn mọi người dễ nhận biết nên đã có những cố gắng đơn giản hóa, hoặc dùng những ngôn từ dễ nhận biết hầu cho những kẻ dù thiếu học thức cũng có thể chấp nhận, thành ra đã biến bản văn đạo học trở nên vô lý và huyền thoại. Thí dụ, nơi Phúc Âm có câu, “Người ta không lấy rượu mới đổ vào bì cũ,” nơi bản dịch nào đó, nếu tôi không lầm thì một bản dịch Kinh Thánh tiếng Anh được viết, tạm dịch, “Người ta không lấy rượu mới đổ vào bình cũ.” Thay vì “Wineskin,” người ta dùng chữ “Jar.” Anh chị em nào muốn đào sâu hơn nơi Lão học, nên đọc thêm bản dịch và nghiệm chứng.

- Tôi nhắc lại, những bản văn đạo học thường được gọi là kinh, đó là tác phẩm của những bậc thức ngộ và những câu nói khôn ngoan khó hiểu thường được gọi là công án được soạn thành kinh để người đời chiêm nghiệm hay nghiệm chứng. Tôi muốn nói chiêm nghiệm chứ không phải chiêm niệm hoặc tụng niệm. Chiêm niệm hay tụng niệm được dùng để định tâm. Nơi tôn giáo, cũng vì không chiêm nghiệm nên cũng thường dùng các kinh sách đạo học để tụng niệm.

- Thưa bác, Hưng lên tiếng, nơi Đạo Đức Kinh có câu đại khái, “Vậy sự vật trong đời, bớt là thêm, thêm là bớt” (ĐĐK; Tập II; tr.226), trong khi nơi khác lại nói bớt, bớt càng ngày càng bớt đến độ không bớt được nữa là thế nào; vì bớt cũng là thêm và thêm cũng là bớt?

- Anh có ý định diễn dịch và biên khảo Lão học theo kiểu từ chương của các học giả Tây phương không? Thế anh không chấp nhận sự thể sự vật và sự việc tự chúng mang phần đối nghịch nội tại ư và nếu không như thế sự thể tất nhiên không biến chuyển và chẳng có gì để nói tiếp. Một đàng bớt, càng ngày càng bớt, bớt đến độ không bớt được nữa tất nhiên trở về với nguyên bản gọi là trạng thái huyền đồng, hòa nhập làm một với Tào. Hành động vô vi này không ai biết, chỉ hành giả tự biết. Nhà Phật gọi là hành động lau bụi bám trên mặt gương. Nếu nhìn về sự thể nhất nguyên, lau bụi, gương trở nên sạch, sáng, thì bụi tan đi bao nhiêu, gương sạch thêm bấy nhiêu. Có phải bớt bụi, thêm sạch, thêm sáng không? Một câu nói lên sự cần thiết nơi hành trình tâm linh; câu khác giải thích sự thể nơi hành trình tâm linh. Hai câu cũng là một mà thôi, vì “bản ngã mà không còn thì thiên tánh mới hiện ra” (NHK; Tập I; tr. 156). Xét như vậy, chúng ta thấy cuốn Nam Hoa Kinh phụ giúp hành trình nhận thức Lão học thêm sáng tỏ.

- Nơi trang đầu tiên của tập I, cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại lời nơi kinh Nam Hoa, “Có nơm là vì cá; đặng cá hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ; đặng thỏ hãy quên dò. Có lời là vì ý; đặng ý hãy quên lời. Ta tìm đâu đặng người biết quên lời hầu cùng nhau đàm luận” (NHK; tập I).

- Thưa bác, Hưng hỏi tiếp, cháu muốn trở lại Đạo Đức Kinh một chút. Cháu muốn hỏi tại sao lại nói “Đi xa tức là về gần?”

- Nhiều câu nơi các sách đạo học tôi không muốn nhắc tới; đặc biệt những câu nói nghịch thường với chủ đích để anh em nào thực sự muốn thăng tiến nơi hành trình thức ngộ mà nhà Phật gọi là tiệm ngộ nghiệm chứng. Lý do tôi đã giải thích rõ ràng đó là tôi không muốn cướp cơ hội của anh em bởi sự giải thích không giúp ích gì mà coi chừng còn làm chậm trễ sự thức ngộ nơi anh em. So sánh câu nói, “Đi xa là về gần,” với câu nói, “Bớt là thêm, thêm là bớt,” chúng ta thấy được gì? Tự đặt vấn đề, bớt gì, thêm gì đối với cuộc đời một người cũng như đối với hành trình thức ngộ? Thế nào là đi xa? Đi xa từ đâu và tới đâu? Về gần, nơi nào là gần? Đối với sự nhận biết nơi hành trình tâm linh, càng nghiệm chứng, càng để tâm suy nghiệm, hành giả càng tiến gần tới thức ngộ tức là càng về gần sự thức ngộ. Xét về cuộc đời; đi xa nhất là trường hợp nào?

- Chết! Sỹ nhà con buột miệng, đoạn im re.

- Rồi sao? Hồn, phần không chết được đi về đâu?

- Thưa bác, hồn còn tùy thuộc sự mơ tưởng, ý định khi còn sống.

- Đạo học nói về gì?

- Thưa bác, mục đích của các đạo học là dẫn dắt cũng như khuyến khích con người thức ngộ, thăng tiến nơi hành trình tâm linh để nhận biết bản lai diện mục, nói theo kiểu lục tổ Huệ Nàng; nếu nói theo Lão học, Ấn học thì hòa nhập với Tào, với Brahma. Đúng rồi, thế thì đi xa, càng đào sâu vào nghiệm chứng càng trở về nguyên bản của mình. Hưng trả lời.

- Tuy nhiên, bởi con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành luôn luôn liên hệ mật thiết với cuộc sống hữu vi nên lề lối hay phương thức cũng như tâm trí đã bị sự thể hữu vi nặng nề ảnh hưởng. Các kinh sách đạo học, dĩ nhiên gom góp những dụ ngôn, ngụ ngôn, công án do những bậc thức ngộ để lại, là một trong những phương tiện hay cơ hội giúp con người thỏa mãn lòng khát vọng bẩm sinh hầu thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Nam Hoa Kinh gom góp những câu chuyện ám định được gọi là dụ ngôn hầu giúp hành giả Lão học thăng tiến. Có điều,“Ngữ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý”, mà trong trường hợp bản dịch, quả thật rất khó cho chúng ta am tường lời nói được ghi chép lại nơi bản chính.

- Thưa bác, đôi khi có thể suy nghiệm những công án lại là chạy trốn tâm trạng không thể giải quyết một vấn đề nào đó nơi thực tại cuộc sống.

- Có thể nói đó là lối giải quyết tuyệt vời nhất. Thay vì để sự việc hữu vi làm phiền lòng bởi đôi khi hiện thực cuộc đời dồn con người vào thế triệt buộc vô phương trốn thoát, biết đâu lại là cơ hội cho người đó định tâm suy nghiệm bởi đã có câu, suy nghĩ rất khó nên người ta sợ hoặc không dám suy nghĩ. Tự nhận thức về chính mình, chúng ta thấy, chúng ta là những thứ lừa nơi hành trình tâm linh luôn luôn muốn thảnh thơi, thoải mái do không muốn bất cứ gì vướng mắc nơi tâm tư. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, làm chủ cực khổ và tâm trí bị phiền hà hơn đi làm công nên người ta chấp nhận đi làm thuê cho thảnh thơi đầu óc. Thế nên, với lối nhìn nhân sinh thì suy tư, suy nghiệm tâm linh khó khăn, đôi khi mệt mỏi hơn suy tính làm ăn và dường như chẳng được lợi lộc gì cho cuộc sống. Tuy nhiên, ai đã kinh nghiệm sẽ thấy những chướng ngại trên đường đời là cơ hội tuyệt vời cho con người giải mã lòng khát vọng thầm kín bẩm sinh để thăng tiến tâm linh. Tôi muốn nói nơi trường hợp suy nghiệm tâm linh mà thôi chứ không phải chạy trốn bằng cách tìm hiểu một vấn đề gì để giết thời gian; dẫu bình thường, đối với những khó khăn cuộc sống, bình tĩnh nhận định, thực hiện tất cả những gì cần thiết theo nhận biết của mình, và chấp nhận kết quả có thể xảy đến tồi tệ nhất cũng yên được phần nào tâm tưởng, và kết quả ai cũng biết,vẫn khá hơn sự tồi tệ nhất mà chúng ta có thể nghĩ tới. Tôi không nhớ đã nói với anh em chưa, sự hiểu biết bình thường ngăn chận dòng suy tư của con người. Chính sự hiểu biết phiến diện thế tục đình chỉ sự tìm hiểu thâm sâu hơn, cản bước hành trình tâm linh.

- Nam Hoa Kinh có đồng quan điểm về Tào với Đạo Đức Kinh (NHK; Tập I; tr. 53). Nơi Thiên Tri Bắc Du được viết,

“Đông Quách Tử hỏi Trang Tử,

- Cái gọi là Đạo ở đâu?

- Không có chỗ nào là không có nó.

- Xin chỉ ra mới được.

- Trong con kiến.

- Thấp hơn nữa.

- Trong cọng cỏ.

- Thấp hơn nữa.

- Trong miếng sành vỡ.

- Thấp hơn nữa.

- Trong cục phân.

Đông Quách Tử không hỏi nữa” (NHK; Tập I; tr. 53-54).

- Nam Hoa Kinh chủ trương sống thuận theo cái tánh của Tào, của trời đất; nương theo sự biến chuyển để hòa mình với cái lẽ vô cùng của Tào. “Thuận theo cái tánh của trời đất tức là thuận theo cái Tánh tự nhiên của mình; quan trọng nhất là gìn giữ cái Tánh ấy, đừng để nó lu mờ vì tư dục, đừng để cho hoàn cảnh huyễn hoặc, thay đổi” (NHK; Tập I; tr. 157). Anh em có thấy quan niệm này giống Kiến Tính hay không? Thế cho nên, “Nơi mình thì lo mà thực hiện sự “Huyền đồng” cùng tạo vật, không phân trong và ngoài, ta và người nữa, không thấy lớn, nhỏ, thọ, yểu. Còn nơi vật, thì biết để cho vạn vật, vật nào cũng được an theo chỗ đã an bài của chúng nên không bắt buộc ai phải theo mình, nghĩa là không lấy mình mà đánh giá sự phải quấy của người. Đó gọi là chí nhơn vô kỷ”(NHK; Tập I; tr. 157).

- Tóm lại, nói chung, sơ qua những điểm chính yếu chúng ta thấy, mục đích chính của các đạo học minh chứng một sự thể tối thượng, được gọi qua những danh hiệu khác nhau, đang ngự trị và hoạt động nơi tạo vật. Các đạo học là những tác phẩm của những bậc thức ngộ dưới những hình thức công án, dụ ngôn để ám định khiến tâm trí con người phải định tâm suy nghiệm. Trong sự định tâm suy nghiệm này lại cần nhờ đến phần nào kiến thức; tâm hồn hành giả đồng thời cần được hoàn toàn mở rộng không lệ thuộc ngôn từ, quan niệm, thành kiến, để chấp nhận chính mình trước tiên hầu kiểm chứng mọi mặt, mọi vấn đề suy tư qua kinh nghiệm sống của mình. Kinh nghiệm sống cá nhân, những lời nói hoặc động tác hữu ý hay vô tình xảy ra chung quanh, sách vở, phương tiện truyền thông, hoặc những người chung quanh mình, được coi là những phương tiện hay cơ hội cho mình chứng và nghiệm. Anh em cũng nên để ý; những chứng nghiệm của mỗi người không ai giống ai. Chúng ta nên nhớ câu trả lời của tổ Huy Sơn khi Hương Nham năn nỉ giải thích, "Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!" Tổ Huy Sơn gọi là “Cái biết,” hay là sự thức ngộ cũng vậy. Nếu không ai có ý kiến thêm bớt gì, có thể nói chúng ta tạm cho qua phần Lão, và Trang học. Có điều, tôi có một câu hỏi, dạo này chúng ta nghe nói về thiền khá nhiều. Nào thiền sư, thiền môn, thiền phái, cả đạo thiền nữa, anh em có ai “ngâm kíu” về sự thể được gọi là thiền chưa? Cụ Tài mỉm cười vì học theo tiếng lóng nhóm trẻ.

- Thưa bác, cháu nghe đâu có vị sư nhà Phật bỏ ra lấy vợ rồi xưng mình là thiền sư. Như vậy có phải các vị sư không có vợ thì được gọi là đại đức, hay thượng tọa, và vị sư có vợ thì được gọi thiền sư! Sỹ nhà con hỏi.

- Cái ông này, lúc nào cũng tửng tửng, không nói được câu nào đứng đắn bao giờ. Vợ Sỹ nhăn chồng.

- Thiền sư thì có tóc nên có vợ. Nhà sư không có tóc nên không có vợ. Tình đế vô.

- Tại sao thiền sư phải có tóc? Trên thế gian này biết bao người không có tóc mà đâu phải là sư! Phủ nhào vô.

- Thiền sư phải có tóc vì để được vợ dạy dỗ; nhà sư không có tóc làm sao mà nắm nên không có vợ tất nhiên vừa hợp lý hợp tình. Tình đế thêm.

- Anh cả, anh nghĩ sao? Sỹ lên tiếng.

- Tôi biết chắc đầu tôi có tóc nhưng không phải là thiền sư; thêm nữa, tôi có vợ nên càng không phải là sư thì biết thế nào mà nói!

- Cái ông này lại lây chú Sỹ hay sao, chị Thung nhăn chồng.

- Lây cái gì mà lây; muốn lây cũng không được. Bà thấy không, chú ấy mới cưới vợ được ba mươi mấy năm mà cả tiểu đội. Tôi lấy bà hơn bốn mươi năm mà chỉ được mấy đứa? Có lẽ bà không muốn chắc? Ông Thung ngang ngang luận lý.

- Đúng rồi, Sỹ cao giọng. Nhà em thiền từ ngày lấy vợ đến giờ hãy còn thiền đó. Có thiền mới có công lực, không thiền thì hết ý!

- Chú nói thiền, là thiền thế nào? Thanh thêm giọng.

- Có nhiều cách thiền, lắm kiểu định tâm. Nào là thiền nằm, thiền ngồi, thiền đứng, thiền đi, thiền ăn, uống, nhậu; thôi thì đủ mọi sự đều thiền. Nhà con sợ lục tổ Huệ Năng mắng, sống thì ngồi không nằm, chết thì nằm không ngồi nên cứ làm bừa đi, may ra chết có thể ngồi được chăng, và cứ gọi nói là hành thiền đấy quý vị ạ.

- Vậy còn thế nào là tỏi thiền.

-Tỏi thiền là khi mình nhậu thiền với tỏi gà, tỏi vịt đó. Dễ thế mà không ngộ được; uổng công bác trình bày bao lâu nay, tốn không biết bao nhiêu rượu bia. Ối giời! Cũng may mà ngộ được chữ tỏi thiền.

Sỹ nhà con vẫn đang muốn thao thao, cụ Tài giơ tay ra hiệu ngưng, cụ nói,

- Có tác gỉa cho rằng thiền phát xuất từ Đại Thừa của nhà Phật, xuất hiện từ thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Nhờ dựa trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thể giác ngộ, Thiền thực sự phát triển vào thời điểm Phật học giao thoa và ảnh hưởng mạnh mẽ bởi Lão học. Chúng ta thấy, cho dù chứng theo pháp nào, cuối cùng cũng chỉ được tóm gọn nơi bốn chữ, “Kiến Tính thành Phật.” Nơi thành ngữ tiếng Anh, Zen (thiền) cũng có nghĩa là ngộ, nói theo tiếng lóng. Tiếng Việt mình nói, tôi ngộ ra, có nghĩa cảm nhận được một cách thâm sâu, thì nghĩa của chữ “Ngộ” này cũng được coi là tiếng lóng. Anh Sỹ vừa dùng tiếng ngộ rất chính xác, và nó cũng có nghĩa là thức ngộ.

- Nói về gốc gác, có thể nói lục tổ Huệ Năng là nguồn gốcphát sinh thời vàng son của Thiền và các bậc thức ngộ thường dùng công án và dụ ngôn để kích động suy nghiệm của hành giả.

- Bởi vì “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật" (GLTH; Tr.184), nên không ai dám tự xưng mình là “Zen Master.” Không hiểu tôi phải nói thế nào, điều này có nghĩa, bất cứ ai cho rằng họ là thày dạy về Zen thì cũng chẳng nên để ý. Anh Sỹ, anh hiểu thế nào?

- Thưa bác, đã tự suy nghiệm thì mình là thày dạy chính mình; bởi cái biết của người khác không phải là cái biết của mình. Sỹ trả lời.

Một tràng pháo tay rộ lên. Không ngờ con nhà này hiểu thấu đáo đến thế.

- Đúng là chó ngáp phải thịt quay. Tình tửng tửng nói.

- Vẫn còn hơn ngáp phải ruồi. Phủ phụ họa.

- Các ông nói gì! Sao coi thường phật gia thế! Sỹ nhà con lên giọng.

- Hoan hô phật sắp thành! Thế là bước vô giòng họ thích dzồi!

- Thích đủ thứ! Đại đức thích đủ thứ.

- Tại sao lại đì hắn vậy? Phải là thượng tọa thích đủ thứ!

- Không được, không được! Đại đức thích đủ thứ.

- Bầu! Bầu cho hắn làm đại đức thích đủ thứ. Ai đồng ý giơ tay. Tình lớn tiếng.

Những cánh tay nam giới giơ cao tiếp nối những giọng hò la đồng ý sôi nổi kéo dài. Tay chưa kịp hạ xuống; những tiếng hò la vẫn đang vương vọng thì ý kiến mới lại được đề nghị,

- Vô vọng bất thành quan! Yêu cầu mọi người im lặng để đại đức mời anh em tham ngộ nhập giới. Tình hồ hởi lên tiếng.

- Đúng, đúng, vô vọng bất thành quan; và ai đó cất lên câu hát, uống rượu, không say, nào hay; uống rượu mà say mới hay. Đã không nâng thì thôi, nâng một lần là hết một chai. Những chai Heineken được nâng cao và vội trống rỗng để nhường các chai đầy bia khác tiếp nối.

- Vọng thì vọng, ở đời, chưa ai sợ thằng này nên thằng này đâu sợ ai. Thưa bác, nhân tiện đây, vợ chồng con kính mời bác và quý hành giả nam cũng như nữ tuần tới ghé qua tệ xá để chúng con đón mừng may ra con có thể trở thành thánh nhân. Ai đồng ý xin ngồi yên, ai không đồng ý mời giơ tay giải thích lý do.

- Mới là phật gia mà đã đòi chờm hơm thánh nhân, thêm một khao vọng nữa.

- Thánh nhân nơi nhà Lão đâu khác gì phật gia nơi nhà Phật, đàng nào thì cũng ngộ mà thôi; sao ông còn cố phân chia cái nhất nguyên đạo học Đông Phương.

- Nhưng phật gia chỉ mới kiến tính thành phật, thánh nhân phải huyền đồng, không vợ, không con, không ăn, không uống, nhất là say xỉn. Hưng bày thêm điều kiện.

- Tôi sai, Sỹ lớn tiếng. Cứ hỏi bu nó coi, xưa nay tôi sai đã nhiều, sai thêm chút nữa chưa chết thằng tây nào. Nhậu thì nhậu, đâu ai đã sợ ai.

- Mời anh cả tuyên bố thành quả, Tình chế thêm.

Ông Thung giơ tay ra hiệu im lặng.

- Thưa cụ, thưa quý anh chị em, để chào mừng chú Sỹ thức ngộ và được sự chấp thuận của chị hai, chú Sỹ mời mọi người tới tham dự bữa cơm mắm muối tại tư gia của chú ấy tuần tới, tôi xin đại diện anh em mà vui lòng chấp thuận. Tuy nhiên, không hiểu chú Sỹ định lập đàn cầu siêu hay dựng mâm cúng quảy như thế nào; cụ nghĩ sao xin cho thêm ý kiến ạ.

Cụ Tài mỉm cười vì giọng điệu ép buộc ngang tàng, ngược lại mang hình thức dưới dạng ăn nói trang trọng của ông Thung. Cụ cảm thấy niềm vui nào đó vượng lên nơi tâm trí. Tên Sỹ này quen thói ăn nói bạt mạng, vẽ rồng vẽ rắn thêm chân, bẻ quặt bẻ quẹo, châm chọc đủ mọi hạng người, trẻ không tha, già không thương, thế mà nhận thức tiến triển chằng ngờ. Cụ lên tiếng,

- Phật gia hay thánh nhân cũng chỉ là danh hiệu khiến những người không nghiệm chứng bối rối, bực mình. Anh Hưng bới thêm điều kiện áp đặt lên bậc thánh nhân nhà Lão, ngăn cản chức vị tự phong của anh Sỹ. Thôi thì anh Sỹ nên chấp nhận cương vị thiền sư tha hồ hợp lý, hợp tình. Như vậy, tuần tới chúng ta quá bộ chúc mừng thiền sư Sỹ cho phải phép, kẻo được mời mà không tới lại mang tiếng kỳ thị. Có điều, thứ năm tới, nếu có thể được tôi nhờ anh Thanh cùng tôi ra phi trường đón linh mục bạn của tôi. Ai có ý kiến gì nữa không?

- Thưa bác, vậy điểm chính yếu của thiền là gì, nhờ bác giải thích lỡ có ai vặn hỏi một cách láo lếu cháu còn biết đường trả lời. Sỹ hỏi.

- Thiền sư không biết thiền là gì, chỉ biết thích đủ thứ.

- Thích đủ thứ là danh hiệu, không phải hàng hiệu.

- Thiền đủ thứ là bất cứ gì cũng thiền. Người ta thích một món thì được gọi là thiền sư thích một món; chú mày thích đủ thứ tất nhiên là thiền sư thích đủ thứ, bộ oan sao.

- Tôi muốn hỏi nguyên tắc chính yếu của thiền là gì chứ đâu hỏi thiền cái gì.

- Bác mới nói thiền phát sinh từ Đại Thừa nhà Phật, hòa nhập với Lão và bị ảnh hưởng mạnh mẽ của Lão nên cũng chỉ kiến tính thành Phật mà thôi. Tiểu Thừa có nghĩa chiếc xe nhỏ, chứa đựng được ít; Đại Thừa là chiếc xe lớn thì chứa được nhiều nên tha hồ chứa lung tung, không cần kiêng kỵ bởi Đạt Ma sư tổ nói rõ, một vị phật không thể phạm tội được nên cứ làm tưới đi. Muốn thích đủ thứ phải suy nghiệm như thế. Thiền đủ thứ là không gì không thiền. Lục tổ Huệ Năng khuyến khích hành thiền. Thiền đủ thứ là hành đủ thứ, hành đại, hành tào lao thiên tướng. Chỉ có thế mà không biết cũng đòi làm thiền sư.

- Người nào ngộ theo nhà Phật thì được gọi là phật gia; người theo Phật học mà chết thì gọi là phật tử. Người ngộ theo Lão thì gọi là lão gia; người theo Lão học mà chết thì gọi là Lão tử. Người ngộ theo Thiền thì gọi là thiền gia; nhà sư theo thiền thì gọi là thiền sư. Chú mày muốn được gọi là thiền sư thì phải cạo đầu.


Đến lúc này, ồn ào thì cứ ồn ào; kẻ nói cứ nói, người nghe cứ nghe, nhưng chẳng nghe được gì vì dăm ba miệng cùng nói, nên cứ uống, và bia cứ mở. Mấy khi lòng dạ được sảng khoái, thảnh thơi, do qua sự giải thích của cụ Tài, ai nấy đều cảm thấy Phật học cũng thế; Lão học cũng vậy, và Thiền đều cùng một mối kiến tính thành phật. Đặc biệt lần này cụ Tài đổi phương pháp; thay vì cụ giải thích lại đặt vấn đề nêu câu hỏi giúp mấy anh em động não. Cụ Tài ra hiệu, rồi lên tiếng,

- Chúng ta thấy, phương pháp hiểu Đạo Học Đông Phương chỉ có một con đường duy nhất là nghiệm chứng. Nơi hành trình nghiệm chứng, ai chứng, người nấy biết, và cái biết không ai giống ai được gọi là ngộ. Ngộ hay thức ngộ là sự cảm nhận sâu xa về một vấn đề nào đó tùy thuộc người ngộ. Như vậy không ai có thể giải thích sự thức ngộ cho bất cứ ai, và nếu giải thích dẫu hợp tình hợp lý thì cũng không giúp ích gì cho người nghe mà coi chừng còn làm hại người nghe bởi đã cướp mất cơ hội thức ngộ của họ. Xin cảm ơn anh chị em đã bỏ thời giờ tham gia đàm luận về đạo học đông phương. Lần tới, chúng ta sẽ có linh mục Nguyễn Công Hải nói chuyện với anh em về Phúc Âm. Anh Thanh, chiều thứ năm cỡ ba giờ chở tôi đi đón ngài được không. Chuyến phi cơ đáp xuống sân bay Gulfport vào lúc 3giờ 45. Muộn rồi, chúng ta giải tán để anh em nghĩ dưỡng sức, chuẩn bị cho những công việc ngày mai.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

CHƯƠNG 8

 

 
Chiều thứ năm, cụ Tài và Thanh tới phi trường Gulfport-Biloxi, MS, đón linh mục Nguyễn Công Hải. Máy bay bị trễ hơn nửa tiếng; Thanh mua hai ly cà phê rồi cùng cụ Tài trở lại nơi đậu xe ở tầng thứ ba ngắm cảnh từ trên cao. Nhân dịp có ít phút truyện trò riêng tư với cụ, Thanh hỏi về nhận định của cụ đối với lớp người Việt tha hương ngày nay nơi đất Mỹ.

- Tôi để tâm theo dõi thấy đại khái dẫu đã 40 năm tính từ năm 1975 tới nay, người Việt mình vẫn còn bị tự ty mặc cảm quá nhiều. Đồng ý rằng đa số người Việt ngày ấy và sau này vượt biên thuộc những thành phần kể như không có học thức; có những người không biết viết hay đọc chữ quốc ngữ. Cũng không lạ gì, vì họ có sẵn tàu bè hoặc sống gần bờ biển nên dễ có dịp vượt biên. Sau này, từ khi có chương trình H.O., mới có thêm người đã được cắp sách tới trường khi còn ở Việt Nam, nhưng sự học thức đại đa số cũng chỉ hết trung học đệ nhị cấp. Định cư nơi một đất nước hoàn toàn khác biệt về ngôn ngữ, tập quán, nơi mà dân chúng đại đa số có thói quen cũng như có được sự giáo dục cộng đồng, đồng thời bị tuyên truyền sai lầm về cá tính cũng như lối sống người Việt nên có những cái nhìn khác biệt đối với những người mới tới. Cũng phải đồng ý rằng có những người Mỹ, sống nơi một nước nổi tiếng văn minh như thế cũng không đọc hay viết được ngôn ngữ của họ.

 
- Đối với hạng người thiếu hiểu biết này, họ thường tỏ ra ganh tỵ với người Việt; bởi họ tưởng người tỵ nạn được chính quyền Mỹ ưu đãi, cấp dưỡng hoàn toàn. Dĩ nhiên, với giới này, vì thời còn nhỏ họ lười lĩnh, ỷ y không chịu học nên không biết đọc, biết viết; dù rằng nơi những nước văn minh nền giáo dục học đường rất được chú trọng và ưu đãi. Lớn lên làm được đến đâu, ăn xàì tới đó chẳng để ý gì về ngày mai phương chi tương lai. Ngày xưa, các hãng xưởng có những chương trình giúp nhân công để dành tiền nhưng họ không bắt ép ai chấp nhận bất cứ đề nghị nào nếu không muốn. Lại nữa, nơi một đất nước kỹ thuật phát triển và trù phú như đất Mỹ, dân chúng thường di chuyển tùy thuộc công sở hoặc môi trường; nên họ không có ý niệm sở hữu một căn nhà cố định cho tới trước khi về hưu. Mà anh biết, không học hành, thiếu ý thức tự lập, tạo nên bản tính nương tựa nơi chương trình an sinh xã hội trong khi quen thói ăn xài. Nếu thử so sánh hai lối sống giữa một gia đình người Mỹ nghèo với một gia đình người Việt, lối tiêu xài của gia đình người Mỹ nghèo có thể gấp ba gia đình người Việt. Đi chợ, anh để ý sẽ nhận ra người dùng thẻ phụ cấp thực phẩm; họ mua những thứ mà có lẽ anh không bao giờ dám mua. Có người mua steak về cho chó của họ ăn. Có lần tôi cho một người Mỹ quen mượn một trăm Mỹ kim vì tiệm bán đồ cũ của anh ta không sinh lợi đủ để trả tiền thuê nên phải đóng cửa. Trong ngày dọn hàng ra khỏi tiệm, anh ta mua đồ ăn trưa được nấu sẵn một cách thừa thãi, quăng vô thùng rác hơn một nửa. Một phần ba két nước ngọt mới mua, vì không để vô tủ lạnh anh ta bật nắp đổ đi hết. Phải mượn tiền mà quen thói xài như thế, phỏng có được gọi là nghèo không?

 
- Dù thế nào chăng nữa, người Việt mình sống nơi đất nước người, đương nhiên tự mang khoảng cách văn hóa, tiếng Mỹ gọi là “Culture gap,” dẫu thái độ có cố gắng cách mấy cho phù hợp với dân chúng nơi đồng đất nước người cũng không thể nào có thái độ và phản ứng giống người bản xứ. Hơn nữa, văn hóa Đông Phương áp đặt trên con người những khuôn mẫu sao cho xã hội có thứ tự, lớp lang dễ cai trị, càng khiến cho người Việt Nam nơi những đất nước mới càng thêm tự ty mặc cảm. Từ sự tự ty mặc cảm này đã phát sinh nhiều chuyện nhố nhăng làm phiền lòng những người ý thức. Tuy nhiên, cũng phải chân thành nhìn nhận rằng những nước thứ ba là cơ hội tuyệt vời cho những con em Việt Nam về đường học vấn. Có điều, không hiểu tại giới hạn truyền giống bẩm sinh hay vì lý do gì mà chỉ được một số ít người Việt vượt hẳn lên. Ông bà mình có câu, “Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng;” điều mà tôi muốn nói là nơi bậc trung học và đại học, sinh viên người Việt khá nổi nhưng lên cao hơn nữa tự dưng biến mất chẳng khác gì nước đáhòa tan nơi dòng sông. Thử hỏi bao nhiêu người Việt trên thế giới, và chúng ta có được bao nhiêu phát minh mới từ họ?

 
- Xét riêng về mặt nhận thức, tôi thấy người Việt mình bị thế giới vật chất hóa xâm nhập sâu đậm. Cũng chẳng lạ gì, đang mang thân phận khổ cực, đầu tắt mặt tối suốt ngày, đôi khi không lo đủ miếng cơm manh áo, nay gặp thời cơ có công ăn việc làm, cho dù tiền lương không bằng người bản xứ, nhưng quen lối sống tằn tiện thì cũng có dư của ăn của để nên càng chăm chỉ lo làm lụng. Đàng khác, người Việt tỵ nạn đã trãi qua mảnh đời không dám nghĩ tới tương lai, không nơi nương tựa lúc khốn cùng; tất nhiên ý chí cũng như khả năng sinh tồn rất mạnh mẽ. Thế nên, có cơ hội thì họ ra sức làm e lỡ khi chuyện chẳng ngờ xảy đến còn có chút vốn liếng giải quyết; bởi không người thân thuộc, chẳng ai quen biết thì chạy vào đâu. Ai không kinh nghiệm, “Có tiền mua tiên cũng được;” cho dẫu sinh trưởng trong hoàn cảnh nghèo nàn do đất nước rơi vô cảnh triền miên chiến tranh lại chẳng trù phú gì; mơ ước về cuộc sống của con dân Việt phải nói là rất cao. Mơ ước này không đặt nặng đến tiền bạc, ra giầy vào dép, hoặc nhà lầu xe hơi, nhưng là một cuộc sống ổn định, tương lai vững chắc. Mộng của người Mỹ chỉ là có được căn nhà thuộc về mình và mảnh vườn nho nhỏ trồng bông, trồng hoa. Mơ ước của người Việt mình có thể nói như lời của một bài hát nào đó, “… Có con trâu, có nương rau, thiên đường này mơ ước bao lâu.” Mơ ước có con trâu, có nương rau tất nhiên mình đâu cần phải lo lắng về nơi ở vì đã có nhà. Dù không để ý đến ước mơ, nhưng anh thấy, người Việt mình nơi đất nước này, hầu hết mỗi gia đình đều mua được căn nhà không to thì nhỏ. Dân bản xứ thất nghiệp một tuần là xốn xang lo khai thất nghiệp, nhất là vào thời kỳ này, kinh tế xập xệ, thất nghiệp cỡ bốn, năm tháng thì nhà băng kéo nhà; những cảnh gia đình tan nát, vợ chồng mỗi người một ngã, con cái giao về ông bà nội ngoại là chuyện không hiếm xảy ra nơi đất nước văn minh này.

 
- Cũng vì nơm nớp e sợ viễn ảnh quá khứ có thể xảy đến nên người Việt tỵ nạn lo cắm đầu cắm cổ làm việc đến độ bỏ bê cả việc giáo dục con cái. Xét cho ngay, cả hai vợ chồng mờ sáng đi làm, chiều muộn mới về tới nhà, có người làm hai việc thì còn thời giờ nào mà giáo với mác; thêm vào đó, trẻ ở nhà trường, nghe, học, và nói tiếng Mỹ, dù chỉ mới dăm bẩy tháng, một năm, lại không có cơ hội nói tiếng Việt ở nhà thì tâm tình càng ngày càng cách xa cha mẹ; dẫu cha mẹ tối ngày gắng sức làm lụng để nuôi dưỡng chúng. Rồi nào đình đám, tang ma, và khi có chút của ăn của để lại phải nghĩ đến cái xe khá hơn, căn nhà thanh lịch hơn cho nở mày nở mặt với đời. Ngay câu tục ngữ, “Đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy điệm” đôi khi cũng làm khổ biết bao gia đình chỉ vì không nhận thức chín chắn.

 
Nửa tiếng trôi mau, hai người trở lại đón cha Hải. Vừa đi ngang qua các gian hàng bán vé phi cơ, Thanh thấy một cụ già đầu tóc bạc phơ, vai quàng một túi xách, chiếc áo lạnh khoác nơi tay trái, và tay phải nắm cán cầm, có thể kéo dài, của chiếc vali nhỏ có bánh xe đang đi ngược lại. Cụ Tài bước vội tới chào hỏi và quay lại giới thiệu Thanh với ngài. Thanh đỡ lấy cán cầm vali, miệng nói,

- Con xin chào cha. Cha có còn phải lấy thêm đồ gì nơi quầy hàng hóa không?

- Chào anh, mọi sự chỉ có thế. Coi chừng đụng bể chai rượu lễ trong đó. Ngài trao tay cầm vali cho Thanh nhưng vẫn kè kè khoác túi xách trên vai.

- Cha đưa luôn túi xách cho con.

- Khỏi cần, để tôi mang được rồi. Nhà anh ở gần nhà ông bạn tôi hay xa?

- Thưa cha, nói gần thì cũng không gần, mà xa thì cũng không xa. Muốn tới thì gần mà không muốn tới thì xa.

- Anh học được kiểu nói của ông bạn tôi bao giờ vậy? Hay là ông bạn Tài đầu độc anh ta rồi phải không? Ngài quay sang cụ Tài hỏi, giọng nhẹ nhàng, mang phần vui tươi, dí dỏm.

- Thế ra cha cũng biết nhiều về cụ Tài ư? Thanh hỏi.

- Không nhiều, tính đến nay cỡ chừng hơn kém 50 năm. Anh Hưng và các cháu dạo này ra sao? Ngài hỏi cụ Tài.

- Cảm ơn cha, vợ chồng chúng vẫn thường vậy. Cháu nhỏ nhất đã xong đại học rồi. Cụ Tài trả lời.

- Mới ngày nào còn thấy nó đang học lớp 12 mà!

- Năm năm rồi còn mới mẽ gì nữa! Cụ Tài nhẹ nhàng. Ba đứa lớn đã có vợ, có chồng, con cái biết đi học rồi. Để chiều nay kêu chúng đến chào ông. Mời ông cụ và anh chị Thanh sáu giờ tối nay ghé qua nhà Hưng dùng cơm tối với cha Hải. Cụ Tài hướng qua Thanh nói.

- Cháu định tối nay mời cha và cụ dùng cơm ở nhà cháu rồi tối mai làm tiệc mời cha quản nhiệm và ban điều hành để giới thiệu cha mới tới. Thanh hơi bỡ ngỡ.

- Nếu vậy cần gì tôi phải nhờ anh đưa tôi đi đón ngài. Vợ chồng Hưng đang nấu ăn chờ chúng ta về ngồi tiệc đó.

- Để cháu gọi nhà cháu và bố cháu sửa soạn. Bây giờ mình bỏ đồ của cha xuống nhà cháu và đón bố cháu cùng với bà xã cháu đi luôn.

- Đưa luôn mấy đứa nhỏ sang ăn cho vui.

- Vậy nhà cháu phải lái xe chở tụi chúng.

- Em hả! Em nói bố cùng em và mấy đứa nhỏ chuẩn bị, sau khi anh chở cha về tới nhà bỏ đồ, mình sẽ qua nhà anh Hưng ăn cơm tối. Cỡ chừng nửa tiếng nữa anh về tới nhà. Thanh gọi điện thoại cho vợ.

- Cha và cụ đứng chờ nơi đây để con lấy xe tới đón, khỏi phải đi bộ. Thanh nói hai người đứng đợi và đi lấy xe.

 
***
 
Chín giờ sáng hôm sau, Thanh cùng bố và cha Hải đi câu cá hánh nơi ngõ nước vô Back Bay ở cầu nối Biloxi với Ocean Springs, giữa tháng mười một, trời đã đổ lạnh. Cha Hải mới đầu bởi chưa quen với sóng nước lúc tàu chạy nên đi lại hơi khó khăn, vả lại ngài cũng đã có tuổi. Khi tầu đã được thả neo cách chân cầu cho người đi chơi chừng 100 feet lúc con nước đang lên trong khi trời yên sóng gió, Thanh lấy thùng mồi tôm sống và mắc câu cho cả ba người. Mới đầu, cũng tưởng như câu mồi chết nên quen thói quăng câu ra xa, thế là con tôm sống mắc hờ nơi lưỡi câu bay vô định hướng. Trong lúc ngài cuốn câu thì bố con Thanh đã kéo lên hai con hánh khá lớn. Cha Hải lò mò bắt tôm mồi, nhưng Thanh đã vội nói, cha để con mắc mồi cho kẻo không quen bóp chết tôm mồi cá hánh không chịu ăn.

- Thì ra cái nghề này cũng lắm công phu! Tám mươi ba tuổi rồi mà vẫn chưa học xong; có lẽ ông cha mình nói “Ông bảy mươi phải học nơi ông bảy mươi mốt là sai hay sao?”

Bố anh Thanh lên tiếng,

- Thời buổi này có lẽ hàng văn ăn ngược; bởi ông bảy mươi mốt coi chừng phải học nơi đứa bé mười tuổi. Nhà có ba đứa nhỏ, chúng nó gõ computer làm đủ thứ chuyện, nào lên net, nào chơi game. Thế mà mình rờ đến nó thì máy chạy đàng máy mà người gõ đàng người, chẳng còn biết lối nào mà rờ nữa.

- Gõ computer thì tôi cũng tạm được nhưng mà rờ rờ con tôm mồi này thì có lẽ như anh Thanh nói, bóp nó chết mất.

Vừa nói chuyện, vừa câu, chỉ một chốc đã được mười mấy con hánh khá lớn, nhỏ nhất cũng cỡ 3, 4 pounds đổ lên. Thanh đề nghị,

- Hay là tối nay mình mời cha quản nhiệm và mấy ông trùm, ông trưởng, ăn lẫu cá hánh với bún. Nướng chừng 4 con, còn bao nhiêu nấu lẫu, xào lòng cá với hành tây, thêm độ hai con vịt luộc nữa là tha hồ xôm tụ, bố nghĩ sao?

- Cũng được, nhân tiện giới thiệu cha Hải cho họ biết đỡ mất công chở ngài đi chào cha quản nhiệm. Bố Thanh trả lời, câu thêm mấy con nữa rồi về ăn trưa.

Cha Hải không nói gì, bắt thử tôm mồi mắc vô câu…

- Thế là chết tiêu một chú tôm mồi, cha Hải lên tiếng. Có lẽ mình được sinh ra để nói chứ không phải để mắc mồi tôm sống. Đúng là phường phá hoại! Anh Thanh, mắc dùm tôi mồi câu, nếu không tôi lại bóp chết thêm con tôm mồi! Tôi muốn câu thêm một con nữa cho đủ bộ ngũ hành.

- Thì cha cứ chấp nhận tốn cỡ 100 con mồi sẽ học được nghề câu mồi tôm sống.

- Thế sao mình không đi câu vào sáng sớm bởi tôm nha nhá, cá hừng đông…

- Cá biển ăn theo con nước thủy triều. Khi nước thủy triều lên, cá vô lạch kiếm mồi. Hôm qua mùng năm âm lịch nước lừng, cá lơ lửng ngoài khơi. Hôm nay mùng 6, nước chảy mạnh tới trưa thì đẫy. Sáng sớm lúc 6 giờ, nước mới vừa bắt đầu lên, các cá con loanh quanh gần bờ vô sớm, sau đó những con cá lớn mới vô thì câu vào khoảng 9 giờ tới 11 giờ mới có cá lớn.

- À thì ra thế! Biết hết mọi sự nhưng sự cần thiết không biết thì cũng coi như không biết gì. Cổ nhân mình nói kể cũng không sai, trăm hay không bằng tay quen…

- Thưa cha, cha về chơi được bao lâu. Nội trong hai tuần nữa, con định đi câu một chuyến lấy cá ăn mùa đông, câu ngoài khơi thú hơn trong này.

- Trong lúc đang có cá hánh nhiều như thế này sao không để dành mà lại phải đi câu xa? Cha Hải hỏi.

- Ngoài sâu mới lắm cá ngon, chẳng hạn như cá hồng, cá thủ đỏ, cá ngộ lớn, câu đã tay lắm. Câu mồi sống kéo cá không đã chút nào. Mình trả giá cho niềm vui mà cha! Thanh nói.

- Tôi cũng không có việc gì, có thể ở tới ba hay bốn tuần hoặc hơn tùy ý. Ông Tài nói tôi về chơi nhân tiện nói chuyện với nhóm thanh niên về Phúc Âm. Nghe đâu ông ấy đã giải thích về đạo học Đông Phương cho các anh rồi phải không?

- Thưa vâng. Con mới tham dự được mấy buổi tối vì trước đó con về Chicago mất ba tuần, nghe đâu bác Tài đã nói với anh em được ba lần. Thoạt đầu con cứ tưởng bác Tài có tuổi rồi, vả lại bề ngoài bác có vẻ trầm tĩnh, nhẹ nhàng, nếu không muốn nói là kín đáo và khuôn mẫu, nhưng đến khi nghe bác nói chuyện về đạo học mới thấy nhận thức của bác được coi như không có ranh giới, bất cần phép tắc, hoặc khuôn mẫu, đẳng cấp hay lề thói. Mấy người ăn nói tào lao, bặm trợn cũng không còn đường nói ẩu; mà hình như, đạo học chỉ hợp với những tâm hồn chân thành, dám liều suy nghĩ. Đối với con, đó là cơ hội để mở rộng tâm hồn đối diện với thực thể uyên nguyên vô hạn định đang hoạt động nơi tạo vật. Con cứ tưởng vì học hành bên này nên suy tư rộng mở có thể nói tới mức quá trớn; ai ngờ, cả mấy ngàn năm trước người ta đã đi quá xa. Thế rồi đem so sánh những chiều hướng đạo học với tôn giáo, con thấy hình như đạo học đối nghịch với tất cả các tôn giáo.

- Tôn giáo đối nghịch với đạo học chứ! Anh có nói lộn không?

- Thưa cha, cha nói đúng vì đạo học có trước tôn giáo. Xin phép cha để con tháo dây đưa tàu về kẻo cũng muộn rồi; cha vô ngồi nơi ghế gần vô lăng bởi tàu phải quẹo hơi mất thăng bằng.

 
* * *

 
Tối nay tại nhà Sỹ có thêm hai vị trùm, và hai người ở ca đoàn của cộng đồng họ đạo khiến không khí hơi khác lạ. Thay vì thói quen ăn nói bạt mạng giữa những anh em đã lâu quen biết, đàn đúm, lại có thêm chút kiến thức về đạo học, vả lại, hai vị trùm cũng không xa lạ gì với những anh em Công giáo, nhưng, do thấy mấy người không theo Công giáo, dẫu quen biết, tham dự nghe cha Hải nói chuyện nên các vị này hơi ngỡ ngàng khiến bầu không khí hơi thiếu cởi mở. Sau màn ăn nhậu, dùng rượu bia thay xăng dầu hâm nóng những bộ máy nói và những chiếc bàn đã được thu dọn sạch sẽ chỉ còn lại những chai bia hoặc ly rượu đang uống dở, cụ Tài lên tiếng,

- Như anh em đã biết, đây là cha Hải bạn quen biết của tôi đã gần 50 năm. Nếu có cơ hội và thời giờ, tôi sẽ kể về lý do và cơ hội chúng tôi quen biết nhau. Tối nay và một đôi tối trong những tuần kế tiếp, tôi mời ngài gặp gỡ anh chị em để trình bày về Phúc Âm. Có điều tôi quên đã không nhắc nhở anh em đọc Phúc Âm trước khi tham gia hội thoại. Thiển nghĩ, sau buổi tối nay, chúng ta ít nhất còn có cả tuần lễ cho lần họp tới, hy vọng anh em có đủ giờ đọc qua. Ngài đã về hưu và hiện đang ở tại Philadelphia, mấy lần tôi đề nghị ngài về miền Nam cho ấm áp, nhưng có lẽ duyên chưa tới nên ngài vẫn còn lưu luyến hơi hướng miền giá lạnh Bắc Mỹ.

 
- Mọi người đều biết tôi không theo đạo nào hết. Sở dĩ tôi phải minh định vì hôm nay có thêm một vài vị theo Công giáo tham dự. Mục đích của những buổi hội thoại là nhận định về những đạo học mà không phân tích hay nói gì về tôn giáo. Như các anh em đã tham dự những lần trước đều biết, chúng ta nêu lên những nhận định cốt lõi của các đạo học, và nói theo ngôn từ của anh Sỹ, chủ nhà, đó là “Ngâm kíu” một số công án hay dụ ngôn nơi các đạo học hầu tăng thêm nhận thức tâm linh. Bởi tôi không theo tôn giáo nào nên không muốn nói gì về tôn giáo. Hôm nay nhân tiện có cha Hải, nếu anh em có thắc mắc gì về liên hệ giữa tôn giáo và đạo học, anh em cứ việc nêu lên hy vọng ngài sẽ giải thích thỏa đáng cho lòng khát vọng của anh em. Bây giờ, tôi xin nhường lời. Cụ Tài đưa tay, mời cha.

 
- Thưa ông bạn già và quý anh chị em, tôi tên là Nguyễn Công Hải vượt biên năm 75 thuộc dạng dân Việt số 9, sinh năm 1932. Những ngày còn ở Việt Nam trước năm 75 tôi đăng lính không quân và được bổ nhiệm làm việc tại phi trường Biên Hòa với chức danh quân vụ thượng sĩ nhất coi một tiểu đội túc trực đường bay cho quân đội. Sang tới đất Mỹ, tứ cố vô thân và được một gia đình người Mỹ bảo trợ, sau đó mấy tháng, tôi gia nhập một nhà dòng và sau khi học hai năm thần học tại Chicago, tôi bị nhà dòng đuổi với 5 thứ tội mà tôi chỉ nhớ được hai tội đặc biệt đó là “Anti American” và “Sturbon.” Sau đó tôi xin gia nhập địa phận Philadelphia và chịu chức linh mục năm 1985, tới nay được 30 năm. Qua những năm tháng làm việc với chức vị linh mục giữa những cộng đồng người Mỹ và ít tháng với người Việt, tôi nhận thấy phần nào lòng thao thức của con người muốn phân định một cách rõ ràng về niềm tin của mình cùng những sự liên hệ với cuộc sống thực tại của con người, và hành trình tâm linh, hành trình đức tin. Có lẽ vì những ngày còn ngồi ghế trung học, tôi theo ban B, toán và lý hóa, nên những suy tư của tôi được đặt nặng trên khuôn mẫu lý luận. Bất cứ những gì được coi như tự trời rơi xuống thật khó cho tôi chấp nhận; nên tôi tìm hiểu và đào sâu về chúng qua sách vở, đặc biệt suy tư sao cho hợp lý và hợp tình, và có thể chấp nhận được. Những gì được gọi là phải tin, chẳng có gì cho tôi đặt vấn đề; vì dù lý luận đến mấy cũng không có gì để minh chứng và đụng chạm đến được nên tôi đành chấp nhận gọi là tin cho qua.

 
- Thế nên, trước khi chúng ta hội thoại, tôi muốn biết quý anh chị em có nhận định gì về sự liên hệ của tôn giáo và đạo học?

- Thưa cha, Sỹ nhà con vội lên tiếng. Theo như con thấy thì đạo nào cũng là đạo; đạo nào cũng dạy ăn ngay ở lành, giúp đỡ người khác nếu có thể và đóng góp để phát triển tổ chức tôn giáo của mình. Nhà thờ thì đóng tiền trả lương cho các linh mục, trả chi phí bảo quản nhà thờ, giúp lung tung, nhóm truyền giáo này, hội truyền bá Phúc Âm kia. Nhà Phật thì cúng dường, cúng chiếu, ăn chay, không ăn mặn nhưng ăn giả mặn, không ăn thịt, ăn cá, nhưng ăn giò giả làm bằng đậu phụ, ngoại trừ không lấy vợ, lấy chồng giả. Một số tôn giáo cấm uống bia, bởi bia độc hơn rượu nên có mộ bia mà không có mộ rượu; rồi đạo này ăn mặn thì một vợ; đạo kia ăn chay thì hai ba vợ cũng được nên con đang định ăn chay cho thỏa mãn tình yêu không biên giới. Xét chung, con nhận thấy đạo học chỉ dạy về hành trình thăng tiến tâm linh cá nhân. Tôn giáo có luật này, luật nọ, có điểm tới chẳng hạn như niết bàn hoặc thiên đàng nếu nói chung chung. Con xin ngưng vì có quá nhiều thứ đạo nên lắm thứ luật không thể biết hết phương chi nói hết ạ.  

- Anh định ăn chay mà còn muốn tình thật không giả, sao không tình chay cho thuận lý, hợp tình? Cha Hải cười cười hỏi Sỹ.

- Thưa cha, con chưa ăn chay, chỉ mới có tình chay mà bu nó quá quắt lắm nên mới định đổi thành ăn chay may ra có được tình mặn. Sỹ lý luận.

- Cái ông này ăn nói lung tung, vợ Sỹ nhăn chồng.

- Một vợ nằm trên giường, hai vợ mời ra đường, ba vợ lọt xuống mương, bốn vợ vô nhà thương. Tình đế vô.

- Thưa cha, ông Thung lên tiếng, tôi theo đạo Phật, đôi khi ăn chay, nhưng không có tình mặn có lẽ cũng giống như chú Sỹ nói; bởi bà nhà tôi cũng chẳng vừa gì. Thế nên, ăn chay hay ăn mặn, tình chay hay tình mặn có lẽ tùy thuộc mụ chủ nhà chăng.

- Cái ông này, ông học được lối ăn nói tào lao bao giờ thế? Chị Thung lên tiếng ngăn chồng.

- Chị nói vậy oan cho chúng tôi rồi. Chúng tôi học anh cả chứ đời nào anh cả học chúng tôi; đâu có chuyện hàng văn ăn ngược như thế phải không anh cả. Hưng nói.

- Thưa cha, thưa cụ, chả nói giấu gì, bởi cụ (Tài) dạy rằng, ý kiến, ý nghĩ không đúng không sai; nó tùy thuộc môi trường được bày tỏ mà trở nên thế nào chẳng khác gì câu nói “Lửa thì không nóng.” Ai cảm thấy nóng thì người ấy biết. Thực ra, xưa nay tôi là kẻ ít mồm, ít miệng, chỉ có một cái à, nhưng vì cha mới tới, lại có thêm mấy vị nơi cộng đồng Công giáo tham dự nên tôi phải lên tiếng để tối hội thoại thêm vui tươi, chứ nếu khô khan quá chỉ tốn thêm rượu bia mắc mỏ. Ông Thung giải thích.

- Tôi nghĩ, sự liên hệ giữa đạo học và tôn giáo ông bạn tôi đã giải thích, nếu tôi không lầm, nhưng coi chừng anh em vô tình không để ý thôi. Tôi biết ông bạn tôi không thích nói dài dòng, mà đôi khi còn cắt bớt để người nghe có cơ hội nhận thức thêm. Nếu để ý đến tâm tình của chúng ta khi tham dự những nghi thức tôn giáo hay khi một mình cầu nguyện, cúng bái, chúng ta sẽ nhận thấy mỗi người được sinh ra với lòng khát vọng nào đó nên luôn luôn thao thức kiếm tìm. Tôn giáo là tổ chức quy tụ những người có cùng niềm tin giống nhau dẫu họ tự nhận thức hay được dạy dỗ hoặc giáo hóa như thế nào. Tôn giáo phát sinh từ đạo học; chúng ta thấy đạo học phát triển tại vùng nào thì tôn giáo mang tên đạo học đó phát sinh.

- Thưa cha, nếu nói rằng tôn giáo phát sinh từ đạo học vậy sao không thấy tôn giáo dạy về đạo học mà chì thấy nói về luân lý? Tình hỏi.

- Anh lấy gì chứng minh câu hỏi của anh? Cha Hải điềm nhiên đặt vấn đề.

- Thưa cha, Tình lên tiếng, đồng ý rằng những bài đọc thì thuộc về Kinh Thánh Cựu Ước và Tân Ước nhưng khi giảng thì con chỉ thấy các cha giải thích lời Chúa theo nghĩa luân lý làm như chúng con là phường vô luân. Con nghĩ, tới nhà thờ để thờ phượng Chúa chứ không phải đến để học những bài học luân lý áp dụng trong đời sống. Hơn nữa, nếu nhận định lời Chúa qua nhãn quan luân lý, câu Kinh Thánh này đối nghịch với câu Kinh Thánh kia khiến chúng con trở thành người đi giữa hai lằn đạn. Chẳng hạn, một đàng thì cha giảng rằng Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến, hy sinh chính con một ngài để chuộc tội cho loài người; đàng khác cha lại cũng giảng Chúa phạt. Một Thiên Chúa yêu thương vô bờ bến không thể nào lại là một Thiên Chúa công thẳng được vì như vậy không hợp lý và hợp tình chút nào. Ấy là con chỉ mới nói đến một khía cạnh; còn những khía cạnh khác chẳng hạn con theo đạo Công giáo tức là thuộc về Kytô giáo, nhưng hình như những lề lối được áp dụng xưa nay chẳng khác gì nơi Cựu Ước, tức là theo Thiên Chúa giáo của người Do Thái. Con thấy mấy điểm cứ được nhắc đi nhắc lại nào là cầu nguyện xin Chúa giúp sức, ăn ở ngay lành để sống xứng đáng làm con cái Chúa. Con tự nghĩ, đã có Chúa Giêsu chịu chết cho tội lỗi nhân loại thì sống tốt lành, thánh thiện coi chừng lại chứng tỏ từ chối ơn cứu chuộc, khinh thường cái chết của Chúa Giêsu. Suy luận thêm một chút, nói rằng Chúa chết để chuộc tội cho mọi người sẽ mang lại kết quả phản tác dụng. Con muốn nói rằng, người ta sẽ nghĩ, bởi Chúa đã chết để chuộc tội cho mình thì sự chết của Chúa Giêsu trở thành bảo hiểm cho mình tha hồ phóng túng vì đàng nào ngài cũng đã chết từ hơn kém hai ngàn năm trước…

- Ai có ý kiến gì không?

- Thưa cha, ông trùm Lực lên tiếng, thưa ông trùm, các ông các bà đang hiện diện nơi đây. Lần thứ nhất con tham gia nhưng nghe ông Tình nói không thể chấp nhận được nên con xin trả lời. Xin cha và quý vị thông cảm nếu có gì thiếu sót. Thưa cha, thưa ông Tình, chúng ta được Chúa ban cho có cuộc đời để thờ phượng Chúa nên việc thờ phượng Chúa là bổn phận chính yếu. Nếu chúng ta không cầu nguyện xin Chúa soi sáng và chúc lành thì cuộc đời chúng ta sẽ ra sao. Chúa ban cho chúng ta sức khoẻ để làm lụng nuôi sống gia đình thì chúng ta phải cảm tạ Chúa. Chúng ta phải sống tốt lành để khỏi làm mất lòng Chúa, để hưởng ơn cứu độ, được hưởng nước thiên đàng sau này. Chúa đã hy sinh con một của ngài là Chúa Giêsu chịu chết trên thánh giá đổ máu mình ra chuộc tội cho thiên hạ; như vậy nếu không sống tốt lành, thánh thiện, thờ phượng Chúa tức là chối bỏ công chuộc tội của Chúa Giêsu. Mười giới răn Chúa đã phán với ông Môi Sen là những điều luật chúng ta phải giữ cho đẹp lòng Chúa. Nếu không tuân giữ thì đáng phải phạt sa hỏa ngục; như thế là Chúa công bằng, mình làm mình chịu thì có chi mà không công bằng. Dạ, thưa con xin hết ạ.

 
Ông trùm Lực khoảng năm mươi mấy, sáu chục tuổi đang làm việc cộng đồng Công giáo, rất mộ đạo, con cái đã lớn có gia đình hầu hết, chạy loạn hồi 75. Gia đình gom tụ lại và vay mượn, tậu được một cây xăng trên Hwy 90, làm ăn tương đối khấm khá. Tình nghe mà lắc đầu nhưng không nói gì, không phải bởi xưa nay hắn vốn không thích nói nhiều mà thấy ông trùm Lực trả lời theo kiểu “Ông nói gà, bà nói thóc” nên im lặng chờ xem cha Hải trả lời ra sao.

- Ông Sỹ, chủ nhà, cha Hải kêu đích danh.

- Thưa cha, con nghe các ông bà xưa nói các cha là đức chúa trời ngôi thứ tư nên con chờ nghe cha phán quyết. Sỹ ỡm ờ.

Bầu không khí trở nên căng thẳng bởi câu hỏi của Tình hơi nặng đối với những cặp tai người Công giáo. Lời thật mất lòng nhưng đây là lần đầu tiên cha Hải nói chuyện và thực ra, ngài cũng chưa nói gì. Dẫu mọi người, trừ mấy người mới tham dự đều hiểu rằng ý kiến không đúng, không sai, nhưng Tình lại nêu lên nhận định riêng về tôn giáo. Không thấy ai nói gì, cha Hải lên tiếng,

- Sự nhận định của anh Tình đúng với mọi tôn giáo. Mặc dầu tôn giáo phát xuất từ đạo học nhưng tôn giáo là một tập thể con người có tổ chức nên cần phải có những quy luật của tổ chức. Tôi thử đặt vấn đề, chúng ta có biết mục đích của tôn giáo là gì không? Tại sao chúng ta theo tôn giáo? Tôn giáo bao gồm những gì? Và mang lại lợi ích gì cho con người? Ngưng một chút ngài tiếp,

- Như tôi đã nói, điều mà mọi người đều có thể nhận biết; đó là mỗi người chúng ta được sinh ra với lòng khát vọng nào đó, và khi để ý nhận định, có thể đơn giản nói rằng chính lòng khát vọng này là đầu mối cho những thao thức tiềm ẩn kiếm tìm; nếu không để ý hồi tâm sẽ không nhận ra. Lòng khát vọng tiềm ẩn này là gì; đó là muốn nhận biết mình thế nào, thân phận mình ra sao; tại sao mình có cuộc đời; tại sao mình không được sinh ra sớm hơn hoặc muộn hơn? Thế rồi cuộc đời sẽ dẫn dắt mình về đâu? Chẳng lẽ mình có cuộc đời rồi sẽ qua đi mất tăm tích được đánh dấu bằng cái chết? Mình có liên hệ gì với vũ trụ này không? Có quyền lực nào ảnh hưởng nơi cuộc đời của mình, và quyền lực ấy là gì? Đại đa số con người đối diện với cuộc đời thường thì chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống và lo giải quyết những nhu cầu sống; và dĩ nhiên, những thăng trầm trong cuộc sống che khuất nỗi khát khao, thao thức. Cũng có những người không bằng lòng chấp nhận thân phận một cách tự nhiên mà muốn nhận biết và làm chủ cuộc đời của mình nên đặt vấn đề và tìm hiểu, hoặc nhận thức về giá trị con người và cuộc đời trong dòng sinh hóa vô tận này. Thế nên, đã có những người dùng cả cuộc đời mình để chiêm nghiệm, suy tưởng, nghiệm chứng thực thể con người, và để lại những gì chúng ta gọi là kinh điển đạo học. Nếu để ý chúng ta thấy, tâm trí nơi mỗi người luôn luôn động, luôn luôn suy nghĩ, hoặc thao thức kiếm tìm một vấn đề hay một chuyện nào đó. Để thoả mãn thao thức này, một số người có cùng quan điểm họp lại có tổ chức. Đây là hình thức ban sơ của tôn giáo. Và dĩ nhiên, quy luật, điều lệ của tổ chức phát sinh.

- Tôi nghĩ ông bạn tôi đã giải thích những sự thể này, nhưng tôi nhắc lại. Vì tôn giáo bắt nguồn từ đạo học nên những vị rao giảng nơi tôn giáo có bổn phận nghiệm chứng đạo học, chia sẻ nghiệm chứng của mình với tín đồ để họ so sánh cũng như tìm ra phương pháp thăng tiến tâm linh cho mỗi người, và chứng nghiệm với tín đồ, giúp họ nhận thức để thức ngộ. Tôi nghe ông bạn tôi nói đã trình bày Phật, Ấn, Lão, Mật Tông cho anh em rồi phải không? Riêng tôi sẽ cù