Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]







TỤC NGỮ, CA DAO

NƠI TÂM TÌNH NGƯỜI VIỆT


Ai cũng thường mơ ước hay cố gắng thực hiện để đạt được những gì mình thích, hoặc muốn vì chưa có mặc dầu chưa biết chắc điều mơ ước có đem lại lợi ích hay không, ngược lại, coi thường những gì mình có và đang được thụ hưởng. Chẳng hạn, dùng chiếc xe cũ, chúng ta muốn có chiếc xe mới, tiện nghi hơn, đẹp hơn và coi bộ oai hơn... nên đâu để ý hoặc nhận ra chiếc xe cũ đã và đang giúp chúng ta rất nhiều về phương tiện di chuyển. Chiếc xe của tôi đã bước vào tuổi "lão thành," sơn tróc nham nhở, kiếng trước rạn nứt hai đường ngoằn ngoèo; mỗi khi đóng cửa xe, tôi lại có cơ hội tập thể thao cho đôi cánh tay. Nhưng khi chở gỗ sửa nhà trên mui, ý nghĩ so sánh giữa công dụng xe cũ và mới chợt đến bởi nếu nó là chiếc xe mới có lẽ không bao giờ tôi dám chở trên mui như thế mà lại phải tốn tiền mướn chở. Thực tế hơn, có lẽ ít khi chúng ta nghĩ đến giá trị của không khí trong cuộc sống, coi sự thở hít khí trời là chuyện bình thường, không có chi đáng nói. Đôi khi nghẹt mũi cũng chỉ lo giải quyết sao cho mũi thông chứ ít người đặt vấn đề giả sử không có không khí. Có phải sự thở hít không khí là một sự tự nhiên của mọi sinh vật nên vì thế hiếm ai để ý đến?

Cũng vậy, là người Việt Nam, được nuôi dưỡng trong gia đình Việt, lớn lên trong ý thức người Việt, được hun đúc, dạy dỗ từ nơi gia đình, xã hội, môi trường sống với tâm tình Việt nên có thể chúng ta không để ý đến giá trị của mình. Thử đặt câu hỏi, giá trị của gia đình Việt Nam gồm có những điểm nào và ảnh hưởng thế nào đối với cuộc đời của một người Việt? Dù cố gắng cách mấy, tôi cảm thấy, chúng ta chỉ có thể nghĩ tới được vài phần trăm là cùng.

Có điều hay mà không biết thì làm sao biết được điều dở của mình? Không biết điều hay của mình làm sao nhận định được điều hay của người khác để học theo. Viết về Hương Hoa Dân Việt, tôi muốn dùng Tục Ngữ, Ca Dao để nêu lên những điểm cao đẹp sẵn có nơi văn hóa dân Việt cùng với hệ thống gia đình mà chúng ta đang thừa hưởng và bảo vệ hầu mong truyền thống tốt lành này được nhận ra rõ hơn đồng thời nâng cao niềm hãnh diện về giá trị dân tộc; giá trị đang chất chứa trong từng lớp xương, từng thớ thịt nơi mỗi người mang dòng máu đỏ da vàng dân Việt.

Cắp sách đến trường lúc còn nhỏ, không ai có thể quên những tấm bảng bìa cứng xinh xắn dán nơi lớp học. Đại khái những bảng hiệu này được ghi lên những câu Tục Ngữ, Ca Dao về luân lý; chẳng hạn: TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC VĂN; KHÔNG THÀY ĐỐ MÀY LÀM NÊN; UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒN, v.v... Những bảng cách ngôn luân lý ghi lại những châm ngôn cao đẹp về giá trị đặc tính người Việt với mục đích giúp cho học sinh ghi nhớ nằm lòng tâm tình luân lý sống mà một người Việt Nam "đúng nghĩa" nên noi theo và thực hiện trong cuộc đời của mình. Đây chính là một phần văn hóa tinh thần mọi người thường nói đến nhưng ít khi để ý vì đã quá quen thuộc nằm lòng và bởi hay lộn nghĩa chữ văn hóa và văn minh. Văn hóa bao gồm văn minh. Văn hóa là lối sống biểu hiệu tâm tư luân lý. Văn hóa bao gồm phong tục tập quán, ngôn ngữ và những sản phẩm cao đẹp của cuộc sống luân lý nơi con người. Cuộc sống con người được uốn nắn bởi văn hóa dầu văn hóa do chính cuộc sống nội tâm và thực tại tạo thành.

Những dân tộc Á Đông nói chung và người Việt nói riêng, tư tưởng và cuộc sống đi đôi với nhau. Mình trọng cuộc sống minh chứng quan niệm, chiều hướng, tư tưởng chứ không tách rời tư tưởng khỏi cuộc sống như Tây Âu. Điều này được nhận thấy rõ ràng nơi chính cuộc sống thường ngày. Chúng ta không cần giấy tờ, chỉ một lời nói đơn sơ, người khác có thể tin mình hay không tùy thuộc vào xưa nay mình đã sống thế nào. Do đó, người Việt không có sách dạy sống mà chỉ có Tục Ngữ, Ca Dao. Chẳng hạn: "Có đi có lại mới toại lòng nhau," "Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo," hay "Gắp lửa bỏ bàn tay," hoặc "Một câu nhịn bằng chín câu lành." v.v... Những sách mệnh danh "học làm người" sau này, xét ra mang đặc tính quá hạn hẹp nếu không muốn nói là đã coi con người như những bộ máy rập khuôn các công thức theo lối nhìn, quan niệm một chiều. Tâm tình con người đâu phải như những bộ máy được chế sẵn theo một khuôn mẫu thì làm sao có thể rập vào những công thức như một cộng với một là hai của Đắc Nhân Tâm, củaLàm Thế Nào Để Trở Thành Người Đàn Bà Tuyệt Vời, v.v... Cuộc sống không phải chỉ có những mẫu mực đúng và sai đối nghịch như trắng với đen, mà thường thì trong cái đúng bao hàm cái không hợp lý. Nguyên nhân của một sự việc đem đến sự sai lầm lại cũng chứa đựng những yếu tố đúng. Sự sai lầm có thể là kết quả của sự thiếu hòa hợp của các phần tử, yếu tố mà thôi. Kinh nghiệm sống cho chúng ta biết, những sự việc chúng ta phải đương đầu giải quyết, cũng như cách đối xử giữa người với người chẳng hoàn toàn trắng mà cũng không hoàn toàn đen; chúng nửa nọ, nửa kia, hoặc già bên này, non bên kia. Như thế, một cộng với một đối với cuộc sống có thể không phải là hai mà là ba hay bốn hoặc hơn kém. Lấy một thí dụ điển hình về giáo dục con cái. Cha mẹ tùy từng lúc, tùy nơi chốn hay môi trường mà nghiêm ngặt hay khoan hòa đối với con cái chứ không phải lúc nào cũng khó khăn, hùng hổ như quân hằn quân thù hoặc ngược lại lúc nào cũng nhẹ nhàng dễ chịu làm lơ cho con cái hư đi. Cha mẹ nào không thương con; thế tại sao phải sửa phạt? Không có lý thuyết nào coi bộ nghịch lý, nghịch tình như câu: "Thuốc đắng đã tật" hay "Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi." Thế tại sao những câu coi bộ bất thường này lại là mẫu mực bất hủ cho giáo dục gia đình Việt Nam. Không một người ngoại quốc nào có thể am hiểu được giá trị của câu tục ngữ nghịch thường này vì họ không là người Việt, không mang dòng máu và không được hấp thụ văn hóa Việt. Câu nói tuy nghịch thường nhưng bao hàm súc tích những chân lý giáo dục cho bất cứ dân tộc nào. Hơn nữa, lối sống, tư cách con người có thể phần nào so sánh với nghệ thuật trang điểm hay ăn mặc..., đâu phải bất cứ ai nếu khoác lên chiếc áo màu vàng rực rỡ của Đắc Nhân Tâm hay hở nách của Làm Thế Nào Để Trở Thành Người Đàn Bà Tuyệt Vờiđều trở nên duyên dáng hấp dẫn...! Chúng chỉ là những đồ trang sức cần phải được lựa chọn cho tùy người, tùy trường hợp để phù hợp với cuộc đời sống động.

Từ kinh nghiệm sống; chúng ta suy ra triết lý sống, và triết lý sống lại hội nhập rồi ảnh hưởng chính cuộc sống thường ngày và những thế hệ tiếp nối. Sản phẩm của triết lý thực dụng này nơi dân tộc Việt Nam là Tục Ngữ, Ca Dao, Phong Dao... Chúng ta biết nằm lòng khá nhiều Tục Ngữ, Ca Dao. Nói đúng hơn, những câu nói thường tình hằng ngày, chúng ta đang lặp lại Tục Ngữ, Ca Dao mà không để ý. Như thế, dùng Tục Ngữ, Ca Dao để minh chứng giá trị người Việt không có gì hợp tình và hợp lý hơn.

Minh Hương trong cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội dùng Tục Ngữ, Ca Dao với mục đích "tìm về nguồn cội" (tr. 9) "Giới thiệu... cái độc đáo, cái cao đẹp, cái thâm thúy và cả muôn vàn kinh nghiệm xác thực quí báu chứa đựng trong những bài thơ nhỏ một bộ phận của nền văn chương truyền miệng" (tr. 7). Minh Hương cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao, nền thi ca truyền miệng đã có từ thời lập quốc: "Như chúng ta đã biết, văn chương truyền khẩu đã xuất hiện rất sớm, vào cái thuở bình minh của dân tộc mới thành hình..." (tr. 8). Tác giả cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội đưa ra nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao là một phần văn chương bình dân (tr. 9) hay văn chương đại chúng (tr. 8) "do tập thể sáng tác, bổ xung, sửa chữa và phổ biến liên tục." Nền văn chương này "đã góp phần đánh ngã được chánh sách đồng hóa thâm độc của người ngoài và đã kiên quyết bảo tồn được nền văn hóa dân tộc" (tr. 9). Mặc dầu tên gọi "văn chương dân gian," tác giả nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao "là bộ bách khoa bình dân truyền miệng. Trong khi góp nhặt, phân tích, xếp loại và tìm hiểu những câu thơ truyền miệng ấy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà nhận thấy nền Văn chương dân gian đã đề cập gần đủ các ngành, các khoa: Y Dược, Sinh lý, Canh nông, Nghề nghiệp, Thiên văn, Vạn vật, Kinh tế, Di truyền, Tâm lý, Phân tâm v.v..." Theo Minh Hương, Tục Ngữ, Ca Dao phát xuất từ giới bình dân: "Người bình dân thường gần gũi với thiên nhiên, tháo vát với công việc lao động hằng ngày, không bị tiêm nhiễm sâu sắc một giáo lý, một tư tưởng nào trong sách vở nên họ rất đổi thực tế trong tư tưởng và trong cả hành động nữa. Sống thì đơn sơ, nói năng thì bình dị nên văn chương đối với họ cũng phải 'Văn hay chẳng lọ đặt dài, vừa mở đầu bài đã biết văn hay.' Thật thế, họ có thì giờ đâu mà 'con cà, con kê, con dê, con ngỗng' họ chỉ 'ăn một đọi, nói một lời.' Nói như thế, văn của họ đâu có phải cộc cằn, lúng túng, trái lại họ rất sành sỏi trong việc lựa chọn chi tiết thích thú để lôi cuốn người nghe. Nhiều khi họ lại táo bạo dùng nhiều hình thức mỹ từ để câu thơ trôi chảy một cách duyên dáng ý nhị hơn" (tr. 253).

Bảo Vân quan niệm Tục Ngữ, Ca Dao có trước thời kỳ Trung Hoa đô hộ và do những người bình dân diễn tả tư tưởng, tâm tình bằng những câu văn truyền miệng: "Riêng về mặt Văn học, Tổ tiên chúng ta đã học chữ Nho, viết chữ Nho, hấp thụ tư tưởng và học thuật của bọn người thống trị. Mãi tới đầu Thế kỷ thứ 13 (đời nhà Trần) mới có một số Nho sỹ Việt Nam, mô phỏng theo văn thơ chữ Hán mà sáng tác ra một số thi ca bằng chữ Nôm. Tuy vậy trước đó, những người bình dân đã đem tư tưởng, tâm tình của mình ra mà diễn tả bằng những câu văn vần rồi truyền miệng đi với nhau. Đó chính là hình thức đầu tiên của Tục Ngữ và Ca Dao. Trải qua năm, tháng, các câu đó được thêm bớt, sửa chữa, gọt giũa để rồi tới ngày nay, chúng ta đã có một kho tàng vô cùng quý giá trong nền Văn học Bình dân..." (Tục Ngữ Ca Dao và Dân Ca; tr. 3).

Nơi phần "Nhận Xét Chung về Ca Dao," Đào Vân Hội cũng cho rằng Ca Dao là sản phẩm của dân quê: "Ca dao tức là những câu hát thông thường của dân gian, là sản phẩm chung của dân tộc, truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ kia, là tiếng nói của tâm hồn nam nữ ở những nơi đồng lúa, rừng rú, núi đồi" (Phong Tục Miền Nam qua Mấy Vần Ca Dao; tr. 7). Nguyễn Tấn Long và Phan Canh có đồng quan điểm về văn học bình dân như tiếng nói phản ảnh của giới bình dân: "Trái ngược với văn học bác học, nền văn học bình dân phản ảnh tâm tư đại đa số quần chúng nghèo khổ, dốt nát, tiếng nói của họ là tiếng nói chung của lớp người cùng sống trong một hoàn cảnh, mà cũng là tiếng nói chân thành nhất của mỗi dân tộc trong sinh hoạt xã hội" (Thi Ca Bình Dân Việt Nam; tập 1; tr. 12).

Nguyễn Hữu Nghĩa, Diệu Tần, Minh Đạo, và Triều Khê trong những bài viết nơi Nguyệt San Làng Văn số 102 tháng 2 năm 1993; Toronto, Canada có những quan điểm hơi khác về Tục Ngữ, Ca Dao. Theo Nguyễn Hữu Nghĩa, "...bên cạnh đó, văn chương truyền khẩu lại rất phong phú, và là phương tiện phổ biến một phần các sáng tác của nhà nho..." (Làng Văn; số 102; "Sơ Thảo về Tục Ngữ, Ca Dao;" tr. 12). Diệu Tần cho rằng: "Không như văn chương bác học, văn thi sĩ thường chọn câu lựa chữ đẽo gọt lời ý rất chau chuốt; văn chương bình dân đơn giản, mộc mạc nhưng không thô tục." (Làng Văn; số 102; tr. 41). Nơi phần cuối bài viết khi đưa lên "cái khôn, cái nghịch ngợm dí dỏm của phái nam," Diệu Tần viết tiếp: "Tuy là tưởng tượng nhưng anh nông dân đã khéo dùng ngoa ngữ để biểu lộ tình thương yêu..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Những Chữ Tài Tình Trong Ca Dao;" tr. 43). Có thể nói Diệu Tần cũng đồng ý kiến Ca Dao phát xuất từ giới bình dân mặc dầu quan niệm "Ca dao là thơ là nhạc của đại chúng được gạn lọc qua nhiều văn thi nhạc sĩ khuyết danh" (tr. 41). So sánh một số câu Tục Ngữ, Phong Dao được phổ biến nơi miền Nam và miền Bắc Việt Nam, Minh Đạo xác quyết văn chương bình dân do người bình dân sáng tác: "Người bình dân miền Nam dùng nhiều câu, nhiều tiếng gốc Hán hơn người bình dân miền Bắc..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Vai Trò của các Tiếng, các Câu Gốc Hán trong Văn Chương Bình Dân VN;" tr. 45). Minh Đạo đưa ra nhận xét văn chương bình dân là thành lũy ngăn chận văn hóa Hán cho nên ngày nay chúng ta có ngôn ngữ Việt mà không phải học tiếng Tàu: "Trong gần 1000 năm đô hộ người Việt, văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng rất sâu đậm nơi triều đình và các tầng lớp sĩ phu, nhưng lại không thấm nổi xuống tầng lớp quần chúng. Cuối cùng người Trung Hoa bại cả về quân sự lẫn văn hóa. Nhờ thế ngày nay chúng ta mới có ngôn ngữ văn tự mà nói, mà viết, không cần phải học tiếng Tàu." (tr. 47-48). Trong khi Triều Khê lại quan niệm hơi khác qua bài viết "Cụ-Thể-Hóa và Kịch-Tính Trong Ca-Dao": "Trái với văn chương bác học, văn chương quần chúng là ca dao, không đủ từ ngữ trừu tượng để diễn tả ý tình, cho nên các tác giả khuyết danh của ca dao đã lấy những gì tả thực, có đủ kích thước ba chiều, để đưa vào những câu thơ bình dị." (Làng Văn; số 102; tr. 48). Tuy thế, qua bài viết, Triều Khê cho rằng hai đặc tính cụ thể hóa và kịch tính của Ca Dao có thể đã là nguồn phát xuất cho các bộ môn khác: "Thế mới biết, người Việt chẳng những đã giàu hồn thơ, mà ca-dao còn có kịch tính. Có lẽ chính vì hai đặc-tính này mà sau ca-dao, các bộ môn ca nhạc kịch bình dân như tuồng, chèo, hát bộ, cải-lương,... đã phát-triển mạnh và phổ-biến rất nhanh" (tr. 51).

Xét về nguồn gốc Tục Ngữ, Ca Dao, không ai có thể xác quyết rõ ràng từ đâu ra. Nói rằng từ giới dân quê "chân lấm tay bùn" nơi miền đồng ruộng hay nương rẫy có cuộc sống nghèo nàn, suốt ngày vất vả vật lộn với miếng cơm manh áo và không bao giờ có cơ hội đặt chân tới lớp học, chỉ qua lời nói đối đáp tự nhiên nẩy sinh từ tâm hồn chất phác mộc mạc khi đối diện với cảnh vật thiên nhiên mà phát sinh ra được những câu nói có vần điệu, mang ý nghĩa sâu sắc là một điều phản tự nhiên, không hợp lý luận, suy nghĩ. Hơn nữa, chữ "dân gian" hay "bình dân" được dùng ghép chung với hai tiếng "văn học" không thể được hiểu theo nghĩa chỉ riêng cho lớp người quê mùa mộc mạc mà bao gồm tất cả dân chúng từ giới dân quê chất phác tới những thành phần học thức khoa bảng bởi chữ "văn học" tự nó đã mang ý nghĩa nhận thức văn chương. Thử xét hai câu tiếng lóng "Bỏ đi Tám" và "Cho cái búa" được dùng rất thịnh hành vào đầu thập niên bẩy mươi của thế kỷ hai mươi, mang cả một giai thoại xuất xứ nhưng đã không được xếp vào văn chương bình dân do tính chất thiếu phổ quát của chúng. "Bỏ đi Tám" bắt nguồn từ chương trình truyền thanh mang ý nghĩa "chuyện không ra gì chẳng nên để ý tới." "Cho cái búa" nẩy sinh từ nhóm lính gác đánh phé (xì tố) bắt đầu từ lối nói diễn tả hơn kém con tẩy: "thua tí li tây (già), tí li đầm (đĩ)" trong trường hợp hai người chơi bài có hai đôi giống nhau (chẳng hạn hai đôi xì) trên mặt bài được lật ngửa. Với tính chất lỳ lợm của những tay thua bạc lúc cùng, cho dù hơn tí li tây hay tí li đầm thì cũng thua "tí li vồ" (chộp tiền rồi chạy). Vồ (danh từ) là dụng cụ dùng để đập chân cột bằng gỗ có cán cho dễ cầm. Vồ và chộp (động từ) dùng trong câu nói có nghĩa tương đồng chỉ hành động trong khi cái vồ và cái búa là hai vật có cùng công dụng để đập. Lối diễn tả "Cho cái vồ" hay "Cho cái búa" nơi kiểu nói thông thường mang ý nghĩa không đồng ý tùy theo từng trường hợp... Đã được xử dụng một cách quảng bá nơi dân gian miền Nam Việt Nam thời đó nhưng vì không mang đặc tính phổ quát của câu nói nên "Cho cái búa," "Bỏ đi Tám" bị chìm vào lãng quên, không thể so sánh với những câu mộc mạc chẳng hạn: "Ăn như hổ," "Mèo cậy chó xơi," "Râu ông cắm cằm bà," hay "Ao sâu tốt cá" v.v... Đặt vấn đề như thế, những câu Tục Ngữ, Ca Dao có thể có xuất xứ đặc biệt nào đó để được truyền tụng rộng rãi nhưng những giai thoại xuất xứ này không được ghi chép lại. Tục Ngữ, Ca Dao có thể là những câu nói gọn gàng thuận vần luật thi phú, trích từ truyện hay văn thơ. Chẳng hạn câu: "Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng" được cho rằng phát xuất từ truyện ngụ ngôn "Chó Đá Vẫy Đuôi," hoặc câu "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" là câu trong Đoạn Trường Tân Thanh. Những câu này được dân gian dùng nhiều, diễn tả ngắn gọn nhưng hàm chứa khá đầy đủ ý nghĩa đồng thời đó cũng là một điều đúng phổ quát. Hơn nữa, có thể so sánh Tục Ngữ, Ca Dao với lối nói điển tích; điển tích nhắc lại ý câu truyện áp dụng trong trường hợp nói đến tương đương với ý nghĩa ám chỉ chất chứa nơi câu truyện; Tục Ngữ, Ca Dao nói lên điều chung ai cũng có thể nhận thấy.

Xét về nguồn gốc Tục Ngữ, Ca Dao lại cần đặt vấn đề tại sao câu nói được quảng bá rộng rãi trong dân gian. Một điều nào đó muốn cho nhiều người biết tới đòi hỏi không những vị thế nguồn gốc phổ biến mà môi trường phổ biến đóng vai trò quan trọng không kém. Nếu câu nói phát xuất từ trường hợp đối đáp giữa hai người, làm sao kẻ khác có thể nhận ra và ai để ý rồi đem phổ biến? Do đó, một điều chắc chắn, Tục Ngữ, Ca Dao thoạt đầu được phổ biến bắt nguồn từ những vị thế có tầm ảnh hưởng đại chúng. Đồng thời điều kiện cho một câu nói được dân gian hấp thụ rồi đem ra xử dụng cần có đặc tính phổ quát ai cũng có thể nhận ra giá trị qua kinh nghiệm sống. Bao nhiêu vần thơ ý nhị, bao nhiêu bài hát xuất sắc chỉ được nhận ra sau cả một thời gian dài trước khi được đem lên báo chí hay những chương trình văn nghệ hoặc các phương tiện truyền thông đại chúng... Một bác nông dân có ý nghĩ tuyệt vời muốn đem ra phổ biến phỏng đã được ai để ý? Rồi cơ hội nào cho bác phổ biến tư tưởng mình? Kiến thức phổ quát đâu cho bác có tư tưởng phù hợp đại chúng để xếp thành câu nói cho có vần điệu dễ nghe, dễ nhớ...?

Tục Ngữ, Ca Dao thường dùng ngôn từ đơn giản mộc mạc diễn tả những hình ảnh ai cũng có thể nhìn thấy nơi miền thôn quê để đưa lên tiếng nói tâm tình của dân Việt nên đã bị cho rằng đó là sản phẩm của giới bình dân. Trái lại, đọc những câu Tục Ngữ, những vần Ca Dao, dẫu được dùng bối cảnh và sự việc xảy ra chốn dân quê, những câu này vẫn hàm chứa sắc thái luân lý sâu đậm có thể nói đó là túi khôn vô tận của một dân tộc; bởi vậy chẳng lạ gì Tục Ngữ, Ca Dao đã được nâng lên hàng "Kinh Việt Nam." Xét như thế, Tục Ngữ, Ca Dao dưới hình thức thơ văn hoặc vè v.v... phải là sản phẩm của giới thức giả, tức cảnh sinh tình trong nhận thức luân lý. Thử hỏi làm sao giới bình dân không học hành có cơ hội nói lên được cảm nhận "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần"? Dẫu tin vào Trời, dẫu kinh nghiệm "Số khó làm chẳng nên giầu," nhưng dựa vào đâu làm gốc gác cho câu nói hoàn chỉnh gọn gàng đến độ dù thêm vô bất cứ chữ nào cũng thừa hoặc bỏ bớt chỉ dấu phẩy đã là một sự thiếu sót không thể chấp nhận. Hơn nữa, xét tính chất câu tục ngữ "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần," giới bình dân sao có thể đặt vấn đề ăn cỗ có phần nơi hệ thống làng xã ngày xưa. Mới chỉ thoáng qua nhận xét đơn giản này đã có thể nói Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của ý thức luân lý cao độ được phát xuất từ tâm hồn văn chương thi phú lồng trong bối cảnh sống dân quê giúp cho người bình dân dễ nhớ để truyền đạt... hay nói cách khác, một thứ văn chương truyền khẩu, một loại kinh đi sâu tận lòng dân tộc... nói lên tâm tình, luân lý, triết lý sống, cách xử thế mà dân Việt nên theo cũng như trình bày thực trạng tâm lý con người và cuộc sống.

Được gọi là văn chương bình dân bởi dùng bối cảnh miền dân quê, Tục Ngữ, Ca Dao không mang tính chất bình dân chút nào; có chăng cách dùng chữ chính xác lại phù hợp với luật bằng trắc của thơ khiến cho vần điệu đối ứng hòa hợp đồng thời hàm chứa nhận thức sâu xa nên có thể dùng trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn câu ca dao: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn." Hai chữ "bầu" và "bí" mang tính cách đại diện phổ quát cho nhiều phe phái đối nghịch. Tiếng "ơi" nhân cách hóa giới "bầu, bí," và nếu không có tầm nhìn bao quát dựa trên lòng nhân hậu, thương yêu pha đặc nét gần gũi nhưng xót xa vì thực trạng xã hội sao có thể đặt vào miệng tiếng "ơi" sinh động hóa, than thở, nhưng nhẹ nhàng trìu mến này? Hơn nữa, đối với giới bình dân trong một cơ cấu xã hội được đặt dưới quan niệm sống hòa hợp theo thứ tự lớp lang của "Tam Cương, Ngũ Thường và Tam Tòng, Tứ Đức," lối đối xử, sinh hoạt được khuôn mẫu hóa theo những tập tục xã hội cũng như giáo điều luân lý, con dân chỉ có thể nghĩ tới những gì phải theo, những lệ phải giữ do đó bị ảnh hưởng nơi cách phát biểu. Câu ca dao, "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" không đượm dù chỉ phảng phất tính chất giáo điều phải theo mà ngược lại nói lên sự đề nghị gợi ý. Lẽ tất nhiên, xét theo tâm lý chung, không ai muốn "bị" hoặc "phải" làm theo một điều gì, hay trong trường hợp chẳng đặng đừng phải theo một khuôn mẫu nào đó thì cũng chỉ là miễn cưỡng. Câu ca dao thoạt nghe mang tính chất mơ màng của lẽ "nên" lại bao dung không bắt buộc để người nghe tự hướng lòng chấp nhận. Bình thường trong khuôn mẫu luân lý, hai chữ "thương lấy" hay được dùng theo lối bình dân "phải thương" hoặc là "nên thương." Thoạt nghe "Bầu ơi thương lấy bí cùng" ai không cảm thấy câu nói đơn sơ có giọng điệu a á phát xuất tự lối nói dân quê như "Ông phải, ông nên mua lấy, giành lấy, đòi lấy..." Đàng này động từ "thương lấy" được đi liền theo lời mời gọi "bầu ơi" mang tính chất thôi thúc đánh động tâm hồn chứ không bó buộc, bắt làm theo khiến người nghe có khuynh hướng chiều theo mà không có ý nghĩ phản kháng vô tình thường có nơi lối nói bình dân luôn luôn kèm theo tiếng "phải" hoặc để ý cho lịch sự hơn thì tiếng "nên" hay "cần".

Như thế, dẫu câu lục bát "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn" tuy dùng những chữ bình dị, được phát sinh từ cảm ứng tức cảnh nơi một giàn bầu bí cùng leo nhưng mang đầy hùng khí của một sĩ phu tâm can nặng nợ với tình tự quê hương. Bình thường, khi nói đến hai tiếng quê hương, người ta chỉ có thể nghĩ tới nơi "chôn nhau cắt rốn" được gọi là làng, xã, hay cùng lắm là miền, vùng mình ở. Đàng này, tác giả câu ca dao đã có cái nhìn vượt hẳn quan niệm bình thường mà đồng hóa chiếc giàn với một quốc gia trong đó bầu và bí tượng trưng cho những nhóm đối nghịch tranh giành để rồi từ đó vô tình hay hữu ý mang ẩn ý thêm nghĩa xây dựng nơi động tự "thương" cho đất nước được ám chỉ bởi chiếc giàn. Giới nào có thể nhìn chiếc giàn bầu, giàn bí liên tưởng tới giải sơn hà? Giới nào mới có thể cảm nhận được niềm đau tranh giành của các phe phái trong một quốc gia...?

Thử xét thêm câu: "Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa." Mới thoạt nghe, câu lục bát có vẻ rất tầm thường và hiển nhiên theo kinh nghiệm sống hằng ngày. Nhưng nếu đặt vấn đề tại sao lại đưa lên sự nhận định khác biệt về một con ba ba qua những tên gọi không giống nhau, câu ca dao mang ý nghĩa rộng lớn hơn. Sống trong vùng gần đầu ngòi, người dân tất nhiên rất quen thuộc với những lời nói thường dùng hoặc tên các con vật, cây cỏ, địa danh hay tiếng lóng; như vậy con ba ba và con rùa chẳng có gì lạ lùng đối với dân chúng có cuộc sống nghèo nàn phải mò cua bắt ốc kiếm thêm thực phẩm phụ thuộc làm đồ ăn với cơm gạo. Hỏi thử bất cứ người bình dân nào sống nơi miệt đồng ruộng, họ sẽ nói cho biết nếu con ba ba đã cắn thì dù có sấm sét nổi lên cũng không nhả hoặc muốn "thịt" ba ba phải làm sao, nấu ba ba cần những gì, ăn được những phần nào, hay mu con rùa khác mu con ba ba thế nào. Như thế, nơi miền quê, nếu có con ba ba ở đầu ngòi chưa chắc đã có tiếng đồn cho người khác biết mà ngược lại chỉ có tiếng đồn ai đã bắt được con ba ba ấy về làm thịt.

Vậy tại sao lại đặt vấn đề "kẻ gọi con trạnh, người la con rùa?" Và dù cho nó là con ba ba hay là con gì đi nữa thì có chi đáng nói. Thế nên câu ca dao nhấn mạnh nơi phần tám chữ kẻ nói là con này và người tuyên bố con kia, tỏ ra mình biết nhưng biết trật bởi nó chẳng phải là con trạnh cũng không phải là con rùa. Tất nhiên, điều ám chỉ của câu ca dao "Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa" không được dùng cho giới dân quê mộc mạc mà mang tính chất diễu cợt nhạo cười những người cổ võ cho điều mình không biết... Xét về lối dùng chữ, hai cặp "kẻ gọi, người la," không mang tính chất bình dân của người miệt vườn tược, đồng ruộng chút nào. "Kẻ gọi" và "người la" mang cùng một ý nghĩa nhưng đối nhau chỉnh vận như hai thành phần chẳng đội trời chung, không phải là lối nói thông thường lại ngược cách phát biểu của người dân quê. Câu ca dao lục bát được bậc thức giả dùng bối cảnh nơi miền quê để diễu cợt về điều chướng tai gai mắt nơi những người miệng hô hào, tuyên bố một cách đao to búa lớn, hay lạm dụng chuyện gì với mưu đồ thầm kín nào đó. Thế mới biết, người xưa nói vậy, nhưng mang ý tứ bao hàm chưa chắc đã vậy... Cách dùng chữ đơn sơ ghép ý nhẹ nhàng lại thâm thúy đi sâu vào tâm lý con người mọi thời mọi nơi phải là sản phẩm từ những bộ óc tuyệt vời của giới sĩ phu thức thời lăn lóc kinh nghiệm đời.

Xét về đặc tính của thơ văn hay giảng thuyết, chỉ những người thực sự am tường một vấn đề nào đó mới có thể diễn tả bằng những lời nói đơn giản, bình dị ai cũng có thể hiểu được. Người nào càng dùng những lời đao to búa lớn hoặc sáo ngữ bao nhiêu càng không hiểu rõ điều mình nói bấy nhiêu. Hơn nữa, sự cảm nhận trạng thái luân lý hay tư tưởng qua dữ kiện thực tại được phát xuất từ tâm hồn chứ không do mức độ thăng hoa hoặc uốn nắn dữ kiện. Đưa lên hình ảnh tự nhiên một cách đơn sơ "Tung tăng như cá trong lờ" ai cũng có thể nhận thấy để rồi nói lên nhận thức về hoàn cảnh nào đó nơi cuộc đời "Trong không ra được ngoài ngờ rằng vui" không thể được cho là đơn sơ, chất phác, mộc mạc, đơn giản, bình dân, bình dị, v.v... Dùng dữ kiện đơn sơ nói lên qua lời mộc mạc, bình dị để diễn giải nhận thức luân lý, tâm lý... cuộc đời như thế mới thực sự chứng tỏ tài năng văn chương tuyệt vời của hàng thức giả. Không dễ gì hiểu nổi hai chữ "bình dân" hoặc "dân gian."

 

ĐỨC ĐỘ

NỀN TẢNG GIÁ TRỊ CON NGƯỜI

Bình thường, chúng ta chỉ cảm thấy mình mang một giá trị nhưng khi hỏi rằng giá trị đó thế nào thật khó mà trả lời. Giá trị của một người không lệ thuộc vào cái nhà hay những đồ vật người ấy có; do đó, không ai có thể nói tôi có giá trị bởi tôi có cái nhà to hoặc chiếc xe đẹp. Giá trị con người cũng không tùy thuộc vào bằng cấp hay địa vị vì đã biết bao người có bằng cấp cao, địa vị quan trọng trong một thời và có thể ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống chúng ta thời đó mà vẫn bị khinh rẻ. Giá trị của mình cũng không tùy thuộc vào tiền tài nên dù người nào đó có tiền cách mấy mà sống không ra gì thì cũng bị mọi người khinh chê. Như vậy, giá trị của mình do lối sống và cách cư xử mà ra. Chính lối sống chứng tỏ mình là người thế nào và nói lên giá trị của mình. Dù một người nghèo cách mấy mà sống có tư cách, đức độ, đều được mọi người kính nể. Tôi nói kính nể chứ không phải trọng vọng vì sự trọng vọng chỉ có tính cách bên ngoài; còn sự kính nể phát xuất từ nơi tâm hồn con người; giá trị này được gọi là lối sống đức độ.

Đức độ là gì qua Tục Ngữ, Ca Dao? Nó được thể hiện thế nào trong đời sống và sự ảnh hưởng của đức độ tới con người theo quan niệm của ông cha chúng ta ra sao?

Người xưa không định nghĩa những đức tính của một người thế nào mà chỉ nói cách sống của người đó nên ra sao. Đức độ bao gồm tất cả những đức hạnh mà một người nên theo. Người đức độ là người tuân giữ đạo trời: "Dù ai nói ngược nói xuôi, ta đây vẫn giữ đạo trời khăng khăng." Đạo trời là tiếng chung mà tất cả những lối sống tốt lành đều phát xuất từ đó. Đạo trời bao gồm Khổng, Lão, Phật, thờ kính ông bà... Đức độ còn được dùng như chữ nết. Chúng ta thường áp dụng chữ nết cho đàn bà, nhưng thật ra ai cũng cần có nết: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người," hay "Cái nết đánh chết cái đẹp." Đức độ trong Ca Dao tương tự như "Tâm" trong Kiều "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài," hoặc trong tướng học: "Tướng tự tâm sinh." Trong tướng học, đức độ của một người còn cải đổi số phận không may của họ: "Đức năng thắng số." Vì thế, không lạ gì câu tướng học này được ghép vào hàng tục ngữ. Con người đức độ lấy lòng nhân đặt lên hàng đầu. Giúp đỡ những kẻ khốn cùng, biết thương xót người đau khổ. Có thể nói, đức độ tương tự với "Bác Ái" và "Thương Xót" trong Công Giáo, "Nhân" trong Khổng, và "Bi" trong Phật học: "Thí một chén nước, phước chất bằng non."

Người đức độ coi trọng tha nhân, lấy việc giúp đỡ, "làm phúc" cho người khác vượt hẳn lên các việc công ích. Không có gì có thể so sánh được với lòng nhân và dù cho bất cứ những việc công ích lớn lao nào chăng nữa cũng thua sự giúp đỡ những người khốn cùng, cần nhờ vả đến mình hoặc không nhờ vả đến mình. Một người biết thương xót kẻ thế cô mà yên ủi giúp đỡ, biết chia sẻ với kẻ bần hàn hơn mình, hoặc khi gặp ai hoạn nạn, tai bay vạ gió, cố gắng hết sức để tìm mọi cách trợ giúp thì công đức này dầu không ai biết cũng có giá trị không sao so sánh: "Dẫu xây chín bực phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho một người."

Trong cuộc sống, người thì khó nghèo về vật chất, lại cũng có người nghèo nàn về tinh thần. Ngày xưa trong những câu chúc, ông bà ta hay dùng chữ phú quí. Phú quí mang ý nghĩa giầu có và đức độ. Câu chúc này bao hàm một giá trị luân lý ít ai để ý tới. Thực ra, hai chữ phú quí đi đôi với nhau ẩn chứa giá trị đạo đức và sự tin tưởng kết quả của cuộc sống đạo đức thể hiện đức độ. Nếu người nào có cuộc sống đức độ, trời sẽ ban cho giầu có. Nói cách khác, sự giầu có là phần thưởng cho người đức độ. Dần dần cuộc sống thay đổi, con người đua đòi chạy theo giá trị vật chất; quan niệm của con người cũng đổi theo ảnh hưởng cuộc sống và chúng ta thấy ngày nay, đã phú chưa hẳn là quí hoặc ngược lại. Như vậy người không quí mà giầu có vật chất thì lại nghèo nàn về tinh thần, chỉ biết đến mình và lạm dụng người khác; "Của người bồ tát, của mình lạt buộc." Người đức độ biết thương xót người cơ hàn bao nhiêu thì cũng thương xót người nghèo nàn về tinh thần bấy nhiêu. Do đó, người đức độ cần có thêm đức nhẫn nhịn vì "Một sự nhịn, chín sự lành." Chính bởi sống đức độ không phải dễ dàng nên được gọi là quí do đó có câu: "Người ta ba thứ người ta, kẻ thì tiền rưỡi người ba mươi đồng." Đức nhẫn nhịn nơi con người đức độ không mang nghĩa chờ thời để trả thù mà bao gồm khoan dong, tha thứ. Bởi vậy, người đức độ còn được gọi là trượng phu: "Đấng trượng phu đừng thù mới đáng," hoặc anh hùng, "Đấng anh hùng đừng oán mới hay." Theo nghĩa này, người đức độ còn được gọi là người hiền; "Người hiền khác thể chi lan, gần hơi cho lắm lại càng thơm lây."

Quí cụ học Nho ngày xưa thường hay dùng tiếng "Người Quân Tử" để chỉ người đức độ. Thắng không kiêu, bại không nản; không ba hoa, không hàm hồ; "Người quân tử đắc chí rung đùi, kẻ tiểu nhân đắc chí gẩy đàn môi." Gặp những lúc "Cái khó bó cái khôn," người đức độ biết chấp nhận cuộc đời, không than trời cũng chẳng trách người vì dẫu sao, "Nhân vô thập toàn." Chính vì thế, người đức độ luôn luôn lấy câu: "Trách người một, trách ta mười" làm phương châm. Chẳng lạ gì bởi chính lối đối xử của người khác đối với mình có thể là sự phản ảnh của sự đối xử lầm lỗi của mình đối với họ trước. Hơn nữa, "Việc người thì sáng, việc mình thì tối." Nhận thấy điều lầm lỗi của kẻ khác thì dễ, còn xét điều sai quấy của mình thì khó. Lại cũng có lẽ khác, vì mình đã có kinh nghiệm lầm lỗi trước nên mới nhìn thấy sự không hay của người khác chăng. Người đức độ không trách người mà xét mình, khoan dung và thứ tha; người đức độ khó với mình nhưng dễ với người khác.

Qua những kinh nghiệm cuộc đời, ông cha ta nhận ra ảnh hưởng của cuộc sống đức độ bao trùm cuộc sống con người. Người sống đức độ, hiền lành thì được chúc phúc: "Ở hiền thì lại gặp lành, những người nhân đức trời dành phúc cho." Trời dành phúc cho tức là nói về số phận của con người; số phận này tùy thuộc cuộc sống đức độ của họ. Ngay cả về vật chất, người đức độ cũng được khấm khá: "Thiên cao đã có thánh tri, người nhân nghĩa chẳng hàn vi bao giờ." Dù cho có gặp tai bay vạ gió, đức độ của một người cũng trở thành lá bài che chở tai ách: "Ăn ngay ở thật, mọi tật mọi lành;" hoặc, "Ở hiền thì lại gặp lành, ở ác gặp dữ tan tành ra tro." Đức độ bao gồm nhẫn nhục, người đức độ được trời ban cho sống lâu: "Chữ nhẫn là chữ tương vàng, ai mà nhẫn được thì càng sống lâu." Lòng nhân của người Đức độ còn bao gồm chữ nhẫn.

Đức độ của một người không những có ảnh hưởng ngay lành đến chính cuộc đời họ mà còn ảnh hưởng tới con cái: "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Ngày xưa cũng như thời nay mọi người tin rằng cuộc đời mình được thừa hưởng đức độ của cha mẹ mình. Địa vị mình có trong xã hội không phải chỉ do chính khả năng, đức độ của mình mà thôi, mà còn do công lao tích đức của ông bà cha mẹ mình ảnh hưởng tới: "Ông cha kiếp trước khéo tu, nên sanh con cháu võng dù nghênh ngang." Bởi thế, một người muốn cho con cháu mình sau này làm ăn nên, phải lo sống đức độ: "Người trồng cây hạnh người chơi, ta trồng cây đức để đời về sau." Trong cuộc sống, ai cũng trọng người nhân nghĩa. Nhưng nếu muốn trở thành người nhân nghĩa, phải trau dồi đức độ trước hết vì không có đức độ sao có được nhân nghĩa; "Có tiên thì hậu mới hay, có trồng cây đức mới dầy nền nhân."

Sống đức độ là sống theo đạo trời. Sống theo đạo trời là biết sự trời. Biết sự Trời hoặc sống đức độ không thể nào nghèo khổ để rồi lúc "bần cùng sinh đạo tặc". Cho nên người sống đức độ không sợ nghèo khổ: "Biết sự trời, mười đời chẳng khó." Chính vì cuộc sống đức độ bao hàm nhân nghĩa nên "Cây ngay chẳng sợ chết đứng." Người đức độ sống không những cho mình bây giờ, cho con cái cháu chắt mình mai sau.

 NHÂN NGHĨA

 

Nhân nghĩa là tâm tính của con người đức độ. Người nhân nghĩa sống có lòng nhân đồng thời có nghĩa với người khác "Từ rày khuyên kẻ có con, lựa người nhân nghĩa gả còn nhờ sau." Người có lòng nhân chưa chắc sống đã có nghĩa, và người sống có nghĩa chưa chắc đã có lòng nhân. Lòng nhân thường được hiểu là "Lòng thương người, thương vật, có tánh tốt đối với người và vật" (Lê văn Đức; Việt Nam Tự Điển, Quyển Hạ; Khai Trí; tr. 1082). Nghĩa là "Lối xử sự phải đường, hào hiệp" (Lê văn Đức, tr. 1060). Nếu nhân nghĩa tách riêng, chúng là hai "thường" trong ngũ thường theo luân lý Á Đông: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Chữ nhân mang ý nghĩa lòng thương tổng quát tới mọi người; chữ nghĩa tùy theo môi trường, hoàn cảnh được hiểu sao cho phù hợp chẳng hạn: chánh nghĩa, đạo nghĩa, hiếu nghĩa, tín nghĩa, tình nghĩa, tiết nghĩa, trung nghĩa, nghĩa cha con, nghĩa vợ chồng, thầy trò...

Nhân nghĩa là căn bản tạo thành thái độ, cách đối xử giữa người với người. Hơn nữa, chính thái độ và cách sống nói lên phẩm giá con người; do đó một người được mến chuộng hay không tùy thuộc vào nhân nghĩa. Người nhân nghĩa luôn cho rằng "Ơn ai một chút khó quên, phiền ai một chút để bên dạ này." Không vồn vã hình thức mà điềm đạm mặn mà: "Càng thắm thì càng mau phai, thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu." Nhân nghĩa đã tạo không bao giờ mất "Đường mòn, nhân nghĩa không mòn;" có mất chăng bởi chính tự mình làm mất do sự thay dạ đổi lòng ảnh hưởng đến nhân cách và thái độ. Sự khôn ngoan Á Đông trong Tam Tự Kinh theo Khổng học cho rằng con người được sinh ra với tâm tình hướng thiện "Nhân chi sơ, tính bản thiện," nên dù cho có ai chẳng ra gì đến cách mấy thì tự đáy tâm hồn đã được trời phú cho lòng nhân: "Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân." Nét đẹp tâm hồn này nếu được bồi dưỡng sẽ phát triển và tạo cho con người có "đức nhân."

Người có lòng nhân nhận biết "Làm phúc như làm giàu." Do đó họ biết "Lá lành đùm lá rách;" đồng thời vì hiểu "Nhân tâm tùy ý thích," và "Nhân vô thập toàn," nên thông cảm được với người khác tùy theo hoàn cảnh, vị thế của họ bởi "Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già." Thế nên đôi khi dưới con mắt người thường, người có lòng nhân được nhận ra như "Hiền quá hoá ngu." Tuy nhiên, "Hoa thơm ai chẳng muốn đeo, người khôn ai chẳng nâng niu bên mình," người nhân nghĩa được mọi người kính trọng, nể vì và thương mến bởi "Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho."

Người nhân nghĩa biết "Trọng nghĩa khinh tài;" lấy việc nghĩa làm nặng và coi tài lợi là nhẹ vì nhận ra "Người là vàng, của là ngãi;" nên tôn trọng các bậc thày dạy "Một chữ nên thày, một ngày nên nghĩa;" do đó nhận thức giá trị lòng tốt của người khác: "Một đêm nằm, một năm ở." Vì "Vị tình vị nghĩa, không ai vị đĩa xôi đầy," người nhân nghĩa "Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo nhớ kẻ đâm, xay, giần, sàng." Cho nên tâm hồn họ, "Trăm năm lòng nhớ dạ ghi, dù ai đen bạc đổi chì mặc ai." Dĩ nhiên cuộc đời "Sông có khúc, người ta có lúc," người nhân nghĩa sống "Ở cho có nghĩa có nhân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa;" cho nên họ nhún nhường, biết nể nang người khác: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba." Trong đời một người, không ai có công lao với mình bằng cha mẹ do đó hiếu đễ đối với một số người đã trở thành đạo tu. Người nhân nghĩa trước hết hiếu thảo với cha mẹ vì "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu." Do đó, chẳng có lạ gì, bất cứ lối giáo dục nào cũng lấy nhân nghĩa đặt lên hàng đầu vì người không có nhân nghĩa thì dù tài giỏi cách mấy cũng chỉ trở thành băng hoại không những cho gia đình mà cả xã hội. Chính vì thế người nhân nghĩa lại càng được đề cao và tôn trọng.

Dĩ nhiên, cuộc đời thay đổi và do đó con người bị ảnh hưởng cũng đổi thay, "Ai ơi phải nghĩ trước sau, đất liền cũng lở huống cầu bắc ngang," và dù muốn dù không, chẳng ai có được cuộc sống hoàn toàn theo ý mình, "Người có lúc vinh cũng có lúc nhục, nước có lúc đục cũng có lúc trong;" mà bị ảnh hưởng bởi hoàn cảnh và nơi mình sống: "Măng cua nấu cá ngạnh nguồn, sự đời đắp đổi khi buồn khi vui." Hơn nữa, thế gian thường hay phũ phàng đôi khi đến độ nghịch ngạo: "Nước giữa dòng chê trong chê đục, vũng trâu đầm hì hục khen ngon," và thế thái nhân tình còn bị ảnh hưởng bởi những tham vọng con người hoặc bị chi phối bởi lợi danh: "Đồng tiền không phấn không hồ, mà sao khéo điểm khéo tô mặt người." Cảnh phũ phàng gây nên bởi thói đời đen bạc luôn luôn là bài học cho mọi người sống sao cho có nhân nghĩa: "Nên ra trên kính dưới nhường, chẳng nên đạp hất bên đường mà đi." Tuy nhiên, người nhân nghĩa không phải chỉ tử tế với người tử tế mà khoan dong, độ lượng với mọi người vì "Lên non mới biết non cao, lội sông mới biết sông nào cạn sâu." Mặc dầu không ai có thể sống vừa lòng hết mọi người "Đố ai lặn xuống vực sâu, mà đo miệng cá uốn câu cho vừa" hoặc "Lòng sông lòng biển dễ dò, nào ai bẻ thước mà đo lòng người," hay "Sông sâu còn có thể dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng." Người nhân nghĩa tuy sống tự tại trên dư luận nhưng đồng thời lại để ý dư luận vì "Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bịt miệng người thế gian," hay "Lấp sông lấp biển ai lấp được miệng người." Dư luận có thể "Đổi trắng thay đen" hoặc "Giết người không dao," và thường thì "Dậu đổ bìm leo," nên người nhân nghĩa lại càng nên tránh bị rơi vào cảnh "Ăn sóng nói gió" để bảo tồn tâm đức và kiên trì với thiện tâm.

Người nhân nghĩa không chấp nhận "Giàu làm chị, khó lụy làm em," mà khinh chê cảnh "Giây máu ăn phần," hoặc "Đục nước béo cò," và tránh cận thân với loại "Được chim bẻ ná, được cá quên nơm," nhưng có lỡ dại thì "Một lần nói dối, sám hối bảy ngày" chứ đừng nói đến chuyện "Ăn cây táo mà rào cây sung." Thực tế chứng minh, dân Việt đau khổ cũng chỉ vì những kẻ khi gặp thời, có quyền hành, tâm dạ thay đổi đến độ đốn mạt để rồi "Nối giáo cho giặc." Tuy nhiên, mặc dầu "Ở đời ai có dại gì, khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông," người nhân nghĩa trong trường hợp "Rút dây động rừng" vẫn tâm niệm "Tốt danh hơn lành áo" và đồng thời nhận biết "Màn hoa lại phải chiếu hoa, bát ngọc lại phải đũa ngà mâm son;" hoặc "Sao cho sau trước một bề mới nên." Vì thế họ chỉ lo "Ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai" bởi "Cây cao chẳng quản gió rung, đê cao chẳng quản nước sông tràn vào." Sống nhân nghĩa giữa cuộc đời đổi thay đen bạc; một tâm tính kiên trì, nhận thức giá trị lối sống của mình chưa đủ mà cần định lực soi dẫn đường hướng tâm tư, "Ta đây như cây giữa rừng; ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời."

Cho nên, có những điều người thường quen thói tánh mà người nhân nghĩa không thể chấp nhận. Người nhân nghĩa không tán tận lương tâm "Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng," không "Lấy tiền làm láo," không "Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm," không coi "Của trọng hơn người," hoặc "Người dưng có của thì đãi người dưng, anh em vô ngãi thì đừng anh em," không "Hay khen, hèn chê" mà luôn khuyến khích người khác sống sao cho tốt lành hơn. Chính vì nhận thức được lối sống, sự đối xử chứng minh tâm hồn và giá trị con người mình "Trăm nhát cuốc giật cả vào lòng," người nhân nghĩa biết kính trên nhường dưới bởi: "Vàng thì thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời." Tuy nhiên sống trong sự đời tráo trở, người nhân nghĩa nhiều khi cần thêm năng lực để biết kiềm chế lòng mình "Vàng tâm xuống nước vẫn tươi, anh hùng gặp nạn vẫn cười như không." Bởi kinh nghiệm như thế, họ không "Suy bụng ta ra bụng người" mà kiếm tìm nguyên nhân những chuyện xảy đến liên hệ tới những người khác. Cuộc đời càng ngày càng phức tạp, đôi khi "Con sâu bỏ rầu nồi canh" cũng không thể được chấp nhận bởi "Ai làm người nấy chịu." Thiên hạ thiếu gì kẻ "Mượn đầu heo nấu cháo," lạm dụng người khác để kiếm danh lợi cho chính mình. Với lòng nhân biết thông cảm với người khác tùy trường hợp hay hoàn cảnh, người nhân nghĩa đôi khi lại bị "Ách giữa đàng mang vào cổ" để giúp người hàm oan. Thế nên không thể có phương châm "Ngu si hưởng thái bình" đối với người nghĩa mà biết "Sợ người nói phải, hãi người cho ăn." Dĩ nhiên, "người làm sao chiêm bao làm vậy," người nhân nghĩa nhìn người khác với lòng nhân và đối xử với họ trong cái nghĩa chứ không "Người một quan khinh kẻ chín tiền" theo thói thường.

Ông cha ta có câu "Ở hiền gặp lành." Tự tâm hồn người nhân nghĩa đã được an bình với tâm đức nhân hậu; sống cho có nghĩa tất nhiên được nhiều người mến thương; do đó cuộc đời cũng được an lành sung túc "Kẻ có nhân mười phần chẳng khó." Hơn nữa cây ngọt có bao giờ sinh trái đắng, sống nhân nghĩa còn để lại phúc đức cho con cháu: "Đời trước đắp nấm, đời sau ấm mồ." Theo số học, "Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt," cuộc đời một người từ nhỏ tới 25 tuổi, sống nhờ đức cha mẹ, và từ 25 tuổi trở đi, sống bởi đức do chính mình tạo nên. Cứ xem cách xử của những người chung quanh thế nào đối với mình, sẽ biết mình có sống nhân nghĩa hay không vì kết quả của sống nhân nghĩa bao trùm cuộc đời một người "Đã mang lấy kiếp thân tằm, không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ." Người sống nhân nghĩa vương tơ thương mến.

DANH DỰ CON NGƯỜI

 

Đành rằng "Hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra ở trần ai cũng như ai," nhưng người ta cũng có người ốm, người mập; kẻ thì như cây tăm, người lại "Hùm ăn bẩy ngày không hết thịt." Do đó, may ra chỉ có được một điểm chung "ở trần" nghĩa là "ai cũng như ai" nơi điểm trong da là thịt hay ngoài thịt là da chứ không thể nào ai cũng như ai theo nghĩa rộng hơn. Chả thế mà có câu "Người ta dăm bẩy người ta, kẻ thì tiền rưỡi người ba mươi đồng." Ngày xưa, tiền hay quan tiền giá trị rất cao so với đồng, "Một quan là sáu trăm đồng, chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi..." Giá trị con người chênh lệch khác nhau bởi "Ở đời muôn sự của chung, hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi." Hai chữ "anh hùng" chỉ về danh dự của một người vì "Hữu xạ tự nhiên hương." Danh dự là hương hoa cuộc sống, "Chữ rằng hổ tử lưu bì, làm người phải để danh gì hậu lai," là danh tiếng cá nhân, "Trâu chết để da, người ta chết để tiếng;" là tiếng thơm người khác nhận thấy hoặc suy tụng mình, "Người ta hữu tử hữu sanh, sống lo xứng phận thác dành tiếng thơm." Danh dự được tạo nên bởi "Sống lo xứng phận" sao cho "Người chết nết còn." Chính vì tiếng thơm, cái nết xứng đáng được ca tụng nên được người khác nhắc nhở tới mãi mãi về sau "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ." Tuy nhiên, danh dự không phải là danh lợi. Chữ lợi mang theo nghĩa xấu, có tính chất giả tạo làm hại con người, "Cái vòng danh lợi cong cong, kẻ hòng ra khỏi người mong chui vào;"hoặc "Chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa." Chữ "tao" được than lên một cách cay cú, tầm thường đáng bị coi khinh. Danh dự khuyến khích con người sống cao thượng hơn, ý thức hơn và hoàn hảo hơn, "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người;" trong khi danh lợi lại là trường lừa bịp những ai chỉ muốn có tiếng tăm hão huyền: "Cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô."

Xét ra, "Ở trần ai cũng như ai," người nào cũng là người nên sự khác biệt về sự tôn trọng của những người chung quanh đối với cá nhân nói lên giá trị và danh dự khác nhau nơi từng người. Sự khác biệt này tùy thuộc sự tạo dựng danh dự cho chính mình. Lẽ đương nhiên, tạo dựng danh dự không phải dễ; đó là lý do tại sao người có danh dự được mọi người kính nể. Sự tạo dựng danh dự là chính lối sống sao cho vượt hẳn khỏi sự tầm thường của kiếp người: "Làm trai quyết chí tu thân, công danh chớ vội nợ nần chớ lo, khi nên trời cũng giúp cho; làm trai năm liệu bảy lo mới hào. Trời sinh trời chẳng phụ nào; phong vân gặp hội anh hào ra tay. Trí khôn rắp để dạ này; có công mài sắt có ngày nên kim." Hơn nữa, cứ sự thường tình, con người được sinh ra với hai bàn tay trắng; ra đời lập nghiệp, tạo dựng ý chí cũng vào thời trắng tay; thế cho nên tạo dựng danh dự lại càng khó bởi nếu đã có chốn nương tựa, "Sẵn cỗ ngồi vào" thì có chi đáng nói mà "Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan."

Tạo dựng danh dự bao gồm nhiều chi tiết nên theo và cũng lắm điều cấm kỵ không được phạm tới. Trước hết, muốn có danh dự, một người cần hiểu đạo xử thế: "Đòng đong chơi đạo đòng đong, trẻ vui đạo trẻ già rong đạo già." "Đàn ông như con dao pha," thái thịt cũng được mà chặt xương cũng được; tập luyện sao cho lúc cần cương thì cương, khi cần nhu thì nhu, biết "Kính trên nhường dưới," biết "Kim chỉ phải có đầu" chứ không phải coi mọi người như "Cá mè một lứa." Trọng người chưa đủ mà còn luôn luôn cần học hỏi để thăng tiến cuộc đời "Ông bảy mươi học ông bảy mươi mốt;" hơn nữa, không phải chỉ những người lớn tuổi hơn mình mới học nơi họ mà bất cứ những gì người khác hơn mình cũng cần học thêm bởi "Ra đàng lắm kẻ còn giòn hơn ta." Khả năng cầu tiến không biết thế nào cho đủ cũng như sự học, chẳng biết bao nhiêu cho vừa. Tuy nhiên, muốn nhìn được điều hay lẽ phải nơi người khác để học hỏi trau dồi cho chính mình lại cần một điều kiện tối ư quan trọng: đó là dám chấp nhận thực sự mình là người thế nào. Điều này nói lên cần biết mình, biết người do đó "Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe;" ngược hẳn với thói thường vì ai cũng đều cảm thấy mình là đúng, ít để ý nghe người khác, hoặc bởi sự thiếu sót kinh nghiệm, chưa kịp suy nghĩ chín chắn điều người khác nói mình đã vội cho là không hợp. Đôi khi theo tâm lý bình thường, có những người mặc dầu chỉ mới gặp lần đầu, tự nhiên mình không thích, không có dù một chút cảm tình, hoặc đối với người khác vì nghe những điều không ra gì về họ, mình không ưa hoặc không cần để ý xem họ thực sự như thế nào. Người có danh dự là người tìm hiểu và nhận chân giá trị kẻ khác không tùy thuộc lời đàm tiếu mình nghe được về họ. Hay, công nhận rằng hay; dở, tránh không bước theo vết xe đổ chứ không phải "Chẳng ưa thì dưa có dòi" hoặc "Không ưa đổ thừa cho xấu." Không coi thường những người bề ngoài kém mình "Chớ thấy áo rách mà cười" vì "Những giống gà nòi lông nó lơ thơ." Nhận biết điều hay lẽ phải và ý thức được trong cuộc sống, "Muốn ăn hét phải đào giun," đồng thời chính những khó khăn trong cuộc sống lại là môi trường đào luyện tâm hồn mình thanh cao hơn, ý chí kiên trì hơn, lý trí sáng suốt hơn, danh dự vững bền hơn "Lửa thử vàng, gian nan thử đức." Dầu người có danh dự không những sẵn sàng nhận lỗi khi mình sơ sót, lại còn sống sao cho đứng đắn ngay thẳng, có trước có sau, tránh khỏi những kinh nghiệm mắc mỏ tàn hại cuộc đời: "Ăn cơm mắm ngắm về sau, ăn cơm rau nhớ sau nhớ trước." Chính vì vậy tâm hồn được thanh thản, không ganh đua mà biết chấp nhận cuộc đời: "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba." Dĩ nhiên sống sao cho hợp thời hợp cảnh "Đi nước Lào, ăn mắm ngóe" tránh bon chen làm tiêu hao giá trị, nhưng không phải người khác làm những điều chẳng ra gì mà mình nhắm mắt làm theo. Người có danh dự dù chỉ làm bạn, cũng không bạn bè với những người xằng bậy. Tuy nhiên, biết dung hòa để tránh thái quá cũng như biết tiến thoái để tránh bất cập "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy;" không kênh kiệu mà hòa hợp - hòa hợp chứ không hòa đồng.

Tạo danh dự đã khó, bảo vệ danh dự lại càng gian nan hơn vì "Khôn ba năm dại một giờ," hoặc "Cái sẩy nẩy cái ung." Bảo vệ danh dự đòi hỏi một người tuân giữ những điều cấm kỵ một cách tuyệt đối, nếu có thể nói, bởi "Mua danh ba vạn, bán danh ba đồng." Hơn nữa, những điều không nên thường hấp dẫn con người hơn những điều hướng thượng do bản tính tự nhiên yếu hèn nơi bất cứ ai. Bảo vệ danh dự không phải là "Đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy điệm" mà cần chân thành nhận thực con người mình thế nào; điều gì hay, điều gì dở nơi chính mình để thăng tiến hay sửa đổi. Sống sao cho tốt lành hơn vì càng tốt lành, danh dự càng cao; cũng như "Ao sâu tốt cá." Khi có những chuyện không hay xảy đến, người có danh dự tự kiểm điểm chính mình và biết mở rộng tâm hồn đặt vấn đề "Trách người một trách ta mười, bởi ta tệ trước nên người bạc sau."

Điều hiển nhiên, cuộc đời đôi lúc "Khôn như tiên, không tiền cũng dại;" tuy nhiên, "Khi nắng còn có khi mưa." Người trọng danh dự thà "Làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em;" vì họ quan niệm chỉ có "Gà què ăn quẩn cối xay." Họ chấp nhận "Chết trong hơn sống đục," và khi "Cái khó bó cái khôn," họ ý thức thân phận mình để rèn luyện kiên nhẫn, ý chí chứ không "Chó cùng bứt dậu," hoặc "Đói ăn vụng túng làm liều," mà "Đói cho sạch, rách cho thơm." Người trọng danh dự không bao giờ đối xử với kẻ khác "Chú khi ni, mi khi khác," nhưng lại nhận thức được "Măng mọc có lứa, người ta có thời." Hơn nữa, "Thời buổi nào, kỷ cương ấy," và họ hàng anh em thì "Vị tình vị nghĩa không ai vị đĩa xôi đầy;" gặp những khi chẳng đặng đừng họ "vuốt mặt" biết "nể mũi." Dĩ nhiên, người đời thường "Hay khen, hèn chê." Người có danh dự cần để ý dư luận mặc dầu dư luận nhiều khi bất công "Khôn ngoan thì bảo rằng ngoa, vụng dại thì bảo người ta rằng đần." Mọi người đều biết không ai có thể "Đo miệng cá uốn câu," cũng như không ai có thế làm vừa lòng hết mọi người vì người mà không ai thấy có nhược điểm, không ai có thể chê, lại coi chừng là tên đại bịp bởi đã là người, lầm lỗi là chuyện thường tình. Tuy thế, người trọng danh dự luôn luôn cho rằng "Tay đâu mà bịt miệng người thế gian," nhưng vẫn không coi thường dư luận bởi "Thấp cao mới biết tuổi vàng, gặp cơn lửa đỏ màu càng thắm tươi." Dư luận vừa là lò đào tạo danh dự lại cũng là nơi phá nát tiếng tăm một người vì đôi khi chỉ vô ý: "Sa chân bước xuống ruộng dưa, Dẫu ngay cho chết cũng ngờ rằng gian."

Mặc dầu "Tốt danh hơn lành áo" nhưng danh dự phải được đào tạo bởi chính cuộc sống mình chứ không phải "Bán gia tài mua danh diện," để rồi "Được tiếng khen, ho hen chẳng còn," hoặc vì "Con gà tức nhau tiếng gáy," hay "Có ăn có chọi mới gọi là trâu." Người có danh dự không "Đứng núi này trông núi nọ," không "Thấy sang bắt quàng làm họ" vì "Hèn mà làm bạn với sang, chỗ ngồi chỗ đứng có ngang bao giờ," không "Ra luồn vào cúi" hoặc "Bới lông tìm vết" bất cứ ai; không xét người một cách hời hợt vì có thể "Áo dài chớ tưởng là sang, bởi không áo ngắn phải mang áo dài," không "Được thể dễ nói khoác" hoặc "Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng," không "Huýt chó bụi rậm" mà cũng không "Đòn xóc xọc hai đầu" hoặc "Đâm bị thóc, thọc bị gạo." Mình phải là chính mình chứ không phải "Ai nói làm sao, bào hao làm vậy."

Lẽ đương nhiên, "Ai đội mũ lệch thì xấu mặt người ấy," mà ảnh hưởng tăm tiếng của một người không phải chỉ vỏn vẹn nơi cá nhân và cuộc đời họ mà chính cuộc sống còn có sự liên đới nên danh dự của một người ảnh hưởng tới gia đình và họ hàng nữa, bởi trước tiên, gia đình là môi trường giáo dục căn bản về đức hạnh một người. Cứ xem con người đó ra sao có thể biết được giáo dục gia đình họ thế nào vì "Cha nào con nấy." Hơn nữa, mỗi người Việt có bổn phận xây dựng và bảo vệ danh dự gia đình họ hàng mình; chẳng thế mà có câu "Xem quả biết cây." Làm sao có thể cây đắng sinh trái ngọt vì "Nòi nào giống ấy." Do đó gặp trường hợp "Con sâu làm rầu nồi canh," thì người sống không ra gì trước tiên mất hết anh em họ hàng, lần lần đến bạn bè, rồi người thân quen, làng nước. Người sống tệ hại sẽ bị "Anh em khinh trước, làng nước khinh sau."

Tóm lại, danh dự ảnh hưởng toàn bộ cuộc sống của con người.


SỐNG LIÊN ĐỚI

 

Nói đến cuộc sống, không thể nào không nói đến sự liên hệ với những người chung quanh vì không ai có thể sống một mình riêng biệt. Không ai có thể tự tạo tất cả những như cầu cần thiết cho chính mình mà người việc nọ, kẻ việc kia. Bởi thế, sự liên đới giữa con người với con người có thể nói gắn liền với chính cuộc sống. Tuy nhiên, mỗi người có riêng lối sống, cách ăn nói, và liên hệ cũng như kinh nghiệm khác nhau; Tục Ngữ, Ca Dao nói lên sống thế nào chứ không phải "làm điều gì" đối với những người chung quanh, với anh em họ hàng thân thuộc... với lối sống cận nhân tình trong sự liên hệ của người Việt.

Nếu nói về bản chất của sự liên hệ, có những mối liên hệ tự nhiên như những người trong cùng một giòng tộc với nhau. Sự liên hệ này không phải tự mình muốn mà được hoặc mình không muốn là không có mà vì huyết thống, "Bà con vì tổ vì tiên không phải vì tiền vì gạo." Người Việt Nam rất trọng tình thân anh em giòng tộc vì tính chất thiêng liêng họ máu hoặc liên hệ họ máu. Hơn nữa, sự thân thiết họ hàng được coi là gần hay xa còn tùy lối đối xử liên hệ giữa anh em họ hàng với nhau. Tựu trung, sự liên hệ giữa anh em giòng họ là hơn hết: "Máu loãng còn hơn nước lã." Thế nên, dù có những chuyện xích mích, đụng độ đến đâu chăng nữa, người Việt Nam "Cắt dây bầu dây bí, chẳng ai cắt dây chị dây em." Tuy nhiên, vì hoàn cảnh khác nhau, cuộc sống không cho phép anh em họ hàng sống quần tụ như những nơi vùng quê, ruộng rẫy mà vì khả năng đòi hỏi hay sở thích hoặc tính chất mỗi người hợp với những kế sinh nhai khác nhau, họ phải kiếm nơi cư ngụ tách rời khỏi những người thân bằng quyến thuộc.

Mặc dù sống một mình biệt lập giữa những người khác, với tính chất thích sống cộng đồng, hợp quần, trước lạ sau quen, người Việt vẫn dễ hội nhập vào xã hội mới quanh mình. Để nói lên sự cần thiết của đặc tính sống liên đới, chúng ta có câu "Bán anh em xa mua láng giềng gần." Qua sự liên hệ trong cuộc sống, láng giềng cần thiết và có thể thân mật với một gia đình như anh em họ hàng tùy lối đối xử giữa con người với nhau.

Sự liên đới của một người không phải chỉ tùy thuộc dòng máu, nơi ở mà còn tùy thuộc chính tính chất, nghề nghiệp của mình. Vì mình thế nào thì mình sẽ có bạn bè thế ấy; "Đi buôn có bạn, đi bán có phường." Ngoài giòng tộc, láng giềng, tất cả các sự liên hệ khác do nghề nghiệp hoặc sở thích hay cùng chung bối cảnh đều được coi chung là bạn bè. Về sự liên hệ giữa bạn bè, Ca Dao nói: "Bạn bè là nghĩa tương tri, sao cho sau trước một bề mới nên."

Người Việt Nam qua cung cách đối xử trong sự liên hệ lấy "Dĩ hòa vi quí" làm châm ngôn, nhưng lại rất khinh những kẻ coi mọi người như "Cá mè một lứa," không biết tôn ti trật tự. Sống hòa thuận, chung tình thân ái với giống nòi, "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng," người Việt không những dễ góp niềm vui với cộng đồng mà còn chia sẻ nỗi buồn hoặc khó khăn với thân thuộc: "Một con ngựa đau, cả tàu chê cỏ." Chính tình thân ái này tạo nên lẽ công bằng cho cung cách giao tế: "Có đi có lại mới toại lòng nhau," hoặc "Hòn đất ném đi, hòn chì ném lại," hay "Ông có cái giò, bà thò chai rượu." Đôi khi vì hoàn cảnh, lý do nào đó gây khó khăn trong cung cách giao tế qua lại công bằng do đó cần sự cố gắng chịu đựng hay đóng góp, người Việt sẵn sàng chấp nhận theo lẽ "Nay người mai ta" và được khuyến khích bởi "Có ăn có chọi mới gọi là trâu." Sống chung với người, chung hưởng điều tốt lành nơi người khác thì cũng cần hy sinh xả kỷ đôi khi. Tuy nhiên, không phải bất cứ việc gì thấy nên hoặc đúng là đã vội làm không cần để ý đến người khác theo kiểu "Ngựa non háu đá;" mà cần phải biết "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng." Cuộc sống mình ảnh hưởng và bị ảnh hưởng, lệ thuộc vào tập thể, bởi thế nên hòa đồng với những người chung quanh, với nếp sống cũng như luân lý cộng đồng. Do đó, tùy cung cách đối xử giữa người này với người kia hoặc với tập thể mà người khác có thể nhận biết một phần nào tâm tình của một người, "Yêu nhau thời ném bã trầu, ghét nhau ném đá vỡ đầu nhau ra," hoặc "Yêu nhau cau bẩy bổ ba, ghét nhau cau bẩy bổ ra làm mười."

Tục Ngữ, Ca Dao mang nặng tính chất luân lý nên thường nói về tâm lý. Dùng tâm lý mà mọi người có thể kinh nghiệm để gieo vãi luân lý đó là đặc tính của Tục Ngữ, Ca Dao hầu mong cải thiện điều không nên và khuyến khích con người sao cho có lối sống cận nhân tình hơn chẳng hạn: "Chửa đánh được người mặt đỏ như vang, đánh được người mặt vàng như nghệ." Chữ đánh mang nghĩa đối xử của một người vì dầu thắng hay thua trong cuộc tranh chấp, ai cũng đều thấy mình bị tổn thương. Do đó đôi khi có những câu tục ngữ có vẻ cay cú đồng thời nhắc nhở con người nhận chân giá trị mình thay vì nhập cuộc tranh chấp hơn thua, "Tránh voi không hổ mặt người," hoặc "Tránh voi chẳng xấu mặt nào." Voi dầu to xác nhưng chỉ là thứ con vật. Đã là người mang giá trị con người với sự không ngoan và lý trí, không ai đánh đô vật với voi mà chỉ huấn luyện voi.

Trong cuộc sống, qua mối liên hệ và cung cách đối xử, mọi người kinh nghiệm không ai giống ai. Hơn nữa, có người nọ lại cũng có người kia; cuộc đời lẫn lộn người tốt kẻ xấu sống chung. Đồng thời những va chạm xảy ra đều có nguyên nhân, không gì tự trời rơi xuống "Bụt trên tòa gà nào mổ mắt." Bởi vậy "Hễ muốn ra con người tử tế, phải dễ dàng chớ để ai hờn. Làm ơn ắt hẳn nên ơn, trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ." Dĩ nhiên, "Trồng cây mận ăn trái mận, trồng cây sung ăn trái sung." Những ai "Gieo gió sẽ gặt bão." Cách đối xử giữa người với người cho thêm kinh nghiệm "Dễ người, người dễ ta." Và kinh nghiệm sống này còn đi xa hơn trong sự liên hệ giữa người với người, "Đánh chó ngó chủ," hoặc "Vị thần mà nể cây đa, cả như cây táo chém cha đời nào," hay "Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần thần cậy cây đa." Sự khôn ngoan có tính cách luân lý trong Ca Dao, Tục Ngữ thoạt mới nghe có vẻ chỉ khuyến khích con người chấp nhận thua thiệt, nhưng nếu dành một chút suy tư đặt vấn đề tại sao có những lời khuyến khích này, người ta sẽ nhận ra chân giá trị của "Dĩ hòa vi quí" nơi tâm tình cận nhân tình người Việt: "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy." "Ở cho phải phải phân phân" không có đâu là biên giới, không cách nào có thể diễn tả đúng hơn tấm lòng cận nhân tình bằng câu này vì mỗi hoàn cảnh, mỗi trường hợp liên hệ, cách đối xử đều không giống nhau; không thể có một mẫu mực cứng ngắc nào. Sống sao cho hòa hợp, sao cho có người nọ, người kia vì "Dại bầy hơn khôn lỏi" hoặc "Xấu đều hơn tốt lỏi."


ĂN NÓI

Trong sự liên hệ, cách đối xử đã quan trọng, lời ăn tiếng nói đồng thời cũng quan trọng không kém. "Ở sao cho đẹp lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê..." đã khó dầu có thời gian suy tính, đắn đo. Cách ăn nói, dù "Chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm hãy nói" cũng không thể nào không có sơ xuất. Nguyên nhân của sự sơ xuất có thể bởi mực độ suy nghĩ khác nhau giữa kẻ nói và người nghe, hoặc do tâm tình khác biệt được tạo nên từ kinh nghiệm cá nhân không giống nhau hay từ tính tình từng người; kẻ bộc trực, ngay thẳng, và đơn giản; người ưa suy nghĩ xa xôi, dây mơ rễ má. Kiểu cách ăn nói lại còn tùy thuộc ảnh hưởng địa phương, và tâm tính người từng miền. Cho dù có nhiều yếu tố khác biệt khiến phản ứng của một người ảnh hưởng tới lời nói hoặc cách nói, tựu trung đa số đều dựa trên một nguồn gốc "Suy bụng ta ra bụng người." Lẽ đương nhiên, chỉ những tên ăn trộm mới có thể nghĩ như kẻ ăn trộm; sự nhận thức và phản ứng của một người tùy thuộc kinh nghiệm sẵn có. Những kinh nghiệm này có thể do những trường hợp tương tự xảy ra trong những môi trường khác biệt mà cá nhân trải qua. Nhờ sự liên hệ với nhiều người, dầu khác môi trường, đa số dân chúng có được những nhận biết tương tự cộng thêm với ý thức, so sánh tâm lý, nên có một phần nào suy diễn chung; sự nhận thức này tạm gọi ý thức tâm lý cộng đồng, môi trường sinh hoạt chung trong liên hệ của một tập thể. Do đó, "không có lửa sao có khói," hoặc "Thế gian chẳng ít thời nhiều, không dưng ai dễ đặt điều cho ai" trở thành châm ngôn cho một người để ý đến lối sống cũng như cách ăn nói của mình sao cho tránh khỏi những tiếng tăm bất lợi về danh dự cá nhân, gia đình cũng như tập thể.

Dĩ nhiên, đã là người, ai không lỗi lầm, phương chi lỡ miệng. Chấp nhận lỗi lầm, thiếu sót nơi mình với ý hướng sửa sai, sống vươn lên tốt hơn, đó là bước đầu tiên đi vào con đường thiện hảo. Tuy nhiên, dầu một người chấp nhận mình lầm lỗi, nhận thức sự lầm lỗi của mình để vươn lên vẫn cảm thấy đau lòng khi vấp phải lỗi lầm. Tục ngữ khuyến khích tinh thần hướng thiện qua câu: "Thuốc đắng đã tật, lời thật mất lòng." Hơn nữa, lời thật mất lòng kẻ nghe thì ít mà làm đau khổ người nói nhiều hơn. Không ai muốn gây thêm mích lòng nên nếu nói thật điều sai lầm của người khác không những đôi khi mà đa số trường hợp người nghe sẽ không được hài lòng. Có ai biết đâu lòng chân thành, tốt lành đã tự phải trả giá cho chính nó khi người nghe phiền lòng vì sự thật trái ngược này. Bởi thế, cách ăn nói đã quan trọng lại càng trở nên quan trọng vì "Khen người thì tốt, dột người thì xấu." Theo tâm lý bình thường, không ai muốn nghe điều xấu của mình mà chỉ thích được khen. Người chân thành muốn giúp kẻ khác lại cần "Nhời nói chẳng mất tiền mua, liệu nhời mà nói cho vừa lòng nhau," hoặc "Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời." Chữ "nặng lời" thường được hiểu theo phía người nói. Tuy nhiên, dù cố gắng cách nào chăng nữa và bởi vì "Lời thật mất lòng," người nghe, tâm lý chung, dẫu cho những lời phê bình có nhẹ nhàng cách mấy, đều cảm thấy nặng lời. Điều này lại càng nói lên không ai muốn nghe kẻ khác phê bình mình. Do đó, nếu muốn giúp người khác, về phương diện ăn nói, Ca Dao đề nghị: "Chim khôn kêu tiếng rảnh rang, người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe."

Trong sự liên hệ với người khác, không ít thì nhiều, chúng ta ảnh hưởng lẫn nhau. Có thể hiểu một phần nào đặc tính của một người khi hiểu bạn bè của người đó thuộc giới nào. "Chọn bạn mà chơi" vì "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã;" bạn bè liên hệ đóng một vai trò quan trọng trong sự ảnh hưởng không những tâm tính một người mà còn ảnh hưởng cách đối xử, ăn nói người đó, "Chim khôn tránh bẫy tránh dò, người khôn tránh kẻ hồ đồ mới khôn." Người khôn chỉ tránh kẻ hồ đồ chứ không phê bình, "Nước trong khe suối chảy ra, mình chê ta đục mình đà trong chưa;" vì dẫu sao, ai là người không lầm lỗi. Chê người khác lầm lỗi có thể rằng mình thấy mình lầm lỗi nhiều hơn nên chê kẻ khác để hy vọng được nghĩ mình tốt lành hơn. Hơn nữa, không những Tục Ngữ, Ca Dao khuyến khích không nên chê kẻ khác mà còn không nên nói cạnh khóe, bóng gió, xa gần vì như thế cũng chỉ là một lối ghen tương, không xứng đáng với một tâm hồn chân thật, "Sấm bên đông động bên tây, tuy rằng nói đấy nhưng đây động lòng." Tục Ngữ, Ca Dao khuyến khích con người sống vị tha, nhân ái... sao cho thăng tiến không ngừng tới sự toàn hảo, do đó chú trọng đến phẩm giá đích thực con người chứ không đánh giá những vấn đề ngoại tại, "Cậy tài cậy khéo khoe khôn, Đừng có cậy của đa ngôn quá lời; của thì mặc của ai ơi, Đừng có cậy của coi người như rơm." Bởi thế, giá trị đích thực của con người là lòng chân thành ngay thẳng chứ không phải "Miệng thơn thớt, dạ ớt ngâm," và lẽ đương nhiên không ai trong chúng ta muốn có liên hệ hoặc làm bạn bè với những người như thế bởi "Sông sâu còn có người dò, Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng."

Về cách ăn nói, Tục Ngữ, Ca Dao cũng không nói lên phải ăn nói cách nào, kiểu nào hoặc văn chương hay bình dân ra sao. Tục Ngữ, Ca Dao nhấn mạnh về tâm tình hoặc ý nghĩa của câu nói chứ không đặt nặng ăn nói theo hình thức nào. "Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời" có thể được coi làm tiêu chuẩn cho cách ăn nói. "Điều đau" không thể nào bắt nguồn từ những tâm hồn chân thành mà chỉ có thể xảy ra nơi cá tính hay chỉ trích, xoi mói hoặc "Bới lông tìm vết." Người thích chỉ trích thay vì mở rộng tâm hồn để nhìn nhận điều hay, vẻ đẹp nơi người khác lại tìm cách bới móc hoặc kiếm cách đè bẹp bất cứ ai không vừa ý họ hoặc chủ đích muốn được để ý. Tuy nhiên điều đau còn mang thêm nghĩa những kinh nghiệm mắc mỏ, đớn đau trong cuộc đời một người. Trên bình diện luân lý, câu "Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời" có thể tạm hiểu mang ý nghĩa nhắc nhở nên ăn nói với lòng chân thành thay vì khích bác gây thù oán.

Hai chữ "ăn nói" chỉ được hiểu theo nghĩa "nói" chứ thường không dính dáng gì đến ăn. Riêng nói về "ăn," người xưa chỉ để lại một đôi câu đại khái cho rằng ăn là vấn đề không quan trọng (mặc dầu ai cũng cần ăn) nhưng nói mới lại là quan trọng. Lời chào mời ăn quan trọng hơn đồ ăn, "Tiếng chào cao hơn mâm cỗ;" (có thể câu này khuyến khích nên thanh lịch) vấn đề ăn đôi khi lại không được mang ý tốt (dầu ăn là sự tốt lành) "Ăn lấy thơm lấy tho chứ không ai ăn lấy no lấy béo," hoặc "Ăn lấy vị, không ai lấy bị mà đong." Thật ra,đôi khi ăn còn bị coi thường, "Ăn no vác nặng." Qua lối nhìn về vấn đề ăn nói, ông cha ta coi trọng phần tâm tư, tính tình, thái độ hơn vấn đề ăn uống. Bởi thế, cách "ăn nói" của một người chỉ được đề cập đến "nói" chứ không đặt vấn đề ăn vì "Miếng ăn quá khẩu thành tàn."

Dù đặt nặng vấn đề nói và ai cũng thích nói vì ai cũng muốn được người khác nghe, chú ý đến mình, nhưng Ca Dao lại đề nghị ít nói, "Rượu nhạt uống lắm cũng say, người khôn nói lắm cũng hay ra nhàm." Chính vì đa số ai cũng thích nói và đã hay nói thì hay lỗi, "Ông thánh còn có khi lầm, huống hồ là lão tám lăm tuổi đầu;" nên đôi khi thích nói không ra gì về truyện người "Truyện mình giấu đầu giấu đuôi, bới truyện của người vạch lá tìm sâu." Do đó ca dao đề nghị: "Nói người chẳng gẫm đến thân, thử sờ lên gáy xem gần hay xa."

Cuộc đời, có người nọ lại cũng có kẻ kia. Tâm tính cũng thế, có người khôn ngoan ăn nói đắn đo hòa nhã, rào trước đón sau, lại có kẻ "Chó dại có mùa, người dại quanh năm." Đành rằng ai cũng muốn trở nên khôn ngoan, nhưng không phải cứ muốn là đã được. Dầu người ta có thể sửa đổi hoặc tự đào luyện chính mình, cá tính bẩm sinh của một người ảnh hưởng nặng nề đến thái độ và lời ăn tiếng nói người đó. Hơn nữa, sự tu sửa chính mình để trở nên tốt lành còn bị ảnh hưởng bởi dư luận, "Chim khôn chết mệt vì mồi, người khôn chết mệt vì lời nhỏ to;" vì "Bách nhân bách khẩu" hoặc "Chín người mười ý," hay "Mai mưa, trưa nắng chiều nồm, trời còn luân chuyển huống mồm thế gian." Mặc dầu "Lấp sông lấp giếng, ai lấp được miệng người," Ca Dao đề nghị: "Mặc ai nói ngả nói nghiêng, thì ta vẫn vững như kiềng ba chân." Lẽ thường, "Đường ta ta cứ đi" bởi không ai có thể giúp mình nếu chính mình không bắt đầu trước. Dư luận không thưởng mà cũng không phạt, nó có thể là đài danh vọng và cũng có thể là một sự tàn phá đến một người tùy thuộc quan niệm cũng như tâm tình người đó thế nào đối với cuộc đời mình và với dư luận. Vẫn biết rằng không ai có thể sửa được tất cả những điều sai lầm hoặc thói quen không tốt của mình; tuy nhiên, cũng không ai có thể tập tành sao cho đúng ý tất cả những lời phê bình đề nghị của những người chung quanh. Bởi thế, sự sửa đổi chính mình cho tốt lành hơn được gọi là theo đạo trời hay học đạo lành, "Mặc ai chác lợi mua danh, miễn ta học đặng đạo lành thì thôi."

Ai cũng biết "Cả giận mất khôn" và tránh kiểu nói "Cạn tàu ráo máng;" đồng thời mọi người chấp nhận "Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối." Như thế, chẳng phải chỉ người xưa coi trọng, đề cao tấm lòng chân thật mà mọi người mọi thời đều thấy sự thật thà ngay thẳng là điều tốt lành nên có. Điều này cũng hợp với ăn nói, có sao nói vậy được tôn trọng; còn nói khoác lác, khoe khoang đều bị coi rẻ "Có đỏ mà chẳng có thơm, như hoa dâm bụt nên cơm cháo gì," và Ca Dao khuyên, "Nói lời thì giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay." Đó cũng là lý do tại sao những người ăn nói khoác lác "Mười voi không được bát nước xáo" không được ai trọng vọng, tin cậy. Cho nên, "Nói chín thì nên làm mười, nói mười làm chín kẻ cười người chê." Hơn nữa, để tránh những chuyện "Tri hành bất nhất," Ca Dao đề nghị: "Người khôn đón trước rào sau, để cho người dại biết đâu mà mò," hoặc "Người khôn chưa đắn đã đo, chưa đi đến biển đã dò nông sâu," hay "Làm người suy kỹ tính xa, cho tường gốc ngọn cho ra vắn dài."

Vì "Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta;" thế nên "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn;" hơn nữa, sự liên hệ tạo cho một người thêm vây cánh lỡ khi hữu chuyện còn có người nọ người kia. Mặc dầu sự liên đới bao gồm nhiều khía cạnh, nếu cứ nói theo lý thuyết, ít ai nghĩ được mình có thể thực hành những sự khôn ngoan ông cha ta để lại qua Tục Ngữ, Ca Dao. Tuy nhiên, nếu dùng đôi phút để nhìn lại cách thức đối xử với những người chung quanh, chính mình đang thực hiện những sự khôn ngoan này mà mình không để ý. Ngay trong nghề nghiệp, buôn bán, nhờ có sự liên hệ bạn bè thân quen, công việc dễ xuôi chảy hơn và có thể thực hiện lớn lao hơn dự tính. Do đó cũng có thể nói lối sống liên đới là một lối sống hợp quần đặt nền móng trên tình tương thân tương trợ.

Nhờ sự liên đới với những người khác, con người mới có thể cảm nhận được "Thức đêm mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân." Ngoài ra, có liên đới là có ảnh hưởng vì "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén," hoặc "Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng." Sự liên đới giúp mình học được phần nào những điều hay lẽ phải của những người mình liên hệ với. Tuy nhiên, việc gì cũng có giá trị tương đối bởi "Áo năng may năng mới, người năng tới năng quen." Đồng thời lại cũng có câu "Năng mưa thì tốt lúa đường, năng đi năng lại xem thường xem khinh." Lối sống cận nhân tình trong sự liên đới thực mà hư, hư mà thực; đòi hỏi sự không "thái quá" mà cũng chẳng "bất cập" là thế.


XỬ THẾ

Do nhận ra sắc thái đặc thù về luân lý cũng như phổ quát ứng dụng nơi Tục Ngữ, Ca Dao, một vấn đề được đặt ra: Tiền nhân dân Việt đã nhận xét tâm lý cuộc đời và có quan niệm xử thế ra sao cũng như điều nên và cần biết của một người trong cuộc sống theo chiều hướng vươn lên để làm đẹp cuộc đời chẳng những riêng cho cá nhân mà còn sinh phần lợi ích thiết thực tới những người chung quanh; nói cách khác, góp tay xây dựng xã hội Việt Nam mỗi ngày một hoàn mỹ hơn. Tuynhiên, muốn có một cái nhìn trung thực thế nào là nên và không nên trong cách xử thế đòi hỏi sự nhận biết điều kiện sống hay là thực trạng cuộc đời mà con người phải đối diện cũng như quan niệm, chiều hướng phổ quát về nhận xét hoặc phản ứng của con người về cuộc đời. Chắc hẳn rằng không ai có thể nói lên rõ ràng và bao quát về cuộc đời như thế nào bởi cuộc đời gồm nhiều cá nhân "Người ta năm bảy người ta, kẻ thì tiền rưỡi người ba mươi đồng;" cũng là những con người sống trong một xã hội nhưng không ai giống ai và không điều kiện sinh hoạt, môi trường nào có thể tạo nên cho những con người khác biệt phản ứng giống nhau "Đòng đong theo đạo đòng đòng, trẻ vui đạo trẻ già dong đạo già." Hơn nữa, mặc dầu ai cũng được ban cho sự sống nhưng xét ngay như bản chất tâm lý và điều kiện cơ thể đã là những nguyên nhân tạo nhiều phản ứng khác biệt trong cách sống hoặc xử thế. Bởi vậy, không thể nào có được một khuôn mẫu cố định, cứng ngắc để mọi người rập theo. Mặc dầu, qua cơ cấu xã hội người Việt, chúng ta thấy có những khuôn mẫu luân lý: Tam Cương, Ngũ Thường; Tam Tòng, Tứ Đức; Đạo Hiếu; hay những luật lệ thành văn hoặc bất thành văn đã bao nhiêu đời giúp mang lại trật tự và nề nếp luân lý cũng như đạo đức con người, nhưng chắc chắn rằng cũng không thiếu chi con dân Việt đã bị những khuôn mẫu đó được áp dụng trong hoàn cảnh khác biệt gò ép họ phải ngậm đắng nuốt cay chịu trận cả một cuộc đời khổ ải "Ngậm bồ hòn làm ngọt" không đường đào thoát bởi điều đúng và lý tưởng cho đa số chưa chắc đã là điều tốt cho một người trong hoàn cảnh và điều kiện bản thân cũng như tâm lý khác biệt. Không nói gì chuyện xa vời, ngay như vấn đề ăn uống, đối với nhiều người, không có ớt thì mùi vị đồ ăn mất ngon, trái lại người khác chẳng may vô tình ăn phải ớt lại cảm thấy cay như xé cổ họng, hoặc âm nhạc rất phổ thông và được hầu như mọi người ưa thích; trái lại có những người thà đi cuốc đất còn hơn ngồi đó thưởng thức một bản nhạc... Xét rộng thêm chút nữa, ngay như đối với một thú tiêu khiển, biết bao nhiêu người có những phản ứng và tâm trạng khác nhau.

Qua tư tưởng Tây Âu, con người cũng có nhiều quan niệm khác nhau về cuộc đời bởi tùy thuộc những điều kiện và lối nhìn khác nhau. Có ai đã không nhận thấy "Khi bàn soạn hoặc đọc trong sách vở thì cuộc sống là một sự tuyệt vời nhưng khi phải đối diện với thì nó lại là điều khổ ải?" (Jean Anouilh, 1939). Ernest Renan cay đắng hơn trong những nỗi thất bại: "Tôi thử hỏi bạn, cuộc đời con người là gì? Phỏng nó không phải là niềm hạnh phúc què quặt, đầy nỗi lo lắng ưu tư vô vọng, một sự lừa dối lạ lùng của một ngày mai tươi sáng hơn ư?" (1880). Chính vì khao khát những ước vọng không bao giờ có thể đạt tới đã là khởi điểm cho ưu uất tâm tư; từ đó con người đổ lỗi cho cuộc đời: "Bạn có thể nhận ra rằng cuộc sống tự nó là một lỗi lầm lớn lao nhất trong đó chính sự sống là chủ động của những đau khổ không?" (Ugo Betti, 1953). Như một lẽ thường, ít ai nhận ra niềm hạnh phúc mình đang nắm giữ nhưng lại cứ cố gắng chạy theo những gì ngoài tầm tay với thế nên "Cuộc sống là một sự dính liền những góc cạnh rộng lớn thôi thúc bởi những nỗi thống khổ," (Ugo Betti). Bởi vậy, chẳng lạ gì, những tham vọng không đạt được đã bị gán ép vào cuộc đời thay vì tự đặt vấn đề về chính mình để tìm phương liệu chữa trị hoặc thăng tiến, "Cuộc đời là viên thuốc đắng không ai có thể nuốt trôi nếu không được bọc đường," (Samuel Johnson, 1786). Với những cái nhìn yếm thế này, cho dù bất cứ ai dám tự đối diện với lòng mình thì giá trị của cuộc đời xét theo phương diện xây dựng cho con người cũng chẳng có gì đáng nói: "Cuộc sống được coi như một món đồ chơi làm bằng thủy tinh giá trị khó thể đo lường nhưng trong thực tế lại rất rẻ tiền," (Pietro Aretino, 1537). Và đương nhiên được coi như món nợ đeo đẳng phải trả cho kiếp làm người: "Cuộc đời giống như một củ hành tây mà con người vừa bóc vừa chảy nước mắt," (Cách ngôn Pháp), hay là nỗi thống khổ không phương chạy trốn hoặc vứt bỏ: "Cuộc sống là con bệnh bất trị," (Abraham Cowley, 1656).

Tuy nhiên, dẫu cho yếm thế tới độ nào chăng nữa, "Con người vẫn khư khư bám lấy cuộc sống dù phải trả giá mắc mỏ để chống trả với số phận hẩm hiu," (Aristotle, thế kỷ 4 B.C.) để rồi khi nhận ra thực trạng yếm thế không đem lợi ích gì cho cuộc sống, họ mới đặt vấn đề về cuộc đời và thái độ hoặc chiều hướng của con người đối với cuộc đời: "Chỉ có ba vấn đề đáng nói về con người: sinh, sống, và chết. Người ta không tự biết gì về ngày sinh, đau khổ về sự chết, và không để ý đến sự sống của mình," (La Bruyère, 1688). Cách ngôn Pháp đưa lên điểm thiếu sót của đa số chúng ta: "Con người ta đã sống cả nửa cuộc đời trước khi biết đời là gì." Hơn nữa, vì không nhận thức được giá trị cũng như thực trạng của cuộc sống chúng ta đã nhắm mắt theo những điều mơ tưởng một cách vô căn cứ: "Cuộc sống là sự ngoắc ngoéo nơi đó chúng ta chọn sự sai lầm trước khi thực hành," (Cyril Connollly, 1945). Dĩ nhiên, khi nhận ra sự sống hoặc giá trị của sự sống thì đã đang sống do đó ai cũng gặp cảnh trái ngang không ngờ: "Cuộc sống là một nghệ thuật chúng ta bị đòi hỏi thực hiện mà sự không được chuẩn bị, không được dẫn dắt, đầy sai lầm và thiếu sót đã là hành trang cho buổi ban đầu," (Lewis Mumford, 1951). Tuy nhiên, cho dù có lầm lỗi, thiếu sót, hoặc phải mang những khổ ải, ai cũng nhận ra ít nhất giá trị của sự sống bởi: "Đối với những người còn sống thì còn hy vọng vì một con chó sống vẫn hơn một con sư tử chết," (Giảng viên, 9:4) bởi "Cuộc đời này tùy thuộc người sống chứ không phải kẻ chết," (Thomas Jefferson, 1813). Hơn nữa, ước muốn sinh tồn cũng như cầu sống nơi con người thuộc về bản năng chứ không phải là sản phẩm của lý trí; bởi vậy cho dù ở trình độ kiến thức nào và hoàn cảnh nào, ai ai cũng muốn được sống: "Sống cũng như yêu, mọi lý lẽ đều chống nghịch lại nhưng tất cả bản năng lại hùa theo," (Samuel Butler, 1912).

Nhận ra giá trị của sự sống, con người mới tìm kiếm phương cách để sao cho cuộc đời có ý nghĩa hơn bởi bình thường "Chúng ta mới sinh ra đã cất tiếng khóc, sống càm ràm không hài lòng với thực tại, và chết một cách tiếc nuối," (Thomas Fuller, 1732). Kiếm tìm điều gì tức là chưa có điều đó; thế nên, "Một điều hiển nhiên là nếu chúng ta không biết cách sống nên đã mơ mộng sống, cũng như không có hạnh phúc chúng ta mơ mộng được hạnh phúc," (Pascal, 1670). Chân thành nhìn lại thái độ cũng như mức độ xử dụng cuộc đời để rồi đem so sánh ước mơ với thành quả chuỗi ngày đã sống, J. M. Barrie đưa ra nhận định: "Cuộc sống con người là một thiên nhật ký trong đó bao gồm những câu chuyện thực tiễn mà ít khi chủ nhân dám so sánh thành quả của mình đạt được với điều mình mơ ước thực hiện," (1891). Hơn nữa, sao có thể nhận ra ánh sáng nếu không có bóng tối hoặc hạnh phúc nào có thể thỏa mãn được tâm hồn không bao giờ kinh nghiệm đau khổ. Cũng thế đối với sự nhận thức cuộc đời, người hiểu được giá trị cuộc đời cần kinh nghiệm thực tiễn bao gồm nhiều giá trị cho dù giá trị nào đó đòi hỏi điều kiện trải qua những đau thương: "Có câu nói cho rằng không ai nhận thức thực sự đời là thế nào cho tới khi họ biết thế nào là nghèo khổ, yêu thương, và chiến tranh," (O. Henry, 1908). Xét như thế, "sự không được chuẩn bị để sống thì đã sống" lại trở thành cơ hội tuyệt vời nhất rèn luyện con người lần hồi tìm ra chiều hướng cuộc đời: "Phương cách tốt nhất để chuẩn bị cho cuộc sống là hãy bắt đầu sống," (Elbert Hubbard, 1927). Không kinh nghiệm, không sở trường mà "tay vo" bước vào cuộc đời chắc chắn sẽ bị vùi dập lăn lóc, đắng cay chua xót nhiều hơn sướng vui hạnh phúc. Có lẽ đó là lý do tại sao hạnh phúc lại quí giá, và sự kiến tạo cuộc đời hạnh phúc được nâng lên hàng nghệ thuật. Tuy nhiên, hạnh phúc chỉ là những phút giây ngắn ngủi khó kiếm; bởi thế, cuộc sống hạnh phúc đòi hỏi cố gắng cũng như nghệ thuật hay phương pháp bảo vệ và xây đắp những niềm vui nhỏ bé: "Nghệ thuật sống là làm thế nào để biết kiếm tìm một chút niềm vui và ráng kéo dài niềm vui ấy," (William Hazlitt, 1817). Ngược lại, kinh nghiệm cho thấy, niềm vui nào cũng chóng qua, trận cười nào cũng đều được nối tiếp bằng những mảng buồn tênh vô nghĩa khi ý thức giá trị cuộc sống trở về dày vò tâm não: chẳng lẽ mình được sinh ra, sống cho qua rồi chết để đi vào quên lãng hư vô? Phải còn một cái gì! Ai cũng muốn trở thành một "cái gì" và đó là giá trị của cuộc sống đời mình. Tất nhiên, mơ ước có một điều gì cần công sức thực hiện và một đường hướng để theo cũng như mục đích đạt tới; thế nên: "Cuộc đời một người chỉ có giá trị khi có một lý tưởng," (Hegel, 1820). Lý tưởng hay mục đích của đời người là điều cần thiết mà năng lực để thực hiện hành trình đạt tới lý tưởng lại càng cần thiết hơn; nếu không, trèo cây đến lúc gần được hái trái đã hết sức thì còn tệ hơn đừng trèo. Muốn cuộc đời có giá trị, cần có lý tưởng để theo đuổi; muốn bền bỉ theo đuổi, cần ý chí và can trường. Như vậy, không phải cuộc đời làm nên giá trị con người mà con người làm nên giá trị cuộc đời mình tùy thuộc năng lực và ý chí nơi chính bản thân: "Tôi xét sự sống chỉ qua một vấn đề: sức mạnh tâm hồn của một người," (Robert Browning, 1855). Tất nhiên, cũng có những người không bao giờ đi tới đích có thể vì đã không tự lượng sức mình hoặc ước mơ quá tầm với. Ngược lại, mục đích có thể đạt tới dễ dàng sao có thể gọi là lý tưởng; bởi vậy, "Cuộc đời là cả một sự cố gắng liên tục để trở thành điều mình muốn và thực hiện những gì mình không thể tiến tới," (William Hazlitt, 1820). Dù sao chăng nữa, đạt thành hay thất bại, sự cố gắng liên tục theo đuổi niềm ước mơ vẫn có giá trị riêng của nó bởi chính sự cố gắng này giúp con người "Chẳng thành thân cũng thành nhân;" nó tạo cho bản thân năng lực tâm hồn cầu tiến: "Nói rằng sống tức là nói rằng chúng ta tự tìm kiếm cho mình những cơ hội để vươn lên," (José Ortega Y Gasset, 1930).

Tiền nhân dân Việt không nhìn cuộc đời để đóng khung và đưa ra lời quyết đoán tổng quát bởi đặc tính đa dạng tùy theo trường hợp và hoàn cảnh cũng như cơ cấu phức tạp của đời sống được gom góp lại bởi những con người khác biệt, mà trái lại, hòa mình trong cuộc sống để nói lên những thực trạng qua kinh nghiệm sống tùy theo hoàn cảnh riêng biệt. Lẽ tất nhiên, cuộc đời được tạo thành do tổng hợp những cá nhân có liên hệ, chung đụng bao gồm nhiều thành phần và cá tính khác nhau từ thánh thiện tốt lành đến xấu xa bỉ ổi. Cuộc đời không thể nào chỉ được xét theo chiều hướng, lối nhìn cố định một chiều theo mẫu mực nào đó hoặc cắt xén hay thêm thắt cho hợp với lý luận dẫn tới bất cứ một lý thuyết nào. Cuộc đời cần được nhận định và trình bày một cách trung thực để rồi từ đó đề nghị phương thức thăng tiến.

Phật gia tin rằng, "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí;" nếu đã là phúc thì tất nhiên không phải là họa; ngược lại, phúc đến không biết giữ thì mất; còn nếu đã là họa thì không phương tránh khỏi. Kinh nghiệm người xưa cho thấy: "Sông có khúc, đời người có lúc," cuộc đời một người có thời vinh cũng có lúc nhục; khi lên voi cũng có cơ bị xuống chó chứ không phải kẻ được sinh ra trong số mạng bọc điều luôn luôn được sung sướng, may mắn; trái lại kẻ chẳng may suốt đời mang kiếp trầm luân khổ ải. Có được nghe chăng, hầu hết từ hèn đến sang hoặc phú quí tới nghèo khổ, ai ai cũng chỉ thấy điều chẳng hài lòng luôn luôn ở trước mặt còn những gì sung sướng đã vội qua mau. Âu đó cũng là tính chất chung nơi loài người bởi ít ai để ý đến tính cách sinh động của cuộc sống. Bình tâm nhận xét, ai cũng nhận thức hoặc kinh nghiệm "Hay làm thì giầu, có chí thì nên;" tuy nhiên, cũng không thiếu gì trường hợp "Bôn ba chẳng qua thời vận." Tính cách sinh động của cuộc sống nhiều khi khiến con người nản chí, tiêu tan nghị lực muốn đành chấp nhận phận số chẳng may, nhưng đồng thời vẫn còn niềm hy vọng làm động lực chịu đựng qua cảnh gian nan bởi "Nước dưới sông hết trong còn phải đục, vận người đời hết lúc nhục phải vinh;" đâu phải luôn luôn "Con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa;" vì "Một khi trời nổi can qua, con vua thất thế lại ra ở chùa." Mặc dầu thời gian hiện hữu của đời người thật là ngắn ngủi "Đời người chẳng khác gì hoa, sớm còn tối mất, nở ra rồi tàn;" nào mấy ai chưa hề nhận thấy khi: "Trời làm một trận lăng nhăng, ông hóa ra thằng, thằng hóa ra ông." Cuộc đời là thực trạng luôn luôn biến đổi, sinh động; đã có sinh phải có tử và từ thời sinh đến lúc tử, những thay đổi kế nhau chuyển tiếp không ngưng nghỉ như thời gian không bao giờ trở lại hai lần bởi dù cho sự việc xảy ra giống hoàn cảnh cũ thì cũng đã bị pha trộn những yếu tố mới cũng như điều kiện thực trạng không giống nhau, "Dưới đời ai rẻ bằng bèo, chờ khi nước lụt bèo trèo lên sen. Dưới đời ai tốt bằng sen, quan yêu dân chuộng dã bèn cũng hư."

Thế nên nào ai lạ gì, sống là gặp nhiều thử thách bởi nếu không có những thử thách làm chi có người được gọi là anh hùng hào kiệt, đâu ai bị liệt vào phường giá áo túi cơm, "Nếu đường đời cứ bằng phẳng mãi, anh hùng hào kiệt có hơn ai!" Hoặc qua những cơn phong ba bão táp, phải đối diện với thăng trầm cuộc sống người ta mới rõ: "Thui ra mới biết béo gầy, đến khi cả gió biết cây cứng mềm;" hay "Gió lung mới biết tùng bá cứng, có ngọn lửa hừng mới rõ thực vàng thau." Có câu nói: "Sống là tranh đấu" bởi thực ra, cuộc đời này không gì tự nhiên mà có nên con người phải tranh đấu với thiên nhiên để bảo tồn sự sống còn. Tranh đấu với chính mình thắng vượt những thái độ ươn hèn và sống vươn lên, tranh đấu với những phong ba cuộc đời khi lên voi lúc xuống chó rèn luyện con người, "Cây cao thì gió càng lay, càng cao danh vọng càng dày gian truân;" tranh đấu với bản chất lười lĩnh hầu kiến tạo mức sống khá hơn: "Vất vả mới có thanh nhàn, không dưng ai dễ cầm tàn che cho" bởi thật ra, "Mưu toan thì dễ, sự thành thì không dễ làm nên." Ai không cố gắng bon chen với cuộc đời, dĩ nhiên, tự chấp nhận thua thiệt: "Trâu chậm uống nước dơ, trâu ngơ ăn cỏ héo." Mặc dầu cũng có những trường hợp may mắn "Chó ngáp phải thịt quay, mèo mù vớ cá rán" hoặc "Thánh nhân đãi kẻ khù khờ," hay "Lù khù có ông Cù độ mạng;" bình thường, dù lười lĩnh đến đâu chăng nữa, "Đói thì đầu gối hay bò, cái chân hay chạy cái giò hay đi." Bởi sự tranh đấu trong cuộc đời không đâu là bến bờ vì có nhiều động lực tùy theo chiều hướng và mục đích cá nhân hoặc những ước mơ hướng thượng hay lòng tham vô đáy của con người nên cuộc đời thường bị coi là ngắn ngủi; ai mà không cảm thấy thế, "Đời người chỉ một gang tay, ai hay ngủ ngày chỉ được nửa gang." Ngược lại, có những trường hợp tréo cẳng ngỗng nơi vị thế kẻ vô liêm xỉ bị mọi người coi khinh, người xưa mai mỉa: "Đắc thời đắc thế thì khôn, sa cơ rồng cũng như giun khác nào."

Con người với bản năng sinh tồn tranh đấu giành sự sống do đó khi đối diện với thực tại sinh động của cuộc đời đã tạo nên thực trạng sống. Hơn nữa, kiếp làm người nào phải chỉ cần sao cho đủ cơm ăn áo mặc là chấp nhận sống yên phận, con người còn mang thêm một nhu cầu thiết yếu tinh thần. Có câu nói: "Khi loài thú ăn no, chúng lo đi ngủ; còn con người, trái lại, khi đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ suy nghĩ." Chính nhu cầu này đã đưa đến những kết quả thay đổi lớn lao nơi cuộc đời và biến điều kiện sống cũng như sự liên hệ của con người trở thành môi trường phức tạp.

Chẳng những cuộc đời hàm chứa tính cách sinh động tạo thành môi trường tranh sống trong đó con người tạo dựng cuộc sống của mình tùy theo cá tính, ý chí, và ước mơ hay mục đích riêng tư, thêm vào đó, con người thì "Phong lưu mỗi người một cách, lịch sự mỗi người một kiểu," không ai giống ai nên khó có bất cứ khuôn mẫu nào phù hợp cho tất cả. Bởi lý do xã hội được tạo thành do những thành phần cá nhân khác nhau, những gì được coi là đặc tính chung của xã hội chỉ có thể nói lên phần nhỏ nào của tập thể chứ không phải mọi người đều mang những đặc tính thực trạng này. Xét về xã hội, Tục Ngữ, Ca Dao trình bày thực trạng tâm lý thường xảy ra trong cuộc đời do đó nhiều câu có vẻ bươi móc những điều không nên hoặc đáng chừa sửa cũng như có những câu mang tính chất khuyên răn người ta nên sống theo. Về mặt luân lý, sự tranh đấu giành sống của con người có thể so sánh với sự ngụp lặn giữa dòng nước để rồi hoặc là xuôi theo bản ngã yếu hèn cho qua kiếp nhân sinh, hoặc bơi ngược lại những ham muốn tầm thường kiến tạo giá trị đáng sống. Kinh nghiệm cho thấy, "Anh hùng đa nạn;" ý thức và cố gắng sống sao cho tốt lành hơn tất nhiên không những phải chiến đấu với bản ngã tầm thường nơi chính mình mà còn phải chống trả những chấp nhận quen sống thấp hèn đầy quyến rũ của cuộc đời. Người dám và quyết chí sống vươn lên mang vai trò thức tỉnh để nhận định những giá trị luân lý và sống theo; mà những giá trị này thường đòi hỏi cố gắng sống ngược lại những giá trị giả dối do cái nhìn thiên lệch được thúc đẩy bởi lòng ham muốn bình thường như danh vọng, lợi lộc tạo nên luôn luôn vây bọc, ảnh hưởng khiến con người lấy đó làm sự thường tình.

Nhìn vào thực trạng cuộc đời, ngay như hình dáng, cách ăn mặc bên ngoài thường gây ấn tượng sai lầm cho người khác buổi ban đầu mới gặp vì "Quen dái dạ, lạ dái áo." Điều này là kết quả của cái nhìn thiên lệch, vội vã nơi con người. Không những thế, tính cách "Giàu trọng, khó khinh" kèm theo tình cảm nhất thời ảnh hưởng không ít tới thái độ giao tế cũng như lối cư xử của một người: "Thương nhau nước đục nói trong, ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ" vì thói thường, "Yêu ai thì bốc lên trời, ghét ai thì dìm xuống đất." Cái nhìn thiên lệch còn bị ảnh hưởng do thói quen "Suy bụng ta ra bụng người" hoặc "Có tật giật mình, có tình kinh trong bụng." Lẽ tất nhiên, không những lòng dạ thế nào thì mình sẽ nghĩ cho người khác như vậy: "Tôm tép thì nhảy lên bờ, bụng mình có thế mới ngờ cho ta;" mà nhiều khi chỉ vì muốn che lấp sự chẳng nên tự bản thân, con người kiếm cách vạch lá tìm sâu, bới móc kẻ khác mong lấp liếm điều thấp hèn nơi chính mình: "Lươn ngắn lại chê trạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm."

Chính vì "Cây vạy ghét mực tàu ngay" đã sinh ra nhiều dư luận hoặc cái nhìn đố kỵ làm nản lòng những người có ý chí muốn sống vươn lên: "Tiểu nhân quen thói phô bày, những điều xấu của kẻ này người kia." Thật ra, sự việc, hành động tự nó không xấu không tốt; xấu hay tốt tùy theo trường hợp và ý định của chủ thể. Tuy nhiên, thói đời đâu cần biết đến lý do hay nguyên nhân phát sinh hành động mà những lời phê phán lại tùy thuộc kẻ mang tình ý thầm kín: "Kẻ có tình ngồi rình trong bụi, kẻ vô tình lủi thủi mà đi." Kinh nghiệm sống cho thấy, một khi đã cố tình để xoi mói một người thì dù cho người đó có tốt lành đến mấy chăng nữa cũng bị cái nhìn thiên lệch lên án một cách sai lầm hoặc bất công. Hơn nữa, thế gian đâu thiếu kẻ "Càng làm đĩ càng già mồm" trong khi lại lắm người tò mò đồn thổi "Bưng miệng vò miệng lọ, ai bưng được miệng thiên hạ." Tuy nhiên, dẫu biết rằng "Mai mưa, trưa nắng, chiều nồm, trời còn thay đổi huống mồm thế gian," nhưng phỏng những ai điềm đạm đủ để khỏi bị dư luận thiên kiến, bất công này ảnh hưởng làm nhụt nhuệ khí?

Người xưa dùng hai chữ "thói đời" nghĩ cũng cay. Ngoài ảnh hưởng nản lòng do những dư luận bất công, sản phẩm của ý đồ hèn kém, con người còn phải đối diện với thực trạng phũ phàng "Cá lớn nuốt cá bé," mạnh được yếu thua "Mèo tha miếng thịt thì đòi, kễnh tha con lợn mắt coi chừng chừng," hay bợ trên đạp dưới, nhiều khi trơ tráo đến độ "Càng quen càng rèn cho đau," hoặc tham bôi "Con gà béo bán bên ngô, con gà khô bán láng giềng." Thói đời đâu ai lạ gì nào "Phú bất nhân, bần bất nghĩa;" nào "Chức thấp dèm xiểm quyền cao, kẻ nghèo đố kỵ, người giàu kiêu căng;" nào bon chen kiếm lợi lộc: "Khó khăn thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em," và "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai;" hoặc vụ lợi "Phú quí đa nhân hội, bần cùng thân thích ly," hay "Lúc làm thì chẳng thấy ai, lúc ăn ông xã ông cai đầy nhà." Có chăng: "Thế gian giúp miệng lao xao, ai cho đồng nào mà đỡ khó khăn." Tệ hơn nữa, "Lúc suy hiệp sức chung lo, đến khi thạnh đạt so đo tranh dành;" rồi hô lên: "Vô tiểu nhân bất thành quân tử."

Gẫm cho cùng, cuộc đời đâu thiếu những kẻ "Được thể dễ nói khoác," mà thật ra có chăng chỉ "Hẳn hoi lỗ miệng" vì "Lòng người ví tựa biển sâu, chỉ trong gang tấc biết đâu mà lường." Nôm na hơn, "Lòng người thăm thẳm mù khơi, không bờ không bến biết nơi nào dò." Chính vì thực trạng rắc rối khó nhận định đâu là ngay đâu là gian cho nên dù muốn sống sao cho phải chăng cũng là một vấn đề nan giải. Ngược lại nhiều khi không dám sống thật mà đành chấp nhận giả hình: "Đói lòng ăn trái khổ qua, nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười;" bởi chưng sự thật nhiều khi chẳng những mất lòng mà dám sống thật lại gặp cảnh rầy rà phiền phức: "Cây muốn lặng gió chẳng muốn ngừng;" đến nỗi không thiếu gì người chỉ còn biết chấp nhận trong than van: "Làm kiếp trâu kéo cày trả nợ;" mà nào đã chắc gì được yên bởi ách oái oăm sống sượng tham, sân, si của thói đời muốn biến mình thành nấc thang cho kẻ khác bước lên đài danh vọng: "Tượng chết vì ngà, điểu chết vì lông." Do đó, có lẽ những ẩn sĩ thời xưa đã có lý khi khoác lên mình chiếc áo an phận tìm chốn thâm sơn vui cùng cây cỏ, chấp nhận xa lánh chốn thế tục bon chen cho khỏi bị phiền hà bởi thói đời đua đòi đố kỵ "Mồ cha cái áo rách này, mất chúng mất bạn vì mày áo ơi." Từ những lý do ấy, không lạ gì, người thức thời nhiều khi có quan niệm và thái độ ngược hẳn những gì được coi là nên của lẽ bình thường, "Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ, người khôn người tới chốn lao xao;" bởi cũng chẳng lạ gì thói đời: "Nghèo hèn giữa chợ không ai đến, phú quí sơn lâm lắm kẻ tìm."

Dĩ nhiên sống là có sự liên hệ; mà đã có sự liên hệ tất nhiên phải đối diện với thực trạng cuộc đời, đối diện với cái nhìn thiên lệch, những quan niệm giá trị sai lầm, những lạm dụng, mưu đồ che dấu tham sân si, những thực trạng đau lòng cá lớn nuốt cá bé, mạnh được yếu thua, những ham danh vụ lợi đưa đến gian xảo lừa lọc. Chẳng những xã hội ngoại tại rắc rối chèn ép, thúc đẩy nhử con người chìm sâu trong bể dâu khó bề chống trả, thực trạng nội tâm đầy mâu thuẫn cũng không kém phần dập vùi kiếp nhân sinh. Thử hỏi ai có thể hài lòng với chính mình hoặc ai khi đối diện với bản ngã đã không một lần ăn năn và nhận ra mình tự mâu thuẫn: "Trách thân chẳng dám giận trời, trách thân lắm lắm giận trời bao nhiêu;" điều mình nhận ra chẳng nên lại tự nhào vô gắng sức tranh dành, "Ai xui ai khiến trong lòng, mau chân nhạy miệng mắc vòng thế gian;" còn điều mình thấy nên thực hiện thì lần lữa ngại ngùng để rồi cho vào quên lãng nhiều khi gây ra lắm nỗi bi ai: "Ngồi buồn trách lẫn Ông Xanh, khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười." Ai không cho rằng chạy theo danh lợi cho lắm cuối cùng cũng chỉ: "Hơn nhau tấm áo manh quần, nếu đem bóc trần ai cũng như ai;" thế tại sao "Kẻ hòng ra khỏi người mong chui vào" cái vòng danh lợi. Còn những yếu hèn chẳng ra gì phỏng ai chưa một lần cảm thấy: "Bực mình chẳng muốn nói ra, muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời!" Chẳng những thế, đến Trời cũng không thể chiều vừa lòng con người: "Đói thì nặng mặt sa mày, no thời tức bụng trời hay chăng trời!" Nào ai có thể theo kịp sự thay đổi tâm tính ý thích của mình: "Khi vui thì muốn sống dai, khi buồn lại muốn thác mai cho rồi." Hoặc "Chửa được thì hứng bằng rá, đã được thì đá bằng chân." Thế nên con người luôn luôn bị đối diện với điều mình không muốn: "Ghét của nào trời trao của đó," và cũng có thể cầu được ước thấy mà chính điều mơ ước lại là điều bất lợi cho mình: "Chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa." Lẽ đương nhiên, "Ai chẳng muốn đẹp, muốn giòn, muốn đi tháo dạ cho mòn lỗ trôn?" Nhưng nào lạ gì "Cực lạc" thì "sinh ai" cho nên con người không bao giờ có thể hài lòng với chính mình: "Sự đời lắm chuyện lăng nhăng, trăm năm để nỗi bất bằng cho ai." Bởi vậy, không nhận thức được thực trạng cuộc đời mà luôn luôn "Kén cá chọn canh" thì chỉ "Chê tôm lại phải ăn tôm, chê rau muống héo lại ôm dưa già." Do đó không lạ gì đã có ước mơ: "Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo." Thật ra, ai nhận thức được điều nên hay không nên tùy theo điều kiện hoàn cảnh mới có thể nhận ra niềm vui của cuộc sống trong sự liên đới với tha nhân cũng như giá trị bản thân: "Cá không ăn câu nói rằng con cá dại, vác cần câu về nghĩ lại con cá khôn."

Xét như thế, nào đâu phải chỉ cuộc đời biến động thay đổi khó lường; cá nhân, khi dám chân thành nhận thực bản thân, lại càng thấy mình cũng khó tự hiểu nổi bởi cuộc sống mang tính chất động và chỉ ngừng lại khi con người về cõi chết. Thế nên, con người cần sửa đổi để được lớn lên trong hành trình tiến tới chân thiện mỹ từ thế hệ này trải qua thế hệ khác. Nguyên tắc xử thế chỉ giúp con người một phần nào quy luật căn bản làm nồng cốt hoặc những nấc thang trong tiến tình sống vươn lên. Bởi đó, điều kiện tiên quyết vẫn tùy thuộc tâm tính con người, hoặc mở rộng chấp nhận thực trạng xã hội kiếm tìm cho mình đường hướng đi tới, hay tự dồn mình vào con đường bất mãn nhìn đời qua cặp kính tối đen của những hố thẳm không mảy may hy vọng có mầm sống tiêu pha tháng ngày một cách vô ích, hoặc tự định giá trị sai lầm về chính mình cũng như cuộc sống để rồi đi lạc vào ngõ chẳng nên, hủy hoại hồng ân đã được làm người.

Kinh nghiệm sống cho thấy, sẽ không hy vọng có được niềm vui ngoài sự liên hệ giữa con người với con người do đó cần sự liên hệ. Tuy nhiên, một thực trạng không thể chối cãi đó là hầu hết sự liên hệ giữa con người đều bắt đầu và được tiếp tục dưới hình thức lạm dụng dẫu về tinh thần hay vật chất và chấm dứt khi thấy người khác đã chẳng còn đem lại lợi lộc gì cho mình, "Thế gian chuộng của chuộng công, nào ai có chuộng người không bao giờ." Bởi đó, sự liên kết hòa hợp giữa hai người trong việc xử thế chỉ có thể xảy ra nơi ý nghĩ vì "Khôn ngoan kiếm ăn người, mạt đời kiếm ăn quanh;" những lạm dụng vật chất hay tiếng tăm, vị thế đều bị coi rẻ bởi tự mình làm mất thể diện "Thua năm quan không tiếc, điếm mắc điếm mới rầu" và mất vị thế bình đẳng trong giao tế: "Nhà giàu yêu kẻ thật thà, nhà quan yêu kẻ vào ra nịnh thần;" hoặc "Người đời ai có dại chi, khúc sông eo hẹp phải tùy khúc sông;" khi đã phải "tùy khúc sông" tức tự mình đã chấp nhận phần thua thiệt do nỗi khó khăn không tránh thoát. Hơn nữa, bởi con người thay đổi nên chỉ có thể có sự liên hệ hòa hợp khi "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" cho nên ý nghĩ và sự liên hệ giữa con người với con người không có chi là bền vững, có chăng chỉ là phiếm diện, nay còn mai mất tùy theo quan niệm và tâm tình của đôi bên. Ngược lại, điều phũ phàng của sự liên hệ như một cá tính tâm lý không thể chối bỏ là nếu thực sự hiểu một người tức là vừa cảm mến và vừa coi thường người đó nếu không muốn nói là coi khinh, "Năng mưa thì tốt lúa đường, năng đi năng lại xem thường xem khinh." Nói cách khác, khi mình mới biết một người nào, mình chỉ có thể thấy được nét phiếm diện nhưng càng có sự liên hệ lâu dài bao nhiêu, mặt trái thật sự của người đó theo thời gian và tình thân biểu lộ trong khi ai không hoan hỉ chung hưởng những điều tốt trái lại nào ai muốn chấp nhận sự chẳng ra gì của người khác. Bởi đó, bài học đầu tiên về xử thế là hãy để người khác an hưởng niềm vui của họ và nếu có thể, giúp họ trong môi trường đó chứ đừng bắt hay ước muốn họ phải theo kiểu cách của mình vì thật ra "Ai làm người nấy chịu." Cho nên, do những sự khác biệt giữa con người và con người, thực tình mà nói, nếu không giả hình, chúng ta cần đối xử với mỗi người một cách khác nhau.

Lấy gì làm quy luật cho con người giao tiếp với sự biến động của cuộc đời trong khi con người cũng thay đổi, lúc thế này lúc thế khác tùy thuộc tình cảm, hoàn cảnh, tâm lý? Nếu chỉ cuộc đời thay đổi, con người không đổi hoặc con người thay đổi và hoàn cảnh cuộc đời bất biến thì may ra những quy luật được tạo thành dựa trên thành phần chuyên nhất hy vọng có thể áp dụng được. Đối diện với thực trạng này, người xưa sâu sắc: "Thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên;" hay đơn giản hơn trong câu nói nhưng mang ý tứ khó hiểu: "Đình đám người, mẹ con ta." Đại khái cả hai câu khuyên nhủ: "Người đời phải xét thiệt hơn, đừng nghe tiếng sáo tiếng đờn mà sai." Tuy thế, mới nghe tưởng là dễ mà bắt tay thực hiện không dễ chi bởi sống thế nào để có thể hòa hợp hai trường hợp đối nghịch: "Áo năng may năng mới, người năng tới năng thương;" và "Càng thắm lại càng mau phai, thoang thoảng hoa nhài càng được thơm lâu"? Chính những yếu tố biến động gây ảnh hưởng nhiều khi khó thể hòa giải; do đó Tục Ngữ, Ca Dao được người xưa dùng để dạy con người về phương diện tu thân làm nền tảng cho cách xử thế. Như vậy, Tục Ngữ, Ca Dao về xử thế là phương cách tu thân trong liên hệ xã hội.

Xét đặc tính chung của các động vật hiện hữu trên mặt đất, chỉ con người mới có được mục đích tự mình nhắm tới cho cuộc đời ngoài bản năng sẵn có như sinh tồn, mưu sống... Trần Tuấn Khải cũng đã nêu lên đặc điểm này của con người khi khuyến khích lòng yêu nước: "Loài súc vật chỉ được no béo lấy thân là ngoe nguẩy đắc chí với nhau, còn thiết đâu đến nghĩa vụ với non sông. Vậy làm người phải nên khác loài súc vật." (Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến; Quyển Hạ; soạn giả Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng; tr. 14; Xuân Thu xuất bản.) Dĩ nhiên, mỗi người có đường hướng riêng để đạt điểm tới mình chọn; đó là lý tưởng theo ý mình; không có lý tưởng, con người cảm thấy cô đơn nên kiếm tìm, chạy theo những niềm vui nhất thời bên ngoài. Muốn đạt tới lý tưởng đòi hỏi một ý chí kiên quyết "Chặt mà không đứt không rời, người như dòng nước ấy người trượng phu." Cổ nhân khuyên: "Ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai." Chẳng may khi phải đối diện với phong ba cuộc đời, con người nên giữ vững lập trường: "Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo," hoặc "Chớ thấy sóng cả mà lo, sóng cả mặc sóng chèo cho có chừng." Cuộc sống con người không những có ảnh hưởng liên đới tới những người khác và vì không phải chết là hết như các loài sinh thú; kết quả cuộc sống của một người còn ảnh hưởng tới thế hệ hậu sinh mai sau: "Chữ rằng hổ tử lưu bì, làm người phải để danh gì hậu lai." Hoặc "Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ." "Danh gì" là danh dự thực sự một người tạo nên, là "tiếng thơm" nơi Ca Dao: "Người đời hữu tử hữu sinh, sống lo xứng phận thác dành tiếng thơm." Một con vật như con trâu chết đi bộ da còn hữu dụng; cuộc đời con người nên góp phần hữu ích cho cuộc đời sau này: "Trâu chết để da; người ta chết để tiếng." Có lý tưởng để tiến tới định hướng cho cuộc đời vẫn chưa đủ; con người cần những điều kiện đạt tới, nói cách khác, đó là lối sống phù hợp với sự liên hệ giữa người và người, cá nhân với cuộc đời. Lối sống này tạm gọi là đạo xử thế hay đạo bình thường. Gọi là "Đạo Bình Thường" vì ai cũng có thể thực hiện được và áp dụng trong đời sống.

ĐẠO BÌNH THƯỜNG

Người xưa có câu, "Nước lã mà vã nên hồ, tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan," không phải là không có lý. Xét về phương diện nhận thức để thăng tiến cuộc đời, con người chỉ cần một yếu tố tiên quyết đó là sự mở rộng tâm hồn để nhận biết mình, dùng sự nhận thức này làm căn bản tu thân, và chọn đường hướng đạt tới lý tưởng đã chọn. Người xưa đã sống; chúng ta đang thực hành một phần nào đó những nguyên tắc này nhưng không để ý do đó được gọi là Đạo Bình Thường. Đạo Bình Thường không đòi hỏi con người phải cắt bỏ căn tính của mình để trốn tránh cuộc đời nhưng trái lại, càng nhận ra bản chất con người của mình bao nhiêu, mình càng có thể thông cảm với người khác bấy nhiêu để nhập thế, hòa mình với đời, với người trong hành trình thâu tóm mục đích. Đạo Bình Thường không tìm cách xóa bỏ hoặc chạy trốn những thử thách cuộc đời với hy vọng có cuộc sống dễ thở, thoải mái hơn mà đối diện với tất cả những biến chuyển để rồi nhận định giá trị đồng thời chấp nhận hay không cho phép những rắc rối cuộc đời ảnh hưởng tới mình. Như vậy Đạo Bình Thường không đòi hỏi diệt dục bởi con người quí nhất là sự tự do, nếu đã không có tham sân si làm sao có dục; không có dục đâu cần tự do chọn lựa; vả lại, muốn diệt dục thì đã dục; mà không có dục lại giống như loài gỗ đá vô tri vô giác, bị đòn không biết đau, gặp nỗi thống khổ không thương cảm. Kinh nghiệm sống cho thấy, chỉ khi nào ăn không biết ngon, nhìn cảnh đẹp không dậy được niềm cảm ứng, không nhận ra giá trị cuộc đời mới có thể hết dục, tức là đã chết. Cũng thế, Đạo Bình Thường không cần điều kiện vô vi mà lại cần mục đích cuộc đời làm bạn đồng hành giúp năng lực sống. Thử xét, một người sống không có mục đích, không ham muốn bất cứ gì thì cũng chỉ như "người Kitô hữu" của Lin Yutang trong cuốn The Importance of Living; (1951) Nguyễn Hiến Lê dịch: Một Quan Niệm Sống Đẹp; đại ý: người không biết thưởng thức vẻ bao la, hùng vĩ, và muôn dạng của thiên nhiên, sự thay đổi của thời tiết đem lại cảnh sắc đẹp đẽ thơ mộng thì có được thưởng tới chốn tuyệt đỉnh thiên đàng cũng cảm thấy chán ngắt bởi giỏi lắm thì thiên đàng chỉ có một mùa, không chi thay đổi. Dĩ nhiên, mục đích của một người có thể là tốt, có thể là xấu. Xét về giá trị làm đẹp cuộc đời, một người sống sao hữu ích cho nhân quần xã hội, hai chữ "mục đích" ở đây được giới hạn trong ý nghĩa sống vươn lên với những tâm tình hướng thượng. Từ chủ đích này, Đạo Bình Thường trước tiên cần tự nhận biết bản chất thực sự con người.

Ai không nhận ra: "Ăn mày là ai, ăn mày là ta. Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày." Con người là chốn hội tụ của tất cả những biến động, thay đổi, thánh thiện tốt lành cũng như tội lỗi xấu xa, những ý hướng cao vời hoặc tâm tình yếu hèn nhơ bẩn; có thể nói, một người vừa là một vị thánh cũng vừa là một con người ươn hèn, đê tiện sống chung trong một thân xác nếu dám chân thành nhìn ngay thẳng tận đáy lòng mình. Nhưng ít nhất con người có khả năng nhận ra những điều đó đồng thời có tự do, một đặc ân của Thượng Đế ban cho mà chính Ngài cũng tôn trọng, để chọn lựa, quyết định mình sẽ trở nên như thế nào tùy thuộc ý muốn của mình. Khả năng nhận định và sự tự do chọn lựa này chẳng những phân định ranh giới giữa con người và các loài cầm thú mà còn giúp con người nhận ra giá trị cuộc sống, hồng ân sự sống, đồng thời tạo dựng giá trị riêng cho cuộc đời mình. Thế nên "Ngọn đèn được tỏ trước khêu bởi mình;" những quyết định, sự thăng tiến cũng như lối sống ảnh hưởng mình trước tiên theo sự thực hành mình chọn.

Ngoài ra, con người còn bao gồm những tính chất lẩm cẩm lỉnh kỉnh đối nghịch nhiều khi gây nên hành động tương phản với chính bản thân hoặc quan niệm hay lý tưởng đang theo đuổi. Chẳng hạn, ai không nhận thức được nóng giận mang nhiều điều thiệt hại; thế nhưng ai đã không một lần: "Ngờ đâu quá giận mất khôn, khi vui đã vậy khi buồn làm sao." Ai chưa bao giờ muốn được người khác để ý đôi khi đến nỗi trở thành "Người vụng đan thúng giữa đường;" hoặc dù cho ở vị thế nào, ai chẳng có lúc nhận ra mình bị ở trong vị thế dở khóc dở cười: "Lỡ quan lỡ lính lỡ làng, lỡ bề dân giả lỡ hàng công danh." Những tính chất lẩm cẩm đối nghịch ấy đôi khi còn trở nên quá tệ có thể so sánh với trường hợp "Bán ruộng nhà kiện ruộng chùa"...hoặc có thể chân thành mà nói như Phaolô tự thú trong Kinh Thánh: "Vì điều tôi muốn, tôi không thi hành, nhưng tôi lại làm chính điều tôi khinh ghét;" (Kinh Thánh; Roma 7: 15b). Hơn nữa, thử hỏi ai không có tật xấu nào đó dù nhỏ mọn đến đâu và cảm thấy tự xấu hổ vì biết bao năm tháng ngày giờ cố chừa sửa nhưng chứng nào vẫn tật nấy, vô phương trị liệu?

Mở rộng tâm hồn để nhìn lại xem thực sự mình như thế nào, những điều tốt lành, những cá tính chẳng nên có ra sao, ai cũng có thể thực hiện được. Từ khởi điểm nhận biết bản thân và kinh nghiệm về những lẩm cẩm vô phương cứu chữa nơi kiếp nhân sinh dẫn đến sự chấp nhận chính mình và tìm cách vươn lên, cổ nhân nhẹ nhàng: "Ai ơi chớ vội cười nhau, ngắm mình cho tỏ trước sau hãy cười." Qua kinh nghiệm "ngắm mình cho tỏ trước sau" một điều hiển nhiên được nhận thức đó là sự đối xử, thái độ của người khác đối với mình có thể là phản ảnh chính thái độ của mình. Người khác là chiếc gương mà mình đang soi; nếu nhìn thấy những điều tốt lành nơi kẻ khác, mình là người tốt, và nếu chỉ nhìn thấy những điều không nên không phải nơi họ, mình có thể là kẻ chẳng ra gì. Bởi vậy, nào có lạ chi, "Ai ơi xin chớ cười nhau, cười người hôm trước, hôm sau người cười." Thế nên, có thể rằng "Trách người một trách ta mười, bởi ta bạc trước cho người tệ sau."

Ai cũng chỉ là người nên mang những tính chất căn bản người giống nhau: khó hài lòng với thực tại "Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, trần có vui sao chẳng cười khì" (Nguyễn Công Trứ). Mặc dầu không ai giống ai tùy theo hoàn cảnh, vị thế, nhưng tựu trung, tính chất người luôn luôn gặp lỗi lầm và khó chừa sửa là chuyện bình thường vẫn đeo theo: "Thay quần thay áo thay hơi, thay dáng, thay dấp, nhưng người khôn thay." Thế nên sự khác biệt đáng phục nhất nơi con người là do sự nhận biết mình, chấp nhận, tha thứ cho chính mình, và cố gắng sống vươn lên hay không. Tâm tính, thái độ, lối sống một người tùy thuộc rất nhiều vào sự nhận thức này. Dĩ nhiên, nhận thức được mình thế nào là bước căn bản; phương cách nào nên theo để tạo giá trị cuộc đời đạt tới lý tưởng mình mong ước giữ vai trò quan trọng không kém cặp đường rầy dẫn những toa tàu qua các trạm. Tuy nhiên, bởi khó ai có thể hài lòng với chính mình nên dẫu thế nào chăng nữa, cũng không thể nào có được một đường hướng tuyệt vời cho mọi cá nhân khác biệt noi theo. Vấn đề còn lại tùy thuộc sự nhận thức bản chất từng người.

Kinh nghiệm sống cho thấy, "Có bột mới gột nên hồ;" nên lý tưởng, chí hướng là căn bản điều khiển tất cả hành vi và lẽ sống một người. Lý tưởng, chí hướng lại được tạo thành bởi những nhận thức từ thực tại cuộc sống có thể do những bất công dấy động tâm hồn hướng thượng tìm cách nâng cao cuộc đời, hoặc những gương sáng nơi người đồng thời hay do tiền nhân để lại. Cũng thế, trải qua bao thời gian, những châm ngôn luân lý sống, lời hay ý đẹp được khuôn đúc do kinh nghiệm thực tiễn nơi cuộc đời là gia tài nhân bản người xưa để lại đáng cho hậu thế noi theo: "Muốn may thì phải có kim, muốn hay thì ắt phải tìm người xưa." Những khuôn vàng thước ngọc khuyến khích con người sống đức độ, nhân nghĩa, cần mẫn, khó nghèo v.v... không thể bỏ qua nếu một người thực sự mang ước vọng làm đẹp cuộc đời chẳng những cho mình mà còn cho người khác. Những khuôn thước luân lý này là mẫu mực tu thân, là đường lối cho một người giữ đạo làm người để từ đó nhận thức bản chất con người rồi mới đặt vấn đề xử thế bởi một trong những đặc tính của xử thế là tạo đức cho mình. Hơn nữa, xử thế còn đòi điều kiện suy tính thiệt hơn chứ không phản ứng vội vàng, nghĩ đến mục đích và giá trị cuộc đời chứ không thỏa mãn sự bất mãn nhỏ nhoi để rồi "Giận con rận đốt cái áo."

Không phải cứ đặt mục đích và cố gắng đạt tới là có thể thành công mà cần biết giới hạn mục đích cũng như tiến trình phải theo tùy thuộc năng lực, khả năng và điều kiện mình có thể thực hiện. Đã biết bao người cố gắng theo đuổi những mơ ước viễn vông đến nỗi tiêu hao ngày tháng cho thành quả mộng tưởng, "Đố ai lượm đá quăng trời, đan gầu tát biển, ghẹo người trong tranh." Dĩ nhiên, muốn thành công cần bền chí, kiên gan, "Làm thì làm cho trót, gọt thì gọt cho trơn," hoặc "Ai ơi đã quyết thì hành, đã đan thì lặn tròn vành mới thôi," với tâm tình nhẫn nại chăm chuyên "Ở như cây quế giữa rừng, cay không ai biết, ngọt đừng ai hay;" không khoe khoang khinh bạc: "Thổ công vườn hoang chê vua bếp lọ dầu;" bởi "Kém đạo đức ngôi cao là họa, thiếu trí khôn việc cả khó thành." Lẽ đương nhiên, "hữu xạ tự nhiên hương;" người kiên trì trước sau rồi cũng đạt điều ước vọng: "Thử đem ngọc tốt ngâm bùn, ngọc kia cũng vẫn trắng trong không mờ." Đàng khác, sự kiên trì nhẫn nại còn đòi hỏi một nhận thức đặc biệt về giá trị của sự phê bình hay ý kiến nơi người khác. "Được người thân ái phê bình, là ân sư đấy giúp mình sửa sai;" tuy nhiên, không thiếu gì lời ra bàn vô theo nhiều ý đồ khác nhau về một vấn đề... Thật ra, dù cho lời phê phán có sai thì ít nhất người nghe cũng có thêm câu trả lời theo khía cạnh mới, chẳng có chi thiệt hại bởi: "Người mà sợ tiếng phê bình, sao thấy khuyết điểm để mình sửa sai." Như vậy, càng kiên trì lại càng cần: "Làm người phải đắn phải đo, phải cân nặng nhẹ phải dò nông sâu." Thế nên: "Hơi đâu mà giận người dưng, bắt sao được cánh chim rừng nó bay;" và có nên chăng: "Điều lành thì nhớ, điều dở thì quên."

Tóm lại, nhận biết và chấp nhận con người thực sự của mình, học hỏi nơi người xưa những kinh nghiệm sống hợp nhân bản và chọn một đường hướng sống vươn lên trong liên hệ xã hội sao cho "Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa;" đó là lối sống bình thường ai cũng có thể thực hiện. Nói cách khác, Đạo Bình Thường là lối sống hợp thời hợp cảnh "Đất có chỗ bồi chỗ lở, ngựa có con dở con hay; coi thì mà ở, chọn theo cỡ mà xài;" đồng thời chu toàn sứ mạng làm người hữu ích cho nhân quần xã hội không những khi sống mà còn để lại tiếng thơm cho hậu thế mai sau: "Người đời hữu tử hữu sanh, sống lo xứng phận thác dành tiếng thơm."


NỮ GIỚI

Viết về sự khác biệt giữa hai quan niệm Đông và Tây khi bàn tới ấn tượng của người Việt đang sống ở Tây Phương thấy sự tự do của người phụ nữ nơi đây ít lệ thuộc vào uy quyền người chồng cũng như luật pháp Hoa Kỳ dành rất nhiều quyền cho phụ nữ và trẻ em... và chồng không có toàn quyền đối với vợ..., linh mục Dominici Đỗ Minh Trí, S. J. cho rằng "Những phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam bắt nguồn từ Nho Giáo... Lòng hiếu thảo với cha mẹ phải được coi trọng hơn tình yêu vợ chồng... Chính vì vậy mà người vợ bị hy sinh vì địa vị của người mẹ chồng trong gia đình" (Việt Nam Quê Hương Tôi; trang 82). Trong khi đối với Tây Phương, "Xã hội không có giai cấp và đặt nền tảng trên sự bình đẳng. Mọi người đều có một giá trị như nhau, đều bình quyền với nhau bởi vì mọi người đều là con của Thượng Đế" (trang 82-83).

Chính vì quan niệm bình đẳng giữa hai phái, người Tây Phương có luật cấm không được đánh phái nữ. Thực tế mà nói, 60 phần trăm đàn ông Tây Phương vẫn còn đôi khi đánh vợ dẫu luật pháp nghiêm cấm đến nỗi bất cứ vì lý do gì mà thượng cẳng chân hạ cẳng tay với phái nữ, dân râu mày đều bị coi là trái; lý do: đàn bà không đủ năng lực bảo vệ chính mình. Đây chỉ là trên luật pháp theo cái nhìn chung. Thực ra, đâu thiếu gì người đàn bà khỏe hơn đàn ông, hoặc chấp nhận bị đòn, mà nhiều khi còn ngược lại... để rồi cảnh gà mái đá gà cồ chẳng phải là hiếm hoi trong cuộc đời.

Xã hội và tâm não Tây Phương được dựa trên Kinh Thánh: "Thiên Chúa tạo dựng nên người đàn ông để cai quản mọi tạo vật Ngài đã tác thành. Và Ngài đã lấy xương sườn cụt của người đàn ông tạo nên người đàn bà" (K.N. 2: 22-23). Theo các nhà thần học xét về giá trị tương quan của phái nam và phái nữ, câu Kinh Thánh này nói lên sự bình đẳng và giá trị kết hợp của hôn nhân, vợ chồng trở nên một, không ai hơn ai, người nọ bổ túc cho người kia và cùng nhau xây dựng cuộc sống chung... Hai người đã trở nên một thì không còn gì được coi là của riêng chồng hay riêng vợ mà chính ngay cả thân xác, theo thần học hôn nhân Công Giáo, người này có quyền trên thân xác người kia... Ngoại trừ những trường hợp bất thường thiếu sự hòa hợp hay có những lý do riêng không thể được chấp nhận.

Người đàn bà được nhìn theo giá trị bình đẳng tất nhiên bao gồm bình quyền; do đó người Tây Phương dễ nói lên những đặc tính đáng ca tụng hoặc nhận xét vô tư nơi đối tượng khác giống hơn. Dĩ nhiên, dẫu cho tới ngày nay, nhân loại sắp bước vào thế kỷ 21, đàn ông vẫn còn đang là phái tính dẫn đầu xã hội. Có những bộ lạc theo chế độ mẫu hệ; người đàn bà làm chủ gia đình; của ngoài đồng thuộc về người chồng nhưng khi đã đem về tới nhà thì đương nhiên trở thành của vợ... Con cái theo họ mẹ và chỉ đàn bà mới được chấp nhận làm tộc trưởng (Tôi không nhớ rõ bộ lạc nào thuộc về người Thượng tại Việt Nam, hoặc là Cà Răng Căng Tai, hoặc là Thái trắng); tuy nhiên, chế độ mẫu hệ này không được phổ biến.

Người Tây Phương có nhiều câu nói, nhận xét về phái nữ qua thơ văn, truyện, kịch, khó có thể biết được cho hết. Trong giới hạn nhỏ nhoi, tôi tạm ghi lại một vài lối nhìn, nhận xét... không thể được gọi là mẫu mực, mà chủ đích chỉ để dẫn chứng cho cái nhìn về nữ giới của Tây Phương.

L. F. Cervantes cho rằng "Vai trò căn bản của phụ nữ nơi bất cứ xã hội nào là để thiện toàn chính mình về những phương diện thể lý, tình cảm, tâm não, luân lý và đạo đức cũng như tôn giáo. Nữ giới được mời gọi cùng với nam giới phát triển nhân tính con người tiến tới sự hoàn thiện nhất. Từ sự khác phái tính với nam giới, phụ nữ có những đặc tính và tài năng khác biệt hòa hợp với phái nam, và vì thế vai trò của nữ giới trong xã hội, một cách lý tưởng, bao gồm tính chất sinh động của mọi tài năng để phát triển xã hội tới mức tối đa. Tuy nhiên, khi nói về nữ giới, nhiều vấn đề cần được để ý tới như môi trường xã hội nào được đề cập, người phụ nữ đó ở trong giai cấp nào vì vai trò của họ thay đổi tùy theo tuổi tác, giáo dục, giàu nghèo, độc thân hay trong cuộc sống đôi bạn, có con hay không và nhiều hay ít con, chồng ở nhà hay đi vắng; đồng thời người phụ nữ đi làm hay chỉ chăm sóc nhà cửa, gia đình. Nếu xét về vấn đề xã hội thì lại cần được nói đến loại xã hội nào, thành phố hay thôn quê, trong môi trường nông nghiệp hay kỹ nghệ, số dân đông hoặc ít, nơi thời bình hay thời chiến và có bị ảnh hưởng những xáo trộn, nề nếp của hệ thống gia đình hay không. Xét thế, còn nhiều nguyên nhân và lý do ảnh hưởng tới vai trò một người phụ nữ trong xã hội." (New Catholic Encyclopedia; Vol. 14 Jack Heraty & Associates, Inc. Palatine Ill. U. S. A.; 1981)

Qua tư tưởng của nhà văn nhà báo, lối nhìn phát xuất tự nhiên hơn tùy theo kinh nghiệm cá nhân, để ca tụng hoặc châm biếm. Với lối phát biểu của họ, bất xét người phụ nữ được khuôn mẫu, giáo dục ra sao, cái nhìn ít lý luận đầy cảm nhận này nói lên tính chất đa dạng của phụ nữ. Lẽ đương nhiên không ai có thể tự hào là người có thể biết hết về phụ nữ qua kinh nghiệm sống riêng của mình.

Đã là người, ai cũng có những tính nết hay và dở, do đó cái nhìn của người khác về mình đều có những điểm đúng hoặc khó lọt tai. Đối với kinh nghiệm về phụ nữ cũng thế, những câu nói, cảm nghĩ, hay tư tưởng của mỗi người nói lên một khía cạnh nào đó tùy theo kinh nghiệm của chính họ với một số phụ nữ nào đó. 426 năm trước kỷ nguyên, Euripides trong Andromache viết: "Đối với đàn bà, yêu thương là tất cả." Tâm lý bình thường, câu "Yêu nên tốt, ghét nên xấu" có lẽ bắt nguồn từ kinh nghiệm của nữ giới chăng vì phụ nữ phản ứng theo tình cảm nhiều hơn lý trí nên khi yêu thương ai, dù điều chẳng ra gì của người đó cũng trở thành dễ mến. Jacques Deval nói lên nhận xét này trong mục tổng kết tin tức ngày 10 tháng 5, 1954: "Đàn bà không bao giờ dùng trí thông minh của họ ngoại trừ khi họ tính toán sự chi tiêu." W. Sornerset Maugham (1921) nói lên lòng độ lượng của nữ giới: "Người đàn bà sẽ luôn luôn hy sinh nếu bạn tạo cho nàng cơ hội. Đó là cách thức bày tỏ được ưa chuộng bởi lòng khoan dung độ lượng của họ." Trong khía cạnh tình yêu, "Người đàn bà có thể trở nên bất cứ gì mà người yêu của họ muốn nàng trở thành" (Tommy and Grizel; J. M. Barrie; 1813). Hơn nữa, "Tính chất sinh động biến đổi qua nhiều trạng thái khác nhau là một trong những đức tính của người đàn bà; nó giúp nàng luôn luôn tươi mát và gây cảm giác mới mẻ tránh cho người đàn ông có ham muốn đa thê. Thế nên, khi một người đàn ông có được một người vợ hiền (good), chắc chắn rằng họ sẽ có được tất cả" (The Glory of Grey; G. K. Chesterton; 1910). Xét như thế, "Cả cuộc đời của người đàn bà trở thành diễn tiến của sự quyến rũ lôi cuốn" (The Broken Heart; Washington Irving; 1819) Và để có được sự lôi cuốn, "Đàn bà giống như những giấc mơ, họ khôngbao giờ giống như những điều bạn ước muốn" (Each in His Own Way; Luigi Piradello; 1924). Một điều khác biệt với đàn ông là "Đàn bà thường suy tính về thành quả trong sự yêu thương nên ít khi họ cảm thấy mích lòng" (Lacon; Charles Caleb; 1825). Nên lắm lúc bạn cảm thấy ngỡ ngàng về phản ứng êm dịu của họ trong khi lại ăn năn bởi thái độ nóng sốt quá đáng của mình. Lawrence Durerell (1957) cho rằng "Đối xử với đàn bà, chỉ có 3 vấn đề được đặt ra, hoặc là bạn yêu nàng, hoặc là bạn chịu khổ vì nàng, hay bạn biến nàng thành văn chương." Sức mạnh của đàn ông được biểu lộ qua ý chí, lòng kiên quyết nhưng ngược lại, "Sức mạnh của nữ giới được biểu lộ khi nàng võ trang bằng những sự yếu ớt của mình" (Letter to Voltaire; Marquise du Deffand; 1759).

Lẽ đương nhiên, đã là người làm sao tránh được những điểm khiếm khuyết. Một người cho dầu tốt lành mấy đi chẳng nữa thế nào cũng có những điều chính họ không thích, không muốn ngay nơi bản thân. Hơn nữa, bình thường mà xét, bản tính con người thì mỏng dòn do đó dễ dàng bị sai lầm, hoặc mang một số tính xấu nào đó được coi như cố tật. Phái nữ dưới con mắt người Tây Phương dầu được coi là ưu tiên nhưng không phải vì thế mà không bị đem ra mổ xẻ thẳng thắn. Như một đặc tính chung, phái nữ đa số ít dùng lý luận mà bị ảnh hưởng phần nhiều bởi cảm tình, cảm giác nhất thời. Emile Gaboriau trong cuốn Monsieur Lecoq (1869) đã viết: "Phái nữ diễu cợt với thực tại. Chỉ cho họ mặt trời và nói cho họ biết bây giờ là ban ngày; ngay lập tức, họ nhắm mắt lại và nói không phải, bây giờ là ban đêm." Chính vì ít khi dùng đến lý luận, nói theo William Hazlitt (1823) "Không bao giờ dùng đến lý luận," nên ít khi họ thấy họ sai lầm. Đặc tính đứng núi này trông núi kia cao rất mạnh mẽ nơi người đàn bà nên rất khó cho họ cảm thấy hài lòng với thực tại. Bởi vậy họ nhìn thấy nhiều sự sai lầm nơi chính gia đình của họ và cứ tưởng các gia đình khác hạnh phúc hơn, "Đối với các bà, còn gì lầm lỗi hơn ngoài gia đình của họ" (Andromache; Euripides). Một cố tật của phụ nữ là chỉ thích nhìn nếu không nói là bới móc những điều thiếu sót nhỏ mọn không đáng để ý trong khi chẳng đếm xỉa gì đến những việc lớn lao hơn bạn làm cho nàng; "Đàn bà không bao giờ thấy điều bạn làm cho họ; họ chỉ thấy những gì bạn không làm" (La Paix Chez Soi; Georges Courteline; 1903). Ngoài ra, "Tất cả phụ nữ còn độc thân đều tốt lành nhưng sẽ trở thành những người tệ hại khi đã là vợ" (Ngạn ngữ Anh). Bởi tham vọng của phụ nữ leo thang cấp lũy tiến: "Thoạt tiên, nàng không ước ao gì ngoài một người bạn đời nhưng vừa ngay khi có chồng, nàng nước muốn tất cả mọi sự trên thế gian" (Country Town Saying; Edgar Watson Howe; 1911). Beautmont và Fletcher có cùng đồng quan điểm trong cuốn The Scornful Lady (1614): "Làm gì có luyện ngục, chỉ có sự khổ ải phát sinh từ đàn bà mà ra." Có lẽ Émile Gaboriau còn cay đắng hơn về kinh nghiệm liên hệ với đàn bà: "Phụ nữ không bao giờ thú nhận, ngay cả khi họ hoàn toàn biết rõ chính họ lầm lỗi. Họ có bao giờ chân thành đâu" (Monsieu Lecoq; 1869). W. S. Gilbeart thậm chí ngậm ngùi hơn: "Trong tất cả những sự đau đớn khổ ải giáng họa trên kiếp người đều có dính líu tới đàn bà" (Fallen Fairies; 1909). Có phải đó là kết quả của sự tham vọng nơi nữ giới chăng như O'Henry bày tỏ: "Điều mà nữ giới muốn là điều mà bạn không có. Nàng càng muốn hơn những gì hiếm hoi." Có lẽ chính vì vậy không lạ gì nữ giới thích đeo kim cương hột xoàn. Vật chất đã thế, những chuyện chẳng ra gì lại là niềm vui của họ: "Hình như phụ nữ cảm thấy vui sướng nói xấu (sick talk) người khác" (The Phoenician Women; Euripides; 411 B. C.). Nói hành nói tỏi thành quen nên đa nghi lời người khác là chuyện bình thường nơi nữ giới. Tuy nhiên điều ngược hẳn với tính chất đa nghi bắt nguồn từ tật xấu rỗi miệng lại là thích người khác khen mình: "Phụ nữ nghi ngờ tất cả những gì bạn nói ngoại trừ những lời bạn khen họ" (The Note Book; Elbert Hubbard). Bởi thích được khen nên phụ nữ rất ít khi khen người khác đẹp, do đó "Nếu một phụ nữ đẹp chấp nhận rằng người đàn bà khác đẹp, chúng ta có thể kết luận người đàn bà đó phải đẹp gấp mấy nàng" (La Bruyère, Characters; Henri Van Laun; 1688). Nhìn vào những điều "chẳng nên" bình thường nơi nữ giới, có lẽ không ai ngỡ ngàng với câu nói quá đáng của Nietzsche "Lầm lỗi thứ nhì của Thượng Đế là đã tạo dựng đàn bà" (The Antichrist; 1888). Không hiểu quí vị râu mày nghĩ gì về sự lầm lỗi này của Tạo Hóa! Có điều, 200 năm trước kỷ nguyên, Plautus đã hô ầm lên rằng: "Này bạn, không thể nào kiếm được người đàn bà tuyệt hảo đâu; có chăng chỉ là vấn đề so sánh giữa những sự khùng điên" (The Pot of God). Âu đó cũng là một câu an ủi lỡ khi có sự phiền hà.

Xét thế, nếu chỉ nhìn vào những điểm tốt lành, nét dịu dàng, lòng khoan dung độ lượng trong sự bày tỏ chân thành theo quan điểm Tây Phương thì các ông chồng đúng là đang sống nơi thiên đàng hạ giới. Ngược lại, chỉ đếm xỉa tới những điều không nên không phải được trắng trợn nói ra, các ông chồng mới thật là đáng thương làm sao, hỡi các đấng mày râu!


NỮ GIỚI VIỆT NAM

Nói về hôn lễ, Toan Ánh cho rằng hôn lễ người Việt theo qui thức của Trung Quốc với đôi sự thay đổi những lễ nghi do Nhâm Diên, thái thú quận Cửu Châu truyền sang Việt Nam đầu tiên. (Phong Tục Việt Nam Từ Bản Thân Đến Gia Đình; Toan Ánh; 1969; tr. 336). Có lẽ vì ảnh hưởng của Trung Quốc nên câu Ca Dao về Cù Lao Chín Chữ (Cửu Tự Cù Lao) bao gồm chín chữ Hán chỉ về công đức của cha mẹ:

Công cha như núi ngất trời

Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông

Núi cao biển rộng mênh mông

Cù Lao chín chữ ghi lòng con ơi.

Cù Lao Chín Chữ gồm có: "Sinh (sanh, đẻ), cúc (nâng đỡ), phủ (vuốt ve), súc (cho bú mớm), trưởng (nuôi cho lớn), dục (nuôi dạy, giáo dục), cố (trông nom), phục (xem tính mà dạy bảo), phúc (gìn giữ);" (Việt Nam Tự Điển, Quyển Thượng; Lê Văn Đức; Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn; 1970; Phần II Phụ Lục Tục Ngữ, Thành Ngữ, Điển Tích. Tr. 82.)

Xét theo công ơn của cha mẹ đối với con cái và bổn phận của con cái đối với cha mẹ thì con nào cũng như con nào. Con nào cũng cần lấy sự báo hiếu, đền ơn công đức cha mẹ làm đầu, vì con nào cũng được cha mẹ nuôi nấng dưỡng dục đầy đủ với Cù Lao Chín Chữ. Tuy nhiên, điều khác biệt từ quan niệm của con người làm nảy sinh lắm ý hơn kém. Ngày xưa các cụ nhà ta không chấp nhận quan đàn bà nên có lẽ vì thế mà thân phận nữ giới Việt Nam không được coi trọng chăng. Phận nữ nhi được xác định: "Con gái ngoại tộc, đánh tốc đuổi đi." Con gái ngày xưa không được cho đi học bởi đã có ý nghĩ sai lầm cho rằng con gái biết chữ chỉ để viết thư cho trai. Nói như thế cũng chỉ là đại khái vì ngày xưa đâu thiếu gì đàn bà biết chữ Nôm chẳng hạn Thị Lộ bán chiếu sau làm vợ Nguyễn Trãi; Đoàn thị Điểm soạn Truyền Kỳ Tân Phả và dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Đặng Trần Côn ra chữ nôm.

Nhìn vào cuộc đời nữ giới Việt Nam từ nhỏ tới trưởng thành, lập gia đình... đến tuổi già qua Tục Ngữ, Ca Dao, thân phận họ bồng bềnh với hy sinh và thua thiệt. Nữ giới bị coi là phụ thuộc: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử." Theo quan niệm ngày xưa, phụ nữ may ra có được chút uy quyền vào thời làm mẹ chồng thì lại trái ngược hẳn với thân phận đã bị lệ thuộc của mình trước đây mà trở nên khắt khe tới độ độc ác với nàng dâu. Có lẽ chính vì quan niệm nam tôn nữ ti đã tạo nên những bà mẹ chồng khắc nghiệt bởi mình đã không được đối xử xứng đáng với quyền làm một con người do luôn luôn bị lệ thuộc nên khi có cơ hội, tiềm thức khao khát bày tỏ uy quyền đã bị lạm dụng đến độ tàn ác với con dâu hoặc do kinh nghiệm mình đã bị đàn áp khốn khổ nên cũng muốn kẻ khác chịu đày ải như mình. Nói như thế không phải chỉ các bà mẹ chồng mới có những người tàn ác với con dâu; có nhiều bố chồng còn quá cả mẹ chồng bởi quan niệm "Con dâu đích thực mẹ cha mua về." Đối với cuộc sống cả đời không bước ra khỏi cổng làng thì chữ "mua" đã trở thành án nặng nề cho thân phận phụ nữ, nhất là vô phúc gặp trường hợp đôi bên cha mẹ có điều gì kình chống nhau hay tham vọng hốt của hồi môn không thành.

Ngay từ khi mới lọt lòng, nữ giới đã bị coi "Nữ sanh ngoại tộc." Câu nói thoạt nghe đơn giản nhưng ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc đời một người. Bởi đã bị coi là "ngoại" thì sao cho có được sự đối đãi đồng đều như những thành viên khác trong gia đình mà vì "Con gái là con người ta" nên người xưa còn không dạy nghề cho con gái đối với những nghề nghiệp cần nhiều kinh nghiệm lưu truyền.

Nhìn phiếm diện bên ngoài, nữ giới từ thuở còn nhỏ đã mang vẻ yểu điệu ngược hẳn với nam giới. Con gái nhẹ nhàng, đầy vẻ yếu kém hơn con trai; ngay những trò chơi hồi nhỏ, chơi làm bếp, ru em, bế em, bán hàng v.v... cũng ngược hẳn với những trò chơi đầy sinh động ồn ào của trẻ khác phái... Lớn dần thì lại được dạy dỗ theo nề nếp tứ đức: Công, Dung, Ngôn, Hạnh và rồi ảnh hưởng khuôn mẫu quan niệm Tam Tòng.

Tứ đức đối với người đàn bà cũng khác với tứ đức của người đàn ông. Đối với nam giới, hiếu, đễ, trung, tín: hết lòng thờ cha kính mẹ; yêu mến và binh vực anh chị em; hết lòng với vua với nước; giữ lời hứa. Đàng khác, công, dung, ngôn, hạnh của nữ giới nếu nhìn theo khía cạnh xã hội, phần nào đó bị gò bó trong một khuôn mẫu nhỏ hẹp. "Việc nhà phải khéo léo, mặt mày nghiêm chỉnh, ăn nói khôn ngoan lễ phép, nết na đằm thắm" (Việt Nam Tự Điển; Lê văn Đức; Quyển Hậu; tr. 1475); "Phận gái tứ đức vẹn tuyền, công, dung, ngôn, hạnh giữ gìn chớ sai" nhiều khi ảnh hưởng khiến con người không dám sống thật thà, chân thành và cởi mở. Phỏng rằng khi cơn giận vì lý do nào đó bùng lên mà cố gắng giữ cho được đằm thắm thì phải là bậc đại thánh hoặc người không dám sống thật. Tuy nhiên, nếu không nhìn về khía cạnh gò bó nơi tứ đức của nữ giới mà chỉ xét theo tầm mức ảnh hưởng tốt lành thì công đức của tứ đức không phải là nhỏ; ngược lại chính sự ảnh hưởng này đã ngăn cản phụ nữ Việt Nam thi thố tài năng để chung tay kiến tạo xã hội thăng tiến hơn trong tinh thần bình đẳng. Con người, dù bất cứ là ai, phải được coi trọng hơn mọi sự phụ thuộc.

Đồng thời quan niệm Tam Tòng cũng chắn tầm hướng vươn lên nơi nữ giới. "Tại gia tòng phụ" để rồi công việc làm ăn, khuôn mẫu gia đình, con cái, đặc biệt con gái chỉ biết cắm đầu cắm cổ làm theo cho dù nhận ra những điều không nên hoặc có thêm sáng kiến cũng không có cơ hội hay không được chấp nhận đóng góp vào để cải tiến nếp sống gia đình... "Xuất giá tòng phu" nhiều khi làm hư hại người chồng. Chữ tòng không chỉ có nghĩa chồng đi đâu vợ theo đó; mà dù mang nghĩa vợ đi theo chồng cũng chỉ có tính cách một chiều. Chữ tòng, theo Lê văn Đức, có nghĩa "nương theo chồng" (Việt Nam Tự Điển Quyển Hạ; tr. 1429). Quan niệm nương theo chồng, lệ thuộc vào chồng làm người vợ phần nào ỷ lại, ít dụng suy tính bởi đã có người lo lắng hết mọi sự. Chẳng may những chuyện bất thường xảy đến cần sự tính toán, quyết định, một người vì không quen tính toán chỉ giải quyết sự việc theo toan tính nhỏ mọn nhất thời mà thiếu hẳn nhận xét sâu rộng có thể ảnh hưởng trong tương lai do quyết định giải quyết sự việc theo nhu cầu hiện tại. Chẳng những thế, chữ tòng một phần nào còn làm hạ giá nữ giới. Toan Ánh viết: "Nền luân lý cổ truyền Á Đông trọng nam khinh nữ và bắt đàn bà phải tùy thuộc đàn ông... Lại nữa, đàn ông có quyền bỏ vợ, đàn bà không có quyền bỏ chồng. Luật lệ đặt ra thất xuất để bó buộc người đàn bà, nghĩa là đặt ra bảy tội theo đó chồng có thể bỏ được vợ..." (Phong Tục Việt Nam; tr. 286).

Phan Kế Bính cũng nói lên điều tương tự trong cuốn Việt Nam Phong Tục: "Chỉ người đàn ông được tự do, nghĩa là muốn chơi bời gì thì chơi, muốn đi lại đâu thì đi lại, người vợ không có quyền ngăn cấm được, mà vợ hơi có điều gì trái gia pháp thì chồng có thể chửi được. Chồng có thể lấy năm, bảy vợ, mà vợ chỉ được phép lấy một chồng" (Sống Mới; 1983 tr. 75). Thật khó thể hiểu tại sao có được quan niệm "tòng phu" như thế; có thể rằng nó được sinh ra bởi thiếu sự hợp tác, nói lên tiếng nói của phụ nữ từ bao lâu nay. Hơn nữa, một trong tam tòng là "Phu tử tòng tử" càng nói lên thân phận một đời lệ thuộc của nữ giới, "Tam tòng tứ đức hãy còn ghi, bé nương cha mẹ, già thì theo con." Đa số những câu Ca Dao nói về nữ giới đều khuyên dạy phận gái giữ tam tòng tứ đức; phỏng rằng Ca Dao được đặt ra cũng do nam giới? "Thông kinh sử ấy phần nam tử, giữ nết na là phận nữ nhi, sống sao trọn chữ xướng tùy, sau này em khỏi lỗi nghì với mẹ cha." Có lẽ không nên quá khắt khe với quan niệm độc quyền của nam giới khi truyền tụng lại những quan niệm gò bó trói buộc làm hại đến muôn ngàn cuộc đời của nữ giới trong điều kiện quan niệm lệ thuộc đã ăn sâu tận tâm khảm bởi nữ giới không chịu lên tiếng nói và không dám tranh đấu cho quyền làm người của mình; vả lại có thể tại phần nào ỷ y, tránh trách nhiệm vì cứ nhắm mắt sống theo thì may ra sẽ có cuộc đời êm ả không sóng gió, tránh được những gánh nặng chia bổn phận tương đồng nơi gia đình và xã hội.

Phụ nữ thường được cho là chân yếu tay mềm và lắm khi lại cố gắng tỏ ra vẻ yểu điệu thục nữ càng tạo cơ hội cho quan niệm lệ thuộc ảnh hưởng thêm. Bởi thế, người con gái nên lo tập luyện tính tình khi chẳng may trời bắt tội không có nhan sắc mặn mà bằng những người cùng lứa đương thời để được: "Tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người." Người con gái lại còn được dạy dỗ, chuẩn bị để làm vợ, tòng phu: "Con ơi mẹ bảo đây nầy, học buôn học bán cho tày người ta; con đừng học thói chua ngoa, họ hàng ghét bỏ người ta chê cười; dù no dù đói cho tươi, khoan ăn bớt ngủ liệu bài lo toan; phòng khi đóng góp việc làng, đồng tiền bát gạo lo toan cho chồng; trước là đắc nghĩa cùng chồng, sau là họ mạc cũng không chê cười. Con ơi nhớ bấy nhiêu lời." Nữ giới được chuẩn bị như thế nhưng nào đâu đã đủ, nào còn tiết nghĩa, nào còn phu xướng, phụ tùy: "Chữ rằng phu xướng phụ tòng, làm thân con gái có chồng phải theo;" theo một cách tối mặt thế mà có lên tiếng nói đã bị chê trách: "Đàn bà chân yếu tay mềm, làm ăn chẳng được lại hay nỏ mồm." Có phải phụ nữ "làm ăn chẳng được" hay tại không dám làm?

Ngày xưa dân Việt có tục tảo hôn, con gái mới mười mấy tuổi đầu đã được cha mẹ gả bán. Không hiểu chữ "bán" đi theo chữ "gả" từ đâu ra, có lẽ từ lối nói quen dùng. Theo Lê văn Đức, "gả bán" mang nghĩa gả chồng cho con mà đòi lễ cưới nhiều: "Tiếc thay da trắng tóc dài, bác mẹ gả bán cho người đần ngu" (Việt Nam Tự Điển; tr. 514). Thiển nghĩ nên dùng tiếng "dựng vợ gả chồng" hợp lý hơn theo quan niệm thời xưa. Nếu chỉ nhắm về sắc thì nữ giới chỉ có một thời và qua thời đó tất nhiên "Xuân bất tái lai." Thực ra, cha mẹ nào sinh con ra mà không muốn cho con mau thành gia thất có cháu nội cháu ngoại thêm vui cửa vui nhà, "Trồng rau cũng muốn rau xanh, có con cũng muốn mau thành thất gia."

Đối với nữ giới, tuổi cập kê mang nhiều sắc thái mơ mộng, thương thương nhớ nhớ kèm theo bản năng tự nhiên ước muốn cuộc sống đôi bạn có lẽ bởi tính chất thiên bẩm của họ được sinh ra để làm vợ và làm mẹ. Ca Dao diễn tả tâm lý thiếu nữ qua cái nhìn thực tế thấy sao nói lên vậy hoặc dùng hình ảnh thiên nhiên để ví von. Khi mới lớn, ai không muốn người khác biết đến mình để khoe sắc khoe hương, khoe tài, khoe nết, khoe sự giỏi giang hoặc để thỏa phần nào lòng mông lung mơ ước lứa đôi. Muốn thế, chốn đô hội là nơi có nhiều người cho các nàng đua chen trình diễn: "Gái chưa chồng trông mong đi chợ." Dĩ nhiên, với tâm trạng "Con gái ngoại tộc," khi mơ ước một chốn dung thân, nàng nào lại không mang tâm trạng "Tròng trành như nón không quai, như thuyền không lái như ai không chồng." Dù nhan sắc chim sa cá lặn hay chẳng may Trời bắt tội phần nào thua sút chị em, bị sống nơi bối cảnh cha mẹ đặt đâu con ngồi đó hoặc giữa nền luân lý răn dạy nữ giới chỉ nên ở trong thế thụ động, phận gái đều cảm thấy: "Thân em như thể trái chanh, lắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước mơ." Mộng cao bao nhiêu, con người lại sợ nghịch cảnh bấy nhiêu; hơn nữa, sống dưới quan niệm tòng phu, lỡ gặp người chồng chẳng ra gì cả là một đời ngoi ngóp: "Thân em như hạt mưa sa, hạt sa bãi cát hạt sa vũng lầy;" ấy là đương thời xuân sắc. Muộn hơn chút nữa một đôi năm, khi mà các bạn đồng trang lứa đã tay bế tay bồng mà mình chưa gặp người xứng đôi vừa lứa hay bởi có mộng cao hơn mà chưa gặp người vừa ý, cám cảnh tương lai với thân phận mơ hồ, giới má hồng sao thoát ưu tư: "Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai." Bởi đời con gái chỉ một thời thế nên tâm trạng nữ giới phần nào bị thúc đẩy muốn có đôi bạn sớm vì e "Gái ba mươi tuổi đã toan về già" nên: "Thân em như chiếc đò đưa, khách qua phải đón kẻo trưa lỡ làng." Hoặc: "Liệu cơm mà gắp mắm ra, liệu cửa liệu nhà mà lấy chồng đi; kẻo mai kia mốt lỡ thì, cao thì không tới thấp thì không thông."

Quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" đã bao nhiêu đời ảnh hưởng nữ giới Việt Nam. Con gái lớn lên đến tuổi dựng vợ gả chồng, cha mẹ là người chọn và quyết định nơi chốn cho con. Sở dĩ cha mẹ lo chọn vì ảnh hưởng tư tưởng luân lý "nam nữ hữu biệt," nên trai gái không có cơ hội gặp gỡ tìm hiểu nhau. Hơn nữa, một phần nào cũng vì quan niệm môn đăng hộ đối và lòng lo lắng cho con cái, nghĩ rằng điều gì có thể tốt theo suy luận của mình cũng tốt cho con nên dùng quyền riêng mà xếp đặt do đó phận nữ nhi tùy nơi cha mẹ: "Phụ mẫu sở sinh để cho phụ mẫu sở định; công việc vợ chồng phải chờ lịnh mẹ cha." Và nếu có nhiều người nhòm ngó khó cân phân, cha mẹ cũng là người chọn lựa tối hậu: "Kiếm nơi nước vận cặm sào, chừng cha với mẹ định nơi nào em sẽ hay." Bởi thế, chẳng may cha mẹ quyết định gả cho người mình không thương thì "Lỡ rồi ăn miếng trầu anh, đêm ngày lo sợ mặt xanh như chàm."

Tâm lý chung, chị em gái muốn có người chồng để nương tựa; không ai muốn lấy chồng về làm con ở hoặc gánh nặng. Chính vì thân phận người nữ lệ thuộc vào cuộc đời người chồng do đó họ muốn có người chồng khôn. Thực tế, không phải cứ kiếm mà được người chồng khôn; có chăng chỉ như may rủi; nói cách khác, âu cũng là phận số: "Chữ rằng họa phúc vô môn, tìm giàu thì dễ tìm khôn khó tìm." Giàu ở đây có lẽ là sự giàu có của gia đình người thanh niên vì "Cha mẹ giàu con có, cha mẹ khó con không;" do đó dù gia đình chàng giàu, chưa chắc lấy chàng mình về sau đã giàu... Thế nên, không có chồng cũng phiền mà chọn chồng cả là vấn đề khúc mắc do kinh nghiệm thực tế cho thấy con người thì thay đổi đâu ai biết sau sẽ ra sao. Hơn nữa "Lấy chồng xem giống" chưa chắc đã là một quy luật bảo đảm vì đã biết bao nhiêu con ông cháu cha có những cuộc đời chẳng ra gì về sau, phỏng làm sao có được sự chắc chắn hoàn toàn theo ý mình muốn; hơn nữa, con người thì luôn luôn thay đổi.

Người con gái khi còn thời, còn lắm kẻ nhòm người ngó, còn có quyền chọn lựa dẫu hôn nhân do quyết định của mẹ cha. Chẳng may thời đã qua, thật là điều ngậm ngùi cho tình cảnh cô đơn bóng chiếc: "Còn duyên kẻ đón người đưa, hết duyên đi sớm về trưa một mình." Tình cảnh lỡ thì của phận gái đối với tâm tư người phụ nữ ngày xưa khác hẳn với ngày nay. Thời bây giờ, quan niệm con người về cuộc sống độc thân cởi mở hơn vì độc thân cũng là một lối sống do cá nhân chọn lựa và khi đã chọn lối sống độc thân, cảnh gia đình đầm ấm của những người chung quanh ít ảnh hưởng đến tâm tư hơn là người lỡ thì. Chẳng những nỗi lo lắng muộn màng đã làm khổ ải người lỡ thì mà ngay đến miệng đời cũng không buông tha lại còn chọc chạch nói cạnh nói khóe đôi khi đến độ sỗ sàng: "Thối tai hôi nách rình rình, không ai hỏi đến cậy mình chính chuyên." Nào ai dám khua môi múa mỏ mà nói cậy nọ cậy kia bởi phận số của con người đâu phải cứ muốn gì là được vậy, "Em đẹp cha mẹ em lo, đêm nằm lắm kẻ rình mò ước ao; em xấu như tổ o­ng bào, đêm nằm mở cửa chẳng ai vào làm chi." Có ai lỡ sinh nhằm ngôi sao xấu thủ vị mới hiểu nỗi lòng cho kẻ chẳng may không có nhan sắc hoặc số phận lận đận hẩm hiu: "Thôi thôi tắt đuốc đi thầm, còn duyên đâu nữa buôn tầm bán hương." Dù có muốn "Hết duyên ông lão cũng vơ làm chồng" thì đâu có ai hỏi mà vơ; nói chi đến cảnh kén những trai tơ. Bao nhiêu lần mơ ước mà nào đâu có được, biết bao phen háo hức lòng mà vẫn bơ vơ: "Buồn chẳng muốn nói, gọi chẳng muốn thưa, tính chuyện lấy chồng tỉnh như con sáo." Hơn nữa, "Làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta o" những nơi nào; còn phận mình suốt đời "Tròng trành như nón không quai." Tủi thay cũng thân phận má hồng...! Với quan niệm xa xưa, ai ai cũng nên có vợ có chồng nhất là sống trong một xã hội mà gia đình chính là nơi đùm bọc và bảo vệ con người khi đến tuổi già. Có gia đình, sinh con cái, sau này về già có người giúp đỡ. Không có gia đình, khi tuổi trời đã cao lấy nơi đâu nương tựa. Đãnhìn thấy những hoàn cảnh ấy nơi xã hội, người lỡ thì đêm ngày bị nỗi lo lắng cho tương lai; nhìn gia đình người khác đầm ấm mà xót xa cho thân phận, ngay đến những cảnh thường tình cũng ảnh hưởng nỗi âu sầu riêng tư: "Gà kia sao mày vội gáy dòn, làm tao mất vía kinh hồn về nỗi chồng con."

Dần về sau, cuộc đời thay đổi khiến cho lối sống thay đổi; do sự ảnh hưởng đó, tâm tình và quan niệm con người cũng đổi thay theo. Hơn nữa, vào những thời kỳ chiến tranh, trai thiếu gái thừa, quan niệm môn đăng hộ đối về hôn nhân cũng dần dần nhạt phai chuyển mình thành xứng đôi vừa lứa, "Đời xưa kén những con giòng, đời nay ấm cật no lòng thì thôi." Chị em nữ giới ai may mắn, cuộc đời thay đổi chóng vánh: "Đàn ông quan tắt thì chày; đàn bàn quan tắt một ngày nên quan." Quan niệm "Nam nữ thọ thọ bất thân" không còn được coi là giáo điều mà giới trẻ do ảnh hưởng Tây Phương đem đến đã có cơ hội tìm hiểu nhau trước khi quyết định ăn đời ở kiếp chứ không như ngày xưa "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy." Tuy nhiên, dẫu cho ảnh hưởng Tây Phương đến mấy thì phận gái, "Chữ trinh đáng giá ngàn vàng" vẫn là điều được coi trọng. Thế nên, chẳng may chị em nào lỡ "Khôn ba năm dại một giờ" bởi "Nghe quân tử nói òn, mà rồi có lúc ẵm con một mình" thì cả là một sự tai tiếng lớn cho gia đình; chẳng những thế mà nhiều khi còn lây tới cả họ hàng, láng giềng: "Con sâu làm rầu nồi canh, một người làm đĩ xấu danh cả nhà." Mặc dầu "Mía sâu có đốt, nhà dột có nơi" nhưng tiếng đời bao giờ mà chẳng quá sự thật: "Ở đây có đứa lấy trai, cho nên Trời hạn nắng hoài không mưa." Nào ai dám lấy chồng người khác mà phải nói lấy trai! Tình cảnh của những chị em đi trật đàng lễ giáo đều bị mọi người đàm tiếu.

Tục Ngữ có câu: "Phận gái mười hai bến nước, trong nhờ, đục chịu." Ngày xưa, làm thân con gái cho dù có thương thầm ai cách mấy cũng không bao giờ dám tỏ tình và chỉ có gia đình người trai mới có quyền ngấp nghé. Phận gái phải đợi đàng nhà trai tới dạm hỏi thế nên "trong nhờ, đục chịu;" may mắn có nhiều người ngấp nghé thì có chút quyền chọn lựa; chẳng may không ai ngó nhòm tới chỉ còn cách "Đứng cửa hóng gió nồm nam" vì "Trâu tìm cọc, cọc chẳng tìm trâu." Theo quan niệm thủ tiết, phụ nữ chỉ lập gia đình một lần và dù cho chồng chẳng may bị mất sớm, người vợ ở vậy nuôi con, thờ chồng, "Chuông treo trước cửa nhà chùa, làm thân con gái bán mua một lần." Vì chỉ có một lần, do đó, đối với người nữ, sống chết cũng gắn bó với hôn nhân. Sự ràng buộc không thể dứt khỏi của nữ giới với hôn nhân đã được coi như phận số cả đời. Được người chồng tử tế, gia đình là hạnh phúc cho người phụ nữ; chẳng may gặp kẻ không ra gì, gia đình trở thành muôn đời tù tội đối với thân phận đàn bà.

Phụ nữ Việt Nam khi đã có chồng, mọi liên hệ, giao tế ngày trước đều được coi như bị cắt đứt. Từ đây, nàng thuộc về một gia tộc mới; đối với cha mẹ đẻ, nàng kể như không còn bổn phận mà mang trách nhiệm hiếu đễ về phần họ hàng cha mẹ nhà chồng đến độ có thể nói thay cho chồng, "Làm gái giữ đạo tam cang, có chồng phải gánh giang san nhà chồng." Sự liên hệ với gia đình ruột thịt của mình đã như không được đếm xỉa tới phương chi thân bằng quyến thuộc hoặc những mảnh vụn tình xưa nếu có: "Con thỏ núp bóng trăng sơn băng thủy kiệt, em có chồng rồi ngãi biệt tình ly." Bởi người đàn bà có chồng lệ thuộc vào chồng nên cần sống sao cho đẹp lòng chồng dù cách ăn nói hay may mặc, hình dáng... tất cả nên vì chồng: "Gái thì giữ việc trong nhà, khi vào canh cửi khi ra thêu thùa; với người ăn nói dạ thưa, với chồng cư xử sớm trưa dịu hiền." Nếu được chồng thương, nàng được tất cả: "Chồng thương tóc những mau dài, cái duyên vẫn đẹp cái tài vẫn nên." Nhìn theo khía cạnh khác, câu này mang thêm ý nghĩa căn dặn người vợ nên như thế nào để được chồng thương.

Đứng về khía cạnh sống và giá trị làm người, cuộc đời người đàn bà khi đã có chồng tùy thuộc vào người chồng, nhưng không phải vì thế mà mọi người vợ là tôi tớ hoặc nô lệ của chồng. Vị thế người đàn bà ảnh hưởng không những người chồng mà toàn bộ cả gia đình con cái, nhiều khi tới đại gia đình: "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng." Sự ảnh hưởng của người vợ đối với người chồng dầu ít khi được nói lên hoặc để ý đến nhưng không phải là không có mà đôi khi còn lớn lao hơn điều mọi người có thể nghĩ tới trong cách đối xử, liên hệ vì "Giàu về bạn, sang về vợ." Bạn bè, họ hàng thân quen nể phục người chồng thế nào tùy thuộc cung cách của người vợ. Có thể vì quan niệm "Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về" khiến mọi người có ý nghĩ rằng người vợ hiền ngoan, tử tế là do ảnh hưởng của người chồng chăng nên có câu "Chồng sang vì bởi vợ ngoan." Kinh nghiệm sống cho thấy: "Vợ ngoan làm quan cho chồng." Ai có được người vợ hiền ngoan, tử tế, chính cách cư xử của người vợ mà bạn bè, họ hàng thân thuộc trọng nể gia đình mình. Xét thêm về sự ảnh hưởng của người vợ trong vai trò làm mẹ đối với con cái trong hệ thống gia đình Việt Nam, không ai chối cãi được sự ảnh hưởng này khuôn mẫu hóa và kiến tạo nề nếp cũng như tâm tính những người con sau này. Chẳng hạn, không nói chi đến những vấn đề to tát, ngay giọng nói, kiểu nói và cung cách sống, con cái rập khuôn lối nói năng, cá tính của người mẹ. Tuy nhiên, trong những gia đình nào mà chồng chúa vợ tôi, con cái cũng một phần nào bị ảnh hưởng mặc cảm nô lệ thiếu tự tin vào khả năng hay trí phán đoán của mình không những khi còn nhỏ sống nơi gia đình mà còn về sau bởi tất cả mệnh lệnh được ban ra từ người cha, người chồng trong khi người mẹ và các con chỉ có bổn phận rập theo thi hành thay vì cần suy xét cân nhắc... lâu ngày thành quen và tạo nên cá tính.

Dẫu có câu nói "Khôn ngoan cũng thể đàn bà, tuy rằng vụng dại cũng là đàn ông," nhưng theo kinh nghiệm thực tế không lấy gì có thể minh chứng là đúng vì ai không biết "Mũi dại thì lái chịu đòn." Đâu thiếu gì gia đình một tay người vợ làm nên và chồng chỉ như ông hoàng an hưởng. Nếu để ý, có những thực trạng gia đình chồng thì cờ bạc, rượu chè trong khi người vợ phải lo lắng làm lụng, bóp chắt đầu tắt mặt tối chẳng những nuôi con mà còn lo trả nợ cho sự hoang đàng của chồng. Không thế làm sao có câu: "Chồng con là cái nợ nần, thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm," hoặc "Bán trầu ăn những chủm cau, chồng con có biết cơ màu này chăng!"

Bình thường, "Gái có chồng như rồng có vây." Vợ chồng, người việc này, kẻ việc kia chung tay góp sức xây dựng gia đình thì đó là cơ hội cho người đàn bà phát triển khả năng cũng như tài khéo đến độ cao nhất có thể. Đàn bà với bản tính tỉ mỉ, hy sinh, lại thích hy sinh cho người mình thương như một bản tính đặc biệt của người vợ và người mẹ, đã là nguồn yêu thương cho chồng con. Một tay người vợ lo lắng cho con cái, châm chế chi tiêu trong gia đình, hiếu thuận với bố mẹ chồng cũng như hòa nhã với anh em họ hàng để người chồng an tâm lo lắng làm ăn kiếm sự sinh sống cho gia đình. Thực ra, nói như thế chỉ mới đúng được một khía cạnh của vai trò người vợ và người mẹ nơi phụ nữ Việt Nam bởi sự làm ăn của người chồng cần rất nhiều sự bàn hỏi nơi người vợ đồng thời cũng cần được phụ giúp trong sự tính toán chi dụng để dành vốn liếng. Đàn ông đa số bản tính phóng khoáng đôi khi đến độ "Bóc ngắn cắn dài" không để ý đến những chi tiết nhỏ nhặt nếu không có sự hỗ trợ chăm sóc tỉ mỉ của vợ về công việc làm ăn hoặc chi dụng, chẳng mấy hồi "Của trong nhà thành của ngoài đồng." Bởi đó, chẳng lạ gì "Của chồng công vợ."

Tuy nhiên, bình thường, "Thế gian được vợ mất chồng" hoặc ngược lại, và hơn nữa, cứ "Ghét của nào Trời trao của ấy." Kinh nghiệm sống cho thấy, "Đố ai bắt kiến nhổ lông, ra mưa không ướt thì ở vừa lòng nhau." Sống với nhau càng lâu, người này càng nhận ra nhiều lỗi lầm của người kia. Những lỗi lầm dù bình thường hay vô ý nhưng sự ảnh đối với người thân thiết nhất như vợ chồng thì lại trở thành lớn lao. Hơn nữa, tâm lý chung, người này cứ cho rằng người kia vì sống chung với mình lâu dài như thế có thể hiểu hết mình nghĩ thế nào, ưa gì hoặc không thích gì. Bởi vậy khi những chuyện bình thường vô tình làm mất lòng xảy ra sẽ được nghĩ là cố ý do đó càng làm đau lòng nhau hơn. Có thể đó cũng là nguyên nhân sinh ra câu nói: "Thương nhau lắm, cắn nhau đau." Đâu có tình nghĩa nào gắn bó và tha thiết hơn tình nghĩa vợ chồng; vả lại, là con người, những điều tốt lành người khác thực hiện cho mình thì dễ quên mà những gì làm phiền lòng thường lại cứ hằn sâu mỗi ngày một chồng chất. Nhìn theo khía cạnh tâm lý, người Việt qua cuộc đời khổ cực, vất vả trong việc mưu sinh làm ăn lâu ngày thành quen, tự tạo cho mình khả năng và tính chất chịu đựng dai dẳng. Hầu hết người Việt là người tình cảm nên thường chịu đựng và nhịn nhục thay vì những gì không vừa lòng là nói thẳng ra như người Tây phương. Vì thế, trong cuộc sống hôn nhân, sự nín nhịn, chịu đựng những điều vô ý bình thường của người bạn đời chồng chất từ năm tháng này qua năm tháng khác mà không được nói ra hoặc không được để ý, lâu dần trở thành mối nguy hại không những cho tâm tính con người mà còn khiến cho tình nghĩa vợ chồng phần nào bị giảm bớt.

Bởi cá tính đàn ông phóng khoáng nên dễ quên trong khi đàn bà tỉ mỉ, người vợ lại càng ghi nhớ những điều phiền hà để rồi sự chịu đựng càng ngày càng gia tăng. Thế nên, người chồng thường bị các bà nhìn thấy nhiều điều chẳng ra gì hơn những việc tốt lành các ông đã thực hiện. Thử hỏi, được bao nhiêu người vợ không than: "Gái khôn lấy phải anh chồng dại, cũng như hoa lài cặm bãi cứt trâu?" hoặc "Gái có chồng như gông mang cổ" không phải chỉ nói về sự bó buộc, cực khổ của thân phận phụ nữ trong đấng bậc gia đình mà có thể phần nào biểu hiệu cảnh huống tâm tư phải chịu đựng những điều phiền hà ray rứt.

Có được người chồng biết thương vợ, thương con, lo lắng cho gia đình thì đó cả là một thiên đàng hạ giới đối với người vợ. Chẳng may trong huống cảnh ông không ghê bà cũng chẳng gớm để sinh ra những chuyện thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì đó lại càng phiền não, đau lòng cho người phụ nữ. Dĩ nhiên, cuộc đời có người nọ, kẻ kia; gặp những đức ông chồng ù lì không biết lo lắng, người vợ đành phải gồng mình gánh chịu đối chọi với cuộc đời cho sự sinh sống gia đình; Thế nên, "Tưởng rằng củi mục dễ đun, ai ngờ củi mục khói um cả nhà." Nếu có hỏi nữ giới ưa thích những gì nơi nam giới, chị em bạn gái ai không muốn có những anh bồ hào hoa phong nhã, nhưng đụng đến chuyện lập gia đình, chị em bạn gái ai lại không muốn có người chồng chân chỉ hạt bột. Ước mơ và sự tính toán có lẽ thường đối nghịch lẫn nhau nơi nữ giới. Qua kinh nghiệm về đường chồng con, các bà đều biết niềm khổ ải: "Thứ nhất chồng cờ bạc trong nhà, thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn." Gặp phải đức ông chồng "rựa cùn," người phụ nữ mang thêm tâm trạng thua kém bạn bè: "Một là em lấy chồng quan, hai là chồng lính ba là chồng dân; nhưng em không chịu lấy chồng đần, về cha mẹ mắng ra đàng chúng bạn khinh."

Được nuôi dưỡng trong khuôn mẫu xã hội với châm ngôn luân lý tam tòng, tứ đức, người phụ nữ Việt Nam dù muốn dù không đã bị trói buộc cả đời với người chồng và được coi như định mệnh đã an bài dù cho có thế nào chăng nữa. Tuy nhiên, quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp" một phần nào ảnh hưởng và khơi nguồn cho đàn ông "Giàu đổi bạn, sang đổi vợ." Chính vì quan niệm "Gái chính chuyên một chồng," người vợ, ai không thế, cố gắng giữ chồng của mình không muốn để lọt vào tay kẻ khác do đó sinh ra ghen: "Ớt chi là ớt chẳng cay, gái chi là gái chẳng hay ghen chồng; ớt chi là ớt chẳng nồng, gái chi là gái có chồng không ghen." Tuy nhiên, khi người chồng chung chạ với người đàn bà khác, người vợ, như một đặc tính chung của phụ nữ, chồng mình không đả động đến mà tất cả nỗi ghen tức đổ dồn vào tình địch thay vì cắn xé chồng: "Mồ cha con đĩ bên sông, cơm trắng rượu nồng mày rủ chồng tao. Chồng tao tao quí tao cưng, mày hun mày hít chẳng còn chút hơi." Đã biết người ta cơm trắng rượu nồng mà mình không cố gắng cho hơn lại còn đem ra phân bì! Âu đó cũng có thể là chuyện thường tình của con người bởi "Thương nhau trái ấu cũng tròn, bồ hòn cũng ngọt;" vì đã chắc gì "con đĩ bên sông" rủ chồng mình mà có thể chồng mình lăn xả vào nó, đem tiền bạc, mồ hôi nước mắt của mình dâng cho nó!

Lập gia đình đối với nữ giới Việt ngày xưa đâu phải chỉ hai vợ chồng sống sao cho thuận hòa, lo làm ăn gầy dựng tổ ấm mà lấy chồng là lấy cả họ và nhiều khi còn làm dâu cả họ đặc biệt là bố mẹ chồng. Chẳng những thế, lối sống và thái độ của con dâu, một khía cạnh nào đó được coi như phần nào đại diện cho thân thế gia tộc nhà mình đối với họ hàng nhà chồng. Hoàn cảnh phận gái làm dâu có thể nói giống như tâm điểm cho mọi mũi tên nhắm tới. Thử xét một người đang sống quen theo lề lối riêng tư phải hội nhập vào một gia đình hoàn toàn khác biệt từ kiểu cách ăn nói, đi đứng, tâm tính cũng như sinh hoạt thường ngày... sao có thể một sớm một chiều có được những thói quen mới cho phù hợp hoàn cảnh khác lạ. Hơn nữa, những gánh nặng nàng dâu phải chịu, những cảnh vì thương chồng hoặc vì lấy chồng nàng dâu đã chấp nhận đối diện và lãnh nhận bao nhiêu khó khăn khổ ải do quan niệm xưa dưới sự đàn áp ép buộc của cha mẹ chồng, lời o­ng tiếng ve nhức nhối từ mấy cô em chồng hoặc họ hàng nhà chồng... phỏng đó có phải là sự trả nợ cho quan niệm "mua về." Mua con dâu về làm việc thay vì thuê con ở hoặc còn những cảnh "Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng!"

Mặc dầu "Mua heo chọn nái, mua gái chọn giòng;" tuy nhiên, tâm tính con người đâu có thể nhận ra được một cách đúng đắn theo hình dáng phiếm diện bên ngoài. Khi còn con gái, nhất là ở lứa tuổi cập kê, nàng nào chẳng đẹp, chẳng thơm; nàng nào không cố gắng tỏ ra thùy mị dễ thương, dễ mến. Hơn nữa, ai thoát được cảnh đánh giá trị con người theo vẻ bề ngoài... thế nên, xét về mặt trang điểm và diễn xuất, các nàng có lẽ có tính chất kịch sĩ khá cao. Về phương diện "Mua gái chọn giòng," quan điểm này chưa chắc đã là nguyên tắc luôn luôn đúng vì "Cha mẹ sinh người, Trời sinh tính." Tâm tính con người không phải chỉ được khuôn mẫu hóa từ gia đình mà còn bị ảnh hưởng từ xã hội và môi trường sống cũng như điều kiện cơ thể v.v... Xưa nay, có ai sống rập khuôn với mẫu mực gia đình mình đã lớn lên từ tấm bé? Hơn nữa, lối sống của một người cũng tùy thuộc hoàn cảnh. Một người dầu được sinh trưởng trong một gia đình nề nếp, gia giáo, nhưng sau này phải đối diện với thực tại đảo điên, tư cách và lối sống tất nhiên sẽ chuyển đổi sao cho phù hợp để bảo vệ chính mình. Người con gái về làm dâu một gia đình có kiểu cách sống khác lạ với lối sống cũ tất nhiên gặp lắm cảnh ngỡ ngàng, khó xử. "Nhập gia tùy tục," ai không biết thế; tuy nhiên, có những tục mới nơi gia đình chồng chẳng may trái ngược hẳn với quan niệm sống sẵn có nơi nàng dâu, phỏng bao lâu mới có thể tùy? Thêm vào đó nào ai biết được ý cha mẹ chồng ngấm ngầm muốn gì mà chiều theo. Thật ra, dù có biết hết cha mẹ chồng muốn gì chưa chắc con dâu đã có thể làm cho họ hài lòng vì tham vọng con người thì vô bờ bến. Chẳng những thế, thường thì những gì mình không thể thực hiện được lại muốn người khác phải hoàn thành! Như vậy, cho đến muôn đời với quan niệm ngày xưa, nàng dâu sẽ chẳng bao giờ có thể làm hài lòng dù một phần nhỏ của cái tham vọng vô bờ, con đẻ của quan niệm mua con dâu nơi bố mẹ chồng.

Đứng về phương diện khác, thân phận con dâu chẳng khác chi một người mới tới xứ lạ, "Đến đây đất nước lạ lùng, con chim kêu phải sợ con cá lùng phải kiêng." Một người bình thường tới xứ lạ, sống được thì ở, không sống được thì đi; ưng thì tham gia, hội nhập, chẳng ưng sống tách biệt không ai dám đụng đến mà "Con chim kêu phải sợ, con cá lùng phải kiêng" thì nàng con dâu phải chịu những cảnh khó xử đến như thế nào? Mang tiếng rằng lấy chồng nhưng thường lại trở thành người ở để "Bưng trầu hầu nước" có khi còn bị đối xử tệ bạc gấp mấy lần con ăn đầy tớ. Thử hỏi bao nhiêu nàng con dâu được bố mẹ chồng may sắm như ý mình muốn? hay giỏi lắm được hai bộ để lấy tiếng may sắm... Thế mà "Chó béo đẹp mặt chủ nhà, con dâu rách rưới bà gia thẹn thuồng."

Ai sống trên đời mà có thể làm đẹp lòng hết mọi người? Nàng dâu nào có thể làm vừa lòng bố mẹ chồng luôn kiếm chuyện bới móc, vạch lá tìm sâu. Trên đời này được mấy bố mẹ chồng nói lên được những điểm của con dâu hay hơn con gái mình! Do đó cũng chẳng lạ gì những cảnh: "Thương chồng phải khóc mụ gia, nghĩ tôi với mụ có bà con chi." Có thể câu ca dao này là điều nhắc nhở cho các bà mẹ chồng tương lai. Bố mẹ chồng nào đã hết, còn những "bà cô bên chồng;" tệ hại hơn nhất là chẳng may nàng dâu gặp phải những bà cô trời bắt tội không được mặn mà cho lắm...!

Phụ nữ Việt Nam ngày xưa, có thể nói, phần đông là mẹ chồng cay nghiệt bao nhiêu, là nàng dâu oan ức, khổ ải bao nhiêu, là người vợ chân tình, tha thiết và phục tòng chồng bao nhiêu thì lại cũng là người mẹ cao vời bấy nhiêu. Cuộc đời một người phụ nữ Việt Nam chan chứa đầy đủ đắng cay ngọt bùi, hà khắc, dễ thương, dịu ngọt, âu yếm... Họ có thể ví như biển hồ lai láng, "Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào" đối với con cái, nhưng cũng vùng biển đó khi nổi sóng đã nhận chìm biết bao tàu bè. Với nguồn nước chan chứa êm đềm phẳng lặng ngày nao cũng đã có lần tràn vô những mảnh đất hiền hoà cuốn trôi nhà cửa súc vật và ngay cả con người... trong cương vị mẹ chồng... Trái ngược với vai trò mẹ chồng hà khắc cay nghiệt với nàng dâu, tâm tình bao la của vai trò người mẹ không ngôn ngữ nào có thể diễn tả, chia sẻ cho thấu. Những tính chất độc ác được tạo nên do quan niệm sai lầm nơi xã hội và lối nhìn cổ xưa nơi một bà mẹ chồng còn có thể kể, nhưng lòng của bà mẹ Việt Nam chẳng ai có thể đo. Với lối nhìn này, hình như người phụ nữ Việt Nam là nơi trộn lẫn của các thái cực nơi những vai trò: làm dâu, làm vợ, làm mẹ, và làm mẹ chồng.

Thử tưởng tượng hình ảnh một nàng dâu bụng cao vượt mặt, nói cách khác "bụng mang dạ chửa" lại gặp hoàn cảnh bố mẹ chồng ác nghiệt, sau khi nấu nướng, mồ hôi cái mồ hôi con đổ ra bởi thời tiết nóng nực cộng thêm sức nóng cũng như khói bụi mịt mù do đun bếp bằng rơm rạ mà đến bữa cơm còn phải lo quạt cho bố mẹ chồng ăn trước... Thử tưởng tượng lồng trong hoàn cảnh đó, nàng dâu phải thức đêm bóp chân tay cho bố mẹ chồng rồi sáng sáng, dẫu đã bị mệt mỏi vì thai nghén mà vẫn còn phải bưng nước nóng cho các ngài rửa mặt v.v... trong khi người chồng, vì quan niệm hiếu dễ ngày ấy đành chấp nhận cho qua không dám hé răng bởi có nói thế nào chăng nữa cũng bị luân lý kết án bất hiếu... hoặc ngu si đến độ sợ những điều không đáng sợ hay không biết nhận định lẽ phải trái thế nào. Ở chung với bố mẹ chồng "để làm dâu," mọi sự chi chế nơi mẹ chồng... Nàng dâu phải chịu cảnh thua thiệt... Ngay cả đến con mình đôi khi không được coi là thuộc về mình mà thuộc về gia đình nhà chồng bởi nàng dâu chỉ là thứ máy đẻ, "mang nặng đẻ đau" cháu ông bà. Tới thời khai hoa nở nhụy, nếu mẹ tròn con vuông mà lại là con trai thì ông bà hí ha hí hửng; nàng dâu được đối xử dễ thở hơn chút bởi nhờ lộc của con trai. Chẳng may con sinh ra bị èo uột do ảnh hưởng bởi nếp sống làm dâu thì trăm tội cũng về nàng vì "Phúc đức tại mẫu" mặc dầu đàng khác nàng chỉ được coi như công cụ để sinh con... Có lẽ ngày xưa, trong cuộc đời làm vợ, ngày hạnh phúc nhất của người phụ nữ Việt Nam là ngày đôi vợ chồng được chấp thuận cho "ra riêng."

Nơi xã hội nông nghiệp sơ khai nghèo khổ, các bà mẹ thường "chân lấm tay bùn," "mò cua bắt ốc" hoặc may mắn cũng phải buôn bán tảo tần phụ giúp chồng nuôi sống gia đình. Dĩ nhiên, trong hoàn cảnh nghèo, các bà mẹ thường phải "Thắt lưng buộc bụng" xoay xở chiều nọ cách kia mới mong đủ chi chế qua ngày. Rồi con càng đông, mức chi dụng càng tăng, người mẹ càng phải tảo tần... Tuy nhiên, dù cùng làm lụng với chồng nơi nương ngô, rẫy khoai, hay ruộng lúa mà sự quán xuyến nhà cửa vẫn luôn phải sao cho ngăn nắp, gọn gàng, nào lo cơm nước cho gia đình, nào tã lót, giặt giũ cho chồng cho con v.v... tất cả đều một tay người mẹ. Người chồng lo làm những công việc nặng; ngược lại, nếu so sánh những công việc nặng và những công việc được mệnh danh là nhẹ, thời gian và sự làm việc của người vợ nhiều hơn người chồng. Sự làm lụng đã thế, về đường con cái, đụng một chút là "con dại cái mang" hoặc "con hư tại mẹ"...

Nơi gia đình con cái hòa thuận êm ấm thì không sao, chẳng may gặp phải đứa con hư không biết nghe theo sự chỉ bảo của cha mẹ thì trăm tội cũng đổ đầu người mẹ mượn cớ "Cây lành sanh trái ngọt." Chẳng những thế, Ca Dao không hiểu sao đã có câu: "Con là nợ, vợ là oan gia, cửa nhà là oan báo." Ngược lại, những công lao của người vợ được đem ra kể chẳng bao nhiêu, lời than tiếng trách nhiều khi chỉ làm nản lòng, nhụt đức hy sinh: "Thứ nhất vợ dại trong nhà, thứ hai nhà dột thứ ba nợ đòi." Có được những lời khen tặng biết ơn vợ thì cũng phải mãi sau này trong văn chương; chẳng hạn: "Quanh năm buôn bán ở ven sông, nuôi đủ năm con với một chồng," (Trần Tế Xương).

Qua bao thế hệ, phụ nữ Việt Nam vẫn âm thầm chấp nhận làm gương nhẫn nhục để gầy dựng cho con cháu có được ngày nay. Cho dù có những "Con sâu làm rầu nồi canh" thì vẫn có thể nói mỗi người phụ nữ Việt đã mang sẵn nơi mình dòng máu anh hùng của nữ giới.


CƠ CẤU GIA ĐÌNH

Xã hội Việt Nam đặt nền tảng trên gia đình. Có thể nói gia đình là một xã hội nhỏ trong đó người cha đứng đầu. Dầu được coi như mọi quyền hành nằm trong tay người cha, vai trò người mẹ nắm hầu hết phần quan trọng, điều hành của gia đình. Con cái là những phần tử của xã hội căn bản này và được giáo dục bởi cha mẹ. Xét theo nghĩa bình thường, gia đình chỉ bao gồm cha mẹ và con cái. Trên thực tế, người Việt Nam nhìn nhận một gia đình trong sự liên hệ với đại gia đình gồm có ông bà cha mẹ, anh em họ hàng. Bởi xã hội Việt Nam còn có một nền luân lý cộng đồng nên giá trị của gia đình nhỏ này lại bị lệ thuộc vào tiếng tăm, sự liên đới của đại gia đình với xã hội. Đó cũng là lý do tại sao ông bà ta có câu "Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống."

Xét như thế, gia đình Việt Nam bao gồm ông bà, cha mẹ, cô, chú, bác, và con cái. Trên cha mẹ là ông bà, ngang vai cha mẹ là cô, chú, bác, rồi mới tới con cháu trong họ máu. Hơn nữa, dầu anh em họ máu được coi trọng hơn hết trong sự liên hệ gia đình, người Việt Nam còn đặt nặng tình liên đới. Đôi khi anh em dầu đã xa mà sự liên hệ thân thiết lại được coi không khác gì anh em ruột thịt. Do đó, nếu nhìn vào cơ cấu gia đình Việt Nam xét trong phương diện giáo dục, cũng nên đặt thêm vấn đề về sự liên đới vì con cái trong gia đình sẽ chịu ảnh hưởng bởi những người thường xuyên có liên hệ. Gia đình Việt Nam không những giúp đỡ, xây dựng cho con cái mà còn mang nặng tính chất giáo dục. Gia đình dạy cho con người nhận biết sống cho có thứ tự lớp lang, xứng bậc của mình đối với đại gia đình; đồng thời qua nề nếp giáo dục sống liên hệ với anh em họ hàng, gia đình đã đào tạo cho xã hội những thành viên tốt sau này trong lối sống tương quan với những người khác.

Người Việt dầu một phần nào ảnh hưởng quan niệm Khổng học về Tam Cương (đạo vua - tôi, cha - con, chồng - vợ) nhưng bản tính rất dân chủ, sống hòa hợp theo thứ bậc chứ không chấp nhận làm nô lệ hay phân chia giai cấp. Chẳng hạn sự đối xử giữa vợ chồng trong gia đình, người chồng coi trọng vợ mình chứ không đối xử với vợ như con hầu đầy tớ để rồi bị lệ thuộc vào những kiểu cách phục dịch như người Nhật hay người Tàu ngày xưa. Trên thực tế, người đàn bà Việt Nam ảnh hưởng toàn bộ gia đình từ giáo dục con cái, điều hành sinh hoạt gia đình, đến ngay cả việc thay chồng đối xử với cha mẹ chồng cũng như anh em họ hàng; có lẽ vì ảnh hưởng lớn lao của người đàn bà nên có câu: "Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng."

Chính vì vấn đề giáo dục trong gia đình được coi trọng do đó cứ nhìn vào kiểu cách sinh sống của một gia đình, người ta có thể đánh giá phần nào cá nhân của gia đình đó. Không lạ gì, "Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh." Bởi vậy, "Mạch trong nước chảy ra trong, thế nào đi nữa con dòng cũng hơn." Một gia đình tốt lành sẽ đào tạo nên những người con ngoan hiền biết điều. "Xem cây biết quả" là sự thường mặc dầu đôi khi "Cây ngọt sinh trái đắng." Trong trường hợp này, ông cha ta lại xét về đức độ bởi cũng có câu ngược lại: "Nhìn quả biết cây." Lẽ tất nhiên nếu không có sự giáo dục căn bản của gia đình, "Cây ngọt" sẽ "sinh trái đắng" do ảnh hưởng xã hội vì thói thường điều xấu không cần phải học hỏi cũng có thể thực hành được và trái lại người được giáo dục kỹ lưỡng nơi gia đình, không dễ gì dám làm những điều không nên không phải có hại cho danh dự của mình và gia tộc.

Cha mẹ giáo dục con cái không những bằng lẽ phải trái khôn ngoan mà còn bằng chính cuộc sống của mình qua việc đối xử trong gia đình giữa vợ chồng, với các con cũng như tư cách, lời ăn tiếng nói đối với ông bà, anh em họ hàng thân thuộc và hàng xóm láng giềng. Xét theo đời sống lứa đôi, vợ chồng là sự ăn đời ở kiếp, tôn trọng lẫn nhau, hòa thuận và yêu thương mới có thể giúp cho con cái noi gương trở thành người tốt lành. "Cha nào con nấy" là lẽ bình thường vì khi còn nhỏ, con cái như tờ giấy trắng, học đòi theo cha mẹ. Dĩ nhiên, nếu cha mẹ không hòa thuận, con cái chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và nghi ngờ hết mọi người chung quanh. Người Mỹ cũng có quan niệm này trong vấn đề giáo dục nơi học đường: Nếu đứa trẻ sống trong môi trường chỉ trích, sẽ học đòi lên án người khác. Nếu đứa trẻ sống dưới hận thù, sẽ học đòi chống đối. Nếu sống dưới sự nhạo báng, trẻ sẽ hay bị xấu hổ... Vì thế vợ chồng thuận hòa, yêu thương sẽ là gương sáng cho con cái; "Vợ chồng là nghĩa tào khang, chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui; sinh con mới ra thân người, làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no." Kinh nghiệm cho thấy, gia đình nào không hòa thuận, dù cho cố gắng làm ăn cách mấy thì cũng sụp đổ bởi ông đi đàng ông, bà theo đàng bà, ai cũng chỉ lo thủ cho riêng mình sao còn xây dựng mà không tan cửa nát nhà.

Người Việt còn có quan niệm xứng đôi vừa lứa trong việc hôn nhân. Quan niệm xứng đôi vừa lứa khác hẳn môn đăng hộ đối. Môn đăng hộ đối tùy thuộc vị thế hai gia đình mà không cần biết gì đến con người. Thực tế cho thấy, chỉ con nhà giàu mới dễ bị hư hỏng và chưa chắc giàu đã quí mặc dầu "Giàu sang có số, ăn cỗ có phần," mà có thể là giàu nổi, giàu bởi tham lam, hoặc lừa lọc thì những loại giàu này không thể sang và chẳng bền. Do đó môn đăng hộ đối chỉ làm khổ con người. Trái lại quan niệm xứng đôi vừa lứa giúp con người dễ sống hòa hợp trong hôn nhân đưa tới sự thuận vợ thuận chồng hơn. "Thờ cha kính mẹ đã đành, theo đôi theo lứa mới thành thất gia."

Mặc dầu người Việt Nam mang tính chất dân chủ nhưng không vì thế mà sinh ra tự do quá trớn hoặc lạm dụng tự do như bên Tây Phương. Nền luân lý cộng đồng mạnh mẽ ảnh hưởng và làm khuôn mẫu cho cuộc sống một người trong sự liên đới với anh em họ hàng cũng như với người ngoài nơi xã hội. Vai trò của một người vì thế thay đổi tùy theo nơi chốn cũng như sự liên hệ của người ấy tùy theo hoàn cảnh. Chẳng hạn, trong gia đình là một người con, ra xã hội lại là quan huyện. Ông quan huyện không thể đối xử với cha mình nơi gia tộc theo vị thế của quan huyện mà là vị thế của một người con đối với một người cha. Câu "Chợ có lề quê có thói" vì vậy cũng một phần nào nói lên tư cách một người phải đối xử thế nào tùy theo sự liên hệ và vai trò của mình trong mối tương quan nơi dòng họ hay ngoài xã hội.

Trong gia đình cũng thế, vai trò nào bổn phận nấy tùy theo thứ tự lớp lang của gia đình. Vợ chồng con cái sống thuận hòa trong trách nhiệm, bổn phận và vị thế của từng người vì: "Một nhà hai chủ không hòa, hai vua một nước ắt là không yên." Hơn nữa "Rắn phải có đầu" chứ không thể đuôi bằng đầu. Nề nếp, thứ tự trong gia đình góp phần vào sự an vui của mọi người. Đối với đại gia đình cũng vậy, bậc nào thì nên sống đúng với bậc ấy: "Kình nghê vui thú kình nghê, tép tôm thì lại vui bề tép tôm." Ngay như ngôn ngữ Việt Nam cũng chỉ rõ thứ bậc và vị thế của một người trong giòng tộc đối với người khác; không như Tàu, ai cũng "nị", hoặc Mỹ, Anh, ai cũng "you". Chính lối sống trong khuôn phép thứ bậc và tâm tình được phát biểu qua ngôn ngữ. Thêm vào đó, ngôn ngữ nhắc nhở, chỉ rõ thứ bậc của một người trong sự liên hệ với đại gia đình. Câu "Giấy rách giữ lấy lề," xét theo trường hợp này nói về nguyên tắc cư xử cho mọi người đối với gia tộc. Dù cho người đó có đến thế nào chăng nữa nơi xã hội, đối với gia tộc và gia đình, vị thế phải được giữ cho đúng tôn ty trật tự của mình.

Nhìn qua sự liên đới thứ bậc trong gia đình và gia tộc như thế, người nào càng có vị thế cao nơi gia đình, càng nên lo sống xứng phận hơn: "Người trên ở chẳng kỷ cương, khiến cho kẻ dưới lập trường mây mưa." Hoặc "Người trên ở chẳng xứng ngôi, để cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào." Ý thức sống sao cho xứng phận còn bị ràng buộc bởi danh dự gia đình. Bởi nhận thức danh dự ảnh hưởng liên đới đến dòng tộc, người Việt mang thêm bổn phận bảo vệ danh dự không những của gia đình mình mà còn của cả dòng tộc. "Một người làm nên cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ."

Nói rằng gia đình là căn bản giáo dục của xã hội không sai chút nào. Kinh nghiệm ấu thơ của một người khuôn đúc thái độ cho cả cuộc đời họ. Hơn nữa, gia đình tạo cho một người những kinh nghiệm căn bản làm vốn liếng cho tương lai. Từ kinh nghiệm căn bản này, những kinh nghiệm sống theo hoàn cảnh dần dần bồi đắp để tạo thành thái độ con người. Vì thế không lạ gì, bình thường những gia đình thiếu nề nếp giáo dục sẽ có những người con hư hỏng mặc dầu đôi khi "Cha mẹ cú đẻ con tiên."

DANH DỰ VÀ VAI TRÒ GIA ĐÌNH

Không những sự giáo dục gia đình giúp con người sống cho hòa hợp, thứ tự lớp lang, đào tạo những thành viên tốt cho xã hội sau này mà còn mang lại ảnh hưởng lớn lao đến danh dự gia đình. Đối với cá nhân, "Trâu chết để da, người ta chết để tiếng;" lối sống, cách cư xử, tâm tình của một người được khuôn mẫu hóa từ chính cuộc sống và sự giáo dục của gia đình; vì thế nhờ sự bảo vệ danh dự gia đình giúp con người sống biết điều, tốt lành hơn bởi "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài."

Danh dự là điều tối quan trọng không thua gì mạng sống của một người trong vai trò tương quan nơi mối liên hệ của mình đối với những người khác. Đó cũng là lý do đôi khi người nào bị ai làm tổn thương đến danh dự sẽ cảm thấy đau khổ hơn gặp tai ương hoạn nạn và có thể trở thành mối thâm thù cả đời. Tất nhiên, danh dự một người được tạo dựng và tùy thuộc cách sống, lối đối xử của mình nhưng lại bắt nguồn do sự giáo dục và lối sống, sự cư xử trong gia đình đóng góp, dạy dỗ và sửa đổi từng lời ăn tiếng nói, kiểu cách, thái độ và ngay cả tâm tình ngày này qua ngày khác từ thuở còn thơ.

Đối với người Việt, danh dự gia đình có vai trò quan trọng không kém danh dự cá nhân mà còn có thể hơn và đôi khi cá nhân chấp nhận đặt danh dự mình xuống hàng thứ yếu để bảo vệ danh dự gia đình hay gia tộc. Điều hiển nhiên, "Đất có lề, quê có thói," thì gia đình cũng thế; gia đình kiến tạo những người con, những thành viên của xã hội sau này có cá tính riêng tùy theo phong cách của gia đình vì chẳng lạ gì, "Rau nào sâu ấy."

Bởi vậy, sự hãnh diện của một người không những tùy thuộc vào danh dự của người đó mà còn tùy thuộc tiếng tăm, danh dự gia đình, giòng tộc của mình nữa. Khi nhắc đến tiểu sử những vị anh hùng hay những người nổi tiếng có vai trò quan trọng trong xã hội, sử gia thường nhắc nhở đến nguồn gốc, họ hàng giòng tộc của người đó. Đọc lịch sử người xưa, ai cũng nhận thấy danh dự gia đình đã ảnh hưởng suốt đời của một người dầu đôi khi phải chấp nhận sống trong hoàn cảnh khó khăn để bảo vệ tiếng tăm cho gia đình hay giòng họ, có khi tuân theo câu "Đói cho sạch, rách cho thơm" đến mức quá độ. Chẳng hạn, con cái giòng tộc nhà giáo không dám làm một số nghề được coi là không xứng đáng với danh dự họ hàng nhà mình...

Chính vì danh dự gia đình được coi trọng và được bảo vệ, cá nhân chấp nhận tự cải thiện hay khuôn mẫu hóa chính mình sao cho xứng đáng với danh tiếng gia đình hay giòng tộc. Như thế, danh dự gia đình một cách nào đó trở thành một trong những yếu tố căn bản giáo dục cá nhân sao cho sống xứng đáng hơn trong sự liên hệ với người khác, với làng nước và xã hội. Ngược lại, danh dự gia đình cũng phần nào bảo vệ hoặc giúp cho cá nhân tránh khỏi những trường hợp tai bay vạ gió bởi dầu sao, "Đánh chó, ngó chủ." Bảo vệ danh dự gia đình đối với người Việt là nhiệm vụ bảo vệ danh dự cho cha mẹ, ông bà, giòng tộc. Con cái sống không nên không phải mang tiếng xấu không những cho chính mình mà còn cho cha mẹ và anh em họ hàng trong giòng tộc. Đem lại tiếng tăm không tốt cho cha mẹ là bất hiếu, là ngỗ nghịch, trái đạo làm người.

Theo sự nhận xét của linh mục Dominici Đỗ Minh Trí, S. J., những phong tục tập quán trong xã hội Việt Nam bắt nguồn từ Nho giáo, và xã hội được đặt trên nền móng những mối tương quan vua tôi, cha mẹ và con cái, vợ chồng, và giữa anh chị em. Tương quan giữa cha mẹ và con cái là nền móng chi phối các mối tương quan khác. Con cái bắt buộc phải yêu kính cha mẹ và sự yêu kính này chẳng những bao hàm lòng kính trọng mà còn ở sự phục tùng cha mẹ đến suốt đời. Đó cũng là nền tảng luân lý chi phối toàn diện xã hội; nền tảng này được khuyến khích và cổ võ đến độ trở thành giáo điều, "một chân lý không thể thay đổi của trời..., một sự công chính không thể suy sụp của đất, và là một nhiệm vụ phải tuân theo của mọi người" theo Khổng Tử. (Việt Nam Quê Hương Tôi; Dominici Đỗ Minh Trí, S. J., Manila, Phi Luật Tân 1987).

Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói đến sự ảnh hưởng liên hệ giữa cá nhân và gia đình chẳng hạn: "Làm xui một nhà làm ra cả họ," hoặc "Lấy vợ xem tông, lấy chồng xem giống," chứ không nói đến vai trò và sự liên hệ của gia đình đối với làng nước, xã hội. Đã là dân Việt, mọi người đều nhận thấy vai trò và sự đóng góp quan trọng của gia đình đối với xã hội; sự liên quan này có tính chất nhận thức qua sự bảo vệ danh dự chứ không được viết thành văn. Gia đình được coi là nguồn gốc căn bản của xã hội, nói cách khác, xã hội là một đại gia đình bao gồm các thành phần căn bản nhỏ hơn là gia đình. Xã hội việt Nam lại ít khi đặt vấn đề về giáo dục quần chúng mà thúc đẩy và khuyến khích nền giáo dục gia đình. Do đó, có thể nói vai trò của gia đình là căn bản đào tạo những thành viên cho xã hội. Gia đình có nề nếp thế nào, xã hội sẽ có khuôn mẫu tùy thuộc vào những đặc tính chung của các nề nếp gia đình. Hơn nữa, sự liên hệ của chamẹ (đại diện cho gia đình) ảnh hưởng, hay có thể nói là chính sự liên hệ của gia đình đối với xã hội. "Con vua thì lại làm vua, con chú sãi chùa thì quét lá đa," và ngược lại, "Phải khi trời đất can qua, con vua lại quét lá đa nhà chùa." Gia đình, thứ bậc xã hội thay đổi, con người thay đổi theo.

Tóm lại, đối với dân Việt, gia đình là căn bản và cũng là thế đứng cho một người, và giá trị một người gắn liền với danh dự gia đình, giòng tộc.

TÌNH NGHĨA VỢ CHỒNG

Tình nghĩa vợ chồng được đặt trên nền tảng bản năng di truyền sự sống tự nhiên của con người nơi sự hòa hợp đời sống giữa hai phái nam và nữ. Tự bản chất, phái nam cần phái nữ và ngược lại để bổ túc và giúp đỡ đồng thời khuyến khích nhau sống vươn lên xây dựng cuộc đời, phát triển khả năng, sinh thành và nuôi dưỡng cũng như gầy dựng cho con cái. Sự kết hợp này do bản tính tự nhiên do đó là một nhu cầu; đồng thời nó cũng được bổ túc do các bản năng khác chẳng hạn đặc tính muốn yêu và muốn được yêu; sự nhung nhớ, bản chất hy sinh cho người phối ngẫu. Thêm vào đó, sự kết hợp xác thân liên kết hai người trở thành một: "Kim đâm vô thịt thì đau, thịt đâm vô thịt nhớ nhau suốt đời." Tình nghĩa vợ chồng là một sự gắn bó thể xác và tâm hồn dù cho tình cha mẹ cũng không bằng: "Chữ xuất giá tòng phu phải lẽ, gái có chồng bỏ mẹ quạnh hiu. Bớ anh ơi, em nhớ khi thơ bé nâng niu, ngày nay xuất giá bỏ liều mẹ cha." Tình vợ chồng bộc phát tự nhiên nơi con người chứ không bị lệ thuộc bởi bất cứ lề luật nào mà mang tính chất tự nguyện: "Mẹ cha bú mớm nâng niu, tội Trời thì chịu không yêu bằng chồng." Những gì thuộc bản năng tự nhiên của con người tất nhiên không có quy luật nào có thể ngăn cấm. Tình chồng vợ phát xuất do bản năng tự nhiên con người: "Chàng về thiếp nhớ đăm đăm, giường trên chiếu dưới ai nằm đêm nay?" Bởi "Thương ai ví bằng thương con, nhớ ai ví thể gái son nhớ chồng." Đồng thời theo lẽ tự nhiên cũng được mọi người chấp nhận: "Đi đâu có anh có tôi, người ta mới biết là đôi vợ chồng." Sự gắn bó này được tạo thành từ đặc tính cần thiết sự hiện diện của người này đối với người kia, một điều kiện không thể thiếu nơi tình yêu đôi lứa tạo nên mối ràng buộc: "Đi đâu cho thiếp xin can, ở nhà với thiếp thân tàn cũng vui." Hoặc: "Sông sâu sóng cả em ơi, chờ cho sóng lặng buồm xuôi ta cùng. Đã trót đa mang vào kiếp bềnh bồng, xuống ghềnh lên thác một lòng yêu nhau."

Nhận ra những tính chất tự nhiên không thể thiếu tạo nên sự kết hợp cuộc đời đôi lứa, con người thấy cần phải cổ võ sự bền vững và bảo vệ để chống lại sự xâm nhập của những căn nguyên nguy hại làm tan vỡ mối liên kết lứa đôi nên tìm hiểu và nói lên những tính chất tốt lành của sự kết hợp này gọi là đạo vợ chồng. Đạo vợ chồng là sự thực hiện cũng như kết quả ý thức về sự ràng buộc, gắn bó, nghĩa vụ của hai người nam nữ trong liên hệ hôn nhân: "Xét ra trong đạo vợ chồng, cùng nhau nương cậy đề phòng nắng mưa." Đạo vợ chồng đặt nặng tính chất "nghĩa" nơi cuộc sống đôi lứa: "Cầu mô cao bằng cầu danh vọng, nghĩa mô nặng bằng nghĩa chồng con. Ví dầu nước chảy đá mòn, xa nhau nghìn dặm lòng còn nhớ thương." Tình tự nhiên hòa hợp với nghĩa vợ chồng đã là động lực cho một người xả thân, hy sinh chính mình cho người bạn đời và gia đình: "Thương chồng nên phải gắng công, nào ai xương sắt dạ đồng chi đây;" hoặc nhiều khi chấp nhận trả giá mắc mỏ vì lầm lỗi của người bạn đời: "Anh đi ghe rổi chín chèo, bởi anh thua bạc nên nghèo nợ treo. Nợ treo mặc kệ nợ treo, em bán bánh bèo trả nợ cho anh." Chẳng những thế, chính tình nghĩa này đã trở thành năng lực cho người vợ bền bỉ hy sinh vì chồng: "Một ngày ba bận trèo đèo, vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng?" hay "Một ngày mấy lượt trèo non, lấy gì làm đẹp làm dòn hỡi anh!" hoặc thay thế chồng chu toàn nhiệm vụ báo hiếu cũng như chăm sóc con cái: "Anh đi em ở lại nhà, hai vai gánh vác mẹ già con thơ. Lầm than bao quản nắng mưa, anh đi, anh liệu chen đua với đời." Năng lực tình nghĩa còn giúp cho người đàn bà chân yếu tay mềm cáng đáng mọi sự chẳng những cho mình mà còn cho cả chồng con: "Một mình lo tảo lo tần, lo phần sưu thuế, lo phần chồng con." Do đó chẳng lạ gì tình nghĩa được gọi đi đôi với nhau.

Tình nghĩa gắn bó hai người trong mọi hoàn cảnh: "Có chồng thì phải theo chồng, chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo," không phân biệt của cải riêng tư mà tất cả thuộc chung hai người: "Của người thì đứng mà trông, của chồng thì cất lấy hòng mà ăn." Nói như thế hơi quá đáng vì thiếu để ý đến công sức và sự đóng góp của người vợ. Kinh nghiệm cuộc sống cho thấy, chẳng gì được gọi là "của riêng chồng" và cũng chẳng gì được gọi là "của riêng vợ" nhưng "Của chồng công vợ."

Trong cuộc sống vợ chồng, tình cảm lứa đôi là căn bản cho sự đối xử giữa hai người đồng thời tình cảm này ảnh hưởng chẳng những nếp sống mà còn sự cảm nhận của con người đối với cuộc đời chung quanh. Tình là tất cả; tình biến đổi mọi sự: "Râu tôm nấu với ruột bầu, chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon." Tình nghĩa vợ chồng kiến tạo nơi tâm hồn mỗi người ý thức chấp nhận lẫn nhau cũng như chấp nhận hoàn cảnh xảy đến cho cả hai: "Theo nhau cho trọn đạo Trời, dẫu mà không chiếu, trải tơi mà nằm;" để luôn có nhau: "Đôi ta như rắn điu điu, nước chảy mặc nước ta dìu lấy nhau. Đôi ta như thể con tằm, cùng ăn một lá, cùng nằm mộng nong. Đôi ta như thể con o­ng, con quấn con quít, con trong con ngoài;" không so sánh đua đòi ước ao: "Chồng ta áo rách ta thương, chồng người điểm phấn tô hương mặc người;" mà tất cả đều vì người phối ngẫu: "Nương song luống ngẩn ngơ lòng, vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai" (Chinh Phụ Ngâm). Hơn nữa, chính tình nghĩa vợ chồng đem lại hạnh phúc thực sự cho người phối ngẫu: "Vì chưng ăn miếng trầu anh, cho nên má đỏ tóc xanh đến giờ."

Tình nghĩa vợ chồng đồng thời cũng tạo nên nỗi đau lòng, tăng thêm niềm nhớ mỗi khi có chuyện ngăn sông cách trở đôi lứa: "Bước xuống tàu, ruột bào gan thắt, Trời hỡi Trời, chồng Bắc vợ Nam." Khi có chuyện cần phải cách xa dăm hôm đôi tháng làm sao diễn tả được sự lo lắng chuẩn bị cho người phối ngẫu: "Chàng ơi trẩy sớm hay trưa, để em gánh gạo tiễn đưa hành trình." Chẳng những thế, người ra đi chưa bắt đầu cất bước thì người ở lại đã cảm thấy ưu tư lo lắng về những ngày của chồng sống nơi đất đến: "Cậu đi ba tháng cậu về, rừng thiêng nước độc chớ hề ở lâu." Và lẽ tất nhiên, tình nghĩa nặng nề bao nhiêu thì mối gắn bó chăm sóc càng được để ý bấy nhiêu: "Chim kêu vượn hú non đoài, không ai lo lắng trong ngoài cho anh." Kẻ ra đi có mục đích, công việc làm bạn, đàng này người ở lại đợi chờ ngẩn ngơ với mảnh lòng nhung nhớ: "Anh đi em một ngó chừng, ngó sông sông rộng, ngó rừng rừng sâu."

Tuy nhiên, không ai lạ gì câu: "Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu giữ mình." Trung với vua, với tổ quốc; hiếu thảo và phụng thờ cha mẹ đó là bổn phận của người làm trai. Xét như thế, người đàn ông Việt Nam đương nhiên bị quan niệm trung, hiếu choán hết phần tình cảm riêng tư dành cho vợ con. Tục Ngữ, Ca Dao ít đề cập đến tình cảm của người đàn ông đối với vợ hoặc phải đối xử thế nào trong cuộc sống vợ chồng hay bổn phận với gia đình, vợ con mà chỉ nói về bổn phận người đàn bà với chồng, phải chiều chuộng hoặc chấp nhận hoàn cảnh ngay cả khi chẳng may gặp người chồng không ra gì... Quan niệm về bổn phận và trách nhiệm được định hướng chỉ một chiều: Con cái đối với cha mẹ, vợ đối với chồng, người đàn ông trong bổn phận tôi tớ đối với vua được coi như trung thành với đất nước.

Có lẽ xã hội Việt Nam thời xưa quá trọng nam khinh nữ "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," hoặc vì cơ cấu xã hội do người đàn ông làm chủ; chỉ người đàn ông mới có thế đứng trong xã hội; đồng thời cũng người đàn ông chịu trách nhiệm đối với xã hội nên thân phận đàn bà không được đếm xỉa tới hay ít được nói tới mà chỉ được coi như phụ thuộc vào người đàn ông. Trong gia đình, đàn bà là nội tướng nhưng mọi quyết định đều do người đàn ông nên vai trò người đàn bà, dầu phải gánh chịu mọi việc, nuôi nấng dạy dỗ con cái, phục dịch chồng, phục dịch cha mẹ chồng mà vẫn bị lệ thuộc người đàn ông. Hơn nữa, vì căn bản sinh sống của người Việt dựa trên nông nghiệp cần nhiều nhân lực vì vậy có thể nói đôi khi người đàn bà chỉ được coi như chiếc máy đẻ con cho người đàn ông do đó bị coi thường chăng. Thậm chí người đàn bà nào mà không sinh được con trai để nối dõi tông đường còn bị coi là thất sủng, phải cưới vợ bé cho chồng để sinh con thế mình. Người tuyệt tự bị chế diễu, đôi khi bị coi chẳng ra gì: "Cây khô không lộc, người độc không con." Khổ nỗi ngày xưa có lẽ ít người để ý lý do tại sao vợ chồng chung sống không có con; có thể là nơi cơ thể người đàn bà, cũng có thể do người đàn ông, hoặc vì tính chất cơ thể của hai người xung khắc nên không thể có con. Thế mà thường thì lý do không con lại chỉ đổ về người đàn bà: "Có chồng mà chẳng có con, khác gì hoa nở trên non một mình." Hơn nữa vì không con nối dõi bị coi như mang tội bất hiếu; bởi thế người đàn bà không con lại càng bị mang mặc cảm nhiều hơn. Thử hỏi ai trong chúng ta không biết câu: "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng." Quan niệm này nói lên vai trò quá lố trong quan niệm hôn nhân của người đàn ông; đồng thời cũng không nhìn nhận giá trị của người phụ nữ trong cuộc sống hôn nhân và như vậy phụ nữ chỉ được coi như món đồ hoàn toàn lệ thuộc không có quyền nhận định về chính vị thế của mình. Thêm nữa, bởi xã hội do người đàn ông làm chủ, cai quản nên phần nào nếu không muốn nói là đa số những gì đàn ông ham muốn đều được cổ võ chẳng hạn như cổ tục đa thê. Mặc dầu "Sông bao nhiêu nước cho vừa, trai bao nhiêu vợ cũng chưa vừa lòng" nói lên tâm lý tham lam chung của đàn ông nhưng chấp nhận "Trai năm thê bảy thiếp" lại cổ võ cho sự thiếu chung thủy của người chồng đối với vợ. Sự cổ võ này còn được lan rộng để đến nỗi được coi như điều nên theo của phái nữ: "Chồng giận thì vợ làm lành, miệng cười chúm chím thưa anh giận gì. Thưa anh, anh giận em chi, muốn lấy vợ bé em thì lấy cho." Thật không còn gì đau lòng hơn dù chỉ phải nói lên điều mà không ai muốn: chấp nhận sự chia sẻ tình chăn gối của người phối ngẫu với người khác; thế mà lại được diễn tả với thái độ miệng cười chúm chím! Hoặc hơn thế nữa, đối với cuộc sống bình thường, đàn ông có vợ nhỏ hoặc đi ngang về tắt thì không sao nhưng đàn bà đi ngang thì lại bị trốc đầu bôi vôi, đóng trăng buông sông. Tất nhiên, dù cổ tục đa thê có được cổ võ đến đâu chăng nữa thì vẫn có những phụ nữ không thể chấp nhận chia sẻ tình nghĩa gối chăn cho người khác. Nhưng trong một xã hội, có thể nói mọi người chấp nhận như thế, phụ nữ dù muốn dù không cũng bị chấp nhận mặc dầu với nỗi lòng đau khổ cam chịu nên đã có những câu ca thán: "Ai bày cái lệ đa thê, để cho phụ nữ nhiều bề khổ đau." hoặc "Anh đừng mê bông quế mà bỏ bông lài; mai sau bông quế rụng, bông làm thơm lâu." Sự cam chịu này đa số trở thành lời bi ai "Chàng ơi phụ thiếp làm chi, thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng." Hoặc bực bội hơn nữa: "Dù chàng năm thiếp bảy thê, cũng không tránh khỏi gái sề này đâu."

Xét về tình nghĩa vợ chồng một cách tương đồng, Tục Ngữ, Ca Dao nói tới rất ít; có thể vì ai cũng biết nên không được đề cập tới, hoặc vì tính chất luân lý chỉ nói lên những điều nên được củng cố mà không phô bày thực trạng chẳng ra gì chăng, hay vì khó nói do đó hiếm người nói tới. Nhìn theo khía cạnh triết lý, dân Việt không có lý thuyết triết lý mà sống triết lý do đó có thể tình nghĩa vợ chồng được lồng trong lối sống chu toàn nhiệm vụ cho xứng với vị thế của mình nơi gia đình và xã hội. Như vậy, tình cảm bị đặt nơi hàng thứ yếu sau hiếu, trung: "Mình về ta chẳng cho về, ta nắm lấy áo ta đề câu thơ. Câu thơ ba chữ rành rành: chữ trung chữ hiếu chữ tình là ba. Chữ trung thì để phần cha, chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình." Có lẽ "Chữ trung thì để phần cha" được viết cho vần với câu thơ chứ không ai gọi trung đối với cha mẹ mà là hiếu thảo với cha mẹ. Chữ trung thường được dùng trong "đạo vua tôi" hoặc "trung quân ái quốc." Đồng thời quan niệm trung hiếu được người xưa đặt rất nặng: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu." Quan niệm trung quân còn được gọi đạo quân thần và được coi như chân lý bất di dịch của người xưa theo Khổng học bởi vua được coi như con trời, được sai xuống để cai trị muôn dân. Có lẽ với chủ đích bảo vệ ngai vàng nên quan niệm Trung Quân được cổ võ đến độ quá đáng làm giảm bớt giá trị tình nghĩa vợ chồng.

Tục Ngữ, Ca dao mang nặng tính chất luân lý nên nói về những điều vợ chồng nên theo cho đẹp tình đẹp nghĩa đồng thời giúp xây dựng cuộc sống gia đình: "Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn." Lẽ đương nhiên, đã là người ai cũng mang tham, sân, si thế nên khi đã thành gia thất, ông cha ta răn dạy: "Vợ chồng là nghĩa già đời, ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn." Xét theo cơ cấu gia đình Việt Nam, người đàn ông lo làm lụng kiếm kế sinh sống cho gia đình trong khi người đàn bà quán xuyến tất cả những công việc chăm sóc con cái, nội trợ cũng như hiếu đễ đối với đôi bên cha mẹ. Qua kinh nghiệm sống, cho dù đàn ông có kiếm được nhiều tiền mấy đi chăng nữa, với tính chất thiếu tỉ mỉ lo lắng của người đàn bà, tiền bạc có chất như núi mà không biết giữ cũng chẳng còn gì để bảo vệ cuộc sống sau này; vì vậy Ca Dao, Tục Ngữ ví "Chồng như giỏ, vợ như hom." Thế nên vợ chồng cần sự tin tưởng lẫn nhau vì nếu không có sự tin tưởng nơi người phối ngẫu, "Vợ chồng chẳng trọn niềm tin, sẽ giảm hạnh phúc, lợt tình yêu thương." Mặc dầu: "Thế gian được vợ mất chồng, có phải như rồng mà được cả đôi." Bởi thế khi có chuyện không hay xảy đến, nhịn nhục là điều cần thiết cho sự êm ấm gia đình: "Chồng giận thì vợ bớt lời, chồng giận vợ giận thì giùi nó quăng."

Càng sống lâu, người ta càng nhận thấy: "Thức lâu mới biết đêm dài, ở lâu mới biết lòng người có nhân." Chữ nhân nghĩa mang ý chung chỉ lòng thành của con người với con người. Đối với cuộc sống lứa đôi chữ nhân là tình nghĩa vợ chồng. Nói đến tình nghĩa vợ chồng, Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói về nghĩa của người vợ đối với chồng chứ không nói về nghĩa của chồng đối vợ. Không ai lạ gì: "Con nuôi cha không bằng bà chăm ông." Bà chăm sóc cho ông thì không ai có thể so sánh. Người phụ nữ Việt Nam được nuôi dưỡng nơi nền luân lý giáo điều một chiều; nào Tam Tòng, Tứ Đức, nào Đạo Phu Phụ: "Đạo phu phụ tương kính như tân." (Khổng Tử), nào Ngũ Thường, nào lý thuyết Tiết Hạnh, nào "Gái chính chuyên một chồng;" nên tình người vợ đối với người chồng đậm đà tha thiết ngược hẳn tình chồng đối với vợ bởi: "Đàn ông năm bảy lá gan, lá dành cho vợ lá toan cùng người." Tuy nhiên, đối với phụ nữ: "Trăm năm giữ vẹn chữ tòng; sống sao thác vậy một chồng mà thôi." Do đó nào lạ gì nếu người phụ nữ không may xe duyên kết tóc phải người chồng chẳng ra gì thật cả là một đời khổ ải: "Chị em ơi, người ta trông thấy mặt chồng thì mừng; sao tôi trông thấy mặt chồng thì lại như gừng, như vôi." Hoặc bẽ bàng hơn: "Rồng vàng tắm nước ao tù, người khôn ở với người ngu nặng mình."

Đàn ông có thương vợ thì cũng chỉ một phần nào tỏ nỗi lòng nhớ nhung: "Anh đi anh nhớ noi Côi, nhớ sông Vị Thủy nhớ người tình chung. Quản bao non nước ngại ngùng, lấy ai san sẻ gánh gồng đàng xa." San sẻ chỉ là chia bớt phần nào sự khổ cực, hoặc vì yêu thương nên thăng hoa người mình thương cũng chỉ là sự thường "Lỗ mũi em tám gánh lông, chồng yêu chồng bảo râu rồng trời cho...;" trong khi tình người vợ đối với chồng thật là tha thiết. Người vợ chẳng những yêu thương chồng mà còn chấp nhận và hy sinh quá điều nên làm: "Đốt than nướng cá cho vàng, đem tiền mua rượu cho chàng uống chơi. Phòng khi có khách đến chơi, cơm ăn, rượu uống cho vui lòng chàng." Tình của người vợ đối với chồng là một sự lệ thuộc, một chấp nhận hy sinh chính bản thân mình: "Thương chồng nên phải lầm than, xưa nay ai bắt việc quan đàn bà." Hoặc "Vì chàng thiếp phải bắt cua, những như thân thiếp, thiếp mua ba đồng. Vì chàng thiếp phải long đong, những như thân thiếp cũng xong một bề."

Tình đã khó dứt, nghĩa lại càng khó hơn; thế nên khi lập gia đình, người phụ nữ cũng phải đắn đo mặc dầu ngày xưa cha mẹ đặt đâu con ngồi đó: "Chẳng ham nhà ngói ba tòa, ham vì biết được mẹ cha hiền lành;" bởi cha mẹ hiền lành sẽ dạy dỗ, đào tạo nên những người con có nghĩa. Hơn nữa, tâm tình của con người được khuôn đúc từ cuộc sống luân lý cộng thêm tính chất hy sinh đồng thời được phụ họa do bản tính đặc biệt của phụ nữ: yêu thương là tất cả, nghĩa của người vợ đối với chồng bao quát cả cuộc sống được lồng trong vị thế nhiệm vụ: "Sách có chữ rằng phu xướng phụ tòng, làm thân con gái lấy chồng xuất gia. Lấy em về thờ kính mẹ cha, thờ cha kính mẹ ấy là người ngoan." Như vậy, nào lạ gì người Việt mình nói tình nghĩa vợ chồng chứ không nói tình nghĩa chồng vợ!


CON CÁI

Người Việt có câu: "Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông." Thật khó diễn tả cho hết ý nghĩa của lối chơi chữ nơi câu này. Nào thiếu gì người không có con vẫn được gọi là cha và cũng lắm người chẳng có cháu vẫn được gọi là ông nếu xét theo nghĩa đen trong liên hệ huyết thống giòng tộc. Xét theo nghĩa bóng, danh phận một người được nhìn nhận tùy theo khả năng, chức vụ lại càng khó định mức trong nhiều trường hợp. Chẳng hạn quan niệm chính danh áp dụng cho chữ "học thức." Lấy mẫu mực giới hạn nào để xác định một người là học thức hay không. Cuộc đời không thiếu chi người tay trắng làm nên! Bao nhiêu người dù ngay cả tên mình không biết ký, nói theo kiểu bình dân, "Nửa chữ nhất không biết" thế mà lối suy nghĩ, tính toán công việc làm ăn hơn hẳn một số người có bằng cấp nọ kia. Cái ngược đời khó thể hiểu là họ không có cơ hội đến nhà trường để học cũng không được học riêng tại nhà khi còn nhỏ (bởi nửa chữ nhất không biết) vì sinh trưởng trong một gia đình nghèo khó thế mà đôi khi giầu có hơn một số người được ăn học. Dĩ nhiên, sinh con ra, tính theo huyết thống, có người gọi mình là bố; và đồng thời nếu là cháu thì sẽ gọi bố của bố mình là ông. Không có con, lẽ tất nhiên không có ai gọi mình là cha theo đúng nghĩa huyết thống của tiếng cha và đã không có cháu, có ai gọi là ông cũng chỉ là ông ấy. Một điều hiển nhiên, từ xưa tới nay, nơi tâm tình người Việt, những người trong bậc đôi bạn, ai cũng muốn có con cái.

Đối với cha mẹ, con cái có một vị thế quan trọng có thể nói bậc nhất nơi gia đình chẳng những vì con cái là kết quả tình yêu thương đôi lứa mà còn là mối dây bảo vệ và nối kết tình nghĩa vợ chồng cũng như niềm vui và mục đích của cuộc sống hôn nhân. Tự bản chất, con người được sinh ra với bản năng và khuynh hướng sinh tồn. Không có hình ảnh nào đẹp hơn cảnh người mẹ bồng con hoặc ông cụ già dắt tay cháu nhỏ đi dạo trong cảnh chiều hôm. Con cái nối tiếp sự sống của cha mẹ được đúc kết bởi tình yêu thương đôi lứa ngoại trừ một số trường hợp ngoài ý muốn. Ai lập gia đình mà không muốn có con; ai dựng vợ gả chồng cho con cái mà không trông mong có cháu... Thế nên cũng lắm người âu sầu vì con cái muộn vợ muộn chồng hoặc lo âu vì cưới lâu mà không sinh nở.

Đối với cuộc sống vợ chồng, con cái đóng vai trò hòa giải khá nhiều những bất bình khó thể mang, là mối xoa dịu nỗi cực khổ vất vả bon chen kiếm miếng cơm manh áo. Công việc làm của một người dù nặng nhọc đến đâu cũng đã có mục đích để chịu đựng: làm lụng đem lại cuộc sống thoải mái hơn cho con cái, không những cho con ăn no mặc ấm mà còn ngang bằng chúng bạn.

Do lòng thương con vô bờ bến, không của cải, vật dụng nào có thể so sánh hoặc có thể làm cha mẹ chú ý hơn. Cha mẹ hy sinh tất cả vì con, "Lập thân mới biết khổ thân, nuôi con mới biết công ơn sanh thành," hoặc "Chim trời ai dễ đếm lông, nuôi con ai dễ kể công tháng ngày," hay "Thương ai bằng mẹ thương con..." Nhìn vào thực tế, nhiều cảnh coi bộ trớ trêu: Cha mẹ không dám ăn diện trong khi con cái lại được sắm sửa tươm tất. Chính vì con cái được coi là quý trọng hơn bất cứ gì nơi gia đình, có người đã nói lên: "Một con một của ai từ." Con cái cũng như sự sống được cho là phước lộc trời ban: "Không con tội chết."

Lẽ đương nhiên, "Nhất con nhì cháu, thứ sáu người dưng," nhưng quan niệm về con cái theo người Việt cũng có phần nào khác biệt giữa con trai và con gái, con thứ và con trưởng. Vì theo chế độ phụ hệ, con trai được ưa chuộng hơn con gái thế nên chẳng lạ gì "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô." Con trai mang tên dòng họ; con gái sau này phải mang họ nhà chồng, không còn gì lưu vết; bởi vậy không lạ chi con gái bị viết "vô". Niềm tin tưởng tên dòng họ mình còn được lưu truyền nên con trai đầu tiên được sinh ra, cha mẹ, nhất là đàng nội vui mừng: "Thứ nhất đẻ con trai, thư hai đỗ ông nghè." Không có con trai bị coi là tuyệt tự; có lẽ quan niệm này hơi quá; chẳng qua con trai mang tên dòng họ vì quan niệm phụ hệ mà thôi; thực ra đối với quan niệm mẫu hệ, con gái lại được coi trọng hơn. Con trai trưởng là người sau này giữ hương hỏa của gia đình và khi người cha qua đời thì cũng chính con trai trưởng giữ vai trò phân định trong gia đình. Anh cả có bổn phận lo bề gia thất cho các em khi cha đã khuất núi mặc dầu hãy còn mẹ. Những việc có sự chung đụng, liên hệ với bà con thân thuộc, người anh cả đại diện cho cha đứng ra gánh vác; đồng thời giỗ tết hàng năm, các em phải đến nhà anh cả lo việc hương đèn cúng bái như khi bố mình còn sống.

Tuy nhiên, làm thân con trai trong gia đình đôi khi cũng bị du vào những trường hợp khó xử. Hơn nữa, người ta sinh ra có ai được hỏi ý kiến trước muốn có tài năng về phương diện nào bao giờ. Thường thì mãi sau này mới biết mình khéo chuyện chi, dở về gì; thế mà "Làm anh ăn trước bước đầu, vẽ vời em út ngõ hầu thay cha." Hoặc "Làm trai bách nghệ cho tinh, đến khi túng mình rở bách nghệ ra." Dẫu là những câu khuyến khích thăng tiến bản thân, đôi trường hợp gặp người chậm trí thì lại trở thành những lời mỉa mai một cách oan uổng. Hơn nữa, nơi xã hội, người con trai được trọng vọng bao nhiêu thì cũng mang nhiều trọng trách bấy nhiêu: "Đã sinh ra kiếp đàn ông, đèo cao núi thẳm sông cùng quản chi."

Con gái, mặc dầu giữ vai trò rất quan trọng trong cuộc sống gia đình nhất là ở vai trò làm vợ và làm mẹ sau này. Nhưng vì xã hội Việt Nam chịu ảnh hưởng quan niệm Tam Tòng nên người đàn bà bị coi là thứ yếu. "Con gái là con người ta" bởi lấy chồng bị đổi tên theo họ nhà chồng từ khi lập gia đình. Thật ra với quan niệm trọng nam khinh nữ, nhiều khi phái yếu mang nhiều thua lỗ, thiệt thòi dẫu có khả năng hơn người về nhiều phương diện vì không được trọng dụng.

Dẫu có những gia đình làm ăn nên nhờ con gái, quan niệm chung thì vẫn "Con gái đái lở đầu hè." Vừa mới lớn có thể nhờ cậy được công kia việc nọ thì đã có nơi nhòm ngó, đánh tiếng... Thế nên con gái "Sống quê cha, ma quê chồng." Khi đã lập gia đình, người phụ nữ Việt Nam hoàn toàn không tùy thuộc vào gia đình cha mẹ mình mà được coi như tách biệt hẳn: "Tay mang khăn gói qua sông, mẹ kêu mặc mẹ thương chồng phải theo." Có lẽ chính vì thế người ta chỉ chê trách trai nghe vợ chứ không ai bình phẩm gái nghe chồng. Khi xưa, quan niệm "Con gái là con người ta" ảnh hưởng mạnh mẽ đến nỗi dù nhà chồng tàn ác với con mình thì cũng đành cắn răng chấp nhận. Quả thật, không thể hiểu được tại sao dân mình lại chịu đựng nỗi bất công một cách ghê gớm đến thế. Phỏng có phải bởi sự thiếu hiểu biết hay vì quan niệm một cách sai lầm làm cho con người lãnh hậu quả đau khổ như vậy chăng!

Tuy nhiên, lại cũng có người quan niệm "Gái mà chi, trai mà chi! Sinh ra có ngãi có nghì là hơn." Muốn cho có ngãi có nghì lại tùy thuộc vấn đề giáo dục gia đình mặc dầu "Cha mẹ sinh người trời sinh tính." Tính nết mỗi người tùy thuộc tự bản chất được sinh ra chứ chưa chắc "Nhân chi sơ, tính bản thiện" (Tam Tự Kinh). Thêm vào đó giáo dục gia đình ảnh hưởng và khuôn mẫu phần nào tư cách một người... Bình thường, "Sinh con ai nỡ sinh lòng, sinh con ai chẳng vun trồng cho con." Thế mà vẫn có những người "Con ông Sấm, cháu bà Sét." Đó cũng có thể là một trong những lý do tại sao người Việt mình đặt nặng vấn đề giáo dục gia đình: "Đẻ con chẳng dạy chẳng răn, thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy tiền." Ở đấng bậc cha mẹ, có những cảnh khó ai có thể cảm thông khi gặp trường hợp "Có con phải khổ vì con." Khổ về vật chất, cuộc sống còn có thể dễ dàng vượt qua bởi ý thức chấp nhận thân phận hay số mạng; đàng này chẳng may gặp trường hợp "Con dại cái mang" thì không những "Đẻ con khôn mát như nước, sinh con dại rát như hơ" mà người đời chẳng hiểu cho đấy là đâu lại còn chêm nếm: "Trồng cây chua ăn quả chua; trồng cây ngọt ăn quả ngọt."

Ông cha ta tin rằng "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Tuy nhiên, không phải những người chẳng ra gì đều có cha mẹ không hiền lành. Bởi tính nết con người tự bẩm sinh và giáo dục dẫu có ảnh hưởng lớn đến tâm tính con người thì cũng chỉ đúng cho đại đa số. Những trường hợp ngoại hạng "Cây ngọt sinh trái đắng" không phải là không có trên cõi đời này. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, những bậc cha mẹ chẳng may cuộc đời run rủi rơi vào hoàn cảnh có con cái thuộc loại "Con ông Sấm cháu bà Sét," sẽ bị cả đời phiền não. Cha mẹ nào không muốn cho con hay, con giỏi, và ai không cảm thấy "Con khôn nở mặt cha mẹ;" đồng thời có dạy con mới thấy "Con tài lo láo con kiêu, con ngu thì lại lo sao kịp người;" thế mà gặp cảnh "Con cưỡng cha mẹ" chẳng lẽ mang ra mà chém! Vì vậy, chẳng lạ gì, đôi khi "Có con tội sống, không con tội chết" cũng làm cha mẹ tan nát lòng.

Con dâu và con rể được coi nặng nhẹ khác nhau. Con dâu được coi như người trong nhà, lại có khi nắm hết cả quyền hành trong họ nếu là dâu trưởng tộc. Cứ theo câu "Con gái là con người ta, con dâu chính thực mẹ cha mua về" thì địa vị người con gái trong gia đình ruột thịt bị coi nhẹ bao nhiêu, ngược lại, vai trò con dâu có vẻ lấn át nơi gia đình chồng bấy nhiêu. Chữ "mua" có lẽ nên đổi thành chữ "cưới" mới đúng vì không ai mua vợ mà chỉ mua nàng hầu như thói lệ xa xưa. Hơn nữa người ta chỉ mua đồ vật để rồi xử dụng tùy ý... Dùng chữ mua theo quen miệng đôi khi sinh hiểu lầm mặc dầu vần dễ đọc hơn chữ cưới.

Tâm lý bình thường, một người con trai, được mẹ thương hơn con gái trong khi con gái được bố cưng hơn, và các chị em gái quí mến thân thiết đối với người con trai. Khi có vợ, tình cảm lứa đôi khiến chàng quấn quýt với vợ hơn mẹ và chị em gái đưa đến mặc cảm "Dâu vô nhà, mụ già ra ngõ," và nhiều khi những chuyện nhỏ nhoi cũng gây khó dễ cho nàng dâu. Nhưng lại cũng có những trường hợp nàng dâu khôn ngoan biết ăn ở thì lại "Dâu hiền nên gái," hoặc ít ra "Dâu như con".

"Rể là khách" cũng chẳng lạ gì vì dù sao con gái mình tùy thuộc chàng. Câu nặng câu nhẹ đụng tới "ông con rể," tất nhiên con gái mình bị thiệt... âu đấy cũng là lối đối xử trả vay; quýt làm cam chịu. Gặp trường hợp chẳng may, con rể rơi vào thế phải ở nhà bố mẹ vợ thì lại "như chó rúc gầm chạn," nên "Há miệng mắc quai," khó ăn khó nói với mọi người chẳng những thuộc gia đình đàng vợ mà còn với xóm giềng làng nước. Thế mới hay vận số đôi khi cũng làm phiền đến chí khí con người.


HIẾU ĐỄ

 

Việt Nam Tự Điển do Lê văn Đức biên soạn định nghĩa hiếu đễ là "Thảo thuận, tức hiếu thảo với cha mẹ và thuận hòa với anh em." Ông cho rằng hiếu đễ và hiếu thuận đồng nghĩa với nhau. Hiếu đễ bao gồm hiếu và đễ. Cũng theo Lê văn Đức, hiếu là "thảo, hết lòng với cha mẹ" (P. 611 Quyển thượng). Đễ là "thuận thảo, nhường nhịn; nhường anh, nhường chị lại nhường người trên" (trang 440). Ca Dao cũng có câu: "Trong nhà hiếu với mẹ cha, kính nhường người lớn khi ra bên ngoài." Xét về hiếu đễ thường chỉ được chú trọng tới hiếu thảo bởi người hiếu thảo mới có thể có được thuận thảo với anh em họ hàng.

Dĩ nhiên không ai tự lỗ nẻ nơi lòng đất chui lên, "Con có cha, mẹ đẻ; không ai ở lỗ nẻ mà lên;" dù con gà con vịt mới nở đã có thể tự ăn ngay không cần bú mớm nhưng cũng cần sự giúp đỡ dẫn dắt trong những ngày trứng nước mới ra khỏi vỏ. Càng những động vật khôn ngoan lại càng cần sự ấp ủ chăm sóc trong thời gian mới được sinh ra chẳng hạn như mèo, chó, trâu, bò, khỉ, vượn. Con người, sinh vật đứng hàng đầu, sự khôn ngoan vượt hẳn tất cả các loài động vật nên cần được nuôi dưỡng và giáo dục và chăm sóc nhiều hơn.

Chính vì có lý trí để suy tư nhận ra điều phải trái, nên hay không nên hoặc ghi nhớ công ơn những người đã giúp, đào tạo cho mình, hiếu thảo được đặt lên hàng đầu trong bổn phận làm người bởi: "Có cha mẹ mới có ta, làm nên nhờ có mẹ cha vun bồi." Ngoại trừ những trường hợp bất thường chẳng may xảy đến cho một số người, ai không nhận ra công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ! "Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con." Đạo con là nghĩa vụ, lối đối xử của con cái đối với cha mẹ, là đạo hiếu: "Ơn cha nghĩa mẹ nặng trìu, ra công báo đáp ít nhiều phận con." Hoặc còn được gọi là sự thờ phụng song thân, "Nuôi con khó nhọc đến giờ, trưởng thành con phải biết thờ song thân." Chữ thờ phụng được hiểu lúc sống biết hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ, lo bảo vệ danh dự gia đình, khi chết lo cúng giỗ, biết ơn và học theo những đức tính tốt lành và làm gương cho con cháu mình.

Những ai sống trong bậc vợ chồng nhận thấy rõ: "Nuôi con mới biết lòng cha mẹ." Lúc còn ấu thơ, lỡ khi con gặp trái gió trở trời ốm đau bệnh hoạn, cha mẹ đứng ngồi không yên, ngày lo đàng ngày, đêm lo đàng đêm từng miếng ăn giấc ngủ của con, "Gió mùa thu mẹ ru con ngủ, năm canh chầy thức đủ về năm." Thế nên để nói cho những người chưa có cơ hội cảm nghiệm lòng thương của cha mẹ đối với con cái, người xưa đưa ra câu ví: "Lên non mới biết non cao, nuôi con mới biết công lao mẫu từ." Câu nói "Công ơn cha mẹ bằng trời bằng bể" không ngoa chút nào bởi dù cho có trời sập ở đâu, biển động chốn nào cũng không ảnh hưởng đến cha mẹ bằng chuyện nhỏ nhặt liên hệ đến con cái. Vì vậy: "Ơn cha nặng lắm ai ơi, nghĩa mẹ bằng trời chín tháng cưu mang."

Mang nặng đẻ đau đã to tát, nuôi nấng chăm nom từ tấm bé cho tới lúc lớn khôn không phải là công lao của một ngày một buổi mà từ năm này qua năm khác. Rồi sao cho con mình cũng được như con người không bị thua sút từ manh quần tấm áo đến học hành chữ nghĩa. Chẳng những thế, lo lắng giáo dục sao cho con nên người lại là cả vấn đề lao tâm khổ não. Dĩ nhiên: "Cha nào con nấy" là chuyện thường, nhưng ai không muốn sao cho "Con hơn cha" để cho "nhà có phúc." Hơn nữa, cha mẹ nào tránh thoát "Con dại cái mang" bởi đâu ai lòng dạ nào nỡ "Đem con bỏ chợ." Sinh con ra thì nào "Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa;" lúc "Con biết lẫy thì bố biết bò;" khi "Con lên ba, mới ra lòng mẹ;" lại còn "Con lên ba, cả nhà học nói." Chưa hết, trong cuộc đời bon chen biết bao nhiêu phen cha mẹ đã không dám sống buông thả theo ý thích cũng vì con cái bởi lối sống của cha mẹ, đức độ của bậc làm mẹ làm cha ảnh hưởng tương lai con cái: "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước." Có lẽ vì thế, muốn giáo dục cho con cái nên người, đấng bậc làm cha mẹ lại cần tự bó buộc chính mình trước. Đôi khi "Cha mẹ giầu con có, cha mẹ khó con không" cũng trở thành nỗi thống khổ cho những cha mẹ chẳng may trời bắt tội gặp phần số nghèo nàn vì đâu ai muốn thấy cảnh "Con người mặt hoa da phấn; con mình mặt cú da lươn." Và rồi nuôi nấng, dưỡng dục con cái tới lúc trưởng thành nào đâu đã xong, khi chúng chưa thành gia thất cha mẹ vẫn chưa hết mối lo: "Gái chậm chồng, mẹ cha khắc khoải." Thế nên cũng chẳng lạ gì: "Lắm con nhiều nợ..." Lại còn nhiều khi chính vì quá thương con nên sinh ra: "Bênh con lon xon mắng người."

Trên đời, ai cũng muốn cho con hay, con giỏi, và ai cũng muốn bồi đắp cho con cái nên việc dạy dỗ được cha mẹ tận dụng hết khả năng của mình. Bởi thế, "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư." Có cha mẹ nào dạy con làm điều xấu bao giờ; mà ngược lại muốn vun trồng cho con, dạy bảo, huấn luyện cho con đường ngay lẽ phải. Hơn nữa, đường ngay nào không khó kiến tạo; lẽ phải nào không cần cố gắng thực hiện; mà thường thì con cái ít khi nhận thức được chính vì lòng thương mà cha mẹ phải khó khăn đôi khi đến độ cứng rắn tập tành cho con những thói quen, lối sống tốt lành. Nhiều trường hợp con cái không nhận ra điều này đến khi cha mẹ khuất bóng mới biết: "Còn cha gót đỏ như son, một mai cha thác gót con chôn bùn." Vì thế, Ca Dao cũng có câu: "Bạc bảy đâu sánh vàng mười, mồ côi đâu sánh cùng người có cha." Một điều thật hiển nhiên: nước mắt chỉ chảy xuôi, và thực tế chứng minh: "Một mẹ nuôi được mười con, mười con không nuôi được một mẹ."

Bởi nhận thức được lòng thương và công lao vô bờ bến khó lòng đáp trả ấy, con cái cần đặt sự phụng dưỡng cha mẹ lên hàng đầu: "Tu đâu cho bằng tu nhà, thờ cha kính mẹ ấy là chân tu." Hoặc "Vô chùa thấy phật muốn tu, về nhà thấy mẹ công phu chưa đành." Có thể đó cũng là lý do tại sao có câu: "Thứ nhứt là tu tại gia, thứ nhì tại chợ, thứ ba tại chùa;" tu tại gia để phụng dưỡng cha mẹ. Vì vậy, làm con cần biết hiếu thảo bằng cách tối sớm chăm sóc cha mẹ: "Mẹ già ở tấm lều tranh, sớm thăm tối viếng mới đành dạ con."

Hiếu thảo với cha mẹ là biết làm hài lòng các ngài không những bằng cách đối xử mà ngay cả bằng sự biết vâng lời trong những điều ngay lẽ phải nên thực hiện trong cuộc sống: "Mẹ cha là biển là trời, làm sao con dám cãi lời mẹ cha." Biết hy sinh, quên bản thân mình để lo cho cha mẹ: "Đói lòng ăn đọt chà là, để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng," hay "Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi, gạo giã cho trắng mà nuôi mẹ già." Những việc nặng nhọc giúp đỡ cha mẹ đã đành mà cả những chuyện nhỏ cũng cần được để ý: "Cau non khéo bửa cũng dầy, trầu têm cánh phượng để thầy ăn đêm."

Hiếu thảo tạo cho cuộc sống con người có giá trị đáng hãnh diện là người hoàn toàn: "Nhà em có vại cà đồng, có ao rau muống có đầy chĩnh tương. Dù không mỹ vị cao lương, trên thờ cha mẹ dưới nhường anh em." Sự hiếu thảo, phụng dưỡng cha mẹ đáng được mọi người ca tụng: "Em thời đi cấy ruộng bông, anh đi cắt lúa để chung một nhà. Đem về phụng dưỡng mẹ cha, muôn đời tiếng hiếu người ta còn truyền." Và có thể được coi là đặc tính cần thiết xứng đáng trong lãnh vực hôn nhân: "Em về anh gửi buồng cau, buồng trước kính mẹ buồng sau kính thày." Hiếu thảo nhiều khi ảnh hưởng đến hôn nhân: "Con cá đối nằm trong cối đá, chim đa đa đậu nhánh đa đa. Chồng gần bậu không lấy bậu lấy chồng xa, mai sau cha yếu mẹ già, chén cơm bát nước bộ kỷ trà ai bưng." Nói cho cùng, hiếu thảo là điều nên ghi nhớ nằm lòng của một người: "Bao giờ cá lý hóa long, đền ơn cha mẹ ẵm bồng ngày xưa."

Khi cha mẹ còn sanh tiền, sự năng thăm hỏi, giúp đỡ sẽ làm hài lòng các ngài, "Năng mưa thì giếng năng đầy, năng đi năng lại, mẹ thầy năng thương." Chẳng những thế, người hiếu thảo còn ước mong cho cha mẹ sống lâu để phụng dưỡng, đền đáp công ơn: "Mỗi đêm mỗi thắp đèn trời, cầu cho cha mẹ sống đời với con." Nếu chẳng may cuộc đời run rủi phải sống xa cha mẹ, lòng tưởng nhớ ray rứt khôn nguôi: "Thương mẹ nhớ cha như kim châm vào dạ, nghĩ đến chừng nào lụy hạ tuôn rơi." Dù lối diễn tả qua Ca Dao có hơi thăng hoa, nhưng lẽ đương nhiên tâm tình hiếu thảo có ảnh hưởng quan trọng nơi tình cảm con người: "Gió đưa cây cửu lý hương, từ xa cha mẹ thất thường bữa ăn. Sầu riêng cơm chẳng buồn ăn, đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm." Tâm tình này được nhắc nhở nơi hình ảnh những kỷ niệm thơ ấu mỗi khi gợi về trong trường hợp cha mẹ đã khuất bóng: "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương." Những khung cảnh thiên nhiên nhiều khi du lòng con người tưởng nhớ đến công ơn cha mẹ: "Vẳng nghe chim vịt kêu chiều, bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau. Thương thay chín chữ cù lao, tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình."

Tuy nhiên, cuộc đời có người nọ lại cũng có người kia; có người hiếu thảo với cha mẹ thì cũng có người chẳng coi cha mẹ ra gì: "Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng, con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày." Hoặc lại có người lạm dụng hình thức hiếu thảo hầu mong lấy tiếng cho mình: "Còn sống thì chẳng cho ăn, chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi." Những người này thường không để ý đến sự giúp đỡ cha mẹ: "Mẹ già ở tấm lều tranh, đói no chẳng biết rách lành không hay." Bởi vậy để khuyến khích con cái hiếu thảo với cha mẹ, người đời có câu: "Con không hiếu kính mẹ cha, bàn nhơn thiên hạ người ta chê cười." Đôi khi Ca Dao dùng thuyết nhân quả của nhà Phật để nhắc nhở người ta nên hiếu thảo với cha mẹ: "Mình chí hiếu với mẹ cha, con mình sẽ hiếu với ta khác gì," hoặc dùng sự kiện thiên nhiên nói cho con người ý thức nếu mình hiếu thảo với cha mẹ thì sau này con cái sẽ đối xử với mình như vậy: "Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó," hay tục ngữ cũng có câu: "Giỏ nhà ai quai nhà nấy."

Hiếu thảo là sự biểu tỏ tình cảm thương yêu sâu đậm cũng như lòng biết ơn của con cái đối với cha mẹ. Người có hiếu với cha mẹ chắc chắn là người đáng được tôn trọng và tin tưởng vì chính hiếu đễ giúp con người nhận chân giá trị cuộc sống và giá trị làm người. Có hiếu đễ, con người mới đặt nặng vấn đề danh dự của mình cũng như gia tộc mình để sống sao cho xứng đáng hơn.


ANH EM HỌ HÀNG

Tự bản chất, cuộc sống mang đặc tính liên hệ giữa con người với con người. Sự liên hệ thân hay sơ tùy thuộc sự đối xử giữa người này với người kia và ngược lại. Tuy nhiên sự liên hệ huyết thống mặc dầu cũng phần nào tùy thuộc vào sự đối xử của con người trong cảm tình thân thiết hay không nhưng không giống như sự thân sơ quen biết bạn bè. Thế nên cho dù những người trong cùng dòng họ đối xử với nhau thân hay sơ thì vẫn có mối dây huyết thống ràng buộc. Mối dây huyết thống này liên kết những người trong giòng tộc với nhau dù gần hay xa trong liên hệ họ hàng. Bởi vậy, ông bà ta có câu: "Một giọt máu đào hơn ao nước lã."

Xét về mối liên hệ họ máu, anh em ruột là gần nhất cho dù đồng bào hay dị bào theo quan niệm phụ hệ. Phan Kế Bính ghi lại anh em đồng mẫu dị phụ "Không thân thiết gì mấy, cũng như người ngoài mà thôi" (Việt Nam Phong Tục; Phan Kế Bính; Sống Mới, 1983; tr. 29) xem ra hơi quá vì quan niệm này không đếm xỉa gì đến vai trò người mẹ trong sự liên hệ giữa con cái. Làm sao hai người dẫu khác bố, cùng mẹ sinh ra lại có thể được coi như người ngoài mà thôi trong khi dù chỉ là họ hàng mà sự liên hệ gia tộc còn được kể tới. Trên thực tế, anh em cùng mẹ khác bố tình thân thiết vẫn gấp mấy lần họ hàng con chú bác. Nói cho cùng, nhiều khi tâm tình con người bị ảnh hưởng quan niệm một cách quá đáng; chẳng hạn "Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô," hoặc "Con gái ngoại tộc đánh tốc đuổi đi;" âu đó cũng bởi ý thức sai lầm về trọng nam khinh nữ. Hơn nữa, trong thực tế, anh chị em cùng mẹ khác bố thân thiết nhau hơn anh chị em cùng cha khác mẹ bởi "Mất cha ăn cơm với cá, mất mẹ liếm lá gặm xương."

Qua kinh nghiệm sống ai cũng nhận thấy: "Anh em như chân tay." Chỉ trừ trường hợp đặc biệt với một số người cố chấp bởi thiếu ý thức hoặc chỉ biết coi mình là trọng hay ỷ vào vị thế có thể bất cần đến thân thuộc để rồi khinh khi hay coi thường anh chị em. Tình máu mủ ruột thịt nơi anh em họ hàng trong giòng tộc bao giờ cũng được coi trọng hơn bất cứ sự liên hệ nào. Thói đời thường "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai," nhưng anh em họ hàng thì dù mình có "Lên voi xuống chó," hoặc chẳng may gặp lúc "Giậu đổ bìm leo," thân tình giòng tộc vẫn còn đó và cũng là nơi nhờ cậy căn bản nhất chẳng may trong những lúc sa cơ thất thế. Đồng ý rằng tình thân nơi anh em họ hàng đôi khi không được bằng tình bạn nhưng thử hỏi trong cuộc đời một cá nhân được bao nhiêu người được gọi là bạn thân. Có chăng may ra chỉ một người mình có thể đặt hết tin tưởng, dám sống chết cho tình bạn hữu, còn chung chung chỉ là bạn bè qua lại hay thân hữu. Thử xét lại kinh nghiệm sống, khi một người có công chuyện cần người giúp đỡ, ai là những người dám lăn xả vào những công việc cần thiết phải giải quyết; ai là người gắn bó lo lắng, coi việc mình cũng như việc của họ. Đối với bạn bè, sự giúp đỡ chỉ trong một giới hạn nào đó; còn anh em họ hàng, sự giúp đỡ được thực hiện đến mức tối đa mà chẳng cần đòi hỏi dù chỉ một lời cảm ơn.

Sự liên hệ anh em họ hàng tự nó mang tính chất linh thiêng huyết thống nên dù có thờ ơ, lãnh đạm đến đâu chăng nữa người ta cũng không thể xóa nhòa đi được mối giây liên hệ này dẫu có những trường hợp do cuộc sống đem đến sự đụng chạm bất hòa để một người cố quên hay phải chấp nhận đành lòng dứt bỏ bởi "Đắng cay cũng thể ruột rà, ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng." Đồng thời kinh nghiệm họ hàng cũng nói lên: "Có máu có đau." Mối liên hệ anh em họ hàng cảm thấy thì chất ngất nhưng diễn tả lại khó mà nói lên được gì. Nó cũng giống như tình yêu, chẳng ai định nghĩa được, mà đem ra phân tích thì lại càng rắc rối bởi có thước nào làm mẫu mực chung để đo mức độ lòng con người.

Trong mối liên hệ gia đình, "Anh em thuận hòa là nhà có phúc." Sự đối xử giữa anh em họ hàng quí nhất là sự thuận hòa, chị ngã em nâng, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau thăng tiến cuộc sống. Tuy nhiên, giúp đỡ không mang nghĩa một chiều mà trong cuộc sống, "Có đi có lại mới toại lòng nhau." Cuộc đời tự nó đã mang tính chất phấn đấu để sống vươn lên; ai không nhận thức được điều này thì dù có nâng, có giúp cũng chẳng thể nào làm ăn nên. Muốn có được gì phải chấp nhận làm một cái gì là lẽ thường, chẳng chi mới lạ. Bởi vậy cổ nhân ta không chấp nhận có những chuyện ganh đua giữa anh em họ hàng: "Khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau" vì chỉ có"gà què" mới "ăn quẩn cối xay." Hoặc hơn nữa, "Làm tôi thằng hủi hơn chịu tủi anh em." Khi đã chịu tủi anh em, đã bị anh em coi thường thì chắc chắn rằng mình cũng chẳng ra gì đối với xã hội bởi lẽ nếu đã bị "Anh em khinh trước," thì chắc chắn "Làng nước khinh sau."

Xét về quan niệm thân sơ họ hàng, ông bà ta có câu: "Con cô con cậu thời xa, con chú con bác thật là anh em." Có lẽ quan niệm này cũng bị lệ thuộc vào chế độ phụ hệ. Thực tâm mà nói, mấy ai trong chúng ta cảm thấy anh em con chú bác gần hơn con cô con cậu? Nói cho đúng, đàng nào cũng là anh em, và tình cảm thân sơ tùy thuộc sự đối xử qua lại với nhau mà chớ. Không hiểu những người theo chế độ mẫu hệ cảm thấy thế nào và quan niệm của họ ra sao. Quan niệm "xa gần" này không được coi là mẫu mực cho tình thân sơ; có chăng chỉ sinh thêm lắm phiền toái về ngôi thứ nơi đình đám hoặc vấn đề mời mọc theo lệ tục... Nếu xét về cá tính chung để xác định tình thân sơ thì quan niệm gần, xa trong mối liên hệ con chú bác và con cô cậu lại càng phi lý. Theo tâm lý, nhiều trường hợp người đàn ông dành cảm tình cho con của em gái hay chị gái mình có khi nhiều hơn cho chính con mình, và đàn bà dành cảm tình cho con của anh hay em trai mình nhiều hơn cho chính con mình. Thế nên, con cô gần với bố, con cậu gần với mẹ mà xa với mình có lẽ cũng là một điều dị kỳ, khó chấp nhận. Còn nếu nói theo tục lệ phải giữ "Con cô con cậu thời xa" càng vô lý hơn bởi tục lệ nào không có người đề xướng ra để dùng riết rồi quen. Mà đã có người đề xướng ra thì cũng có thể sửa đổi sao cho hợp lý hợp tình là tốt nhất.

Xét về sự liên hệ trong gia tộc, những người gần nhất với mình bằng vai với bố là anh chị em ruột của bố; bằng vai với mẹ là anh chị em ruột của mẹ. Bởi thế: "Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ ấp vú dì." Tình cảm họ máu về đàng mẹ còn được diễn tả: "Dì ruột thương cháu như con, rủi mà không mạ (mẹ) cháu còn cậy trông." Sự liên hệ họ hàng giòng tộc có thể phần nào được coi như một bảo đảm cho con người vì dầu thế nào chăng nữa, "Chín đời họ mẹ vẫn hơn người ngoài."

Ngoài ra, có những người không mang liên hệ huyết thống cũng được coi như và chấp nhận nơi liên hệ họ hàng trong trường hợp hôn nhân. Sự liên hệ giòng họ với người ngoài dòng họ này đã xảy ra lắm cảnh trái ngang như trong trường hợp mẹ chồng con dâu hay nàng dâu và "bà cô" bên chồng. Nhìn về khía cạnh tâm lý, mẹ chồng và các "bà cô" cảm thấy thiệt thòi, mất mát vì người con, anh em trai đang bỗng dưng thân thiết với người ngoài mới cưới về hơn với mẹ và các chị em gái mình nên mối ghen tự tiềm thức được nảy sinh; do đó, "Giặc bên ngô không bằng bà cô bên chồng" cũng chẳng có gì lạ mà ảnh hưởng nhiều khi tàn khốc. Cũng may mắn, mấy chú "gà tồ" em trai chồng nếu chị dâu biết điều thì chỉ có lợi chứ chẳng bao giờ bị phiền hà: "Một trăm ông chú không lo, lo về một nỗi mụ o nỏ mồm." Tình thân sơ chị em dâu chỉ như bầu nước lã, phận ai nấy lo hãy còn êm cửa êm nhà. Riêng trường hợp mấy chàng rể thì chàng nào cũng giỏi, cũng hay nên sinh ra thích gáy. Bởi thế có câu: "Yêu nhau chị em gái, khái nhau chị em dâu, đánh nhau vỡ đầu là anh em rể."

Mặc dầu "Có cây mới có dây leo, có cột có kèo mới có đòn tay," tâm tình đối xử giữa họ hàng được thiết lập qua mối liên hệ hôn nhân có nhiều trường hợp cách xa bởi quan niệm phụ hệ: "Chồng cô với lại chồng dì, tiếng kêu bằng dượng, tình thì lãng quên." Chẳng những thế, liên hệ tang ma cũng chẳng có gì khác đối với người ngoài: "Chồng cô vợ cậu chồng dì, trong ba người ấy chết thì không tang." Hoặc: "Cậu chết mợ ra người dưng." Tuy nhiên, "Chú tôi có chết thím đừng lấy ai." Quan niệm này có thể cũng do ảnh hưởng từ chế độ phụ hệ mà ra.

 

HIẾU HỌC

 

Đối với cuộc sống con người, nhu cầu cần thiết căn bản nhất là thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể, quần áo để che thân thể và nơi chốn trú ngụ. Dù cho những người thời tiền cổ, xa xưa có đời sống mộc mạc cách mấy cũng không ai có thể nhịn ăn hoặc không có chốn dung thân hay vài mảnh da thú che đậy cơ thể cho ấm áp vào những thời kỳ rét mướt. Theo với dòng thời gian, cuộc sống con người càng ngày càng phát triển thì nhu cầu của cuộc sống lại cũng đồng thời tăng dần với sự hiểu biết. Sự thăng tiến về tâm não là một đặc tính duy nhất của con người mà không loài động vật nào có thể có được dẫu rằng động vật nào cũng có bộ óc. Các loại động vật khác nếu có phát triển về bộ óc chăng thì cũng chỉ tạo thành được một thói quen kinh nghiệm cho hợp với hoàn cảnh đòi hỏi để bảo vệ sự sinh tồn và truyền giống theo định luật đào thải tự nhiên. Đối với con người thì lại khác hẳn, họ dùng bộ óc, suy nghĩ để thực hiện những tiện nghi cho cuộc sống.

Khi những sự thiết yếu căn bản của đời sống đã tạm đầy đủ, nhu cầu kiến thức nơi con người trở nên cần thiết. Ở tầm mức này, tâm trí con người khao khát kiến thức không thua gì cơ thể khi đói cần thực phẩm; chả thế mà các cụ học Nho cũng đã phải than rằng: "một ngày không đọc sách, soi gương thấy tự xấu hổ" ư! Hơn nữa, kinh nghiệm bản thân ai cũng nhận thấy "Có đi mới đến, có học mới hay." Đồng thời chính sự khao khát hiểu biết đã giúp con người mỗi ngày một khôn ngoan hơn, tiến bộ hơn không những chỉ về kiến thức mà còn cải tổ lối sống, cách cư xử sao cho hợp lý và hợp tình hơn.

Sự khao khát hiểu biết được gọi là hiếu học. Dĩ nhiên, đối với người đã hiếu học không phải cứ tới trường mớihọc được mà trường đời lại là chốn thực sự cho người muốn học trau dồi kiến thức cùng thực hành những điều mình đã hấp thụ. Hơn nữa, sự học hỏi không bao giờ có giới hạn cũng như không có tuổi tác nào có thể được gọi là hạn định cho sự hiếu học của một người. "Ông bảy mươi" mà còn nên "học ông bảy mốt" mặc dầu "Thất thập cổ lai hy" thì sự khát khao kiến thức nơi con người phải là một điều trọng yếu không thể không có.

Tiền nhân tự ngàn xưa đã nhận thấy nhu cầu thiết thực của kiến thức nên đã khuyến khích con em hiếu học bởi có học mới biết, mới không thua kém người khác nhất là những người đồng lứa. Đối với các ngài, "Thua thày một vạn không bằng thua bạn một ly." Thêm vào đó, dân Việt chuyên về nông nghiệp, đa số nghèo khổ lại cần người lo về cày cấy nên ít người được cơ hội ăn học; vì thế sự học hành để sau này ra giúp nhân quần xã hội được coi rất trọng. Ông cha ta lại có quan niệm về danh khá cao nên chẳng những người có cơ hội ăn học ra làm việc giúp nhân quần được danh thơm cho chính mình mà họ hàng gia tộc cũng có tiếng thơm lây: "Một người làm quan, cả họ được nhờ." Vì nghèo nên những nhu yếu của cuộc sống cũng bị giới hạn; tuy thế, danh dự còn được coi trọng hơn chính sự giàu có vật chất: "Tốt danh hơn lành áo." Lẽ đương nhiên, danh dự của một người có được nhờ sự hiểu biết, nhờ sự học hỏi từ đó làm căn bản hiểu biết sống sao cho tốt lành hơn; thế nên từ kinh nghiệm cuộc sống, người xưa đưa lời khuyên nhủ: "Hay học thì sang, hay làm thì có." Và còn hơn thế nữa: "Làm đầy tớ người khôn hơn làm thầy đứa dại; " bởi có học mới nên khôn.

Sự học hỏi không chỉ giới hạn nơi môi trường học đường; học đường là môi trường khai quang trí tuệ con người, tập cho con người lề lối suy nghĩ hợp lý, hợp tình, chuẩn bị cho con người vốn liếng, hành trang đối diện với thực tế phức tạp trong tương lai. Vì thế người có cơ hội cắp sách đến trường để được học hỏi tới một mức độ nào đó thường được gọi là người có học. Quan niệm "có học" thay đổi tùy theo thời gian, không gian, và kiến thức phổ thông của quần chúng. Người có học được coi là khôn ngoan nhờ biết nhiều kiến thức "Gió năm non thổi lòn hang dế, tiếng anh học trò mưu kế để đâu." Sự học hành ảnh hưởng không những đa số quần chúng mà còn ảnh hưởng tới cả vấn đề hôn nhân "Quyết lòng chờ đợi trò thi, dầu ba mươi tuổi lỡ thì cũng ưng." Thế nên đôi khi học trò trở thành đối tượng cho người khác phái kén chọn trong vấn đề hôn nhân. Do đó câu "Ai ơi chớ lấy học trò, dài lưng tốn vải ăn no lại nằm" mang ẩn ý riêng: dèm pha người khác để mình tiến tới. Chả thế mà: "Hẩm duyên lấy phải chồng đần, có trăm mẫu ruộng bán dần mà ăn." Chồng đần có thể mang ý nghĩa người không hiếu học bởi "Dốt đến đâu học lâu cũng biết."

Sự khuyến học được cổ võ vì thời nào cũng vậy, "Cha muốn cho con hay, thày muốn cho trò khá." Sự khuyến học thường được diễn tả qua những tâm tình nối kết với đối tượng thực tiễn nhất: "Học thày chẳng tày học bạn," hoặc "Nhà nghèo hay chữ thì hơn, giàu mà hay chữ như son thếp vàng," hay "Khuyên chàng đọc sánh ngâm thơ, dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu." Người Việt rất trọng luân lý, cương thường; ông cha ta cũng đã dùng ngay tâm lý này để khuyến học: "Dốc một lòng lấy chồng hay chữ, để ra vào kinh sử mà nghe." Đồng thời cũng không từ sự nhạo báng những người có cái nhìn thiển cận về sự học: "Dốc một lòng lấy chồng dốt nát, để ra vào rửa bát nấu cơm." Đối với người Việt, quan niệm người chồng là cột trụ gia đình, có bổn phận lo lắng, đùm bọc, che chở vợ con, là người cho vợ con nương tựa cùng kiếm kế sinh nhai nuôi sống gia đình mà bị đặt vào phận sự "rửa bát nấu cơm," có nghĩa ăn bám vợ hoặc "thờ bà" thì không còn sự nhục nhã nào bằng; đến ngay như "Con rể ở nhà bố vợ như chó rúc gầm chạn," thì đàn ông quanh quẩn xó bếp còn bị khinh khi gấp mấy lần. Vì vậy, càng là phái nam, càng phải lo học; và không những sự học cần sự cố gắng của một người mà lại cũng cần sự giúp đỡ khuyến khích của người khác: "Hai tay bưng quả bánh bò, giấu cha giấu mẹ cho trò đi thi." Đối với người đi học, "Có công mài sắt có ngày nên kim" vì có học mới biết, mới hay bởi "Chuông có gõ mới kêu, đèn có khêu mới rạng;" chẳng những thế, cha mẹ lại cần tích cực khuyến khích sự học của con cái, ngay cả bằng cách đối xử với thày giáo: "Muốn sang thì bác cầu kiều, muốn con hay chữ thì yêu mến thày."

Giữa đám dân giả chuyên chăm với việc cấy cày đồng ruộng hiếm hoặc không bao giờ có cơ hội giao thiệp trong những môi trường rộng lớn hơn bình thường, chỉ quanh quẩn nơi xóm làng, sự ăn trên ngồi trốc phải được dành cho những người làm việc làng xã. Dĩ nhiên, ai cũng muốn được mọi người kính trọng và biết tới mà những người được biết tới nhiều nhất phải là những người làm việc, có liên hệ tới nhiều người. Vì thế, nơi chốn đình làng từ chỗ ngồi cho tới miếng ăn đều được gán cho giá trị cao hơn nơi cuộc sống thường ngày, "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp." Điều hiển nhiên ai cũng quý danh thực, danh tiếng do chính cuộc sống mình tạo nên chứ không phải giả tạo. Hơn nữa, không phải cứ chịu khó làm sao cho có tiền mà mọi người kính trọng hoặc có danh dự bởi danh dự đôi khi còn được coi là "sang". Do đó chẳng ai ưa những người "Trưởng giả học làm sang" vì "sang" do thái độ lối sống chứ không phải vì giàu có. Xét như thế, người có học, tư tưởng thánh hiền, những điều khôn ngoan ảnh hưởng tư cách, lối sống của họ trở nên "sang" bởi đó có tư cách khác người thường nếu không muốn nói là vượt hẳn hơn người thường. Kinh nghiệm sống cho biết "Miệng nhà giàu nói đâu ra đấy," bởi "Mạnh vì gạo, bạo vì tiền;" hoặc hơn nữa, "Nén bạc đâm toạc tờ giấy." Tuy nhiên nếu muốn được "Một lời nói một gói vàng" thì phải là người có học. Nhận thức được sự giàu có tiền của không thể nào thay thế được sự giàu có kiến thức, học hành, ông cha ta nhấn mạnh giá trị của sự học: "Một kho vàng không bằng một nang chữ". Hơn nữa học cũng là một lối đầu tư cuộc đời bằng vốn liếng kiến thức, "Giấy trắng mực đen làm quen thiên hạ." Vì vậy sự hiếu học là điều mà mọi người nên cố gắng bởi "Thần nào hưởng của nấy." Sự học không những giúp thêm kiến thức cho mình mà còn cho cả cuộc sống của mình nữa. Để khuyến khích những ai nản chí bởi tự ty mặc cảm do dốt nát, người xưa khuyên: "Dốt đến đâu học lâu cũng biết," hoặc "Học hay, cày biết," và "Ăn vóc, học hay." Vì thế ai cũng nên học nhất là giới trẻ: "Rừng nhu biển thánh khôn dò, nhỏ mà không học lớn mò sao ra."

Cuộc đời cũng lắm cảnh trớ trêu. Riêng xét về việc học hành, "Học tài thi phận" đã khiến biết bao người nản chí, dở khóc dở cười "Lỡ quan, lỡ lính, lỡ làng, lỡ bề dân giả, lỡ hàng công danh." Chữ công danh mang nghĩa thi cử đỗ đạt. Tuy nhiên, sự thất bại ảnh hưởng tùy người, tùy tâm tính vì bất cứ chuyện gì cũng cần có ý chí. Người nào kém ý chí tất nhiên luôn luôn lỡ làng bởi "Có chí thì nên," cũng như "Lửa thử vàng, gian nan thử đức." Ý chí giữ một vai trò quan trọng trong cuộc đời một người, "Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thời giầu, có chí thì nên." Hơn nữa, người có ý chí lại thường biết tính xa, lo toan để xắp xếp cho những công việc mình cần phải hoàn thành bởi "Một ngày liệu ở giờ dần, một đời liệu ở chữ cần mà ra." Lẽ tự nhiên, "Người đời ai khỏi gian nan, gian nan có thuở thanh nhàn có khi," nên "Có chí làm quan, có gan làm giàu," hoặc "Trồng cây có ngày ăn quả."

Mặc dầu tiền nhân dân Việt tin rằng mỗi người có số phận riêng; Trời ban cho ai may mắn thì người ấy được và người nào đã chẳng may bị số phận lầm than thì có cố gắng cách mấy cũng suốt đời nghèo hèn "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần." Hơn nữa, thói đời, chẳng may gặp thời kỳ vận số lận đận thì chẳng ai biết đến mà khi ăn nên làm ra lại lắm kẻ mưu toan nhờ cậy "Lúc khó thì chẳng ai nhìn, đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em." Thế nên ông cha ta khuyến khích mọi người "Đã trót thì trét," đã có ý chí, đôi khi "Phóng lao đành theo lao" để lập thân; quản ngại chi vất vả, gian nan nhỏ nhặt, "Thân lươn chẳng quản lấm bùn." Vấn đề còn lại chỉ là chăm chuyên cần mẫn học hành vì "Văn ôn, võ luyện" để rồi nhờ cố gắng vượt những khó khăn trong cuộc sống thời còn hàn vi như những thử thách ý chí, tương lai chắc chắn sẽ được tươi sáng, "Làm trai có chí lập thân, rồi ra gặp hội phong vân có ngày."


CẦN MẫN và CẦN KIỆM

 

Là con dân của một nước nghèo, cả đời cũng tội! Đa số dân chúng Việt nam chuyên về nông nghiệp mà mùa màng lại tùy thuộc vào sự thay đổi của thời tiết. Những năm mưa thuận gió hòa thì không sao nhưng chẳng may thiên nhiên bất ổn gây thiệt hại tới mùa màng, con dân trăm chiều khổ sở mới may ra kiếm đủ lương thực cho cuộc sống thường ngày. Hơn nữa, thực phẩm chính yếu của dân Việt là lúa gạo, mà nơi những vùng đất cao, trồng lúa còn đỡ tốn công; cấy lúa nơi các ruộng thấp không dễ dàng chi. Nào chuẩn bị ruộng trưa mạ, ngâm thóc giống, gieo mạ, nhổ mạ đoạn mới cấy lúa. Thế đâu đã xong, còn làm cỏ, xịt thuốc sâu, thuốc rầy... Rồi những cơn giông bão phũ phàng bất chợt kéo tới giáng tai họa cho dân nông nghiệp. Năm nào được mùa, có được lúa đã là may và rồi còn chà lúa thành gạo như những năm sau này từ thập niên 60, 70 trở đi thì dễ dàng, không quá phiền hà. Ngày xưa, nào xay, đâm, giần, sàng mới có thể biến lúa trở thành gạo không phải là những chuyện dễ làm. Do đó, qua kinh nghiệm nhà nông, bưng chén cơm nuôi dưỡng sự sống con người gợi lại nhiều vất vả làm lụng: "Ai ơi bưng bát cơm đầy; dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần."

Qua kinh nghiệm sống, ai cũng hiểu rằng "Có khó mới có mà ăn." Tuy nhiên, với bản tính tự nhiên ngại khó, đã dễ chi ai có thể tự chấp nhận khó khăn khổ cực. May mắn thay, quan niệm đạo đức thánh hiền truyền lại ăn sâu tận tâm khảm mỗi người đã là năng lực giúp cho dân nhà nông cần mẫn đối diện với những thực tại khó khăn trong cách sinh sống. Phụ vào đó, niềm tin tưởng vào sức mình, chấp nhận sự chịu đựng cũng như cố gắng vượt qua những trắc trở do thiên nhiên... cũng đã giúp nhà nông hy vọng vào tương lai khấm khá hơn: "Người đời ai khỏi gian nan; gian nan có thuở thanh nhàn có khi."

Qua kinh nghiệm làm lụng vất vả mới có của mà ăn "Đổi bát mồ hôi lấy bát cơm," lại không có máy móc, tất cả những công việc nặng nhọc đồng áng đều được hoàn thành bởi sức người, may ra có được trâu bò kéo cày hay chuyên chở, nhà nông cần nhiều thời giờ làm lụng mới có đủ lương thực nuôi sống gia đình. Mờ sáng đã có mặt nơi ruộng rẫy và thường khi trời nhá nhem tối mới vác cuốc trở về nhà. Nhà nông "Canh một chửa nằm, canh năm đã dậy." Hơn nửa thời gian của một đời người chăm chuyên làm việc đã đúc kết nơi tâm hồn người Việt sự cần mẫn kiên trì. Từ đời này qua đời khác, và hơn nữa, sống trong hoàn cảnh đất nước nghèo khó và chậm tiến, những công việc khác cũng đòi hỏi nhiều sức lao động và bền chí của con người. Từ đó, tâm hồn người Việt qua nhận thức từ kinh nghiệm nảy sinh ý chí cương quyết kiên trì "Có chí thì nên."

Không ai vừa sinh ra đã biết làm hết mọi sự. Tài năng dù có là thiên bẩm cũng cần thời gian và cơ hội phát triển do đó lại cũng cần sự kiên trì luyện tập: "Ai ơi đừng chóng chớ chầy, gắng công mài sắt có ngày nên kim." Sự cần mẫn của một người được thực hành lâu dần trở thành cá tính và tạo nên nơi tâm hồn tính chất nhẫn nại, chịu đựng. Chính điểm này giúp người Việt có khả năng phấn đấu cao, đồng thời nảy sinh ý thức giá trị của sự làm việc. Làm việc không phải chỉ giúp cho con người sự sống mà còn sống vươn cao hơn hiện tại mình đang sống: "Vất vả mới có thanh nhàn; không dưng ai dễ cầm tàn che cho." Dĩ nhiên không có gì tự trời rơi xuống mà những gì mình có đều là kết quả những điều kiện đã được thực hiện hoặc có được những gì mình muốn đều phải trả với giá nào đó: "Hay học thì sang, hay làm thì có," hoặc "Có chí làm quan, có gan làm giàu." Sự cần mẫn cộng thêm mối tính toán sắp đặt sao cho hợp lý, hợp tình là điều kiện cần thiết đạt thành mong ước cuộc đời mình dễ thở hơn hay chuẩn bị cho những biến cố sắp tới: "Nắng đan đó, mưa gió đan gầu."

Không quen cần mẫn, mọi sự đều khó bởi thường thì "Khoan thổi vội ăn" là khuyết điểm chung của mọi người. Tuy nhiên, nhận thức giá trị cần thiết của sự làm việc kiên trì để bảo tồn cuộc sống, những câu Ca Dao mộc mạc vừa khuyến khích vừa răn dạy đã trở thành phương châm diễn tả giá trị của sự cần mẫn dính liền với cuộc sống con người: "Có khó mới có mà ăn, không dưng ai dễ mang phần tới cho." Hoặc "Ngồi rồi sao chẳng xé gai, đến khi có cá mượn chài ai cho." Hơn nữa, mặc dầu tình tương thân tương trợ nơi người Việt rất cao nhưng không phải vì thế mà dễ ai có thể lạm dụng tâm tình này bởi "Giúp lời không ai giúp của, giúp đũa không ai giúp cơm." Vả lại, sống trong hoàn cảnh nghèo, cuộc sống khó khăn, đặc tính tự lập được tạo thành do phải đối diện với thực tại nhiều trắc trở, người Việt cực chẳng đã mới dám nhờ vả người khác chứ đừng nói tới lạm dụng lòng tốt kẻ hay xót thương. Do đó chính cuộc sống đã tạo nên nơi người Việt đặc tính cần mẫn thì đồng thời cũng giúp người Việt có thêm đặc tính cần kiệm.

Bức tường nào không do sự kết hợp của những viên gạch ráp nối, gắn bó với nhau bởi hồ. Bồ thóc nào không gồm những hạt thóc... "Năng nhặt chặt bị," hoặc "Kiến tha lâu cũng đầy tổ" đã trở thành phương châm cần kiệm và nhận thức giá trị của sự cần kiệm nơi người Việt. Sự cần kiệm phải được đi kèm với cần mẫn bởi mẫn mà không kiệm thì cũng chỉ như gió lọt nhà trống; có làm lụng được đến mấy chăng nữa, tay trắng vẫn hoàn trắng tay: "Thủng thẳng mà lượm hoa rơi, ở cho có chí hơn người trèo cao." Có chí không chưa chắc đã đủ mà có chí và thực hiện ý chí lại là cần mẫn. Cần kiệm là xử dụng đúng mức giá trị của nhu cầu với ý thức nhân bản làm chủ. Việc gì đáng tiêu xài và nếu có thể được, tiêu xài không hoang phí và ngược lại cũng không keo kiệt, hà tiện. Cần kiệm là một đặc tính của lối sống cận nhân tình, không thái quá cũng không riết ráu. Không chạy theo vật chất để chỉ biết "Có tiếng không bằng có miếng" cũng chẳng đua đòi danh tiếng hão huyền: "Tiền không bằng tiếng," mà sự tiêu dùng tùy việc, tùy hoàn cảnh và điều kiện cho phép, nói cách khác, "Tùy gia phong kiệm."

Sự cần mẫn và cần kiệm có thể được sinh ra từ nhận thức tự lập. Ở một nước nghèo khổ, khi cá nhân nào phải đương đầu với những trắc trở khó khăn trong cuộc sống cần phải giải quyết, ngoài sự tìm đến thân nhân, gia đình, anh em họ hàng, họ không còn biết chạy đâu nhờ vả. Hơn nữa, chính cuộc sống khổ cực lầm than tạo nên "Anh em kiến giả nhất phận" bởi có đâu mà giúp, mà che chở. Chính vì thế, ai cũng phải nhận thực nằm lòng "Đời cua, cua máy; đời cáy cáy đào." Căn bản tự lập một cách nào đó cũng khuyến khích con người phải cần mẫn và biết cần kiệm. Người Tây phương có câu: "Trời chỉ giúp những kẻ tự giúp mình" (cách ngôn Mỹ); ông cha ta thực tế hơn: "Đại phú do thiên, tiểu phú do cần." Nói nôm na theo người miền Nam: "Giàu nhỏ hay mần, giàu lớn Trời cho." Hơn nữa, niềm tin vào Trời, vào số mạng một phần nào khuyến khích con người thêm cần mẫn và cần kiệm: "Không ai giàu ba họ; chẳng ai khó ba đời."

Cần kiệm xét ra cần thiết hơn cần mẫn, "Buôn tầu bán bè không bằng ăn dè tiết kiệm," bởi không có kiệm mà chỉ có cần, cuộc đời chỉ có ba chìm bảy nổi, biết làm chẳng biết lo. Kiệm mang nghĩa tiết giảm, dè giữ; cần bao gồm chăm chỉ, chuyên chú, sức lao động, sự cần thiết. Cần kiệm bao gồm cần mẫn và tiết kiệm. Cần kiệm không những giúp cho cuộc sống con người đều hòa, tránh khỏi những khi bất cập, xo xíu, mà lại còn mang nghĩa quí trọng lộc trời cũng như biết nhận ra giá trị công lao sức lực của mình: "Làm người cho biết tiệm tần; đồ ăn thức mặc có ngần thì thôi. Những người đói rách rạc rời; bởi phụ của trời làm chẳng nên ăn," hoặc "Phí của trời mười đời chẳng có." Cho nên những người cần kiệm "Ăn tham chắc, mặc tham bền." Dĩ nhiên, nhiều khi không phải "Ăn tham chắc" mà "Ăn lấy hương lấy hoa;" trường hợp này thuộc về lối cư xử giao tiếp để giữ phong thái của con người chứ không phải cần kiệm hoặc khách sáo.

Người cần kiệm biết nhìn xa trông rộng, biết chuẩn bị cho tương lai lỡ có lúc này lúc khác "Làm khi lành để dành khi đau." Cần kiệm còn giúp người ta biết "Liệu cơm gắp mắm, liệu bò đo chuồng." Nó mang nghĩa "Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm." Lẽ đương nhiên, những người có của phải là những người biết cần kiệm, không hoang phí, lại chăm chỉ làm ăn không cách này thì cũng cách khác: "Nhà giàu tham việc, thất nghiệp tham ăn." Hơn nữa, "Tiết kiệm mới giầu, cơ cầu mới có." Người không biết cần kiệm, "Ăn không lo, của kho cũng hết," bởi "Miệng ăn núi lở."

Lẽ đương nhiên, dù công việc sinh sống của một người trong bất cứ nghành nghề nào cũng đều cho kinh nghiệm tương tự như nơi nhà nông: "Có cấy, có trông; có trồng, có ăn," hoặc "Có làm mới có mà ăn." Tuy nhiên đôi khi có làm mà chẳng may bị thất bại cũng như nhà nông không may gặp thời hạn hán. Qua những thăng trầm bất thường trong cuộc sống, ông cha ta nhận ra rằng mỗi người còn có số phận riêng. Bởi thế đôi khi lắm cảnh cười ra nước mắt; kẻ làm lụng thâu đêm tối ngày, vất vả cực khổ lại có khi không đủ ăn; còn người làm ăn khơi khơi thì lại tiền dư thóc đống. Cho nên đôi khi số phận hẩm hiu của một người làm cho họ "Tránh trời không khỏi nắng." Vì vậy, ông cha ta tin tưởng rằng "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần." Mặc dầu thế, bởi "Không ai giầu ba họ, chẳng ai khó ba đời," ông cha ta lại cũng tin rằng "Bĩ cực, thái lai," khi số phận hẩm hiu, vận đen hết thì vận đỏ tới. Bởi thế, cần kiệm luôn luôn nên được nuôi dưỡng bởi "Sông có khúc, người có lúc." Cuộc đời muốn được an toàn, tránh cảnh túng quẫn nên cần kiệm, thực hành cần kiệm chứ không phải chỉ nói hoặc biết cần kiệm: "Được như lời nói, làm nhà ngói mà ở." Dĩ nhiên ai không mơ ước cuộc đời mình dễ thở, khấm khá hơn mà mơ ước không chưa đủ; cần mẫn và cần kiệm phải được áp dụng trong cuộc đời mới có thể tạo số cho chính mình: "Chuông có gõ mới kêu, đèn có khêu mới rạng."

Do nhận thức được phận số ngoài tầm tay với của mình, sự khôn ngoan của tâm tình chấp nhận nảy sinh "Giàu cũng ăn ngày ba bữa; khó cũng đỏ lửa ba lần." Hơn nữa, còn sự kiên trì, cần mẫn, và cần kiệm, tương lai sẽ tươi sáng hơn bởi "Giàu hai con mắt, khó hai bàn tay." Cần mẫn và cần kiệm giúp con người tránh thoát những khi "Hai mắt dồn một," hoặc lúc phải "Giật gấu vá vai," hay "Giật đầu cá vá đầu tôm," hơn thế nữa, còn giúp con người cơ hội sống liêm chính vì "Bần cùng sinh đạo tặc," hoặc "Lúc túng làm liều," làm hư hại tâm đức cũng như thanh danh nhân vị con người. Ông bà ta cũng tin tưởng rằng "Mất trâu thì lại tậu trâu; những quân cướp nợ có giàu hơn ai." Người sống đức độ, cần mẫn phụ họa thêm cần kiệm, không thể nào lâm vào cảnh cướp nợ làm tổn hại thanh danh không những cho cá nhân mình mà còn ảnh hưởng tới gia đình họ hàng. Chính vì thế, ông bà khuyên ta: "Sinh không tử lại hoàn không, khó ta ta chịu, đừng mong giầu người."

Kinh nghiệm đời, "Của phù vân không chân hay chạy," vả lại cuộc sống có lúc nọ lúc kia, ông cha ta nhận thấy "Chẳng ai nắm tay thâu ngày đến tối" hoặc "Không ai giang tay thâu đêm đến sáng." Do đó nên cần kiệm vì lẽ "Hay làm mà chẳng hay lo, làm chi cho lắm, làm cho nhọc mình." Những người làm ăn nên tất nhiên biết cần kiệm, biết suy trước tính sau cho cuộc đời mình: "Làm người ăn tối lo mai, việc mình hồ dễ để ai đo lường." Nói cách khác, thường tình, ít ai tránh thoát những kinh nghiệm nghèo khó, những lúc túng quẩn trong cuộc đời; và hơn nữa, "Ai nên khôn không khốn một lần;" người xưa nhẹ nhàng nhắc nhở "Ăn cơm mắm ngắm về sau; ăn cơm rau nhớ sau nhớ trước." Cần mẫn, cần kiệm giúp đời sống con người vươn lên tránh cảnh khốn cùng bất cập, đồng thời bổ túc tâm tình đạo đức cũng như bảo tồn danh dự con người.


TƯỚNG DIỆN

 

Người xưa có câu: "Giàu ba mươi tuổi chớ mừng, khó ba mươi tuổi em đừng vội lo;" trong khi Khổng Tử thu thập: "Tam thập nhi lập." Ba mươi tuổi đã nhi lập mà cuộc đời còn bấp bênh chưa biết tương lai sẽ thế nào hỏi sao không e ngại. Qua kinh nghiệm sống, con người nhận thấy không phải cứ cố gắng mà đạt được điều mình muốn. Cuộc đời thăng trầm nhiều khi dồn con người vào cảnh bó tay bó chân không phương xoay xở khiến phải tin rằng còn một lẽ nào đó ảnh hưởng đến thực tại tạm gọi là vận số. Nói là vận số vì mình không hiểu được nguyên nhân tại sao. Có những người học hành không ra gì mà cuộc đời làm ăn giầu có; lại những người trông vẻ bên ngoài tầm thường giữ uy quyền muôn mặt... Lẽ thường tình: "Giàu đâu đến kẻ ngủ trưa..." thế mà chỉ những người giầu không phải lo lắng bon chen với vật chất mới có thể ngủ muộn; hoặc câu khác: "Những người đói rách tả tơi, của Trời chớ phụ đừng ăn chơi quá nhiều," lại nghịch thường với thực tế. Chỉ những kẻ nhiều của ăn không hết mới phụ của chứ đói rách làm chi có của mà phụ. Câu "Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện" một phần nào đó khuyên mọi người nên tiết kiệm lúc có để lo cho lúc chẳng may, đừng vung tay quá trán, chứ nếu vừa buôn tàu bán bè vừa ăn dè hà tiện thì phải có hơn chứ không thể nào nói đến không bằng. Tuy nhiên, nếu cho rằng đời người đã được phận số định sẵn làm sao "Có chí thì nên," và phải chăng tin vào phận số chỉ làm hao mòn tinh thần tiến thủ?

Xét về phương diện tâm tính đôi khi có những câu thật khó mà hiểu. Chẳng hạn: "Những người lúa đụn tiền kho, ruột bằng sợi chỉ miệng to bằng trời." Nếu nghĩ ngược lại, những người nghèo nàn, lòng rộng rãi lấy gì mà cho, và có rộng rãi thì cũng chỉ giới hạn trong cảnh nghèo của mình. Hơn nữa, thực tế cho thấy, chỉ những người giầu có mới giúp được những người nghèo vì người đã nghèo thì chẳng có nên dù lòng muốn nhưng cái khó nó bó cái khôn, cái nghèo không cho phép bởi chính mình chưa lo nổi cho mình làm sao có thể giúp người. Lấy gì để minh chứng "Người xấu duyên lặn vào trong, bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài?" Và làm sao để thử nghiệm "Chớ thấy áo rách mà cười, những giống gà nòi lông nó lơ thơ?"

Tuy nhiên có những nhận xét về tướng diện con người nơi Tục Ngữ, Ca Dao dựa trên những gì nhìn thấy theo vẻ bên ngoài vì "Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay." Những nhận xét tướng diện dựa trên kinh nghiệm chỉ được phần nào áp dụng cho bản thân, và đồng thời được lồng trong khung cảnh kinh tế xã hội Việt qua nhiều thế hệ. Dĩ nhiên, mặc dầu nói tổng quan về tướng diện nhưng không được coi là những định luật bất di dịch mà bao gồm nhiều luật trừ; lý do dễ hiểu, tướng diện bị ảnh hưởng bởi cái nhìn bề ngoài trong khi con người còn có ẩn tướng mà đã là ẩn tướng ai có thể nhìn thấy ngoại trừ chính người mang nó nhận ra hay không. Hơn nữa sự ảnh hưởng nơi người cha cũng góp phần vào số người con theo tướng học vì cũng người đàn bà có số sinh con làm tướng nhưng gặp ông chồng sống thất đức, phá tướng, sẽ sinh con tướng cướp. Đàng nào cũng là tướng nhưng quí tướng và phá tướng chắc chắn không thể giống nhau.

Coi tướng diện không phải là coi số hay coi bói. Coi bói toán, vận số tùy thuộc vào những điều người ta không thể kiểm chứng và số mạng con người nào ai giống ai nên làm sao đúng theo như những quy luật cứng ngắc bất di dịch của lá số, của lời giải đoán... Thế nên chẳng lạ gì: "Tử vi xem số cho người, số mình thì để cho ruồi nó bâu." Tướng diện qua kinh nghiệm thấy sao nói lên vậy: "Nhân hiền tại mạo, trắng gạo ngon cơm" chứ không phải rập theo những kinh nghiệm vô căn cứ không hiểu lý do tại sao; chẳng hạn: "Hà tiện mới có, bẩn như chó mới giầu." Đã giầu có tại sao lại bẩn như chó... Có lẽ người giàu hiểu rõ hơn về phương diện nào câu tục ngữ này muốn ám chỉ. Tướng diện được diễn tả qua Tục Ngữ, Ca Dao chỉ nói lên phần nào cá tính, tâm tính con người được thể hiện qua diện mạo bên ngoài và kinh nghiệm truyền lại bằng những câu nói ngắn gọn hoặc thêm phần sắp xếp cho có vần điệu. Phần diện mạo dựa trên cách đi đứng, ăn nói tóc tai: "Cái răng cái tóc là góc con người," hoặc dáng dấp, hình thái kèm theo lối so sánh: "Cây khô không lộc, người độc không con." Tuy nhiên, sự suy diễn, giải nghĩa tướng diện nơi Tục Ngữ,Ca Dao thật ra không theo nghĩa đen mà thường tùy thuộc vào lối ám chỉ, nghĩa bóng.

Coi tướng diện không phải là tin nhảm, dị đoan "Thừa tiền thì đem mà cho, đừng đi coi bói thêm lo vào mình." Thực ra cũng có những kinh nghiệm không hiểu tại sao, có lẽ vô tình trùng hợp chẳng hạn "Thứ nhất đom đóm vô nhà, thứ nhì chuột rúc, thứ ba bông đèn;" hoặc "Mèo vào nhà thì khó, chó vào nhà thì sang." Đôi khi có những điều dị đoan đến độ phi lý: "Đi ra gặp đàn bà thà trở vô nhà mà ngủ," hay "Vợ chồng một tuổi, nằm duỗi mà ăn." Lý do coi tướng diện vì ít nhất một phần nào tư cách con người được thể hiện qua phong thái, hình dáng là những nét bề ngoài mọi người có thể nhìn thấy bởi ai chẳng muốn: "Chọn mặt gửi lời, chọn người gửi của" mặc dầu có những trường hợp "Xem tướng ngó dạng anh hào, suy ra nết ở khác nào tiểu nhi." Thực tâm nhận xét, coi tướng diện cho người khác, ai cũng đều gặp kinh nghiệm 90 phần trăm sai lầm, còn lại những trường hợp vô tình may mắn bởi có những ẩn tướng hoặc nét phá hay hộ cách khó có thể tổng hợp cho đúng. Coi tướng diện mục đích nghiệm nơi chính bản thân để biết mình hơn.

Trước hết, hình thái phong cách nói lên một phần nào tâm tính con người do đó tướng diện bị lệ thuộc vào tâm đức cá nhân. Tướng số có câu: "Tướng tự tâm sinh, tướng tùy tâm diệt." Dĩ nhiên, ai cũng đều nhận ra những người ngay thẳng, chính trực không thể có cặp mắt láo liên hoặc lời ăn tiếng nói đặt điều xằng bậy. Tâm đức tạo nên phong thái bên ngoài cũng như giá trị con người; đó có thể là lý do tại sao "Cái đức nó bức cái tướng." Cái đức nói theo kiểu bình dân ở đây cũng mang nghĩa thay đổi tướng diện, phong thái một người. Cũng qua kinh nghiệm tướng số, "Đức năng thắng số" đã trở thành châm ngôn cho người người cải thiện lối sống ngày một tốt lành hơn. Tướng diện phát từ tâm hồn con người và coi tướng diện để tự sửa đổi chính mình; nói theo Khổng Tử đó là tu thân. Muốn tu thân cần hiểu chính mình. Coi tướng diện để tự tìm hiểu chính mình, tìm ra phần nào tâm tính không nên nơi mình chưa để ý mà sửa đổi.

Thành ngữ có câu: "Người ba đấng, của ba loài;" cuộc đời có kẻ thế này, người thế khác cũng như đồ vật, có món tốt, món xấu chứ không phải tất cả mọi người đều có tâm tính giống nhau, hoặc mọi vật đều như nhau. Những người khôn thì chóng già vì tâm tính hay suy nghĩ và dĩ nhiên, "Người có tiếng phi mạnh thì bạo." Những người có tăm tiếng phần nhiều là người có tài; tuy nhiên, cũng có trường hợp gian ngoa độc ác dám dùng mưu chước hại người khác để bước lên đài danh vọng. Nhìn vào tướng diện, nét dễ nhận ra, "Nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ lộ." Không hiểu tại sao người xưa lại nói câu này. Nếu xét theo tướng học về lé: "Lưỡng mục bất đồng, tâm can bất chính," cũng chưa chắc những người hai con mắt không ngay ngắn như nhau luôn luôn là bất chính; mà có chăng, người lé, khi thương thì thương nhất mực và khi đã ghét cũng thế... Hơn nữa, đâu có ai hai con mắt bằng nhau mà thế nào cũng có chút khác biệt. Nếu nói rằng người lùn hay có tính kiêu căng bởi tâm tính thường hay đối nghịch với hình dáng bên ngoài nên lùn được xếp hạng thứ nhì thì càng trái ngược; đâu thiếu chi người lùn nhã nhặn, khoan hòa. Có điều, theo kinh nghiệm cho thấy một số người không được cao cho lắm rất khôn ngoan lại lắm mưu chước thế nên lùn được xếp vào một trong bốn loại dẫn đầu của tướng diện chăng. Có lẽ răng hô được xếp hàng thứ ba cần phải kèm theo điều kiện môi cong bởi theo sách tướng: "Xỉ lộ thần hân tu phòng dã tử;" răng lộ môi cong đề phòng chết đường. Theo Tướng Mệnh Khảo Luận do Vũ Tài Lục biên soạn, một trong tướng lục ác là "thần bất hô xỉ." Môi không che được răng là người bất hòa. Răng hô phải đầm xuống đều thì chất phác; răng đâm ngang hay ngưỡng lên, cực đểu giả (Ngân Hà Thư Xã; Sài Gòn, 1972; tr. 235). Có nơi ghi lại: "Nhất lé nhì lùn, tam hô tứ sún." Có thể sún được xếp hàng thứ tư do ảnh hưởng bởi sự không để ý chăm sóc cơ thể, gặp gì ăn nấy, có thể nói tham ăn nên răng bị hại. Tuy nhiên, đó chỉ là phỏng đoán vô căn cứ; biết bao người sún nên làm răng giả nào ai mà biết. Chẳng lẽ tướng diện bị lệ thuộc nét sửa đổi, và nếu như thế, đâu còn gì là tướng diện, mà tâm sinh do sửa hình dáng. Ngoài ra, nhất lé, nhì lùn, tam hô, tứ sún chưa chắc đã khó thương mà có phần dễ thương tùy thuộc tâm tính từng người.

Kiếm người làm, nhất là trong giới nông nghiệp, "Khô chân gân mặt đắt mấy cũng mua." Người chân khô không bị bịnh tê thấp, ảnh hưởng do sự thay đổi thời tiết không tác dụng nên sức khỏe đều đặn, dù nắng mưa, sương gió không cản trở công việc làm của họ nên mướn được người khô chân giúp, công việc mình không bị đình trệ. Những người có đường gân máu nổi lên ở mặt chịu đựng cực khổ dẻo dai. Dùng người khô chân gân mặt để làm việc cho mình thì thật đáng đồng tiền bát gạo, chỉ có lợi chứ không sợ bị thua lỗ.

Xét chung, sách tướng có câu: "Ăn nhanh đi chậm là tướng quí nhân." Ăn nhanh nhưng gọn gàng, cử điệu, thái độ chững chạc, không ngồm ngoàm, nhỏ nhặt như chuột; dáng đi khoan thai, đĩnh đạc, lưng thẳng, gót chân đặt xuống đất... mang phần quí tướng. Tuy nhiên, không phải quí tướng là bất cứ chi cũng quí bởi còn bị ảnh hưởng do các tướng khác nhất là tâm đức. Một điều thường làm cho người có tướng quí lận đận là đã quí e khó phú. Tục ngữ có câu: "Phi thương bất phú," mà buôn bán ảnh hưởng tâm tính khiến con người khó chân thành, ngay thẳng làm mất phần quí. Đó cũng có thể là lý do tại sao "Mặt vuông chữ điền đồng tiền chẳng có" bởi người mặt vuông chữ điền, hơi nặng hàm (như gương mặt các mệnh phụ) biểu hiệu tâm hồn đoan chính, không tham lam, tự tin, không bon chen nên thường nghèo. Ngược lại với dáng đi thanh thản của ăn nhanh đi chậm là tướng vội vàng hấp tấp đi chúi người về phía trước. Những người lam lũ cực khổ thường có dáng đi này: "Cái đầu đi trước, gặp nhiều bước khó khăn." Người khó tính, mặt hay cau có; khi giận thì làm gì cũng hỏng, không mong chi kết quả; do đó: "Mặt khó đăm đăm, tát nước đầm không cạn."

Khi trong lòng có chuyện âu lo tất nhiên người ta hay thở dài; những người hay thở dài thường có nội tâm âu sầu thiếu đường giải thoát: "Những người chép miệng thở dài, chỉ là sầu khổ bằng ai bao giờ." Trái ngược với chép miệng thở dài là vui tươi cởi mở: "Hay cười như thể đười ươi, làm ai cũng tưởng là người vô lo." Tuy nhiên, người thâm trầm chín chắn, dẫu trong cảnh âu lo vẫn không lộ nét ưu tư sầu khổ. Sự khác biệt giữa nét vui tươi, không ưu phiền lo lắng được thể hiện bởi nét cười là nét vô duyên: "Vô duyên chưa nói đã cười." Vô duyên ở đây bao gồm nhiều khía cạnh qua cái cười: cười cầu tài, nịnh hót, lẳng lơ, khinh thị...

Tướng diện bao gồm toàn bộ con người từ hình dáng, cách đi đứng, sự cân đối, ưu điểm hoặc khuyết được thể hiện qua diện mạo bên ngoài. Theo Việt Nam Tự Điển, "Mía đõn đầu là mía sâu, người đõn đầu là người ngốc." Kinh nghiệm cho biết, người nào có cái đầu ngắn mà bằng phẳng ở trên là người không khôn; cũng như cây mía nào mà lá ngọn còi là cây mía sâu nõn (tr. 256, phần Thành Ngữ, Quyển Hạ.) Lối nói bình dân có dùng tiếng "mặt thịt;" mặt thịt dĩ nhiên là nhiều thịt hoặc nhìn thấy như nhiều thịt hơn xương. Mặt thịt còn được gọi là mặt nạc; mặt thịt mà dài được gọi là mặt mo vì thịt vun lên giống như chiếc mo cau khô úp vào, "Những người phính phính mặt mo, chân đi chữ bát có cho chẳng màng." Mặt thịt, mặt nạc, mặt mo biểu hiệu thiếu khôn ngoan, ngu đần. Mặt thịt kèm theo môi dầy lại càng tệ; "Những người mặt nạc môi dày, mịt mù trời đất biết ngày nào khôn." Theo Vũ Tài Lục, "môi thật dầy không có khía môi; môi luôn luôn động là mã khẩu, chỉ sự bần tiện."

Đàn bà tóc nhiều và dài thì tốt, thuộc tướng sang. Như thế, tướng sang của một người tự bẩm sinh chứ không phải cứ học tập kiểu cách phải thế này phải thế kia mà có thể sang được. Người đã không có tướng sang thì có "học làm sang" cũng không che dấu nổi nét tầm thường của mình. Có lẽ đó cũng là nguyên nhân cho câu "Trưởng giả học làm sang." Trái lại, người đã được sinh ra với cốt cách sang trọng, dù có bị sinh trưởng từ gia đình thuộc lớp nghèo hèn, bình dân, tự bản chất đã mang vẻ tướng của mình. Tuy nhiên, xét theo tướng diện, nếu đàn bà tóc rậm, óng mượt, dài, thuộc cốt sách sang trọng thì đàn ôngvới cái đầu rậm tóc chẳng lợi lộc gì: "Đàn bà tóc rậm thì sang, đàn ông rậm tóc chỉ mang nặng đầu." Đàn ông, trên đầu không nên nhiều tóc thì dưới cằm lại cần râu. Đàn ông không râu thuộc loại tối kỵ; người không râu mà lại mặt trắng (bạch diện) Vũ Tài Lục gọi là mặt đít ếch. Sách tướng nói: "Bạch diện vô tu chung thân phá bại." Mặt trắng không râu về già tán gia bại sản. Đàn ông không râu cũng như đàn bà không vú: "Đàn ông không râu mất nghì, đàn bà không vú lấy gì nuôi con." Tuy nhiên, nếu đàn ông mà râu rậm hơn lông mày lại đi kèm với cặp mắt sâu sẽ là người nham hiểm đáng sợ, thuộc tướng diện "Rậm râu sâu mắt." Theo Vũ Tài Lục, râu rậm hay thưa phải tùy thuộc lông mày mới đúng cách.

Phần trên cằm là miệng; ngoài miệng có môi. Đôi môi một người nói lên nhiều cá tính theo con mắt tướng diện. Môi cần che kín răng bởi "Môi hở răng lạnh." Môi là cửa ngõ của miệng lưỡi nên tướng miệng đi kèm với môi. Ca Dao nói lên: "Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dầy môi ăn vụng..." và đồng thời "Môi thâm hiểm độc trong lòng." Dẫu tướng miệng tùy thuộc rất nhiều vào môi nhưng vẫn có những kiểu cách riêng. Thành ngữ dùng câu: "Miệng ngậm hạt thị" chỉ người ăn nói không ra lời, lúng búng trong miệng. Lời nói con người được thoát ra từ cửa miệng nên miệng còn được hiểu theo nghĩa bóng chỉ tâm tính; chẳng hạn: "Miệng hùm gan sứa." Sứa nào có gan, mà hùm ai không sợ. Người lớn lối thường hay nhát gan. Đặc tính này thường ở nơi người hay làm oai bắt nạt hoặc thích kiếm chuyện gây khó dễ cho người khác. Một đặc tính của miệng thuộc tướng tốt nơi đàn ông thì lại không tốt nơi đàn bà: "Đàn ông rộng miệng thì tài, đàn bà rộng miệng điếc tai láng giềng." Chẳng những thế, miệng rộng nơi đàn bà còn mang thiệt hại nơi gia đình: "Đàn ông rộng miệng thì sang, đàn bà miệng rộng tan hoang cửa nhà." Có lẽ đàn bà miệng rộng thường là người tiêu xài không tính toán nên gây ra lắm cảnh thiếu hụt. Miệng không phải chỉ được dùng để nói mà còn để ăn; thế nên, "Miệng gàu dai (dây) nhai hết sự nghiệp," và người có "Miệng ống nhổ ăn đổ hết cửa nhà."

Trên miệng là nhân trung và mũi. Người có nhân trung dài sống lâu: "Nhân trung dài sống dai như ông bành tổ." Nói về sống như thế nào lại tùy thuộc về cái mũi bởi "Những người lỗ mũi hếch lên, của xe chất đống một bên cũng nghèo." Hơn nữa, chẳng may ai có "Nốt ruồi trên mũi hay tủi tấm thân." Bộ phận ảnh hưởng đến mũi nặng nề nhất là cặp mắt và đồng thời cũng là bộ vị quan trọng nhất của nhân thân. Những người thành công đều có cặp mắt tốt kèm theo mũi ngay ngắn trường nhuận. Nhìn vào màu sắc của mắt, người xưa nói: "Người khôn con mắt đen sì, kẻ dại con mắt nửa chì nửa than." Mắt còn nói lên cá tính hoặc sự khắc thuận của một người thế nào: "Những người con mắt ốc nhồi, trai thời đánh vợ gái thời sát phu." Mắt trắng dã đi kèm với môi thâm chứng tỏ con người bạc bẽo, hiểm độc... thuộc tướng xấu: "Môi thâm mắt trắng."

Xét riêng về tướng đàn ông, thành ngữ có câu khá thâm thúy: "Xấu mặt dễ sai, đẹp trai khó khiến." Điều này không lạ gì bởi cái đẹp bề ngoài đối với con mắt bình thường khác hẳn nét đẹp của tướng diện. Dĩ nhiên, những người đàn ông mặt hoa da phấn thường hay có số đào hoa. Người mang số đào hoa dễ coi thường những người phụ nữ theo đuổi nên sinh ra bất cần, khó khiến... Chắc chắn một điều, người có số đào hoa chưa chắc đã mặt hoa da phấn nhưng bình thường, nữ giới cũng như nam giới, ai không mang sẵn cá tính bẩm sinh yêu nghệ thuật, ai không dễ xiêu lòng với nét đẹp hợp nhãn... Đàn ông có một điều tối kỵ đó là lông mọc nơi thân mình: "Mèo vằn chó vá đừng nuôi, râu ria lông ngực là tôi phản thần." Người râu ria rậm rạp kèm theo lông ngực thuộc loại hay thay lòng đổi dạ. Lông bụng tự mình nó đã chứng tỏ con người giảo hoạt, nhỏ mọn, không chí lớn: "Quân tử lông chân, tiểu nhân lông bụng," hoặc "Cá khôn cá lội ra khơi, những người lông bụng chớ chơi mà lầm." Dẫu ca dao có câu: "Người quân tử đắc ý rung đùi, kẻ tiểu nhân đắc ý gẩy đàn môi," nhưng tướng rung đùi lại là tướng xấu: "Đàn ông ngồi hay nhịp cẳng là sẵn tính phá sản."

Dân gian nhận xét: "Xem trong bếp biết nết đàn bà;" điều này chẳng lạ gì vì đối với xã hội Việt Nam, đàn bà là nội tướng chuyên lo việc chăm sóc con cái, cơm nước trong gia đình. Dĩ nhiên, "Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm." Nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp, bếp núc gọn gàng... phải là kết quả do sự làm việc của người nội trợ. Nếu nhà cửa bếp núc ngập ngụa, con cái lấm lem nhăng nhăng nhố nhố chắc hẳn người mẹ cần phải đặt lại vấn đề.

Nguyễn Du than trong Đoạn Trường Tân Thanh: "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen" ám chỉ những người có tài thường hay bị gian truân lận đận... Đối với khách hồng nhan cũng thế: "Hồng nhan đa truân;" những người đàn bà đẹp theo lối nhìn bình thường của nhân gian thường gặp lắm cảnh trớ trêu. Phụ nữ dưới con mắt tướng diện, câu tục ngữ: "Con mắt lá răm, lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền" thường đánh lừa khối người bồng bột không để ý về nét ngoắt ngoéo chơi chữ của người xưa. Trước hết, không ai dùng tiếng mua vợ hoặc mua vợ cho con mà cưới vợ hay dựng vợ gả chồng cho con cái. Ngược lại, người ta chỉ dùng tiếng mua hầu thiếp; đôi khi lịch sự văn vẻ hơn thì mới nói "cưới nàng hầu" trong thời kỳ xã hội Việt Nam còn chấp nhận "Trai năm thê bảy thiếp..." Hơn nữa, Ca Dao có câu lục bát nói về con mắt lá khoai loại có hình dạng dài gần giống lá răm: "Những người con mắt lá khoai, liếc chồng, chồng chết, liếc trai, trai mù." Phụ nữ đoan chính không thể bị ghép chữ "liếc trai" mà những hạng "liếc trai, trai mù" thì thuộc loại đa dâm. Thế nên những người "Con mắt lá răm, lông mày lá liễu" là người đa dâm, không thể là vợ một ai mà chỉ đáng nàng hầu nếu không nói đa số là kỹ nữ. Câu tục ngữ dùng chữ ngược nghĩa "Đáng trăm quan tiền." Tướng đa dâm nơi nữ giới còn bao gồm: trường túc, trường mi, xích diện và làn thu thủy. Người đàn bà phần chân dài hơn thân mình, lông mày dài và thẳng, mặt lúc nào cũng hồng đôi má và kèm theo cặp mắt ướt như luôn luôn đọng nước... tướng kỹ nữ hồng trần. Xét về hình dạng, lông mày phái nữ nên hơi cong theo vòng mí mắt; những chị em trang điểm vô tình không để ý thường hay phạm phải điều kỵ này nơi tướng diện.

Không hiểu tại sao Ca Dao có câu: "Những người béo trục béo tròn, ăn vụng bằng chớp đánh con cả ngày." Lý do thật khó hiểu bởi đâu thiếu gì những bà vợ có da có thịt một chút chăm sóc chồng con cẩn thận... lại thuộc người vượng phu ích tử. Đâu phải cứ béo là hay ăn vụng mà người đã không được ốm cho lắm dẫu có cố gắng ăn ít vẫn cứ chịu khó lên cân... Thế rồi tại sao "đánh con cả ngày" càng thấy không hợp lý hợp tình chút nào. Kinh nghiệm thực tế cho thấy, những người mập thường là những người có tính vui vẻ; thật ra, nếu người mập không vui vẻ cởi mở mà khăn kháu, khó tính, dễ bị bịnh áp huyết cao chết bất ngờ. Có thể rằng câu ca dao này bị giới hạn bởi kinh nghiệm riêng tư nào chăng. Ngược lại với hình tướng béo trục béo tròn là tướng thắt đáy lưng o­ng, eo con kiến: "Những người đáy thắt lưng o­ng, vừa khéo chiều chồng lại khéo nuôi con." Tướng nhiều con của người đàn bà là "Lưng chữ ngũ, vú chữ tâm." Người có lưng hơi cong về phía trước, cặp vú ngang hơi thòng xuống sẽ có nhiều con cái. Ngày xưa, trong thời kỳ ấu thơ con cái được nuôi bằng sữa mẹ khác hẳn với ngày nay nên thường có quan niệm: "Cả vú bụ con." Có lẽ cả vú nhiều sữa cho con bú nên con bụ bẫm chăng!

Sách tướng chia ra: nhất thanh, nhị sắc, tam hình. Chuông trống, dụng cụ âm nhạc làm bằng đồ tốt thì âm thanh tốt. Con người cũng thế, "Tiếng cả nhà thanh;" người có tiếng nói âm hưởng lan rộng và ngân là quí tướng. Âm thanh tiếng nói theo tướng diện khác với lời nói, "Vàng thì thử lửa thử than, chuông kêu thử tiếng người ngoan thử lời." Lời nói phát tự tâm; tiếng nói thuộc về âm thanh, được xếp vào hàng diện mạo. Theo tướng học, tâm đoan chính, âm thanh tiếng nói biểu hiệu chất hào sảng: "Người thanh tiếng nói cũng thanh, chuông kêu khẽ đánh bên thành cũng kêu." Tiếng nói có âm thanh trầm ấm, âm điệu đĩnh đạc, hơi dài là tốt, là thanh. "Trái ngược với thanh là tục: líu lo, láu táu, thều thào, lí nhí, nói ngắn là xấu, là tục." (Tướng Mệnh Khảo Luận, tr. 55). Nếu "Lầm bầm như chó ăn vụng bột," vừa nói nhỏ, vừa cúi đầu là kẻ gian hoạt, âm hiểm.

Âm thanh tiếng nói hoặc kiểu cách nói của phụ nữ biểu hiệu một vài đặc tính của tướng diện. Điểm tối kỵ của phụ nữ về âm thanh giọng nói là lanh lảnh ré lên như tiếng kèn đồng hoặc tiếng lụa xé, đôi khi được gọi sắc như chẻ tre hoặc sắc như dao chém nước: "Đàn bà lanh lảnh tiếng đồng, một tướng sát chồng hai tướng hại con." Theo Vũ Tài Lục, "Đàn bà chỉ cần một tiếng nói sang cũng đủ làm mệnh phụ phu nhân; chỉ cần một tiếng nói giọng đàn ông cũng đủ làm thịt vài ông chồng." Sách tướng có câu: "Nữ hữu nam thanh tất hình phu khắc tử; nam hữu nữ thanh tất tiện bần." (Tướng Mệnh Khảo Luận, trang 58). Coi tướng âm thanh lại cần phải liên kết với thái độ của người nói chuyện. Nếu cười nói tự nhiên là người có tướng về âm thanh tốt. Nói chưa ra lời mà đã cười mang tướng xấu: "Vô duyên chưa nói đã cười, có duyên gọi chín mười lời không thưa." Ca Dao là thế nhưng gọi chín mười lời không thưa chưa chắc đã có duyên... Tuy nhiên, chắc chắn rằng chưa nói đã cười lại kèm thêm "đi như chạy" sẽ là người vô duyên: "Những người chưa nói đã cười, chưa đi đã chạy là người vô duyên." Ăn nói nơi người đàn bà còn lệ thuộc vào tướng môi: "Cong môi hay hớt, mỏng môi hay hờn, dề môi ăn vụng."

Trong thơ văn, thi sĩ hay dùng tiếng "gót son" để chỉ dáng mảnh mai tơ liễu của tướng đàn bà, tướng quí. Người xưa kinh nghiệm, những người đàn bà có gót chân đỏ sẽ được nhờ cậy nơi con cái sau này: "Những người gót đỏ như son, tướng xuất như vậy có con mà nhờ." Qua cơ cấu gia đình Việt, danh phận người đàn bà lệ thuộc vào danh phận chồng. Ngược lại, theo tướng học, người vợ và người chồng ảnh hưởng lẫn nhau về phận số. Tướng đàn bà cổ cao, ba ngấn sẽ có chồng danh tiếng: "Hỡi cô má đỏ hồng hồng, cổ cao ba ngấn lấy chồng cao sang." Một đặc tính thường có nơi đàn bà đó là ghen. Lẽ thường, "Ớt nào là ớt chẳng cay, gái nào là gái không hay ghen chồng." Ghen không phải chỉ nơi đàn bà mà đàn ông nhiều khi còn quá quắt nhưng không có câu tục ngữ hay ca dao nào nói về đàn ông ghen. Điều này có thể bị quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp..." khỏa lấp chăng. Đàn bà có tóc trán quăn là người ghen ghê gớm; ông chồng nào có vợ mang tướng này phải nên coi chừng, nếu không muốn nói là lang bang sẽ có ngày mang họa, "Đàn bà tóc trán quăn quăn, như vậy mới biết người ghen quá chừng."

Vô ăn vô lo, sống không cần biết đến ngày mai sẽ ra sao là tướng lẹm cằm. Theo tướng diện, người lẹm cằm mang tướng xấu. Cằm được gọi là "địa các" hay cung "bắc nhạc" chủ về hậu vận. Thế nên, "Thà rằng chịu lạnh nằm không, còn hơn lấy gái lẹm cằm răng hô." Tướng đàn bà bất lợi cho đàn ông là tướng lưỡng quyền cao: "Đàn bà lưỡng quyền cao chỉ mưu mô hiếp chồng." Ngược lại, trên mặt có nốt ruồi nơi rãnh nước mắt sẽ khổ đau về đường chồng con: "Nốt ruồi dưới mắt sẽ nhắc khóc chồng."

Trong tiết mục "Hỏi Ông Hư Tử" nơi cuốn "Tướng Mệnh Khảo Luận," Vũ Tài Lục có chép: "Tướng có biến không? Tướng thường biến theo tâm. Theo lời Quỷ cốc Tử nói: 'Hữu tâm vô tướng, tướng tùy tâm sinh. Hữu tướng vô tâm, tướng tùy tâm diệt. Hữu tâm hữu tướng, tướng bất tùy sinh; vô tâm vô tướng, tướng bất tùy diệt." Trong cuộc sống, ai không nhận thấy "Thánh nhân đãi kẻ khù khờ;" vì khù khờ nên không biết hại ai, không mưu đồ gian ác do đó có tâm đức tốt, hướng thiện tất nhiên tướng tùy tâm sinh và số theo đức; trong khi những người ma lanh quỉ quyệt, "Ăn cây táo, rào cây sung," hoặc "Đòn càn hai mũi, đâm bị thóc thọc bị gạo" dù cho có cố tình huênh hoang cũng bị trần ai khốn khổ dầy vò. Nguyễn Du cũng nói lên: "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài." (Đoạn Trường Tân Thanh). Người xưa có câu: "Ở hiền gặp lành." Ở hiền tất nhiên tạo tâm đức. Xét như vậy, phận số con người không phải đã được an bài từ trước mặc dầu ai cũng tin rằng "Cha mẹ hiền lành để đức cho con." Dẫu cha mẹ hiền lành, con cái hưởng phần phúc đức, nhưng nếu con cái không biết lo sống đức độ mà đam mê chạy theo những ham muốn xấu, tất nhiên tự mình phá đổ phần phúc đức, tự mình gieo tai họa cho mình bởi tướng tùy tâm diệt và số tòng tâm. Nghĩ như thế, thưởng phạt một phần nào cũng có ngay trong cuộc sống, và do chính mình tạo ra; thuyết nhà Phật gọi là "nhân quả."

Lẽ đương nhiên, không ai kết án con người mà chỉ kết án hành động của con người. Hành động có nhiều cách, nhiều lối từ lời nói đến mưu mô hoặc thực hành sự việc... Một lời nói thất đức, hại đến danh dự hay dèm pha xúi bẩy tạo cho người khác đi vào ngã chẳng nên có khi gây tổn hại gấp trăm ngàn lần những lỗi lầm vô ý. Ngược lại cũng một lời nói giúp cho người khác thăng tiến, sống tốt lành hơn, tạo nơi mình dầy đường tâm đức. Bình tâm nhận xét, tướng diện học có mục đích giúp mình tự nhận thấy những gì thiếu sót lo sao sống tốt lành hơn để tạo thêm tâm đức.

Như vậy, dẫu một người có tướng diện không hay, chẳng nên ca thán hoặc nghĩ mình bị mang số hẩm hiu; trái lại, nên nhớ câu "Đức năng thắng số." Chỉ có một con đường duy nhất để cải số là sống đức độ. Con người được sinh ra với tướng không tự mình lựa chọn nhưng cải tướng, chuyển số lại bởi tự chính mình. Nhận ra như thế, chẳng lạ gì, những ai "Gieo gió sẽ gặt bão" và đồng thời người nào "Trồng cây dâu ăn trái dâu." Đó cũng là lý do người xưa có nói "Người trồng cây cảnh người chơi, ta trồng cây đức để đời về sau." Người nhận ra tướng diện mình để tu thân chắc chắn không ai có thể "coi bói" hoặc "Trông mặt mà bắt hình dong" được nữa bởi đã tự cải số nên sinh ra "Tướng diện bất như tướng tâm."

Tuy nhiên, không phải vô lý mà có câu "Trông mặt bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon." Khi một người trong lòng vui tất nhiên mặt sẽ hiện lên nét vui tươi, cởi mở, hoặc trong lòng buồn, nét mặt trở thành lo âu sầu khổ. Cái lý của tướng diện cũng tương tợ như tâm lý để lộ qua hình hài, thái độ. Xét như vậy, nếu do tướng diện mà biết được tâm thì chắc chắn tâm ảnh hưởng tướng diện. Thế nên, muốn đổi tướng trước hết cần chuyển tâm; điều này chẳng có gì nghịch lý mà lại thuận theo nghĩa tương đồng vậy.


TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG

 

Bất cứ định nghĩa nào về hai chữ "Quê Hương" cũng không nói lên đủ tình cảm của một người đối với đất nước; thế nên tình yêu quê hương được cảm nhận hơn là hiểu biết và phân tích. Nếu thử đặt câu hỏi tại sao lại yêu mến quê hương, câu trả lời sẽ không bao giờ cùng mà có chăng khi vừa trả lời xong đã thấy mình thiếu sót. Có thể nói, tình yêu quê hương là tình yêu chính mình, nó man mác nơi tâm hồn như được kết hợp với bản thể. Nói cách khác, ai yêu quê hương sẽ yêu chính mình và ai hận thù chính mình sẽ không cảm nhận được tình yêu quê hương.

Mặc dầu tình yêu quê hương không được diễn tả nhiều trong Ca Dao, tuy nhiên, những hình ảnh quê hương lại được dùng như những biểu tượng thố lộ tình cảm: "Anh đi anh nhớ non Côi, nhớ sông Vị Thủy nhớ người tình chung." Tình yêu quê hương được gắn liền nơi tình cảm con dân Việt qua những hình ảnh quen thuộc thân thương từ nơi công việc đồng áng dẫu cực nhọc nhưng đượm tình tha thiết gắn bó: "Trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày vốn nghiệp nông gia, ta đâu trâu đấy ai mà quản công" cho tới những nhung nhớ hoài mơ một hình bóng: "Trăm năm đành lỗi hẹn hò, cây đa bến cũ con đò khác xưa." Về phương diện tình cảm, chính những hình ảnh nơi thực tại gợi lên và nhắc nhở lòng yêu mến gắn liền cảnh vật nơi đất nước một người được lớn lên tạo nên tình yêu quê hương: "Chim xa rừng thương cây nhớ cội, người xa nguồn trôi nổi lắm nơi;" vì dẫu trôi nổi tới đâu và con người dầu có phải lăn lộn với cuộc đời nối tiếp sự sống, nhưng tâm tình đâu dễ dàng xóa bỏ như thay nghề đổi nghiệp bởi nét sâu đậm khắc ghi của tâm hồn mẫn cảm, ngập tràn lòng biết ơn, nhận thức mối tương quan cũng như sự đào luyện của văn hóa, giáo dục tạo nên cá tính bản thân mình. Nhận thức này rất rõ rệt mỗi khi một người tự đặt câu hỏi mình là ai, và chắc chắn đặc tính đầu tiên của câu trả lời phải là "tôi là người Việt Nam" vì tôi được sinh ra từ dòng máu dân Việt, "Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn."

Tình yêu quê hương theo nghĩa hẹp được đại diện bởi tình yêu làng thôn nơi một người lớn lên từ tấm bé, hòa nhập và tôn trọng lối sống đã đào luyện nên con người của mình. Thế nên ai không cảm thấy: "Không nơi nào đẹp bằng quê hương ta;" nơi chứa đựng những tâm tình ấu thơ ngọt ngào; chốn gìn giữ ký ức thời thanh xuân man mác trên từng con đường xưa, lối cũ trải dài qua những vườn rau, áo cá. Chính những nét đẹp quê hương ươm đọng sâu đậm nơi tâm hồn không nơi nào có thể so sánh ấy mới có thể đào tạo nên những con người hòa hợp với mình: "Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn," hoặc "Trâu ta ăn cỏ đồng ta, tuy là cỏ cụt nhưng là cỏ thơm." Để rồi khi con người vì lý do nào đó gặp cảnh xa quê, tình nhung nhớ dâng lên vời vợi qua những hình ảnh kỷ niệm nơi ký ức: "Ao sen, giàn mướp, lũy tre, nhắc chi những nỗi đi về năm xưa. Đầu xanh độ ấy đang vừa, rủ nhau chui lách lưa thưa vào vườn. Ôi quê hương, ôi quê hương, nói sao cho xiết niềm thương nỗi lòng."Dĩ nhiên, kỷ niệm càng sâu xa, tình thương mến càng đậm đà: "Đêm qua đốt đỉnh hương trầm, khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê," và thường được sống dậy do cảnh sắc thực tại gợi về: "Chiều chiều trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm? Ai thương ai cảm ai nhớ ai trông? Thuyền ai thấp thoáng bên sông, đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non." Niềm nhớ nhung này chẳng những bao kín tâm tư mà còn ảnh hưởng thực tại nỗi lòng con người: "Vui là vui gượng qua thì, xóm làng xa vắng, vui gì mà vui." Thế nên tình yêu quê hương là căn bản cho tâm tình yêu mến giống nòi: "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng." Chẳng may khi có những chuyện tranh chấp "Nồi da xáo thịt" xảy ra trong đất nước, thật là đau lòng cho những tâm hồn nặng tình với quê hương dân tộc: "Chim không đánh chim cùng một tổ, trâu một chuồng không nỡ húc nhau. Cùng chung một giọt máu đào, nỡ nào bán nước, nỡ nào hại dân;" hoặc "Khôn ngoan đá đáp người ngoài, gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau." Tình yêu quê hương không những bao gồm người cùng dòng máu mà còn bao gồm những người cùng sinh sống biết quên mình xây dựng đất nước: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn."

Nói theo phương diện tâm lý cá nhân, khi mình yêu thương ai, cuộc đời mình sống cho và vì người ấy không quản nề hy sinh vất vả, không so sánh thiệt hơn. Khi mình thích vật gì hay lối sống cách nào, những phiền toái hay giá phải trả do ý thích gây ra không được đặt thành vấn đề. Tình yêu quê hương đòi hỏi con người những sự hy sinh nơi bản thân tùy theo khả năng để giữ gìn hay xây dựng mảnh non sông cha ông dày công gây dựng và để lại. Tuy nhiên, bình thường "Cha chung không ai khóc," của chung chẳng ai chăm sóc nên nhiệm vụ với quê hương cần được trở thành bổn phận của mọi người. Như vậy, bổn phận hay nghĩa vụ với quê hương dân tộc bao hàm tình yêu và hy sinh của con người cho đất nước hay được gọi cách khác: "nợ nước," "Tấm gương sáng tỏ ngàn thu, đảm đương nợ nước đền bù cho xong." Bổn phận này không phải chỉ riêng cá nhân nhưng ảnh hưởng liên hệ đến mối tương quan trong cuộc sống của người thi hành: "Anh ơi phải lính thì đi, cửa nhà đơn chiếc đã thì có tôi..." hoặc "Anh ơi giữ lấy việc công, để em cày cấy mặc lòng em đây." Lẽ thường, ai cũng lo chu toàn việc riêng của mình trước hết bởi nếu việc mình lo chưa xong sao có thể giúp gì được cho ai. Ngược lại với những chuyện bình thường trong cuộc sống, nghĩa vụ với quê hương đất nước được đặt lên hàng đầu và được coi là công việc tối thượng của người dân đối với quốc gia. Thi hành nhiệm vụ đối với đất nước giữa chốn muôn người chẳng những là cơ hội phát triển tài thao lược cá nhân mà lại còn là niềm hãnh diện cho gia đình, thân thuộc: "Anh đi em ở lại nhà, hai vai gánh vác mẹ già con thơ. Lầm than bao quản nắng mưa, anh đi, anh liệu chen đua với đời." Sự hy sinh cho quê hương dân tộc đòi hỏi sự hy sinh tâm tình riêng tư: "Cái cò lặn lội bờ sông, gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non. Nàng về nuôi cái cùng con, để anh đi trẩy nước non kịp người; cho kịp chân ngựa chân voi, cho kịp chân người kẻo thiếu việc quan." Chẳng những thế lại còn cần sự hỗ trợ nơi người thân yêu "Chàng đi đưa gói thiếp mang, đưa gươm thiếp vác cho chàng đi không." Hoặc, "Giá vua bắt lính đàn bà, để em đi đỡ anh và bốn năm. Bởi vua bắt lính đàn ông, tiền nong gạo bị sắm trong nhà này." Bổn phận với quê hương là bổn phận với dân tộc "Khuyên anh đi lính cho ngoan, cho dân được cậy cho quan được nhờ," vì thế, hy sinh cho dân tộc tức là hy sinh cho quê hương, và chấp nhận đương đầu với những khó khăn cuộc sống để người bảo vệ quê hương an tâm xây dựng đất nước cũng góp phần hy sinh cho dân tộc.


TÌNH CẢM QUA CA DAO

Dù sống nơi thời đại hay hoàn cảnh nào tình cảm vẫn giữ một vai trò quan trọng trong đời sống con người. Con người không phải chỉ gồm có phần thể xác với những bản năng tự nhiên bảo tồn sự sống mà còn bao gồm tinh thần nơi đó chứa đựng những ước vọng, tư tưởng, niềm rung cảm, lý trí, v.v... Tình cảm là tiếng nói trung thực nhất của con tim, và tiếng nói này ảnh hưởng mạnh mẽ nếu không muốn nói là điều khiển toàn bộ tâm tình con người, "Người vui thì cảnh cũng vui, người buồn cảnh có vui đâu bao giờ." Những tình cảm hướng thượng được coi như mục đích cuộc sống và giúp con người vươn lên; ngược lại, những tình cảm thấp hèn nếu không được nhận thức để cải sửa sẽ đem con người đến thân bại danh liệt vì con tim có những lý lẽ mà bình thường lý trí khó có thể đi ngược lại. Điểm thiết yếu của con người là tình cảm; dù ít dù nhiều, một khi lòng mình vui hay buồn đều ảnh hưởng đến lý trí xét đoán, đến công việc làm hoặc thái độ đối xử với người chung quanh. Khi bị tình phụ, có ai nhìn thấy đời còn là màu hồng hoặc những người khác phái là thật thà dễ thương? Cũng như khi chẳng may bị đời đá lên vật xuống vì những lừa lọc, có ai dám mở cửa lòng đối xử chân thành với những người khác hay cố khép kín rồi sống cô lập, hoặc chỉ trích, châm biếm và chỉ nhìn cái xấu, cái tồi của người khác hầu bù đắp lòng tự ái cho nguôi ngoai niềm đau của mình. Người ta có thể cố gắng sao cho hơn nhau manh quần tấm áo, địa vị, học thức nhưng tình cảm thì không bởi nó từ nội tâm con người. Xét như thế, thái độ và lối sống không ai giống ai cũng phần nào do sự ảnh hưởng khác biệt của tình cảm nơi mỗi người. Một đặc điểm của Ca Dao là dễ đi vào lòng người; điều này nói lên Ca Dao mang nặng tính chất tình cảm; đồng thời tình cảm giữ một phần quan trọng và rất phong phú nơi Ca Dao do đó có thể nói ca dao tình cảm là tiếng nói của con tim, một biểu lộ những nỗi lòng thầm kín của con người. Nói cách khác, Ca Dao phơi bày tình cảm đích thực tận đáy lòng người.

ĐẶC TÍNH TÌNH YÊU

Cuộc đời một người nào phải chỉ cơm no áo ấm là an thân không cần lo nghĩ, không đụng chạm phiền hà! Người ta còn có con tim muốn yêu và muốn được yêu do đó không ai thoát khỏi lưới tình cho dù tình mình được đáp trả hay chỉ yêu một chiều. Dẫu "Yêu là chết trong lòng đi một ít" như Xuân Diệu đã than lên thì cũng không ai chạy trốn mà ngược lại cứ hoan hỉ tìm kiếm hoặc chờ đợi, "Chữ tình là chữ chi chi, anh hùng hào kiệt cũng si vì tình." Có lẽ vì thế được gọi là lưới tình bởi không ai tránh thoát dù không muốn bị dây dưa.

Đến một thời điểm nào đó, con tim thấy thiếu thốn, khắc khoải, buồn rầu mông lung: "Đố ai khuyên gió lay thông, đố ai xui giục cho rồng phun mưa. Ruột tằm bối rối vò tơ, tay khoan, tay rẽ cho thưa mối sầu," để rồi khát khao một hình bóng: "Tóc em dài em cài bông hoa lý, em mĩm miệng cười, anh để ý anh thương;" hoặc "Nợ duyên chưa biết thể nào, mười hai bến nước biết vào tay ai. Em ngồi cành trúc, em dựa cành mai, đông đào tây liễu biết ai bạn cùng?" Khi con tim biết mở cửa lòng tìm kiếm và đón nhận người tri kỷ đó cũng là lúc dậy lên tiếng nói yêu đương tự nhiên với những người hợp nhãn: "Trời sinh con mắt là gương, người ghét ngó ít, người thương ngó hoài." Lúc ban đầu, tình yêu mang tính chất chung chung, có cảm tình đối với kẻ khác phái qua hình dáng bên ngoài; tình cảm này bộc phát tự bản năng sinh tồn: "Thấy em hâu hấu má đào, thanh tân, mày liễu dạ nào chẳng yêu." Hoặc "Nước trong ai chẳng rửa chân, đôi má trắng ngần ai chẳng muốn hôn." Hay "Anh ngồi giữa chốn vườn đào, thấy người thục nữ ra vào dễ thương. Gió đâu gió lạnh đêm trường, nửa chăn không ai đắp, nửa giường không ai xoay." Khi đã có chút thiện cảm tất nhiên có khuynh hướng kiếm cơ hội tìm hiểu, làm quen nên tình cảm được bổ xung thêm nhiều yếu tố nhân cách được nhận ra tùy theo sự chọn lựa và chấp nhận cá nhân: "Cây oằn vì bởi tại hoa, thương em vì bởi nết na, nghĩa tình, thương em thương dáng thương hình, thương lời ăn tiếng nói thật tình không đãi bôi," ngoại trừ trường hợp tiếng sét ái tình bởi bất ngờ gặp mẫu người trong mộng, "Thấy em chưa kịp ngỏ lời, ai ngờ em đã vội dời gót loan. Chàng thời mê mẩn canh tàn, chiêm bao như thấy có nàng ngồi bên..." Từ sự hợp nhãn tiến tới quen biết qua phần chọn lựa người bạn lòng, con tim bắt đầu lên tiếng nói bằng những nhớ nhung mong sao luôn gặp mặt: "Dù ai cho bạc cho vàng, chẳng bằng trông thấy mặt chàng (nàng) hôm nay." Hoặc "Dù ai cho nhẫn đeo tay, chẳng bằng trông thấy mặt ngay bây giờ." Hỏi tại sao nhung nhớ chẳng một ai có thể có câu trả lời toàn vẹn; chỉ biết rằng khi con tim đã gặp được đối tượng, nó khiến con người bồn chồn muốn gần kề, đứng ngồi không yên và không gì có thể làm cho nguôi ngoai được: "Em với anh cùng tổng khác làng, nào em có biết ngõ chàng ở đâu. Một thương hai nhớ ba sầu, cơm ăn chẳng được, ngậm trầu cầm hơi." Kinh nghiệm này ai không trải qua nhưng mấy ai nào để ý khi mình đã an phận; đâu ai còn có thể nghĩ đến liều thuốc xoa dịu bao khắc khoải, nhung nhớ đơn giản chỉ là sự gặp mặt người mình thương: "Có chồng thương kẻ không chồng, không chồng ra đứng cánh đồng mà nom. Nom cho thấy mặt nhau luôn, thấy thời khỏe mạnh thuốc tơn nào tầy."

Không có một quy luật nào có thể gò ép con tim theo đường hướng đã định sẵn, "Không sơn mà gắn với hèo, không bùa, không thuốc mà theo mới tình;" cũng không có một đối tượng hay giới hạn nào có thể trở thành lý tưởng cho mọi con tim "Không buông giọng bướm lời hoa, cớ sao lại bắt lòng ta cảm tình." Tính chất của tình yêu biểu lộ và ảnh hưởng tâm tình của chính chủ nhân khiến con người biến thành nô lệ để rồi trở thành kẻ chiến đấu giữa hai thái cực: động lực thúc đẩy nơi con tim và môi trường sống bao gồm luân lý cũng như điều kiện gia cảnh hoặc tập tục phụ thuộc. Tình yêu bộc phát có khi do sự gặp gỡ đối tượng nhờ quen biết: "Nghe lời anh nói đậm đà, chồng con chẳng phải rứa mà em thương." Hoặc do được chấp nhận qua vòng lễ giáo, mai mối: "Từ ngày ăn phải miếng trầu, miệng ăn môi đỏ dạ sầu đăm chiêu. Biết rằng thuốc dấu hay là bùa yêu, làm cho ăn phải nhiều điều xót xa. Làm cho quên mẹ quên cha, làm cho quên cả đường ra lối vào." Nào ai đo lường được tần số của con tim; nó có cảm nhận riêng với đối tượng không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào. Cảm nhận này được nhà Phật cho là duyên và thường được gọi "nhân duyên." Nhân duyên tùy thuộc sự quen biết lâu mau: "Chốn ước mơ lắc lơ mà hỏng, nơi ngộ tình cờ lại đóng nhân duyên," không tùy thuộc điều kiện khoảng cách nơi sinh sống: "Gần thì chẳng hợp duyên cho, xa xôi cách mấy lần đò cũng theo;" hoặc thời gian quen biết, "Khi say một chén cũng say, khi nên tình nghĩa một ngày cũng nên." Khi đã yêu, con tim trở thành mù lòa thăng hoa đối tượng để rồi dẫu cho đối tượng có thế nào chăng nữa cũng được nhìn theo chiều hướng hay khía cạnh hay, đẹp: "Lạ thay nết nói nết cười, nết sao lại khiến cho người muốn thương." Khi đã thương, hai con tim muốn được luôn luôn kề cận để mắt nhìn mắt, tình trao tình dù táo bạo lẳng lơ: "Dao vàng rọc lá trầu vàng, mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa," nhưng trong trường hợp tình vừa mới bén còn e ngại hoặc e thẹn hay có điều trắc trở, tình được trao bằng những ánh mắt vội vã: "Yêu nhau con mắt liếc qua, kẻo chúng bạn biết kẻo cha mẹ ngờ." Bởi vậy, như một nhu cầu, hai kẻ yêu nhau muốn lúc nào cũng được ở gần nhau: "Một chờ hai đợi ba trông, bốn thương năm nhớ bảy tám chín mong mười tìm," hoặc "Yêu nhau chẳng quản gần xa, một ngày chẳng đến thì ba bốn ngày;" để rồi cố gắng vượt mọi khó khăn trở ngại cho được gặp nhau: "Yêu nhau ba bốn núi cũng trèo, bảy tám sông cũng lội, chín mười đèo cũng qua." Mặc dầu Ca Dao đôi khi dùng chữ hơi quá trong sự diễn tả tâm trạng kẻ đang yêu: "Đói lòng ăn nửa trái sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương," nhưng chắc chắn rằng nếu không vì lý do gì khác mà hay tìm gặp nhau phải là hai kẻ đang ngụp lặn trong tình yêu: "Chẳng chè chẳng chén sao say, chẳng thương chẳng nhớ sao hay đi tìm!" Do đó nào ai lạ gì: "Thương em nào quản nỗi đường xa xôi." Tình cảm giữa con người với con người thật khác xa với ý thích. Thích một vật gì, không ai cần phải luôn luôn nhìn thấy hoặc được kề cận vật ấy; ngược lại, sự hiện diện của người mình thương mặc dầu chỉ được nhìn thoáng qua cũng trở thành một mãnh lực cuốn hút lòng kẻ đang yêu: "Xin Trời cho ngược gió đông, thuyền quay mũi lại thiếp trông thấy chàng."

Không những khi yêu con tim thăng hoa đối tượng mà còn chấp nhận để cho những điểm phụ thuộc của đối tượng ảnh hưởng mình: "Yêu nhau trầu vỏ cũng say, ghét nhau cau, đậu đầy khay chẳng màng," hoặc: "Không thương dù có đeo vàng, bằng thương chiếc áo vá quàng cũng thương." Sự ảnh hưởng này gây ấn tượng mạnh mẽ nơi tâm trí con người nhất là khi người yêu than thở nỗi lòng: "Dao vàng cắt ruột máu rơi, ruột đau cũng chẳng bằng lời em than." Tình yêu còn chứa đựng thêm đặc tính chia xẻ; khi yêu, đôi con tim muốn được kề cận tâm tình do đó mong sao được gặp nhau. Kinh nghiệm thực trạng của kẻ đang yêu cho thấy, lúc xa nhau nghĩ rằng mình có nhiều điều muốn nói nhưng khi gặp mặt, sự hiện diện của đối tượng đã xóa nhòa bao nỗi nhớ nhung, xóa nhòa những tâm trạng thao thức: "Em gặp anh đây đã khỏe lại vui, tam tứ sầu giải hết, mặt tươi như thường."

Đặc tính nào của tình yêu khiến đôi lứa muốn luôn được ở gần nhau, tạo năng lực cho họ vượt mọi trở ngại để được dù chỉ gặp mặt nhau trao đổi đôi câu nhung nhớ xóa tan bao khắc khoải, đợi chờ? Ca Dao đưa ra ba điểm căn bản của những kẻ yêu nhau: sống cho nhau hay vì nhau, muốn có nhau, và tùy thuộc lẫn nhau: "Yêu nhau chữ vị là vì, chữ dục là muốn, chữ tùy là theo." Thế nên không ai ngăn cản được lòng yêu của một người: "Rào đường đón ngõ ngăn sông, nào ai rào đón được lòng đôi ta," bởi khi men tình đã thấm không dễ chi dứt khỏi: "Đôi ta như rượu với nem, đang say ngây ngất ai dèm chớ xa." Tuy nhiên, khi chưa thành gia thất, đôi nhân tình còn những công việc hay bổn phận cần chu toàn cho cuộc sống hiện tại khiến cho con tim bị giằng co bởi hai áp lực: "Nửa về nửa muốn ở đây, về thì nhớ bạn, ở đây nhớ nhà." Theo tâm lý kẻ đương yêu, mặc dầu "Ra về tay nắm lấy tay, mặt nhìn lấy mặt lòng say lấy lòng," nhưng nỗi lo lắng cho người yêu lại tràn ngập tâm tư "Chàng về để thiếp xin đưa, xin Trời lại nắng, đừng mưa trơn đường." Nỗi lo lắng này tạo nên sự xót xa cho người tình phải đương đầu với cuộc sống vất vả, "Nước non lận đận một mình, thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay. Ai làm cho biển kia đầy, cho ao kia cạn cho gầy cò con!" Ngược lại, càng nhung nhớ, xót xa bao nhiêu, tình càng mặn nồng bấy nhiêu: "Nước sông tơ vừa trong vừa mát, em ghé thuyền vào đổ sát thuyền anh. Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình, sông bao nhiêu nước, thương mình bấy nhiêu."

Một đặc tính khác của tình yêu là mở rộng lòng chấp nhận hoàn cảnh cuộc đời miễn sao được chung sống với đối tượng: "Phải duyên phải lứa cùng nhau, dẫu mà áo vải, cơm rau cũng mừng;" dù phải gian nan khổ cực "Yêu nhau sinh tử cũng liều, thương nhau lội suối trèo đèo có nhau" vì có tình yêu là có tất cả, "Em về cắt rạ đánh tranh, chặt tre chẻ lạt cho anh lợp nhà. Sớm khuya hòa thuận đôi ta, hơn ai gác tía lầu hoa một mình," hay "Yêu nhau chẳng lọ chiếu giường, dẫu rằng tàu lá che sương cũng tình." Bởi đối với con người, tình nghĩa mới đáng kể; giàu hay nghèo chỉ là chuyện phụ thuộc "Thương nhau chẳng nệ giàu nghèo, nặng tình nặng nghĩa em theo mình cho đủ đôi." Vì "Số giàu lấy khó cũng giàu, số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo." Do đó hai kẻ yêu nhau đều ước muốn thành vợ chồng "Em vái ông tơ vài ve rượu thiệt, em cầu bà nguyệt năm bảy con gà. Xin cho đôi ta thành thất thành gia, sau em trả lễ đặng mà đáp ơn." Kinh nghiệm sống cho thấy chỉ có tình yêu kiến tạo đạo vợ chồng chứ cuộc sống vợ chồng không chắc đã gây nên tình yêu. Âu cũng là lý do tại sao có những người chung thủy chờ bạn tình không đếm xỉa chi đến ngày tháng trôi qua "Đường dài ngựa chạy biệt tăm, người thương có nghĩa trăm năm cũng về," hoặc "Ai sang đò ấy bây giờ, ta còn ở lại, ta chờ bạn ta. Mưa nguồn, chớp biển xa xa, ấy ai là bạn của ta, ta chờ." Bởi vậy, không lạ gì: "Ngày nào mà đặng gần mình, mới là hết bịnh tư tình cùng em," và không thiếu chi cảnh: "Dao phay kề cổ, máu đổ không màng, chết tôi tôi chịu, buông nàng tôi không buông." Tình yêu đích thực dù cho thế nào chăng nữa đôi uyên ương vẫn "Yêu nhau (dẫu) tâm trí hao mòn, yêu nhau đến thác vẫn còn yêu nhau."

TÁN TỈNH

Ca Dao tình cảm mới thoạt nghe tưởng rằng ý tứ nhẹ nhàng nhưng thật ra mang nghĩa sôi bỏng qua văn chương bóng bẩy mượn cảnh gợi tình hay trực diện tỏ bày; trên thực tế khó ai dám phô diễn lòng mình như vậy. Nói cách khác, Ca Dao tình cảm diễn đạt thực trạng tâm tình ít ai dám nói thành lời. Chẳng hạn qua câu đơn giản: "Gặp nhau mời một miếng trầu, gọi là chút nghĩa về sau mà chào." Trai, gái, ai không muốn làm quen với người khác phái! Ai không thích có được chút cảm tình dù lang thang hoặc với bất cứ ẩn ý nào! Nhưng ai dám nói trên cửa miệng "Gọi là chút nghĩa về sau mà chào," mặc dầu lòng mình thực sự muốn thế. Có chăng nói lời mời ăn trầu và rồi dẫu trân tráo lắm cũng chỉ dám thêm vô cho "thắm đôi môi" hoặc "hồng đôi má..." Nhất là ngày xưa, nơi xã hội với những quan niệm "Nam nữ thụ thụ bất thân" hay "Thân gái kín cổng cao tường" cho đến ngày cưới vẫn chưa tỏ mặt người phối ngẫu bởi chuyện nhân duyên do phụ mẫu dàn xếp phỏng sao còn cơ hội mà chào, phương chi nói đến chuyện mở miệng mời trầu. Xét thêm câu khác: "Bấy lâu vắng mặt khát khao, bây giờ thấy mặt tính sao hỡi tình!" Đúng là sự phơi bày một cõi lòng nóng cháy tình cảm cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chỉ mười bốn chữ bình thường được ráp nối khiến người nghe cảm nhận tận đáy lòng ngọn lửa yêu đương đang sôi sục bùng dậy đồng thời lại quay ngược tâm trạng người nghe dẫn tới hình ảnh đôi lứa quá xúc động vì nhung nhớ khi gặp mặt chỉ còn biết mắt đối mắt; kẻ ngây ngô nhìn, người thẹn thùng e lệ không biết mở miệng ra sao vì quá cảm động. Với lối nhìn như thế, khi đôi lứa yêu nhau, ai không cảm thấy "Ước sao ăn ở một nhà, ra vào đụng chạm kẻo mà nhớ thương" nhưng thử hỏi đã một ai dám nói lên ước muốn này? Ca Dao của thuở ban đầu trai gái chưa quen hoặc mới quen trình bày những tâm tình tán tỉnh qua cách mượn cảnh vật hay dùng cảnh vật làm đề tài dẫn tới ý muốn làm quen quá tinh vi, ý nhị và sâu đậm, khó bày tỏ thành lời mà có chăng chỉ bằng chữ viết hoặc bạo dạn lắm mới dám mượn câu Ca Dao đọc lên để phát biểu lòng mình. Nếu đưa ra một so sánh, mặc dầu phần nhiều những câu Ca Dao được đặt nơi miệng người trai nhưng sôi động hơn lại là những câu nói lên tâm tình nữ giới.

Xét thái độ của trai gái trong khuôn mẫu lễ giáo, chắc chắn những câu Ca Dao tán tỉnh không thể được dùng ở trường hợp riêng tư mà có thể rằng những câu này đã đượcxử dụng trong khung cảnh hai nhóm trai gái nơi môi trường làm việc cùng nhau chẳng hạn vào mùa gặt, mùa cấy, hò hát, đối đáp tìm niềm vui qua công việc nặng nhọc. Mượn phe cánh, một người cất lên câu tán thách đố rồi cả hai phe nam, nữ chia nhau đấu qua, nói lại. Dĩ nhiên, tuy là chuyện đùa vui nhưng tâm tình vẫn chan chứa những ý tứ đậm đà dùng Ca Dao để bày tỏ đồng thời đó cũng là cơ hội cho trai gái chọn lựa hay tìm kiếm người yêu.

Tâm lý chung, khi tới thời điểm biết rung cảm, ai cũng mong; "Vì dây thiên lý ngang trời, sẽ cho tài tử gặp người giai nhân;" hoặc ít ra xứng đôi vừa lứa hay "Nồi nào úp vung nấy." Chén tình bắt nguồn từ ước muốn này. Ca Dao tình tự xét theo diễn tiến tình cảm lứa đôi dùng những câu bộc lộ tâm tư trai gái bằng những lời tán tỉnh trực tiếp, nếu đặt trên môi miệng một cách tự nhiên có vẻ hơi sỗ sàng và mạnh bạo. Có điều vì Ca Dao thuộc loại văn chương truyền miệng nên khá phổ thông do đó khi một người dùng Ca Dao để tỏ tình, người nghe phần nào nhận ra đặc thái của câu nói nên dễ dàng chấp nhận ý tưởng người nói muốn gửi tới mà châm chước cho tính chất sỗ sàng mạnh bạo của câu nói. Ca Dao tỏ tình được khởi xướng bằng một bối cảnh hoặc sự vật nào đó để rồi chọn một tính chất của bối cảnh hay sự vật gáp ép nói lên trực tiếp hoặc gián tiếp tâm tình để ý hoặc muốn làm quen của mình với đối tượng: "Gió đánh đò đưa, gió đập đò đưa, sao cô mình lơ lững mà chưa lấy chồng." Nếu nàng chưa lấy chồng vì chưa có ai dám bén mảng tới hay vì còn đang kén chọn mà chưa gặp được người theo ước mơ thì đã có anh đây xin đầu quân làm bạn. Trường hợp bối rối quá bởi khó kiếm lý do tìm hiểu về người con gái mình muốn làm quen nhưng lại e nàng đã có chồng, Ca Dao đưa ra câu nói thẳng và thật: "Ngó lên mây bạc trời hồng, thương em hỏi thiệt có chồng hay chưa?" Hay "Hỡi cô mặc chiếc yếm hồng, đi về chợ huyện có chồng hay chưa." Lắm lúc còn táo bạo hơn đến độ giả như đơn sơ quê mùa: "Cô kia cắt cỏ một mình, cho anh cắt với chung tình làm đôi; cô còn cắt nữa hay thôi, cho anh cắt với làm đôi vợ chồng;" hoặc chưa biết nàng thế nào, nên mượn hoàn cảnh độc thân của mình để bày tỏ cảm tình: "Anh còn son em cũng còn son, ước gì ta được làm con một nhà." Lẽ đương nhiên nếu nàng ưng chịu thì sẽ đáp trả bằng một vài câu đò đưa gợi ý. Tuy nhiên, Ai tán gái dám nói lên ý nghĩ chê bai người đối diện? Ca Dao tán tỉnh lại có những câu chê bai thật cay cú khó có thể dùng; chẳng hạn: "Cau già quá lứa bán buôn, em già quá lứa có buồn không em?" Bạo dạn tới mức độ trân trối thì cũng chỉ dám thổ lộ: "Bao giờ cho gạo bén sàng, cho trăng bén gió, cho nàng bén anh!" Còn bình thường chỉ dám khen tặng một cách ai oán gợi lòng để ý của nàng: "Hỡi cô má đỏ xinh xinh, sao cô hờ hững vô tình thế kia?" Ca Dao tỏ tình nghe thấm thía nhưng không dễ chi xử dụng.

Ngoài lối nói thẳng thắn trực diện, Ca Dao tỏ tình có những câu rất khó áp dụng: "Trên đầu em đội khăn vuông, trông xuống dưới ngực, cau buồng còn non. Cổ em vừa trắng vừa tròn, mặt mũi vuông vắn chồng con thế nào." Có lúc táo bạo đến nỗi khiến người nghe tưởng như đôi bên đã quá quen biết và ưng ý chỉ còn chờ một trong hai người mở lời đề nghị chung sống: "Cô kia cắt cỏ bên sông, có muốn lấy chồng thì hãy sang đây. Sang đây anh nắm cổ tay, anh hỏi câu nầy, có lấy anh không?" Dù chưa quen biết nhưng tảng lờ như đã thân thiết để dùng câu nói táo bạo khích nàng đáp lại là đã quá sỗ sàng; đàng này, không cần hiểu nàng nghĩ gì hoặc có cảm tình với mình hay không mà nhất quyết cho rằng nàng nên thương mình mới chứng tỏ rõ tính chất lỳ của chàng trai si tình: "Chim liễu nó biểu chim quỳnh, biểu to biểu nhỏ, biểu mình thương tui;" hoặc: "Ai xinh thì mặc ai xinh, ông tơ đã quyết xe mình với ta." Hơn nữa, tính chất ngổ ngáo quyết đoán lật tẩy người đối diện bắt ép nàng mở lời đáp lại, nếu từ chối hoặc lặng thinh chấp nhận càng nói lên sự quá quắt của Ca Dao: "Tiếng đồn cặp mắt em lanh, ai ai không ngó, cứ anh em nhìn." Trường hợp nàng im lặng chấp nhận tất nhiên đèn xanh đã bật, nhưng gặp cảnh bên tám lạng đàng nửa cân, Ca Dao bồi thêm: "Ăn chanh ngồi gốc cây chanh, khuyên cội, khuyên cành, khuyên lá khuyên lung. Khuyên cho đấy vợ đây chồng, đấy bế con gái đây bồng con trai." Tấn công theo kiểu "Cả vú lấp miệng em" như thế mà còn gặp cơ cao hơn, có lẽ chỉ có nước: "Dây tơ hồng không trồng mà mọc, thấy em chưa chồng anh chọc anh chơi," bởi anh thương thân phận "Tròng trành như nón không quai, như thuyền không lái như ai không chồng." Ca Dao còn tiến xa hơn trong sự ngổ ngáo của lứa tuổi thanh xuân nơi bối cảnh có thể không bao giờ xảy ra: "Cô kia áo trắng lòa lòa, lại đây đập đất trồng cà với anh. Bao giờ cà chín cà xanh, anh cho một quả để dành mớm con." Hoặc bạo hơn nữa cho tuổi sồn sồn "Cô kia khăn trắng tang ai? Nhất tang cha mẹ thứ hai tang chồng. Tang chồng thì vứt khăn đi, tang cha tang mẹ ta thì tang chung." Và rồi, không còn cách nào lỳ hơn: "Cổ tay em trắng lại tròn, để cho ai gối đã mòn một bên. Gối chăn gối chiếu không êm, gối lụa không mềm bằng gối tay em." Lẽ tất nhiên, trong việc tán gái, nhất lý nhì lỳ: "Gió thu thổi ngọn phù dung, dạ nàng là sắt anh nung cũng mềm."

Mượn cảnh làm môi giới thổ lộ tâm tình là ngón nghề của thơ văn. Ca Dao dùng cảnh gợi lời than thở khiến kẻ nghe dễ bị mềm lòng thương hại: "Đường xa thì thật đường xa, mượn mình làm mối cho ta một người. Một người mười tám đôi mươi, một người vừa đẹp vừa tươi như mình." Khen nàng đẹp, tươi cũng giống như "Kính lão đắc thọ, cho lão vào rọ;" vì phái nữ thường bị lừa bởi những lời khen và dễ bị cảm động với những than thở nhất là nguyên nhân của những lời than thở này do bởi chính nàng: "Hỡi cô gánh nước quang mây, cho tôi một gáo tưới cây ngô đồng; cây ngô đồng cành cao cành thấp, ngọn ngô đồng lá dọc lá ngang. Từ ngày anh gặp mặt nàng, lòng càng ngơ ngẩn dạ càng ngẩn ngơ;" hoặc "Vì cam cho quít đèo bòng, vì em nhan sắc cho lòng nhớ thương." Vì em đẹp nên anh nhớ anh thương, các nàng còn có thể bỏ qua, nhưng nếu vì thương em mà anh phải chịu khổ cực vẫn không được đoái hoài; cho dù các nàng không để ý cũng phải xuýt xoa thương hại: "Tiếc công anh vạch lỗ chun rào, thăm không đặng bậu, hàng rào nó cào trầy lưng." Tán gái mà kể lại chuyện phải vạch lỗ chun rào thì cũng tội lắm thay, nếu không bị cha mẹ đôi bên cấm đoán thì cũng đã lậm nhau quá mức nên các nàng dẫu có sắt đá đến đâu đều nhận thấy đã gặp được người thật tình thương mình, "Vì tình anh phải đi đêm, vấp năm bảy cái vẫn êm hơn giường;" nhất là vì gặp một vài cản trở hoặc còn đang vụng trộm không muốn cho ai biết "Vì chuôm cho cá bén đăng, vì tình nên phải đi trăng về mờ."

Một đặc tính chung của sự tán gái là "bẻm mép," tuy nói hươu nói vượn nhưng đượm ân tình. Hình như các nàng thích nghe, nếu xét theo tâm lý của những kẻ muốn được tán tỉnh, ca tụng. Bởi ai không thích được người khác để ý; ai không cảm thấy sung sướng được khen thế nên càng muốn nghe những lời tán tỉnh, càng thích người khác bẻm mép... và dù cho tin theo hay không vẫn cứ muốn nghe: "Bữa ăn có cá cùng canh, làm sao mát dạ bằng anh thấy nàng." Khen bộ tóc nàng đẹp cho dù nó như búi bòng bong trông phát gớm, các nàng vẫn tin; khen cặp mắt mơ huyền dù nó mờ, các nàng chẳng nghi ngờ... và cho dẫu đến đôi guốc, cặp bông tai... dù láo lếu đến đâu, cứ trơn miệng mà khen, nàng sẽ cho chàng là người ăn nói có duyên bậc nhất: "Áo đen, ai nhuộm cho mình, cho duyên mình thắm, cho tình anh say." Chẳng những thế, nhiều khi nói nhảm các nàng cũng tin; có lẽ tin bởi thấy mình được để ý, "Hồi hôm xuống hỏi ông thầy, sáng ra xuống đám ruộng này gặp em." Tính chất bẻm mép lồng thêm sắc thái ân tình mặn mà của người nói cho nên chẳng lạ gì các nàng dễ tin; và bởi dễ tin, tình càng sâu đậm: "Em về anh mượn khăn tay, gói câu tình nghĩa lâu ngày sợ quên." Và khi tình đã ngự trị con tim mơ mộng, nó khiến nàng dễ chấp nhận: "Xa xôi em chớ ngại ngùng, xa người xa tiếng nhưng lòng không xa." Tính chất bẻm mép này nhiều khi được phô diễn bằng những luận điệu năn nỉ, tả oán xin chút lòng thương hại: "Công anh đi xuống đi lên, mòn đường chết cỏ bậu nên nghĩ tình," hoặc khi có chuyện nhăng cuội xảy ra muốn chạy tội hay chưa biết lòng nàng đối với mình nên nghi ngờ: "Đổ lửa than nên vàng lộn trấu, anh mảng thương thầm chưa thấu dạ em."

Có lẽ tác giả câu ca dao "Chẳng chua cũng thể là chanh, chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây. Muốn cho có đấy cùng đây, sơn lâm chưa dễ một cây nên rừng!" rất rành về quan niệm "Muốn gầy dựng nghiệp lớn phải có vợ" nên đã đặt vào miệng chàng trai mộng hợp tác xây dựng nghiệp cả này. Không ai lạ gì, mộng mơ một tương lai cao vời nàng nào không ham... Xétnhư vậy, một điều chắc chắn người xưa đã rất rành tâm lý khi để lại Ca Dao. Thử hỏi, nếu không rành tâm lý làm sao có thể biết được các nàng thích nghe phỉnh nịnh với những câu nói không ai có thể tin được; chẳng hạn: "Sao sa sa xuống vườn hoa, thương em từ thuở mới ra chào đời," hoặc "Sao tua chín cái nằm kề, thương em từ thuở mẹ về với cha." Thế mà chẳng những các nàng đã có thể tin lại còn thấy thích được nghe nữa. Tính chất thích được phỉnh nịnh này lắm lúc che mờ sự nhận xét của phái nữ: "Thấy em má đỏ xinh xinh, anh về tối ngủ giật mình cả đêm." Đâu có phải chỉ một mình nàng có má đỏ xinh xinh; có lẽ anh chàng không bao giờ có thể ngủ được vì những cơn giật mình liên miên nối tiếp bởi gặp quá nhiều má đỏ xinh xinh trong cuộc đời. Ngược lại, không tán bạo mà nhát gái chỉ còn nước áp dụng câu: "Ngày xưa ông lấy vợ cho bố thì bây giờ bố phải lấy vợ cho tôi."

Mặc dầu Ca Dao đặt vào miệng phái nam nhiều câu tán tỉnh hơn phái nữ nhưng những câu nói về phái nữ tán các chàng trai quả độc địa gấp mấy lần nếu nhìn theo khía cạnh đối đáp trong vòng lễ giáo. Hơn nữa, sống theo quan niệm "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng" phái nữ không thể trờm hơm giống phái nam do đó các nàng rất sợ bị lừa bởi nếu chuyện không nên xảy ra, chính các nàng mang hậu quả không thể vứt bỏ cho ai. Từ những nguyên nhân đó, Ca Dao nói lên tâm lý các nàng khi lỡ thương ai: "Có thương thì thương cho chắc, còn trục trặc thì trục trặc cho luôn. Đừng như con thỏ đầu truông, khi vui giỡn bóng, khi buồn giỡn trăng." Giả sử được hỏi về ước muốn có một người chồng như thế nào và trong trường hợp có thể nói thật, nói thẳng, Ca Dao đưa lên điểm nồng cốt của ước muốn nơi nữ giới: không phải đẹp trai, giầu có, oai quyền v.v... nhưng, "Người ta thích lấy nhiều chồng, tôi đây chỉ thích một ông thật bền. Thật bền như tượng đồng đen, trăm năm quyết với cùng em một lòng." Ước muốn chung là như vậy nhưng nào ai lạ chi bản năng dễ tin của phụ nữ: "Chuông già đồng điếu chuông kêu, anh già lời nói làm em xiêu lòng." Khi nàng đã kết ai người đó sẽ được nàng ngưỡng mộ hơn hết: "Bắc thang lên hái hoa vàng, vì ai cho thiếp biết chàng từ đây!" Hơn nữa, vốn bản chất thụ động lại sống nơi xã hội đàn ông nắm quyền làm chủ và đàn bà lo sống tròn đạo Tam Tòng thật khó cho các nàng mở miệng, "Thấy anh như thấy mặt trời, chói chan khó ngó, trao lời khó trao." Thế nên một khi phụ nữ đã phải lòng chàng trai nào, nàng kiên trì chờ đợi vì khó có thể thương hoặc chấp nhận được người khác: "Đứng đây quyết đợi một thì, đợi chàng tất phải có khi gặp chàng."

Xét theo thực chất tâm lý, con người là cả một thế giới chứa đựng muôn ngàn sự đối nghịch. Người hiền thì hay cục; kẻ hay nóng giận lại tốt bụng; cá tính ăn nói ngọt ngào thường mang sẵn những mưu mô... Phái nữ khi ở vị thế thụ động trong những trường hợp nam giới tán tỉnh thì các nàng ngoan hiền, nhỏ nhẹ; ngược lại, khi nữ giới nắm vai chủ động tán ngược, các chàng trai nếu trả lời sẽ mắc họng nên chỉ còn nước bỏ cuộc chạy thoát nước bí. "Hỡi người quần lãnh áo lương, mù soa lau mặt có thương tôi nào." Đâu phải vô cớ mà "quần lãnh áo lương, mù soa lau mặt" được nói đến trong câu ca dao. Chắc chắn câu ca dao này được nói lên khi các nàng đang làm lụng nơi đồng ruộng bùn lầy dưới trời nắng đối nghịch với chàng trai ăn vận bảnh bao đi ngang qua với "mù soa lau mặt". Chàng trai nào khi gặp các nàng không muốn tỏ ra hào hoa phong nhã, nhưng trả lời mang nghĩa thương chắc chắn phải lội xuống bùn, nếu không cũng bị các nàng vơ lấy cho lấm quần áo đành chấp nhận tam thập lục kế ngậm miệng bước cho mau. Đàng khác, lối nói kèm theo điều kiện được Ca Dao đặt vào miệng nàng thiếu nữ khiến người đối đáp khó kiếm cách trả lời: "Phải chi sông Cái có cầu, em qua hầu hạ mẹ già thay anh." Chiếc cầu hôn nhân đã không có thì anh đừng hòng xớ rớ; một lối tán nghe như sự thách đố không thể giải đáp nhưng lại hàm chứa ẩn ý thăm dò. Chàng nào không thông minh đủ để hiểu chỉ có nước chấp nhận im lặng bỏ mất cơ hội. Điều khó cho nam giới là không biết các nàng muốn hoặc không muốn gì bởi nhiều khi điều các nàng thích lại cứ chối bai bải: "Đêm qua trời sáng trăng rằm, anh đi qua cửa, em nằm không yên. Mê anh chẳng phải mê tiền." Nào ai lạ gì câu "Trai tài gái sắc;" chữ tài mang cả hai nghĩa do đó tài là điều kiện anh phải có nhưng đồng thời mê anh vì tính nết, lời ăn tiếng nói, tư cách con người. Một đặc tính khác nơi những câu ve trai là dồn đối phương vào nước bí qua câu hỏi chặn họng: "Anh về hỏi mẹ cùng thầy, có cho làm rể bên này hay không?" Hôn nhân là chuyện của hai gia đình; anh không có quyền quyết đoán làm sao có thể trả lời! Hoặc "Anh đà có vợ con chưa? Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào. Mẹ già anh ở nơi nao? Để em tìm vào hầu hạ thay anh." Hỏi về mẹ chàng để tìm vào hầu hạ thì đó là chuyện chẳng thể nào có thể xảy ra trong vòng lễ giáo ngày xưa; gái trai cần mối mai, cưới hỏi cho đủ lễ mới về làm dâu. Thế nên không lẽ chỉ vì vài lời ngọt ngào của đối tượng mà chối bỏ cả phong tục lễ giáo! Suy ra các nàng tán trai còn cay độc, bỡn cợt hơn các chàng rất nhiều.

Dù cho những câu Ca Dao đặt vào miệng các cô tán tỉnh ngọt ngào hoặc ngổ ngáo đến đâu thì cũng vẫn mang ý tứ bắt chẹt người trai. Chẳng hạn: "Anh kia đi ô cánh dơi, để em cuốc cỏ mồ hôi ướt đầm. Có phải đạo vợ nghĩa chồng, thì mang ô xuống cánh đồng mà che." Đúng là muốn che cũng không được mà muốn đáp cũng chẳng xong. Hay, "Hỡi anh đi đường cái quan, dừng chân đứng lại em than vài lời. Đi đâu vội mấy anh ơi, công việc đã có chị tôi ở nhà." Anh đã có chị tôi ở nhà lo liệu công việc thì có đứng lại cũng bằng thừa... Còn gì ân nghĩa khi vừa chào dơi đứng lại đã đuổi về với vợ (dù có hay không). Ngược lại, khi các nàng đã cố tình tỏ lời gán ép thì chàng cũng chỉ có nước cắm cúi mà đi vì lời nói mang điệu đong đưa nhưng lại báo cho khách đa tình biết rằng hoa đã có chủ: "Hỡi anh đi đường cái quan, dừng chân đứng lại em than vài lời. Đi đâu vội mấy anh ơi, cái quần cái áo như người nhà ta. Cái ô em để trong nhà, khen ai mở khóa đưa ra cho chàng." Như vậy, nếu không ai mở khóa thì chàng là kẻ trộm... Kể ra, Ca Dao biến các nàng trở thành đanh đá khó bề xâm phạm. Được một hai câu coi bộ nhẹ nhàng mở rộng ý tứ hơn thì cũng ru chàng trai vào thế khó ăn khó nói chẳng kém gì: "Muốn cho sông cạn đò đầy, muốn anh chung mẹ chung thầy với em." Sông cạn cũng như đò đầy, anh hết đường tiến thoái để rồi chung mẹ chung thầy với em thì anh phải chấp nhận cảnh "Con rể ở nhà bố mẹ vợ như chó rúc gầm chạn," vô phương ăn nói. Hoặc "Thân em như củ ấu gai, ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen. Ai ơi nếm thử mà xem, nếm rồi mới biết rằng em ngọt bùi." Chắc có lẽ cô nàng xấu lắm không ai muốn tán hoặc quá "đanh đá cá cành" ai cũng phải e dè. Thêm nữa, cái bẫy "nếm thử mà xem" nói lên muôn ngàn nghi ngờ do đó dù chàng to gan lớn mật đến đâu chăng nữa chắc chi đã dám nhào vô. Không hiểu con dơi có ý nghĩa gì trong Ca Dao mà lại có câu: "Ước gì em hóa ra dơi, bay đi bay lại tới nơi anh nằm." Cuối cùng, thử xét trường hợp: "Anh như chỉ thắm thêu cờ, em như rau má mọc bờ giếng khơi. Nếu anh mà chửa có nơi, em xin vượt biển, qua vời theo anh." Thân phận em thấp hèn như rau má nơi đâu cũng có; anh lại cao sang danh vọng trước muôn người, nhưng đừng tưởng rằng cứ thấy sang em đã bằng lòng làm bé... bởi em chỉ muốn một vợ một chồng: "Lấy chồng cho đáng tấm chồng, chồng một thì lấy chồng chung thì đừng."

CHUNG THỦY

Tình yêu thực sự đưa đến kết quả chung thủy dù đôi uyên ương có được chung sống với nhau hay không "Cũng nguyền một tấm lòng son, anh dầu có phụ keo sơn có trời. Sống dương gian hai đứa đôi nơi, thác xuống âm phủ cũng nhớ lời thề xưa." Lẽ đương nhiên, hai kẻ yêu nhau chấp nhận cuộc đời cho dẫu thế nào, và tình yêu là năng lực giúp họ thắng vượt tất cả những khó khăn phải đương đầu vì đối với họ có nhau là có tất cả: "Sông hồ một giãi con con, gặp cơn sóng cả chớ non tay chèo. Yêu nhau sanh tử cũng liều, thương nhau lặn lội qua đèo có nhau," hoặc "Thương nhau bất luận ở đâu, dẫu mà lên núi xuống cầu cũng đi." Thử hỏi, khi yêu, ai không mơ ước: "Mong sao anh biến ra tằm, em biến ra nóng cho nằm chung chơi. Khi nào cho hợp hai hơi, ghé tai nói nhỏ những lời thủy chung." Thủy chung không so sánh hơn kém: "Trăm năm ghi tạc chữ đồng, dù ai thêu phụng vẽ rồng mặc ai;" nên đã được coi là định mệnh lứa đôi: "Chỉ điều ai khéo vấn vương, mỗi người một xứ mà thương nhau đời. Chữ tình ai bứt cho rời, tơ hồng đã định đổi dời đặng đâu." Tất nhiên, con người thì thay đổi, nhưng cuộc sống lứa đôi muốn làm ăn nên phải có sự chung thủy: "Trăm năm ai chớ bỏ ai, chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim" vì chung thủy là sự thực hiện lời hứa bền vững của đôi lứa thực sự yêu nhau: "Bao giờ cạn lạch Đồng Nai, nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền," và lời hứa này chỉ khi chết mới hết hiệu lực: "Bãi dài cát nhỏ hột to, thác đi thì mất sống lo kết nguyền." Người có lòng thủy chung luôn ôm ấp mối tình cho dù người kia có thay lòng đổi dạ: "Thuyền ơi có nhớ bến chăng, bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền," hay: "Con đò đậu gốc cây đa, cây đa bến cũ chẳng xa con đò." Bởi thế, tình yêu thực sự được chứng minh qua sự thủy chung: "Chim quyên hút mật bông quì, ba năm còn đợi huống gì một năm." Và như một lẽ thường, người ta chỉ có thể thủy chung với người chung thủy: "Cây đa cũ bến đò xưa, bộ hành có nghĩa nắng mưa cũng chờ."

Sự chung thủy của chàng đối với nàng bị ảnh hưởng bởi chính lòng chung thủy của nàng đối với chàng. Trời cho lòng phụ nữ bao la dễ chấp nhận thì lại cũng đặt nơi tâm hồn người đàn ông sự cảm mến của lòng chân tình ở người yêu: "Bởi thương em nên ốm với gầy, cơm ăn chẳng đặng gần đầy ba thu. Ngó lên sao sáng trăng lu, thấy em có nghĩa mấy thu anh cũng chờ." Kinh nghiệm sống chứng minh, "Cóc chết ba năm quay đầu về núi;" đàn ông, cho dù ra sao chăng nữa, không ai có thể thay thế được ân tình của người phối ngẫu nơi tâm hồn họ: "Ấy ai dắt mối tơ mành, cho thuyền quen bến cho anh quen nàng. Tơ tằm đã vấn thì vương, đã trót dan díu thì thương nhau cùng." Mặc dầu bị ảnh hưởng bởi quan niệm "Đàn ông như nơm, vớ đâu chụp đấy," nhưng đó chỉ dành cho kẻ không biết tình yêu là gì hoặc "Lấy để cho anh bớt lạnh lùng." Thật ra, tình cảm nơi người đàn ông không đơn sơ như người đời thường nghĩ: "Bãi dài cát nhỏ tăm tăm, phải căn duyên trời định bấy nhiêu năm anh cũng chờ." Bởi vậy, nơi tình yêu đôi lứa đâu thiếu chi cảnh: "Rủ nhau xuống biển mò cua, đem về nấu quả mơ chua trên rừng. Em ơi chua ngọt đã từng, non xanh, nước bạc ta đừng quên nhau." Đồng thời biết bao chàng trai âm thầm chung thủy với người thương mà không bao giờ hé miệng than thở: "Mấy lời em nói, anh hong khói để bền, dẫu trăm năm nữa không quên lời nào." Nhân nghĩa của đạo vợ chồng bắt nguồn từ tình yêu chung thủy, "Trống thu không ba hồi điểm chỉ, anh ngồi anh nghỉ thở ngắn than dài. Trúc nhớ mai thuyền quyên nhớ khách, quan nhớ ngựa bạch, bóng lại nhớ câu. Anh nhớ em đây biết bao giờ được, đạo vợ chồng chẳng trước thời sau. Trăm năm xin chớ quên nhau." Hoặc: "Chừng nào cho sóng bỏ gành, cù lao bỏ biển, anh đành bỏ em."

Sự chung thủy của con tim nữ giới chứa đựng mênh mang nhung nhớ kèm theo lòng hy sinh để rồi họ có thể trở nên tất cả vì người tình. Đối với họ, bất cứ chi có liên hệ đến người yêu được coi là quí giá; bởi đó đã có sự so sánh: "Dâu hiền nên gái" mặc dầu với quan niệm và lối sống khe khắt ngày xưa chữ "hiền" được đặt nơi người con dâu bao hàm cả một sự chấp nhận hy sinh khổ ải. Biết bao cảnh của nàng dâu "Bán buôn nuôi mẹ cầm chừng, sáng chiều đăm đắm trông chừng đợi anh" đã trải qua trong thời chinh chiến. Con tim phái nữ chấp nhận sự lỡ làng có thể xảy ra một khi tình yêu đến với họ, "Quí hồ anh có lòng thương, em sẽ quyết đợi như rương khóa rồi;" ngay cả đôi khi tình yêu này chỉ là sự thương thầm của tình một chiều: "Đôi tay cầm lấy ống tơ, dù năm bảy mối cũng chờ mối anh." Chắc chắn rằng có những trường hợp mối tình thầm kín của nàng chẳng bao giờ được đáp lại. Vì tình họ đắm say dành tất cả cho người yêu, nên phái nữ dẫu đã có lời thề nguyền với tình nhân vẫn mang tâm trạng e ngại chàng thay lòng đổi dạ: "Anh về em nắm lấy tay, em dặn câu nầy anh hãy cho chuyên. Đôi ta đã trót thề nguyền, đừng xa xôi mặt mà duyên hững hờ." Tình yêu nồng cháy nơi con tim nàng tạo năng lực xả thân cho người phối ngẫu: "Mẹ cha mà có hành thân, tôi nguyền bán tảo buôn tần nuôi anh," hoặc "Lên non thiếp cũng lên theo, tay vịn chân trèo hái trái nuôi nhau." Và chấp nhận tất cả những gì có thể xảy tới trong cuộc sống lứa đôi miễn sao có nhau: "Đi đâu cho thiếp đi cùng, đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam," hay "Chàng đi thiếp cũng xin theo, cùng làm cùng hưởng, giàu nghèo có nhau." Bởi thế, nếu chẳng may duyên phận gặp chuyện chẳng xuôi hoặc đôi bên chưa được xum hợp "Duyên đôi ta thề nguyền từ trước, biết bao giờ ta được cùng nhau? Tương tư mắc phải mối sầu, em đây vẫn giữ một mầu đợi anh;" để rồi dẫu chưa biết tình sẽ đi đến đâu mà hao mòn thân xác thì nàng đã phải hứng chịu: "Sông sâu cá lặn mất tăm, chín tháng cũng đợi mười năm cũng chờ. Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ, chờ hết mùa mận mùa mơ mùa đào. Chờ anh cho tuổi em cao, cho duyên em muộn, má đào em phai." Hoặc chẳng may gặp phải người chồng bất nghĩa nàng đành chấp nhận: "Thủy chung em giữ trọn đời, chết thì chịu chết lìa đôi không lìa."

NHUNG NHỚ

Một đặc tính dễ nhận biết nhất của tình yêu là sự nhung nhớ. Nguyên nhân gây nên nhung nhớ bắt nguồn từ ước muốn có nhau, thuộc về nhau vì khi ở gần kề đâu ai nhớ mà chỉ thấy thương. Chính bởi ao ước được sống với người thương đã khiến lòng nhớ; cho nên "Nghe lòng thương nhớ biết là mình yêu." Tình yêu càng sâu đậm, nhung nhớ càng mạnh bạo; nói cách khác, sự nhớ nhung là sản phẩm của tình yêu "Thương nhau nên phải đi tìm, nhớ nhau một lúc như chim lạc đàn," hoặc "Chẳng thà không biết thì thôi, biết rồi hai đứa hai nơi thật buồn." Không phải chỉ khi ở xa nhung nhớ mới hoành hành mà ngay khi chia tay của lần gặp gỡ nhung nhớ đã bộc phát: "Bước đi ba bước lại ngừng, đôi ta ở vậy cầm chừng đợi nhau. Thương mình nên ốm nên đau, thuốc uống không mạnh biết làm sao ở đời." Hoặc "Còn đêm nay nữa mai đi, lạng vàng không tiếc, tiếc khi ngồi kề." Thêm vào đó, những kỷ niệm gợi lại hình ảnh người yêu thường làm lòng quay quắt "Ai về gởi nhánh cau tươi, trầu nguồn một gói nhắn người tri âm. Mối tình chín khúc ruột tằm, khi tháng tháng đợi, khi năm năm chờ." Địa danh hay nơi chốn chất chứa kỷ niệm cũng hay kéo về nhắc nhở khúc phim dĩ vãng của những ngày có nhau "Ai về Đông Tĩnh, Huê Cầu, để thương để nhớ để sầu cho ai. Để sầu cho khách vãng lai, để thương để nhớ cho ai chịu sầu." Và mảnh lòng thao thức là chốn hoạt động của nhung nhớ, "Nhớ ai con mắt lim dim, chân đi thất thểu như chim tha mồi. Nhớ ai hết đứng lại ngồi, ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân," hay "Chiều nay có kẻ thất tình, tựa mai mai ngã, tựa đình đình xiêu," trong khi nguồn khơi dậy nhung nhớ có thể do chính tâm tư hoặc cảnh vật liên hệ nhắc nhở.

Mỗi con tim có tần số riêng; tần số này hoạt động mạnh mẽ nhất khi lòng cô đơn trống vắng "Đêm qua mới gọi là đêm, ruột xót như muối, dạ mềm như dưa," và khi nghĩ đến người thương nếu chẳng may có chuyện gì xảy tới "Làm thơ biết cậy ai đem, cậy cùng chim nhạn đặng đem cho mình. Mình đau tương tư tôi vái tận tình, vái cho mình mạnh, vô đình cúng heo," hoặc bởi khó khăn cản trở hai con tim chưa thể hòa đồng nhịp đập: "Vì ai nước mắt sụt sùi, khăn lau không ráo, vạt chùi không khô," hay thao thức tự nhiên hướng về người tình "Gió sao gió mát sau lưng, bụng sao bụng nhớ người dưng thế nầy?" Muốn yêu và muốn được gần kề có lẽ không thể tách rời do đó yêu mà không được chung sống làm cho con người buồn khổ "Thà rằng chẳng biết cho xong, biết ra kẻ Bắc người Đông thêm sầu!" Tất nhiên, khi yêu ai, mình luôn hướng lòng về người ấy hoặc để hình ảnh và những tâm tình về người ấy xâm lấn, ảnh hưởng tâm tư: "Đêm qua ba bốn lần mơ, chiêm bao thì thấy, dậy rờ thì không." Sự nhung nhớ này cho dầu nhận thức hay lý trí cũng không chống cự lại được, "Tôi chỉ muốn người yêu tôi sung sướng, dù họ có yêu hay chẳng yêu tôi. Đã biết thế, nhưng sao tôi vẫn khổ, vẫn sầu thương vương vấn để đơn côi." Vì thế đặc điểm của nhớ nhung được gọi là tương tư "Đêm qua nguyệt lặn về tây, sự tình kẻ đấy người đây còn dài; trúc với mai mai về nhớ trúc, trúc trở về mai nhớ trúc không? Bây giờ kẻ Bắc người Đông, kể sao cho xiết tấm lòng tương tư," bởi nhung nhớ ảnh hưởng quá mạnh nơi tâm trí con người khiến lòng lúc nào cũng như tỉnh như say làm giảm bớt khả năng sáng suốt nhận định về thực tại: "Nhớ chi nhớ sững nhớ sờ, cơm ăn chẳng đặng giật giờ như đứa say. Cầm kim quên vá quên may, cầm ve quên rượu cầm khay quên trầu." Hoặc "Cô thương nhớ ai ngơ ngẩn đầu cầu, lược thưa biếng chải gương Tàu biếng soi. Sập đá hoa bỏ vắng chẳng ai ngồi, buồng hương bỏ vắng cho người quay tơ. Cô thương nhớ ai ra ngẩn vào ngơ, đêm quên giấc ngủ, ngày mơ trận cười. Đêm năm canh, ngày sáu khắc chàng ôi! Chàng cười nửa miệng thiếp tôi vui lòng." Nhớ nhung còn mang năng lực mạnh mẽ có thể ngăn chận ý thích con người: "Mâm thau chùi sáng để trên bộ ván thấy hình, cháo đậu xanh đường cát trắng, buồn tình quên ăn," hoặc "Sầu riêng cơm chẳng muốn ăn, đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm." Có thể nói một cách phóng đại: "Nhớ ai nhớ mãi thế này, nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn." Chẳng những thế, nhớ nhung còn làm cho một người đứng ngồi không yên "Nhớ ai bổi hổi bồi hồi, như đứng đống lửa như ngồi đống than;" để rồi tất cả tâm trí chỉ dồn vào một hình bóng "Nhớ ai hết đứng lại ngồi, ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân," và luôn luôn mơ tưởng "Ước gì có cánh như chim, bay cao liệng thấp đi tìm người thương."

Khi yêu lòng luôn hướng về một hình bóng do đó bất cứ cảnh vật nào cũng được liên kết nhắc nhở đến người tình. Càng những gì liên hệ gần gũi tới mình càng gợi lại cảnh đơn chiếc nội tâm: "Đêm đêm ngồi tựa bóng đèn, than thân với bóng, giải phiền với hoa." Hơn nữa, tâm tình con người được trãi vào cảnh vật chung quanh khiến cho sự cảm nhận bị ảnh hưởng nhiều khi đến độ đối nghịch; tiếng chim hót vui tươi cũng trở thành buồn bã theo cõi lòng sầu muộn: "Chim chuyền nhành ớt líu lo, sầu ai nên nỗi ốm o gầy mòn." Thêm vào đó, những gì bình thường nghe đã thấm thía lại càng khích động cho nét tơ vương ai oán hơn, thúc đẩy thêm sự tưởng tượng phụ họa nỗi niềm nhung nhớ: "Con chim tra trả ai vay mà trả, bụi gai sưng ai vả mà sưng. Đây người dưng đó cũng người dưng, cớ chi nước mắt rưng rưng nhớ hoài. Hai tay ôm vạt áo dài, chậm lên con mắt chậm hoài không khô." Khi yêu, ai không muốn được chăm sóc hay làm chuyện gì cho người mình yêu. Khổ nỗi, đã xa vắng không biết người tình giờ ra sao và ở chốn nào lại càng làm mối sầu thêm quặn thắt lúc thấy hình ảnh một con chim còn biết đến tình nghĩa tha mồi cho bạn nằm ấp trứng: "Chim quyên xuống đất tha mồi, tôi xa người nghĩa, đứng ngồi không yên." Rồi những cảnh ríu rít cặp bầy của muông thú càng nhắc nhở kẻ cô đơn nhớ bạn, "Chiều chiều én liệng cò bay, khoan khoan hỏi bạn, bạn rày nhớ ai," để rồi nhận ra nét khắc khoải tương tư ăn sâu nơi tâm khảm nhắc lòng vấn vương về người thương: "Một đàn cò trắng bay qua, cho loan nhớ phượng cho ta nhớ mình. Mình nhớ ta như cà nhớ muối, ta nhớ mình như cuội nhớ trăng. Mình về mình nhớ ta chăng?" Sự nhớ nhung tạo nên niềm hy vọng nơi kẻ yêu nhau được gặp lại người tình bởi vậy lòng kẻ đang yêu luôn thấp thỏm, mong ngóng vu vơ: "Ngó lên mây bạc chín từng, thấy đôi chim nhạn nửa mừng nửa lo."

Lẽ thường, lòng mình thế nào thì nghĩ những sự vật chung quanh cũng mang nét ấy. Lòng buồn ray rứt không dứt được nhớ nhung nên dù con cá lội quanh quẩn nơi dòng nước cũng cho rằng cá mang tâm sự như mình trong cảnh huống muốn gặp người tình mà không biết làm sao: "Nước chảy xuôi con cá buôi (trôi) lội ngược, nước chảy ngược con cá dược (vượt) lội xuôi. Anh với em xa cách ngậm ngùi, mong cho gặp mặt xác vùi cũng ưng." Sự nhớ nhung làm con người chán nản với thực tại và cho đó là một sự ràng buộc hoặc hàng rào vô hình không thoát ra được. Tâm trạng này mênh mang dằn vặt kẻ tương tư ảnh hưởng tới cả cánh chim, thân cá: "Cá lý ngư, sầu tư biếng lội, chim phượng hoàng sầu cội biếng bay. Xa nhau chẳng bấy nhiêu ngày, đêm đêm mơ tưởng ngày ngày đợi trông." Thế nhưng dù không muốn mà nào có dứt được đường tơ; nét tư tình kể cũng lạ, càng cố quên thì lại càng nhung nhớ, và càng nhung nhớ thì lại càng thương để rồi càng thương chỉ tăng thêm mối sầu cách biệt: "Cá sầu ai cá chẳng quạt đuôi, như lan sầu huệ, như tui sầu mình. Tử sanh, sanh tử tận tình, dù ai ngăn đón, tui cứ mình tui thương." Bởi vậy, cho dù có cách biệt hoàn toàn, không còn hy vọng xum họp thì lòng kẻ thương vẫn cứ thương: "Nước chảy re re con cá he nó xòe đuôi phụng, anh xa em rồi, trong bụng vẫn còn thương."

Chẳng những sinh vật nơi thiên nhiên gợi lòng nhung nhớ nơi kẻ tương tư mà cảnh sắc cũng thúc giục mối hươnglòng đôi lứa yêu nhau tưởng đến người tình. Một vấn đề khá lạ lùng đó là khi hai kẻ yêu nhau, những niềm vui ít khi được nhớ tới mà những sầu khổ không hiểu tại sao cứ dằng dai ray rứt: "Đêm khuya lặng gió thanh trời, ruột dường dao cắt vì lời mình than." Tình vương vất làm cho người ngây ngất nhưng quanh đi quẩn lại chỉ mình với bóng trong cảnh đơn lẻ: "Đêm đêm ngồi tựa cành cây, than thân với bóng, bóng rày bóng chẳng có thương. Đêm đêm rước bóng lên giường, ngọn đèn thấp thoáng, nửa thương nửa sầu." Hay "Đêm đêm thắp ngọn đèn dầu, than thân với bóng thảm sầu ai thương. Suốt năm canh một bóng một giường, ngọn đèn leo lét nửa thương nửa buồn." Hơn nữa, khi lòng đã in đậm nét một hình bóng, người ta mang cảm nghĩ hình bóng đó lúc nào cũng lẩn quất bên mình dường như được gán ép nơi cảnh thiên nhiên: "Một duyên hai nợ ba tình, chiêm bao lẩn quất bên mình năm canh. Nằm một mình lại nghĩ một mình, ngọn đèn khêu tỏ bóng huỳnh bay cao. Trông ra nào thấy đâu nào, đám mây vơ vẩn ngôi sao mập mờ. Mong người lòng những ngẩn ngơ." Hoặc "Thẩn thơ đứng gốc cây mai, bóng tôi tôi nghĩ, bóng ai tôi lầm." Và khi đã mê man với ảo tưởng, nào ai còn nhớ gì đến thực tại: "Đi đâu để nhện giăng mùng, để đôi chiếu lạnh để phòng quạnh hiu," và hoài mơ với nỗi ngóng trông nơi cảnh vật hy vọng vô tình bắt được hình bóng trong nhung nhớ: "Chim buồn chim bay về núi, cá buồn cá chúi xuống sông. Người buồn ra ngõ đứng trông, ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người."

Con người làm việc và suy tư có hạn nhưng lòng tương tư vô hạn do đó nhớ nhung không thể nào kể xiết. Tình trao người dẫu một chiều, chưa được trả đáp nhưng giăng giăng đó đây ẩn tàng từng gốc cây ngọn cỏ dù có muốn diễn tả cũng không thể nào nói cho hết: "Cây đa lá rụng sân đình, bao nhiêu lá rụng thương mình bấy nhiêu." Có chăng chỉ những cảnh vật gợi lại mối sầu: "Đi ngang qua đình lột nón chào thần, hạc chầu thần đủ cặp sao mình lẻ đôi," và thường so sánh khoảnh không gian hoang lạnh như nỗi lòng trống vắng bởi nhớ người thương "Chiều chiều ra bãi mà trông, bãi thời thấy bãi, người không thấy người." Mối tình si không biết lấy gì bù đắp thường dẫn người mê đối diện cảnh cô đơn quạnh quẽ: "Đêm qua ra đứng bờ ao, trông cá cá lặn trông sao sao mờ, buồn trông con nhện giăng tơ, nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai?" Ngày tháng trôi qua dật dờ theo lòng tưởng nhớ; con người trong mộng còn mãi bận tâm với hình bóng xa vời không cần đếm xỉa đến thời gian: "Có đêm ra đứng đằng tây, trông lên chỉ thấy bóng mây tà tà. Có đêm ra đứng vườn hoa, trông lên chỉ thấy sao tà xanh xanh. Có đêm thơ thẩn một mình, ở đây thức cả năm canh rõ ràng." Chỉ có sầu tư làm bạn, cảnh vật nơi đâu cũng như gợi lại lòng buồn một mối: "Đêm qua chớp bể mưa nguồn, hỏi người tri kỷ có buồn hay không?" Và tất cả chỉ là cách trở như một định mệnh bởi chính thiên nhiên cũng hùa theo phận số ngăn cản bóng dáng người mơ: "Núi cao chi lắm núi ơi, núi che mặt trời không thấy người thương."

TÂM TRẠNG CHÀNG

Đối với nam giới, nhung nhớ làm chàng trai ủy mị nghịch hẳn với tư cách râu mày. Bóng hồng khiến lòng chàng mềm yếu, mộng mơ và nhiều khi bơ vơ, nghi ngờ: "Từ khi anh phải duyên mình, để lòng vò võ một mình sớm khuya. Hay là núi nọ, non kia, hay là còn bé, duyên kia chửa đành." Ngược hẳn với bản chất háo thắng, thích đua chen, tranh giành, chàng nhút nhát e dè vì ngại nếu lỡ nghênh ngang sẽ làm phiền đến người thương: "Thò tay mà ngắt ngọn ngò, thương em đứt ruột giả đò ngó lơ." Nhung nhớ khiến chàng tư lự thay thế những ngày vô tình ăn no ngủ kỹ: "Đêm khuya thắp chút dầu dư, tim lan cháy lụn, anh sầu tư một mình" bởi hình bóng giai nhân vương vấn: "Đêm khuya nguyệt lặn sao tàn, đồng hồ ngặt điểm, nhớ nàng không quên." Từng giờ từng khắc, hình ảnh nàng như có ma lực quyến rũ chàng tìm gặp: "Đêm nằm lưng chẳng sát giường, trông cho mau sáng ra đường gặp em." Thêm vào đó, tình yêu trở thành động lực thúc đẩy chàng làm bạn với bóng đêm bởi hình như chỉ có những thinh lặng của vạn vật mới giúp chàng cảm thấy gần nàng hơn: "Đêm khuya ngồi tựa khoang hồng, sương sa gió lạnh chạnh lòng nhớ em." Và nhung nhớ nhắc nhở chàng gợi lại những kỷ niệm với người yêu: "Nào khi mô em nói với anh, sông dẫu cạn mà tình không cạn, vàng dẫu mòn mà nghĩa chẳng mòn. Nay chừ nước lại xa non, đêm năm canh tư tưởng, anh héo hon ruột tằm." Tình yêu đôi lứa đối với chàng là hơn hết không tình nào sánh nổi, "Đêm qua nằm dưới bóng trăng, thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em." Và hình ảnh nàng luôn luôn ám ảnh tâm trí chàng: "Thương cha thương mẹ có khi, thương em lúc đứng lúc đi lúc ngồi. Thương cha thương mẹ có hồi, thương em khi đứng khi ngồi cũng thương." Nhiều khi đến độ bồng bột muốn có nàng ngay bên cạnh cho đỡ nhớ nhung: "Rượu nằm trong nhạo chờ men, anh nằm phòng vắng chờ em một mình;" hoặc "Con chim trên núi, con gà dưới suối, nó gáy giọng chầu đôi, chầu ba. Đêm năm canh chẳng ngủ lại ngồi, trông người thục nữ bồi hồi lá gan." Đó cũng do bản chất hiếu động phái nam tạo thành: "Lửa gần rơm lâu ngày cũng cháy, anh xa nàng áy náy làm sao." Vì vậy nhớ nhung đối với chàng trai thường có tính chất điển hình nơi người yêu hơn mộng mơ: "Thuyền xuôi neo nọc cũng xuôi, nhớ em, anh nhớ cả đôi má hồng;" hay "Nhớ khi khăn mở trầu trao, miệng cười có nụ biết bao nhiêu tình;" hoặc những hình ảnh trong kỷ niệm có nàng: "Anh đi, anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi gió dầm sương, nhớ ai tát nước bên đường hôm nao." Chính do tính chất hiếu động thực tiễn nơi con người, nhung nhớ biến thành năng lực thúc đẩy chàng ước mơ thực hiện bất cứ gì để có được nàng: "Thương em vô giá quá chừng, trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay;" hay "Anh mong cho cả gió đồng, cho thuyền tới bến, anh trông thấy nàng." Bởi thế, khi không có cơ hội hay phương cách nào để chàng phát động năng lực sẵn có của mình giải tỏa niềm nhung nhớ, chính sự nhung nhớ trở thành mối nguy hại: "Huệ xào vì bởi mất sương, anh xanh xao vì bởi nhớ thương cô nàng;" hoặc "Anh còn da bọc lấy xương, liệt giường liệt chiếu cũng bởi thương ngãi nàng." Ấy cũng bởi: "Gan vàng chẳng cắt mà đau, cách em một lúc ruột rầu như dưa."

TÂM TRẠNG NÀNG

Nhung nhớ man mác vây bọc tâm hồn phái nữ không rời như hình với bóng và bất cứ môi trường, cảnh vật nào cũng gợi lại nơi lòng nàng bóng dáng tình quân cũng như những kỷ niệm liên hệ giữa hai người: "Cầm lược lại nhớ đến gương, cầm khăn nhớ túi, đi đường nhớ anh." Sự nhung nhớ này thật khó diễn tả; nó là tất cả những gì thân thiết nhất, luôn luôn gắn bó, đi đôi không thể thiếu một trong hai bởi nếu thiếu một phần thì phần còn lại trở thành không toàn vẹn, thiếu thốn, cũng như không có lý do để hiện diện: "Nhớ chàng như bút nhớ nghiên, như mực nhớ giấy, như thuyền nhớ sông. Nhớ chàng như vợ nhớ chồng, như chim nhớ tổ như rồng nhớ mây." Bởi thế, khi nhung nhớ, nàng tựa chốn chứa đựng tất cả những âu sầu trong cuộc đời; không gì có thể giúp nàng vơi niềm tâm sự: "Khó than khó thở lại khó phân trần, tóc không vò mà rối, ruột không dần ruột đau." Nhung nhớ chẳng những gậm nhấm lòng nàng mà lại còn ảnh hưởng thân xác, sắc diện: "Thương anh em chẳng nói ra, trong ruột thì héo ngoài da thì vàng." Đối với nàng, niềm nhung nhớ tình nhân quả thật quá lớn lao không biết nơi nào có thể chất chứa, chịu đựng. Dường như tất cả cảnh vật chung quanh không gì có thể chia sớt: "Thương anh chẳng biết để đâu, để quán quán đổ, để cầu cầu xiêu." Hơn nữa, khi đem so sánh tâm trạng mình với cảnh vật, mỗi loài còn có cách này, cách kia hòa mình vào cho quên bớt nỗi lòng phiền muộn. Riêng nàng, nào biết chia sớt với ai, biết làm chi cho khuây khỏa: "Cá buồn cá lội tung tăng, em buồn em biết đã đằng cùng ai!" Đối diện với lòng mình rồi lại nghĩ tới chàng, dù hy vọng và cho rằng khi buồn bởi nhớ nhung, chàng còn có nơi tìm quên lãng... riêng mình, chỉ cảnh cô đơn quay quắt vò võ với tâm tình quạnh quẽ, "Anh buồn có chốn thở than, em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya!" Càng nhung nhớ, hình ảnh chàng càng in đậm nơi tâm trí đi vào những giấc mơ. Tình ơi! Sao vẫn chỉ là những mê du trong mộng: "Đêm qua nằm ngủ sập vàng, trông xuống sập bạc thấy chàng nằm không. Vội vàng cởi áo đắp chung, tỉnh ra em vẫn nằm không một mình." Thật là não nuột cho tình cảnh nàng và chàng không "Môn đăng hộ đối" để đến nỗi giấc mơ cũng không trọn vẹn.

Nỗi nhớ nhung chất chứa đối với nàng dường như được gom góp do mọi nét sầu tư cuộc đời và tất cả cũng vì mối dây tình cảm. Chung quanh, ai nấy cũng vui, ngay cả chàng nơi miền xa ấy chẳng chia sẻ chi được cho nàng dù chỉ một chút phiền muộn: "Trầu không ngon sao gọi trầu ngon trầu béo, ngãi nhân không khéo lại đem lòng phiền. Chờ chàng bóng ngã trăng nghiêng, bao nhiêu vui về bạn, bấy nhiêu phiền về ta." Chẳng những thế, nỗi nhớ nhung còn như kéo dài thêm ngày tháng trong khi nhi nữ chỉ có một thời và càng đợi thì bóng tình quân càng biệt tăm với nỗi hao mòn nội tâm chất chứa ảnh hưởng càng làm cho thân xác mau cằn cỗi: "Đêm đêm ngắm dãy ngân hà, bóng sao tinh đẩu đã ba năm tròn; đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, tào khê nước chảy vẫn còn trơ trơ. Biết đâu trong đục mà chờ, hoa thơm hết nhụy nương nhờ vào đâu." Thế nên, càng nhung nhớ bao nhiêu nàng càng ao ước được gặp mặt người tình bấy nhiêu và sự gặp gỡ chàng quí giá không gì có thể so sánh: "Dù ai cho bạc cho vàng, chẳng bằng trông thấy mặt chàng hôm nay." Ước mong gặp chàng gợi lại nơi lòng những hình ảnh của người thương, từ những nét vui tươi đến những lời than thở... những gì nơi chàng đều in đậm nơi lòng nàng với đầy vơi thương nhớ: "Thương chàng lắm lắm không nguôi, nhớ miệng chàng nói, nhớ lời chàng than." Tuy nhiên, bao ngày tháng mỏi mòn, bóng chàng đâu không thấy để chỉ mình nàng vò võ ngây ngô! Buồn cho mình, buồn cho tình; cảnh sắc chung quanh đã chẳng giúp chia nỗi ưu tư trong cõi lòng ai oán mà dường như không muốn chấp nhận, lại diễu cợt với thân phận cô lẻ: "Đợi chàng chẳng thấy chàng đâu, bóng trăng ló dạng trên đầu mỉa mai." Ôi, nỗi sầu tư chất chứa nào ai hiểu thấu; có tự hỏi lòng thì cũng chỉ bởi niềm nhung nhớ bóng tình quân: "Gió đưa cây sậy nằm dài, ai làm thục nữ buồn hoài không vui."

Có thể bởi tình nàng chất chứa quá tràn đầy nơi tâm tư nên Ca Dao ít đưa lên những cảnh gợi niềm nhung nhớ của nữ giới ngoài những cảnh vật được áp dụng chung cho cả hai phái. Cũng như phái nam, nữ giới chưa kịp chia tay với tình lang thì đã nhớ, "Ba phen lên ngựa mà về, cầm cương ngựa lại em đề bài thơ. Bài thơ ba bốn câu thơ, câu đợi câu chờ, câu nhớ câu thương." Những hình ảnh gợi nhớ nơi tâm hồn phái nữ thường rất quen thuộc với công việc hàng ngày và khi con nhớ gợi về, mọi việc như muốn vào hùa với lòng nàng mà đình trệ: "Hôm qua dệt cửi thoi vàng, sực nhớ đến chàng cửi lại dừng thoi. Cửi sầu cửi nhục chàng ơi, ngọn đèn sáng tỏ bóng người cách xa;" nhất là khi có dịp rảnh rỗi không bị bận rộn, nỗi nhớ dễ tràn về hòa với cảnh vật: "Đêm khuya ngồi dựa gốc bồng, sương sa gió lạnh chạnh lòng nhớ anh." Sự vắng bóng biền biệt của tình quân tạo nơi nàng tâm trạng lẻ loi dễ rung động khiến tâm hồn thổn thức dạt dào bằng nước mắt cho vơi bớt mối sầu. Khi nàng sầu, cảnh cũng sầu theo, và nàng khóc, xúc động cả chị hằng lẻ loi trên đồi chia sẻ: "Trăng khuya trăng khóc trên đồi, khóc cho chiếc bóng hết ngồi lại đi. Nhớ chàng nhớ lắm chàng ơi, sao chàng không tới để em ngồi lẻ loi." Nỗi nhớ dằng dặc mênh mang gợi về hòa nhịp với tiếng gáy của lũ côn trùng trong đêm vắng khiến nàng thao thức suốt canh thâu trong niềm thương tưởng: "Đêm qua em có ngủ đâu, em nghe dế hát suốt canh thâu sau hè."

Chẳng những không gian thanh vắng nhắc nhở sầu riêng, hình ảnh nhịp cầu liên kết tiếp nối cũng chẳng tha đánh động nỗi cách xa người thương: "Qua cầu ngả nón trông cầu, cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu." Tình càng mặn nồng bao nhiêu, sự trông đợi hòa hợp đôi mái đầu càng tha thiết bấy nhiêu. Những năm tháng dần qua, bao thay đổi, bao ước mơ dồn đọng mà chàng vẫn biệt tăm để em cô lẻ làm bạn với lũ muông thú chẳng biết thiết tha gì đến người mang nỗi sầu mong đợi: "Con quạ ăn dưa, con cò phơi nắng; em ngồi em nghĩ cái chuyện đời; con quạ nó đen, con cò nó trắng, con cóc nó ngắn, con rắn nó dài; anh đi mô đi mãi đi hoài, tháng năm em đợi tháng mười em trông." Và rồi mây cứ trôi, nước cứ chảy về tận phương nao mù mịt như khoảnh trời đã qua anh quên lãng: "Ngày ngày ra đứng bờ sông, sông xa xa tít, cho lòng em đau." Nào ai biết cảnh đợi mong làm lòng người muốn điên muốn khùng về một hình bóng mà chẳng dám mong anh hiểu thấu: "Chim xanh ăn trái xoài xanh, ăn no tắm mát đậu cành cây đa. Cực lòng em phải nói ra, chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn." Và lời thề xưa phỏng anh còn nhớ, giờ chỉ riêng em vò võ: "Mảnh trăng đã chứng lời thề, làm chi để gánh nặng nề riêng ai."

Khi lòng bị thôi thúc bởi nhớ nhung, nàng cần được an ủi hoặc muốn có cách nào đó hóa giải cho nỗi lòng thanh thản. Trường hợp có thể gặp được, nàng đã khôn lanh mượn việc nọ cớ kia mong nhìn thấy người thương: "Giả đò mua khế bán chanh, giả đi đòi nợ thăm anh kẻo buồn," hay "Giả đò mua khế bán tơ, đi ngang qua ngõ rơi thơ cho chàng." Do tính chất tỉ mỉ sẵn có, các nàng khi thương ai thường muốn được chăm sóc bằng những món quà nho nhỏ. Mặc dầu giá trị của những món quà không là bao nhưng lại mang tâm tình vô giá đối với nàng bởi cảm thấy được người yêu nhớ tới. Những kỷ niệm này một phần nào giúp nàng ấm lòng khi nỗi nhớ nhung dằn vặt: "Chàng về để áo lại đây, phòng khi em nhớ, cầm tay đỡ buồn." Hoặc "Anh về để quạt lại đây, mở ra xếp lại cho khuây cơn buồn." Những khi đêm về, nỗi cô đơn xâm lấn, áo chàng cũng giúp nàng tìm được hơi ấm người thương "Anh về để áo lại đây, đêm khuya em đắp kẻo gió tây lạnh lùng," hay "Áo xông hương của chàng vắt mắc, đêm em nằm em đắp lấy hơi." Chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên giúp nàng nhẹ lòng nhung nhớ nhưng thiên nhiên cũng không kém gợi hình ảnh tình quân khi thấy người ta mà không có bóng chàng: "Thương thương nhớ nhớ sầu sầu, một ngày ba bận ra cầu đứng trông. Thấy người Nam, Bắc, Tây, Đông, thấy toàn thiên hạ mà không thấy chàng;" để rồi lại những dòng nước mắt thương vụng nhớ thầm đua nhau ướt gối hầu giải bớt mối sầu, "Nhớ ai em những khóc thầm, hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa. Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ, nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai." Nhưng tin chàng vẫn bằn bặt theo ngày tháng càng tạo nơi lòng nàng khát khao được gần: "Ước gì anh hóa ra hoa, để em nâng lấy rồi mà cài khăn. Ước gì anh hóa ra chăn, để cho em đắp em lăn em nằm..." Những nỗi khao khát ấy lại tạo thành nhớ nhung dằn vặt tưởng được quên trong giấc ngủ; thế nhưng, cứ mỗi lần tiếng gà gọi sáng là mỗi lần hối thúc lòng si. Bởi vậy, dầu mong ngóng mà nàng lại sợ nhớ nhung ray rứt do đó đành phải: "Chiều nay làm thịt con gà trống vàng, để khuya nó gáy, em hai hàng lụy rơi." Yêu thương vời vợi nhưng đâu ai hiểu thấu nỗi tương tư và rồi biết sao cho vơi lòng nhớ: "Một thương hai nhớ ba sầu, cơm ăn không được ăn trầu ngậm hơi. Thương chàng lắm lắm chàng ơi, biết đâu thanh vắng mà ngồi thở than?" "Người sống không tình yêu chỉ là xác chết biết thở;" đâu ai ngờ khi tình gặp cách trở, yêu đương lại mang đến sự mòn mỏi từng giờ.

TRẮC TRỞ

Thế mà đã có người hô lên "Tình chỉ đẹp khi còn dang dở;" có lẽ họ đã không biết yêu là gì hoặc có chăng tình cảm được họ gọi "tình yêu" chỉ là sự bồng bột nhất thời để rồi có quyết định sai lầm sinh ra chán ngấy trong cuộc sống vợ chồng bởi con tim bị đặt lầm khuôn mẫu, hoặc đã quan niệm tình yêu chỉ là sự thỏa mãn rung động xác thịt cần sự thèm thuồng nuối tiếc nơi một thời quen biết giống như lòng ao ước được thưởng thức đến độ no thỏa món ăn ngon nào đó mới chỉ một lần được nếm. Yêu nhau mà không được sống chung cho vẹn tình vẹn nghĩa là điều bất hạnh nhất trong cuộc đời, một đoạn trường của lòng người và là sự ray rứt thao thức triền miên dày xéo con tim chẳng bao giờ nguôi. Dĩ nhiên, mỗi con tim có tần số riêng của nó và khi hai con tim cùng tần số lỡ quen biết để rồi phải cách xa, chúng vẫn ngoi ngóp hướng về nhau để mơ ước cùng nhịp đập tạo bản tình ca hạnh phúc. Bởi vậy, làm sao có hạnh phúc khi hai con tim đối nghịch hoặc mang những tính chất không thể hòa đồng bị nhốt vào cùng một lồng khuôn mẫu hôn nhân? Những con tim nào đã muôn đời khắc khoải mơ một hình bóng hoặc dậy lên niềm vui khó tả bất chợt gặp được chỉ một nét chấm phá hòa đồng vô tình nhận ra nơi cõi lòng nào đó. Thế nên hai con tim thực sự yêu nhau nếu bị rơi vào trường hợp trắc trở, nói cách khác, dang dở, luôn luôn gào thét nỗi xót xa tạo cuộc đời thành bãi tha ma chôn người sống mang nỗi lòng khắc khoải: "Đón ngăn đường tắt, tôi hỏi gắt chung tình, điểu xa mai, mai xa điểu, tôi xa mình tại ai?" hoặc "Đôi ta như ruộng năm sào, cách bờ ở giữa làm sao cho liền." Sự khắc khoải này do nhiều nguyên nhân khiến đôi uyên ương bị chia duyên rẽ kiếp: "Cách sông cách núi cho cam, cách bức rào nhỏ thiếp chàng xa nhau." Do đó, những khi con tim càng nhớ tới người tình, ký ức càng gợi lại những hình ảnh đau lòng: "Phải dè năm bão thả trôi, sống làm chi chẳng đặng kết đôi với mình. Dọn cơm chống đũa ngồi nhìn, mảng sầu người nghĩa thất tình quên ăn."

Một trong những nguyên nhân chia duyên rẽ kiếp do quan niệm "Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó" bởi nghĩ rằng điều gì tốt cho mình hoặc mình ham muốn là tốt cho con: "Đường đi những lách cùng lau, cha mẹ ham giàu ép uổng duyên con. Duyên sao cắc cớ hỡi duyên? Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai." Hoặc bắt con cái phải theo ý mình vì cho rằng chỉ ý mình mới đúng: "Chim bay về núi Sơn trà, chồng Nam vợ Bắc, ai mà muốn xa. Sự này cũng tại mẹ cha, cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng." Dĩ nhiên cha mẹ nào không thương con nhưng sự giao hòa giữa hai con tim không phải là sự giao hòa của đôi cặp cha mẹ: "Chim thằng chài có ngày mắc bẫy, em cho hay rằng anh hãy lánh xa. Mẹ cha không thể chịu hòa, em đâu dám cãi vậy mà theo anh," hay "Hai ta là bạn thong dong, như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng. Bởi chưng thày mẹ nói ngang, cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau." Thương yêu là sự chấp nhận chết phần nào nơi mình để theo ý người thương; do đó, đã biết bao nhiêu than oán vì kết quả của lòng cha mẹ thương con sai lầm để rồi vô tình đày con trong vòng đau xót bởi không đủ ý thức nhận định thực sự điều mình muốn cho con là nên hay không: "Dòng nước chảy xuôi con cá buôi (trôi?) lội ngược, dòng nước chảy ngược, ông nược (vượt?) rượt theo. Hai đứa ta chẳng quản giàu nghèo, ngặt vì cha mẹ cứ theo cựu truyền." Và như vậy, đã biết bao câu trả lời bị gò ép rập vào một khuôn: "Đôi ta như lúa đòng đòng, đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha." Trời nào thấu cho cảnh "Trái duyên trái kiếp như kèo đục vênh!" Có chăng, chỉ còn tiếng than thống khổ bị dồn nén ứ đọng tận đáy lòng cho dần mòn số kiếp được gọi chẳng may: "Chàng đành phụ mẫu không đành, lá che cây khuất, ngọn ngành trời ơi!" Phỏng ai muốn nghe lời ai oán này thế mà khối kẻ muốn hùa nhau tạo nên nó: "Một lần chờ, hai lần chờ, sớm lần nhớ, chớ lần thương, anh thương em nhưng bác mẹ họ hàng chẳng thương." Bởi thế, đôi con tim bị ru vào thế đứng ngã ba đường với cõi lòng dày xéo do dự: "Lưu ly nửa nước, nửa dầu, nửa thương cha mẹ, nửa sầu căn duyên;" hoặc "Một mình đứng giữa trung ương, bên tình bên nghĩa biết thương bên nào." Thương nhau không được bác mẹ bằng lòng còn chi ray rứt bằng: "Hột gạo trắng tinh, mù sương sa nó trổ. Em không nệ gì trời mưa, để cho anh đi kén đi lừa; cho đẹp ý mẹ, cho vừa lòng cha. Phận em đây sa sút sụt sa, mấy câu ân nghĩa em phân ra giữa này." Hơn nữa, con người sống trong môi trường nào thường đành chấp nhận theo môi trường đó hoặc bị ảnh hưởng bởi những quan niệm của người đồng thời đến độ thiếu hẳn ý thức sống: "Dầu mà gương bể bình rơi, thì em cũng vẫn nghe lời mẹ cha."

Trong những nguyên nhân trắc trở đi phụ theo ý cha mẹ quyết định duyên phận cho đôi lứa có thể là sự làm mai mối, một trong bốn sự dại: "Ở đời có bốn sự ngu, làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu;" hay "Bí đao non không ngon tại nấu, thiếp xa chàng tại xấu mai dong. Ngó vô cửa sổ năm song, thấy đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng. Tại cha tại mẹ phía chàng, cho nên đũa ngọc chén vàng xa nhau." "Khéo miệng đỡ tay chân," tuy nhiên, khéo mai khéo mối cũng lầm nhân duyên; trong trường hợp mai mối ít lời hoặc vì lý do nào đó không khéo ăn khéo nói cũng phá hại nhân duyên: "Cây oằn vì bởi trái sai, anh xa em vì bởi ông mai ít lời." Hoặc "Xấu tre đóng chẳng đặng giường, xấu mai xấu mối người thương lỡ làng," hay "Xấu dao xắt chẳng mỏng gừng, xấu mai xấu mối lỡ chừng duyên ta." Mượn người làm mai, chẳng may gặp phải người có ý không tốt đẹp gì với mình hoặc có ý khác kèm theo đã chẳng có lợi mà lại còn mang hại cho đôi uyên ương: "Lộ bất hành bất đáo, chung bất đả bất minh. Bây giờ anh mới rõ tình, tại bà mai ở độc, hai đứa mình xa nhau." Hơn nữa, chẳng may sinh ra trong cảnh nghèo túng nhiều khi cũng bị mang kèm theo số phận trắc trở tình yêu như sản phẩm của quan niệm môn đăng hộ đối, "Muốn theo anh về bển cho liền, sợ cha với mẹ nói con dâu không tiền con dâu hư." Dĩ nhiên, nào ai muốn nghèo, ai không muốn mát mặt mà nghèo lại bị coi là một cái tội của phận số gây chia lìa hai kẻ yêu nhau: "Chỉ tơ đứt mối thình lình, vì nghèo nên phải xa mình sanh phương," hoặc "Vắn tay với chẳng tới kèo, cha mẹ anh nghèo, cưới chẳng đặng em!" Nghèo nói đã chẳng ai nghe và cũng khó mượn người đi nói: "Anh lâm chữ nghèo ít kẻ vãng lai, lấy ai mà cậy làm mai nói nàng."

Nhiều khi cuộc sống lứa đôi được quan niệm tùy theo duyên phận nên sự lỡ làng của hai con tim có cùng nhịp đập bị cho là duyên số không định: "Đồng hồ liệt máy vì sợi dây thiều, anh xa em bởi sợi chỉ điều xe lơi." Hoặc "Ngọn gió đâm ngang nên chàng xa thiếp, duyên nợ tự trời, ai quyết xa ai?" Thế nên do ảnh hưởng điều kiện sống hoặc lý do nào đó, duyên phận được coi là đề tài gánh chịu sự lỡ làng đôi lứa: "Gió đẩy đưa phơ phất ngọn cờ, anh đây lỡ vận tại chờ duyên em. Làm thơ nước mắt nhỏ lem, tương tư sầu muộn vì em có chồng." Duyên số cũng được dùng làm lá bùa chịu trận trong trường hợp vì hoàn cảnh, áp lực gia đình phải kết hôn với người mình không thương, "Ruột nàng ai cắt mà đau, nơi thương không vấn, vấn vương nơi nào." Dư luận đồng thời cũng đóng vai trò ảnh hưởng quan trọng của sự kết hợp đôi lứa và nhiều khi gây ra tan tác: "Gió đẩy đưa rau dừa dịu dịu, anh thương nàng liệu điệu xuống lên. Gió đưa trăng cho muỗi mòng xao xuyến, anh xa nàng vì tiếng thị phi;" hoặc "Ngày sầu tơ, đêm lại sầu tình, anh trách ai dèm xiểm đôi đứa mình lôi thôi."

TÌNH LỠ

Dù thế nào chăng nữa, nguyên nhân chính gây nên sự trắc trở của đôi con tim tha thiết yêu nhau bắt nguồn bởi thiếu năng lực phấn đấu hoặc không dám chấp nhận đương đầu với những khó khăn tạo nên do điều kiện xã hội hay quan niệm nơi người đương thời để dành quyền sống hạnh phúc cho chính mình: "Cách sông cách núi cho cam, cách một chỗ lội thiếp chàng xa nhau." Bao nhiêu trường hợp ép duyên đã xảy ra, bao nhiêu tâm hồn ray rứt khắc khoải cam nhận sống cho qua đã chỉ biết than lên: "Ai phân nhiều nỗi đoạn trường, ai xui nên nỗi, nhiều đường rẽ phân;" hoặc "Ai làm cho đó xa đây, cho chim chèo bẽo xa cây măng vòi;" mà nào có ai đặt vấn đề về chính sự cố gắng của mình! Hai con tim lạc bến mơ thì cũng chỉ: "Anh như con nhạn bơ thờ, sớm ăn tối đậu cành tơ một mình. Em như con hạc trước đình, muốn bay không nhắc nổi mình mà bay." Cùng lắm, nếu có cơ hội đành giả lạnh mặt làm ngơ để rồi: "Ai về em gửi bức thư, hỏi người bạn cũ bây chừ nơi nao?" Bởi: "Dưới mặt nước chói lòa yếm đỏ, trên bầu trời rạng tỏ mây xanh. Từ ngày xa cách em, anh, đất trời còn đó ai đành phụ nhau." Nói rằng không phụ nhưng cuộc đời đã phụ chỉ còn mảnh lòng nhớ nhung: "Duyên kia ai đợi mà chờ, tình kia ai tưởng mà tơ tưởng tình." Hoặc "Đêm qua nguyệt lặn về tây, sự tình kẻ đấy người đây còn dài. Trúc với mai, mai về trúc nhớ, trúc trở về, mai nhớ trúc không? Bây giờ kẻ Bắc người Đông, kể sao chi xiết tấm lòng tương tư."

Tình nào mà không ngẩn ngơ tràn đầy nhung nhớ khi dang dở, "Tóc mai sợi vắn sợi dài, lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm;" dạ nào không biết xót xa cho người mình thương: "Ai làm cho bướm lìa hoa? Cho chim xanh nọ bay qua vườn hồng? Ai đi muôn dặm non sông, để ai chứa chất sầu đong vơi đầy?" Tuy nhiên, dù cho có nhung nhớ thì chuyện đã lỡ; lòng đành mang mối ngẩn ngơ: "Cây đa bậc cũ lỡ rồi, đò đưa bến khác bạn ngồi chờ ai." Thử hỏi vết thương lòng biết chừng nào mới nhạt phai, "Ngồi buồn tính đốt ngón tay, tính đi tính lại ngón này hơn trăm. Tính tháng rồi lại tính năm, tính tháng tháng đoạn, tính năm năm rồi. Đôi ta biết thuở nào nguôi?" Hơn nữa, thà xa xôi khuất mặt mà lòng nhung nhớ còn cơ dễ chịu đựng; nếu vẫn gần kề lại cả là một ải đoạn trường: "Cách bức chẳng được nói luôn, hỏi người bên ấy có buồn hay không?" Vả lại, người mình thương buồn hay không chẳng biết, nhưng khi nhìn lại thân phận mình vò võ với mối tình câm cũng cả là một hình thức đọa đày: "Có trầu có vỏ có vôi, có chăn cho chiếu không người nằm chung." Điều hiển nhiên, con tim nào sắt đá đến đâu thì cũng chỉ là con tim thịt; thế nên, khi đôi lứa tha thiết thương nhau nhưng bị trắc trở, mối sầu vẫn dằng dặc ở với cả hai: "Mình buồn tôi dễ chẳng buồn, cá dưới sông biếng lội, chim trên nguồn biếng bay." Có gượng cho lắm cũng chỉ cho qua bổn phận đối với thực tại như một sự trả nợ kiếp nhân sinh và đày đọa cõi lòng đã lỡ: "Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời, ái ân lạt lẽo của chồng tôi. Mà từng thu chết, từng thu chết, vẫn giấu trong tim bóng một người" (T.T.KH; "Hai Sắc Hoa Ti Gôn").

Đàng khác, sự trắc trở duyên phận nào chỉ gây nên nhung nhớ vơi đầy mà còn tạo lắm nỗi âm thầm đau khổ ôm ấp mảnh tình câm nín: "Đôi ta chẳng được xum vầy, khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương." Nhất là khi "Trăm năm đành lỗi hẹn hò, cây đa bến cũ con đò khác xưa;" để đến nỗi: "Bậu có chồng rồi như cá vô lờ, tôi tương tư nhớ bậu giật giờ như kẻ say." Hoặc "Thôi rồi con đò người khác đang đưa, thiếp vắng bóng chàng, nước mắt tuôn xuống như mưa dầm dề." Đau lòng hơn nữa khi hai kẻ lỡ làng trong cảnh mặt đối mặt: "Gặp mình giữa đám ruộng vuông, lời phân chưa hết, nước mắt tuôn hai hàng;" hoặc "Cách nhau một bức rào thưa, tay chùi nước mắt, tay đưa miếng trầu." Trông thấy tình cảnh bên ngoài đã chùng lòng khó thở; thực trạng đớn đau của kẻ trong cuộc mới cả là một trường đày ải: "Em như hoa nở trên cành, anh như con bướm lượn vành trên hoa. Bây giờ anh lấy người ta, như dao cắt ruột em ra làm mười." Hay "Gió đông nam thổi vào hang chuột, nghe bậu có chồng rồi anh đứt ruột đứt gan." Tuy nhiên, nào ai có thể chia sẻ bởi tình đời còn lắm nỗi dây dưa, "Anh nói em cũng nghe anh, bát cơm đã trót chan canh mất rồi. Nuốt đi đắng lắm anh ơi, bỏ ra thì để tội trời ai mang?" Sức mạnh tình yêu còn ghê gớm hơn thế nữa vì đã có những thảm cảnh chạy trốn đau khổ do trắc trở tơ duyên, tránh làm xác chết biết thở: "Chỉ tơ quấn ống tre bông, gá duyên chẳng đặng, xuống sông trầm mình." Trong khi người đời nào ai thương cảm cho cảnh chung tình chốn trái ngang: "Vô duyên xấu phước tôi thác trước chung tình, phụ mẫu rằng tôi vắn số, tại tôi sầu mình tôi thác oan."


NIỀM TIN QUA CA DAO

 

Nếu chỉ xét về bản năng tự nhiên của mọi loài dù là động vật hay thực vật, từ những vi khuẩn nhỏ li ti đến độ mắt con người không thể nhìn thấy, qua cây cỏ rong rêu, những loài sên ốc, giun dế, cho tới loài người, đặc tính sinh tồn đa dạng với nhiều hình thức là căn bản nối tiếp sự hiện hữu. Sự sống càng ở mức độ cao thì bản chất càng linh động hơn... và con người có bản chất linh động nhất không những bao gồm một thể xác sinh động mà còn có phần tinh thần, nơi đó sự tự do không ai có thể giới hạn đã khiến con người thay đổi tất cả bộ mặt sự sống nơi trái đất. Nếu so sánh, thể xác con người chỉ giống như dụng cụ cho sự hoạt động của tinh thần mặc dầu tinh thần bị ảnh hưởng tùy theo điều kiện của thể xác và môi trường con người sinh sống. Điểm đặc biệt của tinh thần là không chịu chấp nhận ngưng nghỉ nơi điều kiện sẵn có của mình mà luôn luôn có ước muốn tiến xa hơn chẳng những trong điều kiện sinh hoạt xác thể mà còn nơi lãnh vực tư tưởng như một bản năng với khuynh hướng tìm tòi, học hỏi tiến dần tới Chân, Thiện, Mỹ, chốn cùng đích cũng là nguồn gốc của sự hiện hữu cả về thể xác lẫn tinh thần. Nhận định như thế, chỉ con người mới có cuộc sống tinh thần, các loài khác không có.

Bản chất của tinh thần là sự tìm kiếm trong đó một đặc tính vượt trổi hơn hết hướng dẫn cũng như chọn lựa lý tưởng cho đời sống một người là sự nhận thức giới hạn con người để rồi tìm đến nguồn gốc của sự hiện hữu cũng như sự liên hệ với nguồn gốc đó; sự nhận thức này được hướng dẫn bởi niềm tin. Nếu có cơ hội hoặc môi trường, đặc tính này còn được phát triển thêm khả năng đặt lại vấn đề về niềm tin của mình. Dĩ nhiên, một điều gì khi đã biết thì không cần được chứng minh hay giải thích bởi biết là tiến trình của sự nhận thức, và vì thế niềm tin dựa trên tiến trình nhận thức kiếm tìm chân lý. Qua kinh nghiệm tiến trình nhận thức, tất cả những gì có thể được tin tưởng đều là phản ảnh một khía cạnh nào đó của chân lý và chân lý là cùng đích hướng dẫn đời sống con người. Với sự nhận xét này, điểm cao nhất của niềm tin là chân lý, phương tiện giúp cho con người tận dụng mọi năng lực thực hiện nhân đức, những sự tốt lành cho cuộc đời. Bởi thế, căn bản cho sự suy nghĩ là niềm tin, và niềm tin là phản ảnh phần cao nhất của tinh thần con người.

Điều hiển nhiên, con người có tự do tuyệt đối trong giới hạn tinh thần vì dù có gông xiềng thân xác hoặc mọi áp lực cuộc sống đè ép, không gì có thể bắt buộc một người suy nghĩ theo bất cứ chiều hướng nào. Người ta có thể lên án điều một người nói hay viết ra nhưng khi tư tưởng còn nằm trong ý nghĩ, không ai có thể đụng đến được ngoại trừ phá hủy bộ óc làm mất khả năng suy tư của nó. Thế nhưng, sự tự do này lại lệ thuộc niềm tin vì không thể có tự do thực sự cho tới khi có được một niềm tin mạnh mẽ. Niềm tin là mốc cho mọi suy tư cũng như lối sống của con người. Dĩ nhiên, con người thần thánh hóa điều họ tin tưởng cũng như thăng hoa những gì họ thích nhưng con người tự bản chất lại dễ tin tưởng nên cần niềm tin; và như vậy trong trường hợp thiếu căn bản đạo đức, con người dễ chiều theo những sự xấu xa thay vì tìm kiếm chân lý. Hơn nữa, không phải điều gì mình đã tin là luôn luôn đúng, muốn có một niềm tin vững chắc lại cần có sự nghi ngờ vì nghi ngờ vạch vòi những gì không thuộc về chân lý. Đàng khác, tinh thần con người còn có thêm một cá tính là người ta có thể đặt niềm tin vào điều không có thể xảy ra nhưng lại không bao giờ tin vào điều nghi ngờ. Niềm tin được phụ họa bởi tiến trình nhận thức dẫn dắt con người tiến tới Chân Lý, cội nguồn của sự sống.

Qua Ca Dao, người xưa tin có Trời, và Trời ảnh hưởng, xét xử con người "Cứ trong nghĩa lý luân thường, làm người phải giữ kỷ cương mới mầu. Đừng cậy khỏe chớ khoe giàu, Trời kia còn ở trên đầu còn kinh." Cuộc đời con người có số phận do Trời định đoạt: "Bôn ba không qua phận số," và duyên phận "Nhờ ơn cô bác giúp lời, chị em giúp của ông Trời định đôi." Con người không phải chết đi là hết vì còn có thế giới bên kia cũng như có quả báo. Đồng thời, lối sống của một người không những ảnh hưởng ngay cuộc đời mình mà còn liên hệ tới hậu duệ.

Trời là đấng tối thượng, được gọi là Thiên Thượng theo chữ Nho hay Thượng Đế hoặc Ông Xanh cần được viết chữ hoa: "Ngồi buồn trách lẫn Ông Xanh, khi vui muốn khóc buồn tênh lại cười." Những chữ "trời" viết bình thường chỉ về thiên nhiên: "Kiếp sau xin chớ làm người, làm cây thông đứng giữa trời mà reo;" hay "Trời mưa thì mặc trời mưa, chồng tôi đi bừa đã có áo tơi," hoặc "Trông trời trông đất trông mây, trông mưa trông gió trông ngày trông đêm." Trời (chữ hoa) là nguồn gốc của vạn vật: "Thấy anh hay chữ, em hỏi thử một lời, thuở tạo thiên lập địa ông Trời ai sanh?" Nói rằng Trời sinh ra người có nghĩa Trời là đấng linh thiêng mà con người thần phục: "Trời sinh ra đã làm người, hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi..." Trời an bài mọi chuyện trong cuộc đời: "Trời sinh voi, Trời sinh cỏ," hoặc "Trời đánh còn tránh miếng ăn." Trời là đấng xét xử lẽ công bằng "Không có Trời, ai ở được với ai;" vì "Trời nào có dong kẻ gian, có oan người ngay;" hay "Đạo Trời báo phục chẳng lâu, hễ mà thiện ác đáo đầu chẳng sai." Trời trừng phạt kẻ gian ác không sớm thì chầy "Chạy Trời không khỏi nắng," và không ai có thể trốn thoát "Ai bảo Trời không có mắt." Trời không để cho người tốt lành bị thiệt "Làm ơn ắt hẳn nên ơn, Trời nào phụ kẻ có nhơn bao giờ," và giúp những người cố gắng sống tốt lành hơn: "Trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên;" bởi "Trời chẳng đóng cửa nhà ai." Đặc biệt, người xưa tin rằng Trời độ những người hiếu thảo với cha mẹ: "Con làm cha mẹ vui cười, thì được Phật, Trời ban bố phước duyên."

Phận số giầu, nghèo của một người cũng tùy thuộc ở Trời: "Chữ rằng tiểu phú do cần, còn như đại phú là phần do Thiên" chứ không phải cứ cố gắng làm giầu đã chắc được: "Mưu toan chẳng dễ chi nên, thành công thất bại cũng ơn trên có Trời" vì những gì mình có được do Trời ban cho: "Của Trời, Trời lại lấy đi, giương hai con mắt làm chi được Trời." Phận số bao gồm duyên số, duyên phận cũng được tin rằng do Trời định đoạt: "Căn duyên gặp gỡ giữa trời, ông tơ dìu dắt, ông Trời khiến nên." Do đó "Bãi dài cát nhỏ tăm tăm, phải căn duyên Trời định bấy nhiêu năm anh cũng chờ."

Bởi vậy con người tin tưởng và đặt niềm cậy trông ở Trời: "Chàng ơi trẩy sớm kẻo trưa, cửa nhà cậy mẹ, nắng mưa nhờ Trời. Em đi cầu khẩn Phật, Trời, biết than cùng Trời, biết thở cùng ai." Tất cả những gì ngoài khả năng của con người, chỉ có Thượng Đế mới giải quyết nổi: "Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời, đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân;"hoặc "Lâm râm khấn vái Phật, Trời, xin cho cha mẹ sống đời với con." Vì tin ở Trời, những gì con người khó có thể gánh chịu, Trời cũng là đấng cho con người ca thán, kêu than: "Trời sao trời ở chẳng cân, người ăn không hết, người lần chẳng ra;" hoặc "Trời sao Trời chẳng ở công, kẻ ba bốn vợ, người không vợ nào;" hay "Trời ra điềm lạ khó bàn, hay là ông khiến tôi với nàng cách xa?"

Khi những sự việc xảy ra ngoài sức cố gắng giải quyết, con người thường hay kêu cầu hoặc than trách tới Trời điều này chứng tỏ dù xưa hoặc nay, từ nơi tiềm thức, mọi người đều tin có một Đấng ở trên đầu mình, giúp đỡ, cai quản cũng như thấu suốt lòng dạ mỗi người để nhắc nhở hoặc khuyến khích làm lành lánh dữ. Niềm tin được thể hiện rõ ràng nhất nơi lương tâm con người khi đối diện với cuộc đời trong lúc cần có những quyết định đạo đức hay luân lý. Niềm tin này cũng được hỗ trợ và minh chứng qua tiếng nói lương tâm; khi làm việc gì tốt lành, con người nhận được niềm vui an bình khó diễn tả nhưng nếu làm điều không nên không phải sẽ bị dằn vặt. Tiếng nói lương tâm thôi thúc và luôn luôn nhắc nhở không ngơi nghỉ cho dù con người có muốn chạy trốn hay tìm vào quên lãng cũng không thể nào tránh thoát. Điều này ai ai cũng nhận thấy một cách hiển nhiên nhưng trái lại ít để ý và phân tích hoặc đặt thành vấn đề có lẽ vì ai cũng sợ tiếng nói của lương tâm bởi ai không lầm lỗi. Có một điều không mấy người nhận ra là đối diện với lòng mình, chấp nhận lầm lỗi để cải thiện và cố gắng sống vươn lên, thực hiện những việc tốt lành thay vì trốn chạy, con người mới có được niềm vui an bình thực sự.

Xét riêng về phận số, rút tỉa từ kinh nghiệm sống, người cần cù làm lụng, ăn chắt để dành mà nghèo vẫn cứ nghèo; lại có kẻ nhởn nhơ với cuộc đời vẫn giầu có, người xưa cho rằng: "Số khó làm chẳng nên giầu." Nếu một người đã có số nghèo, cho dù muốn và cố gắng dùng đủ mọi hình thức, phương tiện để làm giầu cũng không thể được, "Số giàu đem đến rửng rưng, lọ là con mắt tráo trưng mới giàu." Thế nên, "Số giầu tay trắng cũng giầu, số nghèo chín đụn, mười trâu cũng nghèo." Do đó nếu đã là "Số khó làm chẳng nên giàu" thì chỉ "Thức khuya, dậy sớm cho đau xương sườn." Người xưa khuyên: "Giàu nghèo tại số đừng lo, mà đường công nợ có lo chi mà" bởi "Bôn ba không qua thời vận." Thêm nữa, mỗi người có một số phận nào đó đã được an bài sẵn: "Làm quan có dạng, làm dáng có hình" hoặc: "Làm quan có mả, làm kẻ cả có dòng."

Người xưa tin rằng số phận của một người còn do nhiều nguyên nhân. Thoạt tiên là do đức của cha mẹ để lại, nếu cha mẹ sống tốt lành thì con cái được hưởng phước "Cây xanh thì lá cũng xanh, cha mẹ hiền lành để đức cho con;" đồng thời nếu sống bất nhân hoặc làm những chuyện chẳng nên, hại người, con cái bị ảnh hưởng hậu quả "Đời cha ăn mặn, đời con khát nước." Đức sống của một người ảnh hưởng chính cuộc đời của họ: "Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác;" vì chính mình sẽ nhận lãnh kết quả việc mình làm: "Việc đời phản ứng rõ ràng, cây đánh vào vách tiếng vang dội liền." Do đó, "Ở hiền thì lại gặp lành, ở ác gặp dữ tan tành như tro." Nhận thức lối sống mình có ảnh hưởng chẳng những cuộc đời mình mà còn đến thế hệ tiếp nối của con cái, một người nên sống tốt lành và phải biết ghi ơn ông bà cha mẹ mình đã để lại đức cho mình: "Khôn ngoan nhờ đức cha ông, làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ."

Người xưa tin cũng có duyên phận trong vấn đề hôn nhân của con người: "Thiên duyên kỳ ngộ gặp chàng, khác gì như thể phượng hoàng gặp nhau." Nhân duyên do Trời định và ông Tơ bà Nguyệt thường được dùng để làm biểu tượng nối kết đôi lứa: "Đôi ta duyên nợ không thành, cũng do Nguyệt lão chỉ mành xe lơi." Hơn nữa, khi hai người đã có duyên phận với nhau tất nhiên sẽ được trùng phùng, "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ, vô duyên diện kiến bất tương phùng." Vì thế, nếu đã có nhân duyên, tất nhiên, "Đôi ta là nợ, là tình, là duyên, là kiếp đôi mình kết giao." Nhân duyên cũng còn được gọi là duyên kiếp, không thể nào bị ép buộc: "Giàu trong làng trái duyên khôn ép, khó nước người phải kiếp cũng theo" bởi ép buộc là trái lòng người và trái lẽ tự nhiên: "Phải duyên áo rách cũng màng, vô duyên áo nhiễu, nút vàng không ham." Do đó, "Em ơi chớ khá bôn hành, duyên đâu nợ đó ai giành em lo."

Đã có sinh là phải có tử và con người không phải chết là hết, "Ai ơi hãy ở cho lành, kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau." Chính ngay những việc mình làm bây giờ còn đem lại hậu quả nào đó thì cả cuộc đời mình tất nhiên không qua đi một cách tự nhiên: "Việc đời có rủi có may, có vay có trả xưa nay lẽ thường," hay nói theo kiểu nhà Phật "Lên yên khổ nỗi giục yên, tiền căn báo hậu, nhãn tiền thấy chưa." Thế nên ngoài thế giới hữu hình còn thế giới linh thiêng hay thần linh: "Miễu linh chẳng dám đứng gần, đứng xa mà vái, thánh thần chứng tri." Hoặc người ta được luân hồi qua kiếp khác theo Phật thuyết: "Em thác ba năm xương tàn cốt rụi, em đầu thai con nhạn bạch về đậu bụi chanh. Cất tiếng kêu 'Anh ơi đi nói vợ, đừng chờ đợi em như trước tuổi xuân không còn.'" Và khi chết, con người không mang theo được bất cứ vật chất gì thuộc về mình khi còn sống: "Vua Ngô băm sáu tàn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì. Chúa chổm uống rượu tỉ ti, chết xuống âm phủ kém gì vua Ngô." Hay, "Trăm năm còn có gì đâu, chỉ hai tay trắng về chầu Diêm Vương." Nói như thế không có nghĩa là nơi cuộc sống bên kia mọi người như nhau. Tất nhiên, "Trồng cây dâu ăn trái dâu," hoặc "Gieo gió gặt bão." Người sống tốt lành chắc chắn phải được thưởng và kẻ thực hiện điều gian ác sao có thể so sánh với người thi hành sự thiện. Người xưa tin vào thuyết nhân quả không phải chỉ nơi cuộc đời này mà còn ảnh hưởng tới kiếp sau. Lẽ đương nhiên, nếu có thể tin được cuộc sống tốt lành, nhân nghĩa để lại đức cho con cái thì không thể nào từ chối sự ảnh hưởng của tâm đức mình đến cuộc đời nơi thế giới bên kia sau khi chết. Đây là một trong những vấn đề thần học căn bản của bất cứ tôn giáo nào. Nói cách khác, thế giới siêu hình bên kia là nền tảng cho các tôn giáo; dĩ nhiên, nếu không có niềm tin về thế giới siêu hình, không được gọi là tôn giáo. Người xưa tin rằng con người sẽ được thưởng những gì phúc đức mình thực hiện trong cuộc đời hay bị phạt bởi đã sống chẳng ra gì nơi thế giới vô hình: "Có chồng còn muốn lấy trai, chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu."



ĐẶC TÍNH DÂN VIỆT

 

Người Việt Nam chúng ta mang một cá tính đặc biệt đó là sự hợp quần. Trong một cộng đồng, chúng ta biết người nọ người kia; gia đình này thế nào, gia đình kia ra sao. Đại khái chúng ta xét toàn bộ một gia đình, có thể từ gốc gác, từ đời ông nội hay ông cố nội và rộng lớn hơn anh em họ hàng, dây mơ rễ má liên hệ trong cuộc sống hiện tại. Đồng thời chúng ta cũng đặt vấn đề gia đình đó cuộc sống ra sao nếu so sánh với những tập tục sẵn có nơi cộng đồng để chiêm ngưỡng và khen ngợi hay chê bai một người hoặc một gia đình tùy thuộc sự đối xử của những thành viên trong gia đình với cộng đồng nói chung và với những người chung quanh, họ hàng, anh chị em, láng giềng nói riêng. Lẽ thường, gia đình nào dối xử tốt lành với mọi người, khi có công chuyện, họ hàng, xóm giềng thân quen qua lại giúp đỡ nhiều hơn là sống cô lập. Bởi đó, khi một gia đình có công chuyện, chúng ta có thể chỉ cần nhìn vào số người đến tham dự mà nhận ra giá trị của gia đình đó hay lối sống của họ thế nào đối với cộng đồng. Xét cho cùng, giá trị của một gia đình hay một cá nhân tùy thuộc vào lối sống của họ thể hiện được giá trị của những phong tục tập quán cao đẹp của dân tộc Việt.

Nếu nhìn phong tục tập quán được áp dụng nơi cuộc sống con người theo khía cạnh này, những gì hay nơi phong tục người Việt mà chúng ta chưa biết hay chưa áp dụng trong cuộc sống, chúng ta nên theo; đồng thời, những gì lạm dụng phong tục sẽ bị trở thành hủ tục. Điều tất nhiên, mọi người chúng ta đều chê bai những ai lạm dụng phong tục, dám muối mặt, cả gan vì lợi ích riêng tư hay vì ý đồ hạn hẹp bôi nhọ những tính chất cao đẹp của người Việt. Vì thế, trong mọi cộng đồng người Việt, một số người hay gia đình đã và đang được đề cao bởi họ biết kính trên nhường dưới, biết tôn trọng lẽ phải, biết lễ độ với những người chung quanh. Nói chung là sống biết điều. Đồng thời cũng có một số người hoặc gia đình trong một cộng đồng bị mọi người khinh khi dầu người ta không nói cho biết hay không muốn nhắc tới. Thực tế cho thấy, người nào hay gia đình nào đã sống chẳng ra gì để những người trong cộng đồng khinh khi, chỉ còn cách dời đi nơi khác. Ai cũng biết rằng, sống mà bị mọi người khinh khi, phỉ nhổ, còn khốn khổ hơn là chết bờ chết bụi. Hơn nữa, vết nhơ này muôn đời không xóa được. Đó cũng là lý do tại sao người Việt Nam trọng danh dự và cố tránh những điều vô liêm xỉ. Cuộc sống của chúng ta thể hiện qua phong tục tập quán đang nói lên phẩm giá con người chính mình.

Lẽ tự nhiên, phong tục và tập quán tự bản chất không tốt cũng không xấu. Chính sự áp dụng của phong tục và tập quán tùy nơi và tùy thời, hòa hợp với quan niệm của cộng đồng hay không, nâng cao hoặc làm giảm giá trị danh dự của người thực hành những tập tục. Con người tự mang giá trị làm người của chính mình. Phong tục tập quán chỉ một phần nào diễn tả tâm hồn của người thực hành chúng. Nào ai lạ gì: "Nhập gia tùy tục" hay "Ăn trông nồi ngồi trông hướng."

Phong tục, tập quán được sinh ra bởi mối liên hệ của con người. Sự đối xử và cách thức đối xử giữa con người với nhau lâu dần trở thành thói quen, rồi thành tập quán. Những điều hay lẽ tốt được mọi người đề cao và thực hành trải qua các thế hệ và giá trị của những điều cao đẹp này ảnh hưởng tới con người nên biến thành phong tục. Chẳng hạn nghi thức trọng kính tổ tiên, đình đám, sự đối xử giữa cha con, chồng vợ.

Người Việt Nam nói riêng hoặc dân chúng Á Đông nói chung là những người tình cảm. Người tình cảm sống tùy theo tâm tình của mình hơn là lý luận. Đó là lý do tại sao chúng ta thấy đôi khi thật sự không muốn làm một việc gì nhưng mình vẫn làm. Mình làm việc đó chỉ vì mọi người chung quanh đã và đang chấp nhận như thế; chẳng hạn như ăn giỗ hay ăn tết. Nếu mình không theo, anh em họ hàng hoặc những người chung quanh coi mình không ra gì.

Chính bởi sống theo tâm tình, người Việt Nam có khuynh hướng hợp quần, sống gần nhau, thích làm việc chung cho cộng đồng. Lối sống tâm tình này, tạo cho người Việt dễ dàng chia sẻ tâm tư, thăm hỏi, và đôi khi sự chia sẻ tâm tình trở nên một nhu cầu. Do đó người Việt lại có thêm đặc tính khác là hiếu khách. Hiếu khách bởi được người khác tới thăm là điều đáng hãnh diện; mình có sống thế nào người ta mới trọng mình mà tới thăm. Khách vô nhà sẽ được biệt đãi, trọng vọng. Bạn có thể đến thăm bất cứ gia đình quen biết nào của bạn mà không cần thông báo trước. Nếu có người ở nhà, bạn sẽ được họ niềm nở tiếp đón.

Lối sống hợp quần giúp cho người Việt biết và hiểu nhau nhiều hơn. Mối dây ràng buộc tinh thần giữa cá nhân và cộng đồng liên kết chặt chẽ hơn, và cá nhân cũng được bảo vệ nhiều hơn. Nếu chẳng may nhà ai có chuyện hệ trọng gì, tin tức được loan truyền nhanh hơn; do đó sự giúp đỡ của những người sống trong cộng đồng (nếu cần thiết) đến với gia đình không may kịp thời.

Do sự liên hệ giữa cá nhân với cộng đồng và lối sống tâm tình, khi một người có chuyện gì khó khăn mà chưa biết cách giải quyết ra sao chỉ cần hỏi hoặc nói với những người quen, họ sẽ được đề nghị nhiều ý kiến. Dĩ nhiên, kẻ có ý kiến nọ, người có ý kiến kia; người trong chuyện chỉ cần cân nhắc và suy nghĩ thêm để chọn lựa ý kiến đề nghị hợp với công việc của mình mà giải quyết. Một điểm đặc biệt nơi tâm tình người Việt là sự sẵn lòng giúp đỡ người khác khi được nhờ đến. Bởi thế, người gặp chuyện khó khăn nếu nhờ người khác, họ sẽ được giúp đỡ tận tình, và thường thì những sự giúp đỡ này vượt quá điều mong ước của chủ nhân. Chính lối sống tâm tình và cộng đồng khuyến khích mối dây liên hệ giữa người Việt thêm bền chặt. Đồng thời, vì được những người chung quanh tận tình góp tay giải quyết vấn đề trong những khi gặp chuyện khó khăn, mình nhận ra lòng quảng đại và sẵn sàng giúp đỡ của người khác. Từ đó, với tấm lòng biết ơn, mình tự nguyện mở rộng tâm hồn để giúp đỡ người khác khi họ gặp chuyện không may. Qua sự liên hệ này, tâm tình rộng lượng thương người ăn sâu vào tâm tính người Việt và trở thành cá tính. Hiểu như vậy, khi nghe ai nhắc đến một trong những đặc tính người Việt là bao dung, hay giúp đỡ, không ai trong chúng ta không cảm nhận được. Tuy nhiên, hỏi tại sao bao dung, rộng lượng, thật khó diễn tả.


SỰ THĂM HỎI

 

Lối sống cộng đồng tạo cho cá nhân tấm lòng chung, đồng thời được phụ họa bởi đặc tính tình cảm nên người Việt rất cởi mở, thích hàn huyên, nhàn đàm, hoặc thăm hỏi. Sự thăm hỏi đóng một vai trò quan trọng trong sự liên hệ của người Việt vì không những gây dựng mối thâm tình nơi con người thêm bền chặt mà còn giúp cho cá nhân nhận rõ hơn giá trị cuộc sống của mình. Cứ xét theo lối giao tế, người nào được nhiều người biết đến, để ý bao nhiêu, người đó được nhiều người mộ mến bấy nhiêu. Tính chất này cũng bao gồm điều phản ngược lại; đối với cộng đồng: người nào sống không ra gì, tệ bạc bao nhiêu thì càng bị nhiều người biết và khinh chê bấy nhiêu.

Sự thăm hỏi tùy thuộc tính chất thân quen liên hệ của một người. Thân thuộc được đặt lên hàng đầu như cha mẹ, con cái, anh em họ hàng, rồi tới bạn bè thân hữu, hàng xóm láng giềng. Sự thăm hỏi bắt nguồn từ cách cư xử của một người đối với gia đình, thân thuộc, hay đối với hàng xóm... Tùy cách cư xử của một người mà sự thăm hỏi mặn nồng hay lạnh nhạt. Tựu trung, sự thăm hỏi nói lên tấm lòng mình đối với người khác.

Nhìn theo khía cạnh tâm lý, sự thăm hỏi tùy thuộcvào vấn đề "thăm nom" nhiều hơn là "hỏi han." Bởi tâm tính mỗi người một khác nên không thể nào có được quy luật nhất định phải ăn nói kiểu nào khi thăm hỏi. Chúng ta có thể nhận thấy điều này khi nói chuyện với những người chung quanh. Người thì nói nhiều, kẻ lại nói ít, có người chỉ thích ngồi nghe coi bộ dường như không thèm chú ý, nhưng lúc được hỏi đến, lại rất thông suốt những vấn đề đang được mổ xẻ. Đồng thời, lại cũng có người thao thao bất tuyệt nhưng chẳng đâu vào đâu. Lỡ có chuyện gì cần phải ý kiến thì lại không biết trả lời ra sao.

Người tới thăm mang chính sự hiện diện của mình tới tặng người khác. Bởi cuộc đời một người được giới hạn bằng thời gian người ấy sống, sự hiện diện nói lên ý nghĩa đem một phần cuộc đời dành cho người khác thay vì sống cho mình. Hơn nữa, khi yêu hoặc thích ai, mình muốn được gần gũi, muốn đem tặng người đó sự hiện hữu của mình, một món quà không thể tính thành giá cả tiền bạc vì tiền bạc có thể làm ra trong khi thời gian nếu đem cho đi không bao giờ có thể kiếm lại hoặc kéo dài thêm. Sự hiện diện nói lên mình trọng kính và chấp nhận người khác đáng được trọng vọng nên tới. Ngược lại, chúng ta cũng cảm thấy hãnh diện và quan trọng khi được người nào đó ghé thăm. Bởi thế, sự thăm hỏi đem lại niềm vui tới người khác và giúp họ cơ hội nhận rõ hơn giá trị của họ. Nói theo cách khác, sự thăm hỏi giúp một người cảm thấy mình có giá trị hơn, được người khác để ý đến hơn nên ấm lòng và vui vẻ hơn. Dĩ nhiên, cũng không thiếu trường hợp có những người chẳng biết dùng thời gian của mình để rồi lang thang đây đó, tấp chỗ nọ ghé chỗ kia làm phiền kẻ khác. Sự thăm hỏi nếu bị lạm dụng vì lợi ích riêng mình mà không nghĩ đến người khác sẽ bị coi thường.

Người Việt Nam nói chung (có thể tôi sai) ít để ý đến tầm quan trọng của sự hiện diện mà chỉ đặt vấn đề mình phải hoặc nên có mặt nơi những tổ chức, đình đám, hội hè, v.v... hay không. Hơn nữa, mình lại thường hay đặt sự thăm hỏi thành một bổn phận, hoặc sự tỏ lòng biết ơn, coi trọng. Chúng ta ít để ý đến giá trị của chính mình mà đặt vấn đề về tầm mức quan trọng của người khác nhiều hơn. Khi nghĩ mình phải tới thăm người này người kia tất nhiên ẩn chứa bổn phận chứ không đặt vấn đề mình đem niềm vui hay an ủi tới người khác. Do đó, nếu nhận ra giá trị của sự hiện diện của mình khi thăm hỏi người khác, sự tiếp đón của mình khi người nào đó tới thăm cũng sẽ được cải thiện. Giá trị của sự thăm hỏi không phải là bổn phận mà là mối thân tình, sự liên hệ cao quí giữa con người với con người, một khích lệ giúp người khác cảm nhận giá trị cuộc sống, và đồng thời cũng giúp người khác một phần nào thay đổi cách sống bắt nguồn từ sự tiếp đãi khách tới thăm dần dần trở thành con người niềm nở, cởi mở và vui tươi hơn. Xét theo lối nhìn này, sự thăm hỏi là một điều tốt lành mình đem đến cho người khác để giúp họ sống vươn lên.

Không để ý đến tầm quan trọng hay giá trị nơi sự thăm hỏi của mình đối với người khác nói lên người Việt mang cá tính quên bản thân mình mà để ý đến người khác nhiều hơn. Cũng có thể vì mình cảm thấy không quan trọng đủ (do mặc cảm tự ty) nên khi ai để ý tới mình mà đến thăm, họ sẽ được trọng vọng. Cũng có thể do đặc tính hiếu khách của dân Việt được hấp thụ nơi truyền thống coi trọng nhân vị con người nên trọng vọng người khác. Dù thế nào chăng nữa, và cho dù được bắt nguồn nơi mặc cảm tự ty, sự coi trọng và ưu đãi khách tới thăm vẫn là một cá tính cao đẹp nơi tâm hồn người Việt.

Bình thường, khi khách tới thăm và nếu được báo trước, chủ nhà lo để ý dọn dẹp lại nhà cửa cho tươm tất hơn tùy theo khách là người thế nào. Địa vị trong xã hội của khách càng cao, sự tiếp đón càng được chuẩn bị hơn. Đối với những người trong gia tộc, họ hàng thân quen hay bạn bè hàng xóm, láng giềng, sự tiếp đón được biểu lộ tùy theo mối thân tình hơn là hình thức. Ngoại trừ khách riêng của người nào đó trong gia đình, chủ nhà là người đứng ra tiếp khách và nếu không phải là chuyện quan trọng cần hỏi ý kiến riêng, sự đón tiếp trở thành chuyện chung của cả gia đình.

Cha mẹ là người quan trọng nhất đối với việc con cái thăm hỏi nơi gia tộc. Nếu ở gần, đi lại thường xuyên hằng ngày là chuyện bình thường. Nhà của cha mẹ cũng là nhà của mình, nên ngoài chuyện thăm hỏi, con cái thấy việc gì có thể giúp đỡ được đều tự nguyện làm, không cần được nhờ vả. Ông bà thích trồng rau, làm vườn, cha mẹ sai con qua tưới rau, nhổ cỏ giúp ông bà. Những chuyện giúp đỡ lặt vặt của các cháu làm cho ông bà cảm thấy ấm lòng. Ai mà không cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi thấy con cái mình đã trưởng thành, lại có các cháu ngoan ngoãn, đi lại thăm nom và giúp đỡ. Nguyên vấn đề nhìn thấy các cháu năng tới lui cũng đủ làm cho ông bà mát lòng. Có những ông bà chăm nom cháu hơn chính bố mẹ chúng; có ai cho được miếng ngon ngọt gì, ông bà để dành cho các cháu. Nhìn đàn cháu vui tươi hí hửng khi nhận quà, ông bà thấy sung sướng hơn chính mình thưởng thức đồ biếu.

Sự thăm hỏi, giúp đỡ, trọng kính của mình với cha mẹ cũng là lối giáo dục thực tiễn nhất cho con cái. Con cái thấy cha mẹ kính nể, săn sóc ông bà sẽ bắt chước theo. Rồi từ đó, lâu dần thành quen, sự trọng kính trong cách đối xử, thăm hỏi trở thành cá tính của con cái và tiếp tục truyền lại bằng cách thực hành nơi sự liên hệ gia đình cho con cháu mình.

Đối với cha mẹ, sự thăm hỏi không phải chỉ là hình thức thăm nom mà là sự săn sóc giúp đỡ. Khi cha mẹ có chuyện gì, con cái họp nhau lại bàn thảo và phân chia công việc để làm. Nhưng nếu khi cha mẹ có việc mà con nào không tới giúp đỡ sẽ làm đau lòng cha mẹ, nhục nhã cho gia đình, anh em. Đối với người ngoài, sự không giúp đỡ cha mẹ là một điều bất hiếu. Người mà không coi cha mẹ ra gì, không chăm sóc giúp đỡ cha mẹ, không thể nào là người tốt nơi xã hội và cũng không thể nào là người bạn chân thành của bất cứ ai. Đây cũng là lý do tại sao người Việt Nam đánh giá trị con người nơi cách đối xử của họ đối với người khác nhất là với gia tộc.

Sự thăm hỏi đối với anh em họ hàng đóng một vai trò khá quan trọng trong cuộc sống người Việt. Sự liên hệ mật thiết hay không và tình thân giữa anh em họ hàng thế nào đều tùy thuộc sự thăm hỏi. Người Việt Nam, có khi con cháu tới bốn năm đời theo hàng dọc vẫn còn thấy gần vì sự liên hệ thăm hỏi qua lại mật thiết. Chả thế mà ông bà ta có câu: "Cháu cậu mà lấy cháu cô, thóc lúa đầy bồ giống má nhà ta." Cháu cậu với cháu cô mà cũng được coi như "giống má nhà ta!" Ai cũng có kinh nghiệm là nếu càng năng thăm hỏi, gặp gỡ nhau bao nhiêu, càng cảm thấy thân tình càng ngày thêm bền chặt. Chúng ta sẽ hiểu nhau hơn, thông cảm nhau hơn, và vì hiểu, thông cảm lẫn nhau, chúng ta có nhiều cơ hội để giúp đỡ và được giúp đỡ trong mối tương quan cuộc sống.

Đồng thời qua sự thăm hỏi, thông cảm, chúng ta nhận ra được những điều hay, đức tính tốt của từng cá nhân để học hỏi, trau giồi cho chính bản thân mình mỗi ngày một thăng tiến. Nhờ sự thăm hỏi, liên hệ anh em họ hàng, chúng ta cũng nhận ra một điều rất thực tế đó là "Cha mẹ sinh người, trời sinh tính." Mỗi người một tính một nết; mỗi người có lối đối xử riêng của mình, và mỗi người một tâm tình cũng như phản ứng khác nhau. Sự liên đới giữa anh em họ hàng đối với từng người do đó mà được uyển chuyển tùy theo tâm tình từng người.

Mặc dầu do ảnh hưởng của lối sống tâm tình, sự liên đới giữa anh em họ hàng không bị ràng buộc bởi hình thức kiểu cách bên ngoài. Tuy nhiên, cũng như đa số dân đông phương, người Việt Nam vẫn trọng thứ tự lớp lang trong họ hàng. Người Việt tâm tính rất dân chủ nhưng lại sống hòa hợp theo thứ bậc trong dòng họ anh em hay nơi cộng đồng, xã hội. Chính vì điểm này, sự thăm hỏi của người Việt đối với anh em họ hàng thân thuộc được nằm trong vòng lễ giáo thứ bậc. Gặp các bậc cha chú ông bà, con cháu lễ phép thưa trình hỏi han về sức khỏe, sinh hoạt. Gặp giới ngang hàng, nhiều nơi, nhất là ở miềm Bắc, người Việt có thói quen tự đặt mình vào cách xưng hô của con cái mình đối với anh em. Con mình gọi anh mình là bác, bá; mình gọi họ là bác, bá và xưng em hay tôi. Nếu con mình gọi em mình là chú, cô, dượng, mình cũng gọi như thế và xưng anh hay tôi. Đại khái, trong bậc ngang vai, mình gọi người khác theo lối gọi của con mình và xưng anh, tôi hay em, tôi tùy theo mình vai trên hay vai dưới. Lối xưng hô này mang tính chất tâm lý tình thân. Nó nói lên mình trọng thứ bậc anh em trong dòng họ, "Kim chỉ phải có đầu." Không những thế, lối gọi thay con nói lên tâm tình thân thiết họ hàng kính nhường lẫn nhau. Tự lối xưng hô đã giúp người nói nhận ra mình nên thế nào. Bề trên, bậc anh chị nhường nhịn kẻ dưới hay bậc dưới vai. Đồng thời cũng chính lối xưng hô nói cho người đối diện biết rằng, trong dòng họ có tôn ty trật tự và đã là người trong họ hàng thân thuộc, người Việt Nam "phải" ý thức vị thế của mình. Dù một người có làm đến ông nào bà nào chăng nữa nơi xã hội, đối với họ hàng cũng nên đối xử với anh em theo đúng vị thế của mình. Người nào càng có địa vị cao bao nhiêu nơi xã hội, càng nên khiêm nhượng và ăn nói nhẹ nhàng khiêm tốn với anh em họ hàng bấy nhiêu. Những người có địa vị cao ngoài xã hội mà tỏ ra mình oai phong, hống hách với anh em trong họ hàng thân thuộc đều bị mọi người khinh chê.

Lối xưng hô trong việc thăm hỏi cũng giúp cho người đối diện ý thức giá trị của mình ở nơi thứ bậc nào trong họ hàng với người đang thăm hỏi. Dù tâm tình mình có đang bị phiền toái thế nào chăng nữa, khi nghe người khác xưng hô trong thứ bậc họ hàng, tâm hồn mình như được một động lực thân thiết nhiệm mầu xoa dịu trấn an để trả lời theo khuôn khổ thứ bậc của mình. Như chúng ta kinh nghiệm, thật là ngượng miệng và xấu hổ khi người khác lịch sự, khiêm nhượng chào hỏi mà mình trả lời vô lễ phép. Dĩ nhiên chữ lễ phép ở đây không phải chỉ dành cho người vai dưới đối xử với người vai trên mà còn được áp dụng cho cả lối đối xử của người vai trên với kẻ dưới bậc. Lễ là lễ giáo, nghi thức. Phép là khuôn phép, khuôn thước, phép tắc. Lễ phép đây mang nghĩa khuôn phép xã giao thăm hỏi trong họ hàng thân thuộc áp dụng cho bất cứ thứ bậc nào. Chính vì thế, nếu "Người trên ở chẳng xứng ngôi," thì, "để cho bề dưới chúng tôi hỗn hào."

Người Việt Nam, nhiều nơi, ít dùng hai tiếng anh em để xưng hô với nhau ngoại trừ anh em thân thuộc đàng trai có thể vì quen dùng lối xưng hô với anh em họ hàng thay con. Đối với hai người anh em trai trong họ, thường được xưng hô chú, bác và em hay tôi. Đối với anh trai, em gái đã thành gia thất, bởi tình ruột thịt, thỉnh thoảng hai tiếng "anh em" cũng được dùng, nhưng phần lớn thì cô - anh, cô - tôi, o - tôi hoặc bác - em, bác - tôi. Cũng có thể vì hai tiếng anh - em được dùng theo nghĩa thân thiết vợ chồng nhiều hơn sau này nên người Việt, có thể nói, ít dùng "anh - em" khi nói chuyện với người khác phái trong họ vì nghe nó kỳ làm sao ấy! Ngày xưa, vợ chồng gọi nhau mình - anh, mình - em, mình - tôi; hai tiếng anh em sau này thay thế tiếng mình... Điều này cũng nói lên thêm một đặc tính khác của người Việt đó là sự coi trọng lễ giáo trong cách đối xử. Tránh lối nói anh em với người khác phái dù trong họ hàng vì nó được hiểu theo nghĩa thân thiết vợ chồng, có thể làm người ngoài hiểu lầm và cũng có thể vì nó không nói lên được thứ bậc của người trong họ. Điều này mang thêm ý nghĩa "Ngôn chính danh thuận." Cho nên, những ai ăn nói không thứ tự, lớp lang thì cũng là người bị coi chẳng ra gì.

Khi tới thăm hỏi bà con cô bác trong họ mà có con cái đi theo, người Việt thường dặn dò hay tập tành cho con cái mình cách thức chào hỏi sao cho lễ độ, khuôn phép. Những ai đáng ông, thưa ông, đáng bà, thưa bà, rồi bác, chú, cô, cậu, mợ, dì, dượng v.v... Những người trẻ ngang vai với con mình thì thưa anh, thưa chị; còn dưới vai, phận em con mình, không phải chào hỏi. Sự chào hỏi người dưới vai chỉ áp dụng cho người lớn. Lỡ may con mình quên không chào hỏi, người Việt gọi con, tập cho con khoanh cánh và chào các bậc ông bà, cha chú... Khi có anh em họ hàng tới thăm hỏi, cha mẹ cũng dạy cho con cái biết chào hỏi cho đúng. Nếu con cái khôn đủ để lấy nước mời khách, cha mẹ dạy cho con cách nói năng sao cho dễ nghe và mời khách cho lịch sự. Ngay như kiểu cách đi đứng và thái độ lúc ăn nói cũng được chỉ dẫn cặn kẽ. Lâu dần thành thói quen và khi tới tuổi khôn lớn, với nề nếp giáo dục này, bậc cha mẹ đã đào tạo cho cộng đồng, xã hội những người con lịch sự nhã nhặn. Sự dạy dỗ, tập dượt và nhắc nhở cho con cái biết kính trọng người trong họ hàng không những giúp cho con cái thêm phần nhã nhặn lịch sự mà còn bắt nguồn từ ý niệm gia đình là môi trường giáo dục quan trọng đầu tiên của người Việt. Đối với người Việt, học đường khai trí cho lớp trẻ, giúp lớp trẻ thêm phần hiểu biết rộng rãi hơn về cách đối xử với xã hội cũng như dạy trẻ thêm phần kiến thức phổ quát. Còn gia đình giáo dục con trẻ nên người có căn bản lễ giáo, đạo đức. Đó là lý do tại sao chúng ta có câu "Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh." Gia đình họ hàng của một người ra sao thì người đó cũng được giáo huấn như vậy.

Sự thăm hỏi còn đóng một vai trò tối ư quan trọng khi anh em họ hàng có công chuyện như cưới hỏi, đình đám, làm nhà cửa. Khi một gia đình có công chuyện, anh em họ hàng thân thuộc mỗi người một tay giúp đỡ cho công việc êm đẹp. Người Việt nói chung ý thức rất rõ câu "Việc người thì sáng, việc mình thì quáng." Bởi thế ai cũng nhận định được khi anh em trong họ có công chuyện, mình đương nhiên có bổn phận phải tới. Có khi tới chỉ để "Ngồi chơi xơi nước" nhưng không tới, sự vắng mặt có thể nói lên mình coi khinh hoặc đang có mối bất hòa, hay không hiểu cách đối xử với anh em họ hàng. Chúng ta cũng có câu "Ma chê cưới trách" để nói lên ý nghĩ cảm thông đối với gia đình có công việc. Dĩ nhiên, ai là người không thiếu sót dù chỉ giới hạn trong cuộc sống thường ngày. Do đó khi có đình đám, công chuyện, chúng ta càng gặp nhiều thiếu sót. Sự thăm hỏi của anh em họ hàng, sự bàn luận, và góp thêm ý kiến nên làm ra sao, mời mọc những ai, sắp xếp công việc thế nào, ai giúp phận sự gì đều là những đóng góp tích cực giúp đỡ nhà đám.

Sự thăm hỏi được coi là cần thiết khi người nào trong họ gặp chuyện đau ốm. Tâm lý chung, một người khi đau ốm cảm thấy mình bơ vơ hơn bao giờ. Chính người bệnh đã tự cảm thấy bực mình vì con bệnh hoành hành sinh lắm phiền phức làm mất thói quen lối sống thường ngày. Vả lại người bệnh không thể tự giúp chính mình phải nhờ đến người khác nên bị tổn thương cá tính tự lập thành ra hay khăn kháu. Hơn nữa, người bệnh không làm được việc gì để khuây khỏa do đó thời giờ như kéo dài vô tận khiến tâm tình dễ sinh ra chán nản. Sự thăm hỏi khi đau ốm giúp người bệnh cảm thấy bớt bơ vơ, và bởi nhận ra còn có những người khác để ý đến mình nên tâm thần được trấn an; bệnh sẽ mau khỏi hơn. Sự thăm hỏi giúp người bệnh bận rộn nói năng, trả lời hoặc chú ý nghe người khác làm họ không để ý đến thời gian nhiều như những khi không có ai chung quanh. Ban điều hành bệnh viện Southern Baptist Hospital, New Orleans, Louisiana, USA sau khi nghiên cứu qua việc chữa trị và dưỡng thương của các bệnh nhân nơi bệnh viện tuyên bố rằng những người bệnh nằm nơi nhà thương của họ nếu có người thăm hỏi thường ngày được chữa lành nhanh hơn những người không có ai thăm 20% số thời gian nhà thương dự tính. Lý do họ nêu lên là nếu tâm hồn người bệnh vui tươi hơn, sự chữa trị sẽ có kết quả hơn bởi thế người bệnh mau lành hơn. Sự thăm hỏi khi đau ốm kết chặt thêm mối dây họ hàng. Bởi nhận ra người khác biết nghĩ đến mình, mối thân tình mình dành cho họ đậm đà hơn; họ hàng được cảm thấy gần hơn, và người tới thăm được quí mến hơn.

Nói tóm lại, sự thăm hỏi nơi người Việt là phương tiện không những giúp người khác vui sống, nhận ra giá trị con người mình hơn, nói lên mối thâm tình sâu kín tận đáy lòng con người, mà còn là sợi dây liên kết giữa con người với con người ngày thêm bền chặt.


TÂM TÌNH BIẾT ƠN

 

Trong cuốn Việt Nam Quê Hương Tôi, linh mục Domici Đỗ Minh Trí, S. J. viết: "Tất cả những người ngoại quốc đã từng sống ở Việt Nam đều nhận thấy nơi con người Việt Nam có một cái gì lôi cuốn họ. Tốt bụng, lịch thiệp, nhã nhặn, lễ phép, dễ thương..." (trang 16). Ngài còn lặp lại lời nói của linh mục Cristoforo Borri đã công bố tại La Mã vào năm 1631: "Phát xuất từ bản tính tự nhiên của mình, người Việt Nam rất lịch thiệp và nhã nhặn trong cách cư xử với người Tây Phương, mặc dù họ có một quan điểm khá cao về giá trị cá nhân của họ" (trang 17). Nếu tự mình nói lên tính chất người Việt như thế, sẽ có người cho rằng "Mèo khen mèo dài đuôi." Lẽ đương nhiên, vì mèo có cái đuôi dài. Sự tốt bụng, lịch thiệp, nhã nhặn, dễ thương trong cách cư xử dầu có "quan điểm khá cao về giá trị cá nhân" biểu lộ cá tính đặc biệt nơi tâm tình người Việt. Chỉ những ai nhận chân giá trị con người của mình mới có thể có được tư cách lịch thiệp, nhã nhặn tự nhiên vì người chưa nhận ra giá trị của họ thường hay có những kiểu cách giả tạo. Tốt bụng, lịch thiệp, nhã nhặn bắt nguồn từ tâm tình ý thức liên đới giữa người với người, giữa cuộc đời mình với thế hệ đã qua và thế hệ mai sau; bởi biết mình thọ ơn tổ tiên nếu xét về truyền thống, mang ơn những người cùng thời theo nghĩa sống liên đới nên thái độ mình trở nên nhã nhặn. Không lạ gì, người được nuôi dưỡng trong môi trường nào, tâm hồn sẽ có chiều hướng gìn giữ tâm tình được tạo dựng nơi môi trường ấy. Ai dám ăn nói hỗn hào hoặc có thái độ kiêu căng với người mình mang ơn hay sẽ mang ơn? Hơn nữa chính nhận thức được thái độ bây giờ ảnh hưởng đến tương lai mai hậu, bổ túc cho lối cư xử của một người giúp họ trở nên nhã nhặn hơn.

Tâm tình biết ơn bắt nguồn từ ý thức nhận chân giá trị cá nhân; biết mình thế nào, khả năng ra sao, làm được gì, mình thiếu sót những chi và cần học hỏi, cần được giúp đỡ trong trường hợp hoàn cảnh hay điều kiện chi phối nào trong cuộc sống. Người không nhận chân giá trị mình sẽ có thái độ vô ơn, bởi nghĩ rằng cuộc đời, mọi người chung quanh có bổn phận phải phục vụ họ; cuộc đời mang nợ họ chứ không phải họ nên làm gì cho cuộc đời, hoặc đời tạo ra họ nên phải giúp họ sống. Tâm tình biết ơn một cách nào đó biểu lộ sự công bằng mà chỉ những người được huấn luyện, sinh trưởng trong nền luân lý cộng đồng mới có thể có được. Do ảnh hưởng liên đới của cuộc sống, cá nhân nhận ra sự liên hệ cần thiết giữa những người đồng thời, nơi gia đình, họ hàng. Sự thừa hưởng gia tài văn hóa luân lý ông cha để lại cùng với ý thức trách nhiệm và bổn phận cá nhân đối với gia đình, cộng đồng cũng như quốc gia, dân tộc, giúp cá nhân nhận biết vị thế mình, những gì mình cần được đào luyện, học hỏi. Nếu đem so sánh sự hiểu biết của mình với gia sản tinh thần ông cha để lại, cá nhân nhận ra mình đã được thừa hưởng quá nhiều, có thể nói đang ngụp lặn trong giòng suối truyền thống tiền nhân để lại. Hơn nữa, nếu so sánh cuộc đời mình với những người cùng thời, cá nhân cũng nhận ra mình được chia sẻ những sự tốt lành của người khác quá nhiều, cho dù dùng cả cuộc đời mình cũng không trả hết món nợ tự nhiên được thừa hưởng nơi cuộc đời. Chính sự nhận thức này khuyến khích một người đặt vấn đề sống sao cho phải lẽ, công bằng với những gì mình đã và đang được hưởng trong cuộc sống. Thực ra mà nói, dầu mình có muốn "Ân đền oán trả" cho sòng phẳng cũng không thể nào làm nổi do đó tâm tình biết ơn phát xuất. Những gì mình có thể vay trả theo lẽ công bằng, mình không cần mang ơn vì đó là sự trao đổi qua lại. Những gì mình không thể trả nổi, tạo cho mình tâm tình biết ơn.

Đối với người Việt, tâm tình biết ơn bàng bạc hiện diện trong mọi hoàn cảnh, mọi tư thái của một con người. Khi có những chuyện cần phải ăn nói, mình muốn tránh mất lòng bất cứ ai. Không muốn mất lòng người khác không chỉ có nghĩa mình tránh làm phiền lòng họ mà còn mang thêm ý không muốn vì vô tình ăn nói đụng chạm đến những người mình mang ơn. Mới chỉ trong vấn đề bình thường như ăn nói, tâm tình biết ơn còn ảnh hưởng như thế phương chi lối sống trong cuộc đời một người. Tâm tình biết ơn có thể là nguyên nhân gây nên lòng tôn trọng, kính nể ông bà. Chúng ta có lễ nghi trọng kính tổ tiên được gọi đạo thờ ông bà (lễ gia tiên). "Uống nước nhớ nguồn;" vì "Cây có cội, nước có nguồn,"cũng như "Con người có tổ có tông,"là những câu luân lý nhắc nhở người Việt nhớ đến công ơn tổ tiên. Nói cách khác, những câu luân lý này nhắc chúng ta biết ơn tổ tiên. Chúng ta có thể hỏi một số người nói rằng theo đạo Phật sống chung quanh; đa số họ theo đạo thờ ông bà mà thôi. Đây chính là những người thờ tổ tiên, nhớ ơn các ngài đã đi trước, tạo dựng gia sản tinh thần, dân tộc và truyền lại sự sống cho chúng ta.

Những ngày giỗ kỵ cũng là những tập tục nói lên tâm tình biết ơn đối với ông bà cha mẹ đã gây dựng nên mình. Mục đích của giỗ kỵ nói lên lòng tưởng nhớ công ơn tiền nhân và đồng thời mang theo ý "bất vong bản" (Phan Kế Bính; Việt Nam Phong Tục; Sống Mới, tr. 53). Những ngày lễ tết, trước khi con cháu tham gia ăn chơi cũng cúng ông bà để tỏ lòng biết ơn. Những thói quen tốt lành như biếu xén cha mẹ, ông bà, thầy giáo chứng tỏ tâm tình biết ơn của một người đối với ông bà cha mẹ và những người có công dạy dỗ đào luyện mình "nên người." Thực ra đồ biếu được coi như vật tượng trưng cho tấm lòng thành. Mặc dầu chỉ sự hiện diện của mình và thái độ cũng như lời ăn tiếng nói khi tới thăm hỏi đủ chứng tỏ lòng biết ơn của mình đối với người khác; đồ biếu hỗ trợ tâm tình một phần nào đó, gây ảnh hưởng khiến tâm tình mình được coi như có thể phơi bày cho người khác nhận thấy. Hơn nữa, đồ biếu còn là biểu hiệu nhắc nhở cho ông bà cha mẹ hay thày cô lòng thành của mình khi đã ra về. Lẽ đương nhiên cứ mỗi lần nhìn thấy đồ biếu, dầu năm hay mười năm sau, người nhận vẫn còn nhớ người nào đã trao tặng.

Tâm tình biết ơn còn được chứng tỏ bởi lối chào hỏi lễ phép, kính trọng. Người học trò, dù sau này có học cao đến đâu, giữ địa vị quan trọng cách mấy, nhưng đối với các thày giáo cũ cũng vẫn tỏ ra kính trọng khi chào hỏi các ngài. Và cũng chính sự chào hỏi lễ phép của người học trò cũ, dầu rằng bây giờ trò giỏi hơn thày, có địa vị cao hơn trong xã hội, làm cho thày cảm thấy hãnh diện, mát lòng. Sự biểu lộ tâm tình biết ơn do đó đem lại cho người khác niềm vui sống, yêu đời và cảm thấy giá trị cuộc sống hơn. Điều dĩ nhiên, những người vô ơn hoặc có thái độ vô ơn đều bị khinh khi. Hơn nữa, tâm tình biết ơn thường đi kèm theo với tấm lòng hiếu thảo. Nếu ai đã vô ơn lẽ đương nhiên là người bất hiếu đối với cha mẹ.

Người Việt Nam rất coi trọng sự biết ơn và đồng thời cũng rất tự lập. Có lẽ vì thế ít ai muốn chịu ơn, nhờ vả người khác ngoại trừ trường hợp bất đắc dĩ bởi "Ơn ai một chút khó quên, phiền ai một chút để bên dạ này." Có những bậc cha mẹ đã trối lại cho các con sống xứng đáng và biết điều đối với những người đã làm ơn cho gia đình mà chưa trả được. Tâm tình biết ơn giúp con người sống thân thiện, hòa nhã với những người chung quanh, nhìn những người khác như là hồng ân Trời ban cho mình. Tâm tình biết ơn còn giúp một người sống dễ dãi với mọi người chung quanh, khuyến khích tâm tình thương mến và hay giúp đỡ. Sự giúp đỡ những người mình không mang ơn cũng một phần nào biểu lộ tâm tình biết ơn vì cuộc đời mỗi người tự nó đã mang nợ đồng lần. Mình chịu ơn những người không thể trả được nên trả ơn bằng cách giúp những người khác khi có chuyện cần nhờ vả đến mình. Tuy nhiên, người nào càng mang nặng tâm tình biết ơn bao nhiêu có thể càng giận dai bấy nhiêu; có thể tôi sai nhưng âu đó cũng là sự thường tình nơi con người.





SỐNG HÒA HỢP

 

Có người cho rằng Trời bắt tội dân Việt chịu cực khổ lầm than để đền bù lại những lỗi lầm mà ông cha ta ngày xưa đã vấp phải. Chẳng hạn dưới thời Trịnh - Nguyễn phân tranh, Chúa Trịnh phò vua Lê ở miền Bắc, Nguyễn Hoàng di dân mở rộng bờ cõi về phía Nam; cả một dân tộc Chàm với một lịch sử đấu tranh oai hùng thuở trước (thời Chế Bồng Nga) gần như đã bị dân Việt diệt chủng. Và rồi đất miền Nam, từ Sài Gòn đổ tới mũi Cà Mau xưa kia là Thủy Chân Lạp thuộc Cam Bốt, dân Việt cũng chiếm luôn làm đất đai nhà mình. Dân ta có những thời hơn 700 năm, thường được gọi 1000 năm bị Trung Hoa cai trị và hơn 80 năm, nói cho chẵn 100 năm thực dân Pháp đô hộ; dân Việt vẫn còn là dân Việt. Ngược lại, khi dân Việt thôn tính Chàm và Cao Miên (Cam Bốt), đất họ trở thành đất mình và dân tộc họ hầu như bị diệt chủng (dân Chàm, tính tới năm 1972 chỉ còn cỡ 100 ngàn), nếu không bị diệt chủng vì còn nơi ẩn náu thì cũng bỏ đất mà chạy như dân Cao Miên.

Nếu so sánh dân Việt với dân những nước lân cận như Thái Lan, Lào, Cam Bốt, Mã Lai, người Việt sắc sảo hơn nhiều. Đa số dân Việt qua các nước lân cận trên lập nghiệp, dù chỉ là những người bình thường, khó tranh sống tại quê hương, đã trở thành những ông chủ nơi các nước láng giềng. Cũng khoảng năm 1972, một giáo sư người Đức qua thăm đại học Huế phát biểu rằng sinh viên Việt Nam thông minh nhất nhì thế giới. Từ 1975 đến nay, dân ta một số vượt biên phân tán tới mọi nước trên thế giới. Dù cho điều kiện, phong thổ nơi được định cư có thế nào chăng nữa, dân Việt, tự bản chất, đã đang sống vươn lên và phát triển. Tiềm lực khiến dân Việt có được khả năng sống hòa hợp với điều kiện hoàn cảnh mới được cấu tạo từ nhiều nguyên nhân phát sinh bởi môi trường và điều kiện sinh sống. Có thể nói những nguyên nhân này đã tạo cho người Việt có dân tộc tính đặc biệt về năng lực sinh tồn, được thể hiện qua khả năng sống hòa hợp.

Khả năng sống hòa hợp bắt nguồn từ khả năng sáng tạo, dùng những phương tiện sẵn có, chế biến hoặc ráp nối để giải quyết những nhu cầu cần thiết một cách đơn giản, tiện lợi, và thỏa đáng hơn. Nhìn lại dân Việt, cho tới ngày nay, 1993, gia đình là điểm tựa đầu tiên cũng như cuối cùng của một người; ngoài ra, không có một cơ quan bảo hiểm hoặc tổ chức nào để khi một người trong trường hợp lỡ sa cơ thất thế có thể nương tựa. Chính vì nhận thức được sự "không thể hy vọng" nhờ cậy đến ai ngoài khả năng sẵn có nơi mình, người Việt phải tự đặt vấn đề tự bảo vệ cho hiện tại cũng như tương lai. Nào những suy nghĩ sao cho có được nghề nghiệp vững chắc, tính kế lâu dài để tránh những lúc khốn cùng không ai giúp đỡ. Tự mình tính toán lo cho mình; đó là tinh thần tự lập. Người có tinh thần tự lập sẽ không là gánh nặng cho bất cứ ai. Ngoài ra, tinh thần tự lập khuyến khích con người tránh được những sự nhờ vả ươn hèn, sống lệ thuộc vào người khác đồng thời lại giúp người ta có thêm niềm tự tin cũng như sự hãnh diện về khả năng tháo vát của mình.

Hơn nữa, sống trong một nước nghèo khổ chậm tiến lại triền miên phải tranh đấu chống chọi với ngoại xâm, thực dân, hoặc nội chiến, đời sống luôn luôn bị đe dọa, người Việt phải đương đầu với những thực tại khó khăn. Chính những điều kiện khó khăn trong cuộc sống tạo cho người Việt óc tháo vát, xoay xở cùng tìm tòi mọi phương tiện cũng như cơ hội để sinh tồn. Do đó cuộc sống một người được đơn giản hóa đến mức tối đa hầu tránh những nhu cầu không thể thỏa mãn.

Năng lực bổ túc cho dân Việt kiên trì đương đầu với thực tại khó khăn là tinh thần tự lập. Dĩ nhiên, cuộc đời cực khổ tạo nên ý chí phấn đấu giành sống, tinh thần tự lập bổ xung để quân bình tâm thần khi phải đối diện với những trắc trở quá mức chịu đựng bình thường của một người. Xét như trên, cuộc đời khổ ải cơ cực có thể coi là bất hạnh trong phương diện vật chất lại trở thành hồng ân đào tạo người Việt về phương diện tinh thần cũng như năng lực phấn đấu giành sống.

Có được sự sống và có được năng lực phấn đấu để sinh tồn là khả năng mà bất cứ dân tộc nào hoặc sinh động vật cần phải có dầu mạnh hay yếu, ươn hèn hay oai hùng. Vấn đề cách sống thế nào hoặc tinh thần sống ra sao lại rất quan trọng vì chính nó nói lên giá trị của sự sống, của cuộc đời con người. Chẳng hạn chúng ta khinh những người có thể đi làm được, có khả năng kiếm kế sinh nhai nhưng lạm dụng hoặc vì tham lam bâu bứu vào sự trợ cấp an sinh xã hội. Chúng ta lại cảm thấy thán phục những người xét ra họ đáng được hưởng trợ cấp an sinh nhưng vì tinh thần tự trọng không muốn có cuộc sống tầm gửi, nên đã cố gắng tự lập xây dựng cho cuộc sống gia đình mình dù bằng cách ăn tiêu tần tiệm, cắt giảm tới mức tối đa những may sắm hoặc thú tiêu khiển hoang phí. Hai thái cực cùng trong một cuộc sống nói lên hai giá trị tinh thần. Lẽ đương nhiên, mọi người khinh chê "kẻ giầu" vì ăn bám, nhưng lại tự thâm tâm nghiêng mình chiêm ngưỡng "ông, bà nghèo" bởi cái cao ngạo tự lập dầu cho đôi khi thấy "người nghèo" ăn mặc có phần thua kém những người chung quanh. Cái khí phách hào hùng, niềm hãnh diện tinh thần, tự chủ cuộc đời bắt người khác tự tâm nể phục; ngược lại sự tầm gửi hoặc tinh thần ỷ lại ăn bám chẳng những tạo nơi con người niềm tự ty mặc cảm không dám ăn nói tự nhiên - có chăng chỉ cố gắng giả tạo khoe khoang để che lấp nhận thức thực trạng thấp hèn nơi tâm hồn mình - khiến loại người này tự khinh chính họ; còn những người chung quanh, coi thường là lẽ đương nhiên. Đâu phải vô lý mà dân tộc Việt hãnh diện vì qua hơn 700 năm cai trị của Tàu, dân ta đã không chịu cúi đầu lệ thuộc dẫu rằng nếu chấp nhận lệ thuộc, sát nhập vào Trung Hoa, tiền nhân ta sẽ không phải đổ máu, không phải trốn chạy cực khổ để mưu đồ dành tự chủ. Ai không khinh những tay sai cho Pháp, dù làm lớn và giỏi như Phạm Quỳnh, Phan Văn Trị... trong tay đầy quyền uy nhất thời, vật chất dư giả "Sáng rượu Sâm Banh, tối sữa bò" (Trần Tế Xương). Những tên ươn hèn lạm dụng như những cây tầm gửi sống bám uy quyền thực dân, đàn áp, và có thể nói theo cách khác: "Hút máu mủ đồng bào," chẳng những chính họ mà còn anh em họ hàng con cháu họ đều bị dân Việt khinh khi. Dân ta chỉ ca tụng những người có tinh thần bất khuất, hiệp khí ngất trời, và những con cháu những người này mới hãnh diện dám nói lên mình có liên hệ họ hàng hoặc bạn bè quen biết cũng mới hãnh diện vì được diễm phúc gặp gỡ các bậc anh hào ấy. Còn những con cháu của những tên tay sai báo hại dân tộc, đâu ai dám nhắc nhở đến chúng! Niềm cao ngạo của tinh thần sống tự lập tạo nơi tâm hồn dân Việt một sức sống vượt thắng tất cả những trở ngại trong cuộc đời. Những khó khăn nơi cuộc sống, những trở ngại do thiên thiên bắt con người phải chiến đấu vượt qua để giành sống tạo dựng nơi tâm hồn dân Việt tinh thần tự lập và cao ngạo làm người.

Niềm cao ngạo và tinh thần tự lập này được bổ túc bởi cơ cấu và nề nếp giáo dục gia đình cũng như xã hội; đó là khả năng sống hoà hợp theo thứ bậc; sống có thứ tự lớp lang; ông sao cho ra ông, cha sao cho ra cha, chồng ra chồng, vợ ra vợ và con ra con... Thứ bậc nào sống đúng với vai trò đó. Có người cho rằng dân Việt bị ảnh hưởng thuyết Chính Danh của Hán Nho về thứ tự lớp lang trong cuộc sống qua đạo Quân Thần: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ. Tôi không cần biết dân Việt bị ảnh hưởng bởi quan niệm Hán Nho về đạo Quân Thần hay không; có một điều tôi nghiệm chứng rõ là dân Việt có một đặc tính tôi tạm gọi là "chuyển hóa" (không hiểu các nhà chuyên môn nghiên cứu dùng danh từ gì?) Dân ta hội nhập những điều hay, lẽ nên của các dân tộc khác, chuyển hóa đoạn đồng hóa chúng sao cho hợp với tâm tình và lề lối sống của mình rồi áp dụng trong cuộc sống một cách thích nghi, không cố chấp cũng chẳng coi khinh mà tòng quyền tùy theo hoàn cảnh hay trường hợp. Xét ra, đạo Quân Thần của Hán Nho quá cứng ngắc và coi người khác tệ hại hơn nô lệ, thiếu sự tôn trọng con người: "Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu;" trong khi dân Việt sống hòa hợp thứ bậc nhưng lại rất dân chủ. Cho nên, dù bị ảnh hưởng của tư tưởng Hán Nho, dân Việt đã tự nhiên dùng nó như một bàn đạp kiến tạo riêng cho mình một phong thái riêng. Dân ta đã đồng hóa cả một dân tộc, xá chi một quan niệm, tư tưởng, hay lối sống.

Lối sống hòa hợp theo thứ bậc trong gia đình và nơi xã hội của dân Việt giúp con người ý thức được vai trò và sự liên hệ của mình đối với những người chung quanh. Có thể nói đó là kỷ cương đặc biệt của dân Việt nói riêng, nhìn rộng hơn, của các dân tộc Á Châu nói chung. Lối sống này có thể coi là khuôn mẫu giúp cá nhân áp dụng tinh thần tự lập, cá tính tự chủ, óc sáng kiến, ý thức tự do v.v... vào trong bất cứ trường hợp nào liên hệ nơi cuộc sống. Nó tạo cho người Việt khả năng uyển chuyển để hội nhập vào xã hội chung quanh, đặc biệt khi mới gia nhập một xã hội mới. Nếu có thể so sánh, khả năng uyển chuyển trong lối sống hòa hợp của người Việt được ví như nước, giúp con người dễ dàng sống phù hợp với bất cứ điều kiện, môi trường xã hội nào; đó cũng là lý do tại sao dân Việt có thể trường kỳ kháng chiến nếu thời cuộc đòi hỏi để bảo vệ sự sống còn của dân tộc. Đồng thời khả năng sống hòa hợp giúp người Việt hội nhập mau lẹ vào những xã hội mới đã và đang được chứng minh bằng những gia đình Việt Nam định cư tại các nước trên thế giới sau năm 1975.


TÂM TÌNH TỰ TRỌNG

 

Khi toan tính thực hiện một việc gì, bất cứ ai cũng suy trước nghĩ sau về công chuyện mình định làm có lợi hay có hại; lợi thế nào và hại ra sao. Có nhiều phản ứng khác nhau tùy người trong cùng một vấn đề định làm; những phản ứng khác nhau này lệ thuộc vào tâm tính, vị thế, khả năng về giá trị cũng như vốn liếng; đồng thời sự đo lường về ảnh hưởng công việc mình làm tới quần chúng cũng như phản ứng của quần chúng sau này về công chuyện mình thực hiện ra sao. Bởi thế, người càng ở vị thế cao bao nhiêu càng đắn đo suy nghĩ bấy nhiêu vì càng ở vị thế cao, sự việc họ làm càng có ảnh hưởng lớn đến quần chúng bấy nhiêu. Hơn nữa, phản ứng nơi quần chúng lại cũng gây áp lực mạnh mẽ tới họ hơn đối với những người bình thường. Đó là lý do tại sao có những chuyện hầu hết mọi người có thể làm bất cứ lúc nào mà người khác dù có biết đến mấy chăng nữa cũng không bao giờ dám đụng tới. Chẳng hạn, dạ vũ có thể được coi là chuyện bình thường cho bất cứ ai, từ thanh thiếu niên nam nữ choai choai 13, 14 tuổi xấp lên đến tuổi xồn xồn ba mấy bốn mươi cho tới quí cụ năm mấy sáu chục... Nhưng người Việt lại không chấp nhận mấy ông sư, ni cô hoặc mấy cha "nhảy đầm!" Thày chùa hoặc linh mục mà đi nhảy đầm thì dưới con mắt người Việt thật là mất thuần phong mỹ tục, mất "gia phả" sao ấy.

Thực ra tiếng "nhảy đầm" hay "dạ vũ" thì cũng chỉ về cùng một sự việc mà thôi! Thế mà người bình thường tham dự thì được chấp nhận dùng danh từ hoa mỹ nào dạ vũ, khiêu vũ, rồi thăng hoa lên hàng nghệ thuật, giải trí lành mạnh... Đối với những người mình cảm thấy không nên tham dự cái nghệ thuật hấp dẫn ấy, mình lại gán cho danh từ gớm ghê thời mấy chục năm về trước: "nhảy đầm." Chữ "nhảy" nghe đã dị kỳ mang ý chê bai mà chữ "đầm" càng có vẻ nhiếc móc coi thường hơn. "Đầm" do tiếng Pháp "Madame" mà ra. Người Việt ngày xưa phiên dịch và gọi tắt tiếng madame nhưng ý nghĩa đặc biệt theo văn nói với người đàn bà cách lịch sự. Vào thời Tây đô hộ, chữ đầm được dùng theo tiếng lóng đi liền với chữ nhảy để chỉ hành động người đàn ông và người đàn bà ôm nhau dạ vũ. Vì phong tục người Việt còn đặt nặng vấn đề "Nam nữ thọ thọ bất thân" nên không chấp nhận trai gái hoặc đàn ông và đàn bà ôm nhau khiêu vũ; do đó chữ đầm được dùng biến nghĩa để chỉ những người con gái hay đàn bà Việt lấy Tây, ăn ở với người đàn ông Tây Phương vì tiền bạc, bởi chỉ có những hạng người này hoặc gái phòng trà mới nhảy vào thời ấy mà thôi. Sở dĩ dân Việt khinh chê những người me Tây hoặc me Mỹ cũng chẳng qua vì đa số những người gia nhập vào cái gọi là "tình yêu quốc tế" này không thể hoặc không được coi là xứng đáng làm vợ mặc dầu cũng có những người tốt lành lập gia đình với người ngoại quốc. Vì thế chữ đầm mang nghĩa khinh thị; mà thày chùa hoặc linh mục vì không được quần chúng chấp nhận tham dự khiêu vũ, bị dùng chữ nhảy đầm để chứng tỏ rằng làm như thế là tự chấp nhận mình chẳng ra gì. Lẽ đương nhiên ra gì hay chẳng ra gì không lệ thuộc vào lối nhìn của người khác mà tự nơi chính mình, nhưng sự ảnh hưởng bởi những hành động không được quần chúng chấp nhận trở thành sự tự làm giảm giá trị con người mình đối với những người khác. Xét như thế, ngược lại với những hành động làm giảm giá trị mình là sự tự trọng. Sự tự trọng là lối sống ít nhất không để người khác khinh mình và còn có phần làm tăng thêm giá trị con người của mình.

Người Việt với quan niệm về giá trị danh dự khá cao nên tâm tình tự trọng ảnh hưởng mạnh mẽ trên lối sống, thái độ cũng như tư cách của một người. Dĩ nhiên ở đây chỉ nói tới một người bình thường, nhận chân giá trị mình là người Việt và ý thức được giá trị con người của mình trong sự liên đới với những người chung quanh. Bởi nhìn nhận danh dự của mình tùy thuộc lối sống, tư cách, lời ăn tiếng nói, sự giao thiệp, đối xử..., nói tóm lại, bất cứ hành động hay hoạt động nào của mình đều ảnh hưởng không ít thì nhiều tới danh dự. Tâm lý mà xét, người nào muốn được người khác kính nể, họ tự sống để được nể trước. Hơn nữa, không có điều gì đau khổ hơn cho một người bằng sự tự khinh chính mình. Vì thế muốn được nể trọng, mình lo sống sao cho cảm thấy tự hãnh diện, xứng đáng với giá trị con người mình mang.

Động lực giúp một người tự sống sao cho xứng đáng với giá trị con người là tâm tình tự trọng. Như thế, tâm tình tự trọng là khuôn mẫu giúp một người nhận định lối sống, cách cư xử, thái độ của mình cũng như chấp nhận làm điều gì hoặc tìm phương cách giải quyết công việc sao cho danh dự mình được bảo vệ trong sự liên hệ đến những người khác. Tâm tình tự trọng cũng đồng thời là một khuôn mẫu luân lý tự nguyện của một người. Sự tự trọng của người nào càng cao, lối sống người đó càng ngay thẳng và càng làm cho người khác nể phục. Sự tự trọng thường được nhấn mạnh về phương diện luân lý và tư cách đối xử của một người hơn là hình thức bên ngoài của người đó. Nó cũng không bị lệ thuộc về giá trị tiền bạc hay tài sản, giầu hoặc nghèo của một người mà lệ thuộc vào bản chất đạo đức nhiều hơn. Có thể nói, tâm tình tự trọng là sự thực hiện tính chất đạo đức nơi tâm hồn của một người. Vì vậy, người không đặt vấn đề đạo đức trong cuộc sống sẽ chẳng có tâm tình tự trọng.

Sự tự trọng nói lên giá trị đặc biệt của con người vì nếu không có sự tự trọng thì không có gì để phân biệt giữa con người và con thú. Con thú hành động theo bản năng tự nhiên; con người dùng lý trí, ảnh hưởng bởi tâm tình, hành động dưới sự hướng dẫn của tâm tình tự trọng. Người tự trọng đương nhiên tôn trọng người khác bởi chính sự tự trọng nhận ra giá trị thâm sâu của những cố gắng sống cho xứng đáng với giá trị con người. Qua kinh nghiệm bản thân, họ nhận ra những cố gắng của người khác trong sự liên hệ của cuộc sống. Vì thế, khi người nào tôn trọng người khác, họ đã tôn trọng chính họ trước tiên. Con người, lẽ đương nhiên, gặp nhiều lầm lỗi là điều không thể tránh khỏi. Tâm tình tự trọng giúp một người nhận chân những điều không nên không phải nơi mình để sửa đổi. Người nào càng nhận thực ra con người mình bao nhiêu rồi cố gắng sống tốt lành hơn, càng được tôn trọng bấy nhiêu. Bởi đó, tâm tình tự trọng giúp con người tự điều khiển chính mình. Và hơn nữa, thực hiện những ước muốn đã khó mà ngăn cản chính mình làm theo những ước muốn không nên không phải lại càng khó hơn. Do nhận xét này, người nào chiến thắng được kẻ khác được gọi là anh hùng thì người nào chiến thắng được chính mình phải được gọi là thánh nhân. Tâm tình tự trọng giúp con người sống tốt lành, thánh thiện hơn. Như vậy, tâm tình tự trọng cũng là động lực hòa giải giữa hai mãnh lực đối nghịch: những ham muốn tầm thường và đức độ của một người nên sống.

Xét như thế, người tự trọng là người nhận ra giá trị thực nơi chính mình; chỉ đặt vấn đề mình phải sống ra sao cho tốt lành hơn chứ không đòi hỏi người khác phải thế nào theo ý mình bởi người nào muốn người khác "phải" thế nào đó chỉ là sự chứng tỏ họ đã thiếu sót điều ấy và, tâm lý mà xét, muốn người khác bù đắp những điều mình đã không thể thực hiện nổi. Nhìn vấn đề theo chiều hướng này, những lời mình khuyên kẻ khác có lẽ lại là lời khuyên cho chính mình. Cho nên, những ai không nhận ra giá trị nơi mình, người đó thiếu tâm tình tự trọng.

Người Việt, may mắn thay, được sinh trưởng trong một nền luân lý cộng đồng. Những lời khôn ngoan của ông cha để lại như Tục Ngữ, Ca Dao, thường được lặp đi lặp lại trên môi miệng mỗi người mà bình thường chúng ta không để ý tới. Chính nền luân lý cộng đồng hòa hợp với những lời khôn ngoan trở thành khuôn mẫu sống cho mọi người để rồi khi suy nghĩ, tính toán làm công việc gì hay đối xử thế nào, một người sẽ tự nhận thấy nên như thế này, không nên như thế kia. Thực ra nếu có hỏi tại sao nên thế này mà không nên thế kia, chúng ta khó có thể trả lời bởi đó là kết luận của tâm tình tự trọng được hun đúc bởi luân lý cộng đồng và những lời khôn ngoan cộng thêm sự nhận thức vị thế vai trò của mình trong sự liên đới đối với những người chung quanh. Cho nên không dễ chi hiểu nổi nguyên nhân của những hành động hay thái độ của một người Việt, có chăng chỉ một phần khía cạnh nào đó. Vì vậy, sự áp dụng tâm tình tự trọng trong cuộc sống rất nhiều khi bị người khác hiểu lầm. Tuy nhiên, chính tâm tình tự trọng lại là năng lực giúp một người chấp nhận những hiểu lầm nơi người khác bởi tâm tình này tự giúp chính mình nhận chân giá trị của việc mình làm.

Đôi khi tâm tình tự trọng được coi như tiếng nói lương tâm mà chúng ta hay dùng chữ "phải" mang nghĩa thi hành một trách nhiệm chẳng hạn: Tôi phải làm thế này, phải làm thế kia. Chẳng lạ gì, khi theo những điều hay lẽ phải, con người đương đầu với khó khăn ngược lại với ý muốn thấp hèn bình thường nên cần sự cố gắng hoặc chấp nhận thua thiệt. Chữ "phải" mang ý nghĩa một bó buộc, bắt ép chính mình. Tuân theo tâm tình tự trọng là thi hành tiếng nói lương tâm, không để thiệt cho người cũng không được phép làm gì để khinh chính mình. Lối sống này làm giá trị con người mình cao hơn, cuộc đời thăng tiến hơn trong luân lý cũng như bồi bổ giá trị đạo đức mình mang. Lẽ đương nhiên, sống tự trọng bao gồm nhiều điều "phải" theo và lắm chuyện không bao giờ được phạm tới. Những điều luật này bất thành văn mà biến chuyển theo cuộc sống và quan niệm luân lý của cộng đồng. Vì vậy, tâm tình tự trọng tạo sự tự trọng nơi một người không thể nào được khuôn mẫu cứng ngắc theo một số điều luật thành văn bởi tính chất cá nhân đã không ai giống ai, không ai có cùng vị thế cùng ảnh hưởng liên hệ và đồng thời cái nhìn luân lý cũng thay đổi tùy hoàn cảnh, tùy nơi chốn, cũng như của tập thể cá nhân nơi cộng đồng.

Khi đã không có luật thành văn, sự giữ gìn tâm tình tự trọng lại càng cần được để ý luôn luôn bởi danh dự tùy thuộc sự tự trọng mà danh dự thì khó tạo dựng lại dễ bị sứt mẻ nếu không được bảo vệ bởi từng lời nói, từng cách cư xử... Hơn nữa, người Việt sống theo tâm tình chứ không theo lý luận; khi một vấn đề gì đã in sâu vào óc não của một người sống theo tâm tình, không dễ chi gột rửa; trái lại những người sống theo lý luận lại có vẻ rộng rãi hơn về sự xét đoán. Tâm tình tự trọng giúp con người sống tốt lành hơn nhưng cần phải được để ý nhiều hơn. Chính tâm tình tự trọng phân biệt tư cách người này với người khác và cũng nêu rõ tính chất người của con người.


LÒNG CHÂN THÀNH

 

Người Việt Nam ta (nói theo kiểu Phạm Quỳnh) thường hay gặp cảnh vạ miệng. Sự vạ miệng này gói ghém nhiều nguyên nhân cũng như đặc tính tốt lành mà thường thì ít ai để ý tới. Đại khái, khi một tin đồn luân lưu trong cộng đồng về lời nói của một người nào, có thể nói rằng 95% câu nói đã bị hiểu sai, hoặc một vài người nào đó đã nghe không đầy đủ về nguồn tin để rồi sinh ra sự loan truyền thất thiệt. Đã có ai trong cuộc đời chưa bao giờ bị hiểu lầm ngoại trừ những người trẻ tuổi không được để ý tới. Cũng có trường hợp có những điều chính người bị đồn thổi về chuyện nào đó lại không hiểu lời đồn đó tự đâu ra. Lời đồn và nỗi oan xem ra luôn luôn nặng, mang nhiều sự thất thiệt nhưng nguyên nhân có thể lại do tâm tình ngay thẳng, lòng chân thành và những đặc tính hay chia sẻ, than thở quan tâm đến cuộc sống cộng đồng cũng như đến người khác. Không xét đến trường hợp mưu mô lừa gạt quần chúng để tung ra những tin đồn thất thiệt, sự nhận xét ở đây chỉ nhắm vào những đặc tính tốt của người Việt vô tình được lồng trong những rắc rối phiền hà do lối sống liên hệ cộng đồng.

Nếu bạn muốn tung ra một tin đồn thất thiệt nào có tầm mức liên quan đến nhiều người hoặc một nhân vật quan trọng nào trong cộng đồng bạn đang ở, bạn chỉ cần tỏ ra hơi bí mật một chút, đem điều bạn muốn mọi người biết nói nhỏ với vài người và dặn họ chớ nói cho bất cứ ai. Chẳng phải chờ lâu, tin đồn thất thiệt của bạn chỉ vài hôm sau không ai không biết. Nói rằng dân ta hay "đôi mách" thì hoàn toàn sai lầm nhưng nếu bảo đó là cá tính dễ dàng chia xẻ, chẳng có gì là sai mà lại còn là một đặc tính đơn thuần tốt lành; tốt lành đến độ trở thành công cụ cho một số kẻ mưu đồ lạm dụng lòng dễ tin của quần chúng. Người Việt dễ chia sẻ và chân thành chia xẻ; đó là lý do tại sao chúng ta thích nhàn đàm; nói chuyện không cần mục đích và bất cứ chuyện gì cũng có thể đem ra nói được. Vả lại, ai cũng thích nói mà người nghe lại không cảm thấy phiền hà, cứ nghe được nhiều, biết lắm chuyện bao nhiêu là cảm thấy mình quan trọng bấy nhiêu. Có thể tôi nhận xét sai về điểm này bởi cái nhìn hạn hẹp của mình nhưng hầu hết những người biết nhiều chuyện đều cảm thấy mình quan trọng; không quan trọng mà người khác nói cho mình nghe nhiều chuyện ư!

Muốn chia sẻ và muốn được chia sẻ là nhu cầu của mọi người. Sự chia sẻ đôi khi trở thành than thở giúp một người cất được gánh nặng tâm tư để lòng thoải mái hơn. Những người cô độc đều cảm thấy tâm tư luôn luôn bị đè nặng, dồn ép bởi không có ai để chia sẻ hoặc không thể san sẻ nỗi lòng mình với bất cứ ai do đó luôn luôn cảm thấy không ai hiểu được mình nên thường mang tâm trạng bơ vơ. Người Việt chia sẻ rất chân thành; hơn nữa với đặc tính hiếu khách, họ không cảm thấy phiền hà khi người khác cần nói chuyện với họ, hoặc giả dụ họ không thích mình tới nói chuyện, hỏi han, nhưng vì lịch sự xã giao hay cả nể không muốn làm mất lòng người khác họ cũng sẽ không bao giờ từ chối khi mình ghé thăm nói chuyện.

Lòng chân thành được biểu lộ qua nhiều khía cạnh cũng như thái độ, lời ăn tiếng nói của một người. Người nào ăn nói càng mộc mạc, đơn giản bao nhiêu, lòng càng chân thành bấy nhiêu bởi chân thành không cần chải chuốt hoặc che dấu sự thực mình nghĩ. Xét về cá tính, những người càng bộc trực, nóng tính càng chân thành vì chính thái độ diễn tả phần nào tâm tình họ. Làm sao một người có thể giả dối, che dấu thái độ khi mặt mũi đỏ gay vì giận, ăn nói bất cần sống chết. Thái độ họ bộc trực nhưng lòng lại rất chân thành.

Người có lòng chân thành sẵn sàng mở rộng tâm hồn nhận biết chính mình. Không che dấu nên càng thấy nhiều lầm lỗi; chính vì nhận ra mình nhiều lầm lỗi mình mới có thể thông cảm được với người khác khi họ lỗi lầm do đó không kết án hoặc khắt khe với người khác. Có thể nói lòng biết ơn cũng như thái độ biết ơn phát xuất từ lòng chân thành. Nói cách khác, bất cứ thái độ, cử chỉ, lời nói nào không phát xuất tự lòng chân thành đều che dấu một ẩn ý nào đó.

Dĩ nhiên không ai có thể làm vừa lòng hết mọi người. Vì thế người chân thành hay bị vạ hoặc vô tình gây vạ cho kẻ khác bởi lời nói. Khi thành thật chia sẻ với người khác, tự mình đã không che dấu những gì không nên không phải của bản thân và sự thật thì hay mất lòng; lòng chân thành làm phiền mình trước. Đó là lý dotại sao ai nấy đều chuộng kẻ chân thành nhưng đôi khi lại sợ bộc lộ chân thành lòng mình. Thực tế mà xét, lời nói nhiều khi không thể diễn tả đầy đủ thực trạng tâm hồn vì thế người nói hay sự chia sẻ dễ bị hiểu lầm là chuyện thường. Do đó nhiều trường hợp bởi cái miệng không đi đôi với ý nghĩ khiến nhiều người ngại bị hiểu lầm nên không dám nói. Cho nên người nào dám chân thành nói thực lòng mình, đối xử với người khác không ỡm ờ giả dối phải là người có khí độ anh hùng bởi người anh hùng không thèm chấp nhất những điều nhỏ nhặt hoặc e sợ kẻ khác hiểu lầm. Lòng chân thành được biểu lộ qua thái độ và lối sống của họ dù có bị hiểu lầm lúc đầu nhưng rồi khi mọi người nhận ra sẽ mến phục. Lẽ đương nhiên lý luận và nhận thức thì dễ nhưng dám chấp nhận bị hiểu lầm lúc đầu, dám sống thực với lòng không dễ chút nào nhất là dư luận quần chúng không dễ chi thay đổi trong một sớm một chiều mà có khi còn tạo nên nhiều nghi ngờ.

Qua những nhận xét được nêu ra, lòng chân thành của người Việt bàng bạc nơi mọi tâm hồn nhưng lại ít được để ý tới nếu không muốn nói là không mấy ai đặt vấn đề vì thường chúng ta nhận định về một người qua thái độ bên ngoài nhiều hơn mà quên không tìm hiểu động lực nào đã khiến một người có thái độ như thế. Viết đến đây, vô tình nói chuyện với một người bạn, nhân tiện tôi hỏi thêm về một vài khía cạnh của lòng chân thành nơi người Việt. Nói qua nói lại, bạn tôi trả lời "Đừng suy bụng ta ra bụng người." Dĩ nhiên, dùng cảm nghiệm để rồi cảm nhận con người theo khía cạnh tâm lý không thể tránh thoát suy bụng ta. Xét rộng hơn, với ảnh hưởng của truyền thống, luân lý xã hội, những người được nuôi dưỡng trong cùng một môi trường giáo dục chắc hẳn một phần nào đó đều có một căn bản tâm tình chung mà lối nói bình dân gọi là "lòng." Hơn nữa, tâm lý học, tâm lý bệnh học đều chứng minh rằng dù được sinh trưởng trong các môi trường khác biệt văn hóa, mọi người đều chia chung một căn bản tâm thức. Đó là lý do tại sao các tâm bệnh gia Tây phương có thể chữa tâm bệnh cho người Đông phương và ngược lại. Vì thế, nếu tôi có thể cảm nhận được nơi chính mình để tìm hiểu và nhận định ít ra từ một số người khác năng gặp hay quen biết kiếm lấy điểm chung thì có lẽ không đến nỗi sai lầm. Thử đặt câu hỏi, bạn có cảm nhận được lòng chân thành của bạn bị khuất phía sau thái độ bên ngoài, cũng như lời nói khó có thể diễn tả thực sự lòng bạn không. Đó là điểm ít được để ý tới nơi người Việt tôi muốn nêu lên. Ngược lại, chúng ta thường bị nghe những lời phàn nàn nếu không muốn nói là chê trách mà ít được khen hoặc để ý về những điều tốt mình làm. Có ai thèm để ý đến điều tốt lành nơi mình đâu, và cả chính mình nữa bởi mình còn đang bị đè nặng và che lấp bởi những điều phàn nàn chẳng giúp ích chi cho ý hướng sống vươn lên.

Lòng chân thành là đặc tính cao cả nhất mà một người dành cho hoặc đối xử với người khác. Thử xét về tình bạn, tôi muốn dùng chữ "bạn" đúng nghĩa của nó. Có ai dám đánh lừa người bạn chân thành của mình không? Có ai chấp nhất bạn mình vì những câu nói đôi khi đến độ sỗ sàng mất mặn mất nhạt hay lại thấy đó một tâm hồn thiết tha chân thực với mình. Ai dám có thái độ đểu cáng với bạn bè? Hay ngược lại, dù cho bạn mình có thế nào chăng nữa, mình không bao giờ đặt vấn đề. Sự đối xử thẳng thắn, chân thật đơn thuần này phát sinh từ lòng chân thành. "Người bạn là người mà tôi có thể đối xử một cách chân thành; đối với họ, tôi có thể sống thực với chính mình." (Emerson; The International Thesaurus of Quotations; Compiled by Rohda Thomas Tripp; Happer & Row; New York, 1970). Người bộc trực có tâm hồn thẳng thắn và chân thành có lẽ vì họ có cái nhìn tốt lành về những người khác. Họ không câu chấp nên cũng cho rằng người khác không câu chấp họ do đó mới dám phát biểu cách chân thành. Lòng chân thành còn được biểu lộ qua tâm tình chấp nhận chính mình và chấp nhận cuộc đời mình. Mình thế nào, dám sống thực như vậy. Nghèo có chi là xấu và giầu chưa chắc ai đã hỏi vay. Ai cũng nhận thấy những người già sống điềm đạm hơn (Tôi nói chung chung, không kể trường hợp ngoại trừ) bởi nhận ra cuộc đời cay đắng đã nhiều, trắc trở không thiếu, và dù có thế nào chăng nữa thì mình cũng chỉ là mình. Khi lên voi mình chẳng mập thêm mà lúc xuống chó rồi cũng đến thế. Họ dám sống chân thành với chính họ nên điềm đạm, an bình nhìn cuộc đời, không chấp nhất cũng không tranh đua mà dễ thông cảm, chân thành tha thứ.

Lòng chân thành cảm thông đóng một vai trò tối ư quan trọng nơi hạnh phúc gia đình người Việt. Dân gian có câu "Thương nhau lắm, cắn nhau đau;" thế mà sự hòa thuận giữa vợ chồng vẫn có được tất nhiên lòng chân thành phải là nhịp cầu giảng hòa. Hơn nữa, chính lòng chân thành của vợ hay chồng phần nào biến cải tâm tính người bạn đời mình từ đó đem lại ấm êm nhà cửa. Yêu thương chưa đủ, chỉ yêu thương mà không có lòng chân thành, người ta chỉ có thể là nhân ngãi chứ không phải là vợ chồng bởi trong cuộc sống lứa đôi, nhờ lòng chân thành, cả đôi bên không ai so đo hơn thiệt, không chấp nhất nhỏ nhặt và dễ thứ tha chấp nhận. Lòng chân thành bổ túc cho hôn nhân bền vững.

Lòng chân thành được biểu lộ rõ rệt nhất nơi lòng thương của cha mẹ đối với con cái. Thương con, dám nói lên điều con không hài lòng, hoặc chẳng muốn nghe chỉ vì muốn con mình tránh khỏi những kinh nghiệm phải trả giá quá mắc mỏ trong cuộc đời. Lẽ đương nhiên, cha mẹ đều chấp nhận trả giá bởi lòng chân thành thương con đôi khi đến độ tan nát cả tâm hồn nếu khách quan nhận xét. Trung thực mà nói, mấy ai nhận ra được tấm lòng cha mẹ khi tuổi chưa kịp lớn. Chả thế mà mãi sau này chúng ta mới nhận ra ư; "Nuôi con mới biết lòng cha mẹ."

Sỡ dĩ người Việt còn có được lối sống cộng đồng cao vì lòng chân thành đối với tập thể còn mặn mà. Khi mình còn cảm thấy danh dự cộng đồng còn ảnh hưởng tới niềm hãnh diện cá nhân, lòng chân thành liên kết và ý hướng xây dựng cộng đồng vươn lên còn đang trào dâng nơi huyết quản.


TÂM TÌNH KHÓ NGHÈO

 

Nói đến hai chữ khó nghèo, thật ra không ai muốn vì thường được hiểu về sự nghèo khó vật chất ngược lại với giầu sang. Giầu thường được hiểu là có nhiều tiền hoặc nhiều của cải. Mà "Có tiền mua tiên cũng được," sức mạnh vạn năng của đồng tiền đem lại cho con người cảm nghĩ an toàn không sợ bị vất vả, đói rách v.v... Chả thế mà trong cuộc sống vật chất, bất cứ gì cũng cần đến tiền ư! Nhà cũng tiền, xe cũng tiền, muốn được ăn trên ngồi trốc cũng tiền, muốn có kẻ hầu người hạ cũng tiền. Người Mỹ có câu "No money, no honey;" xét ra ngay đến tình yêu có lẽ cũng bị chi phối bởi tiền vì chồng đẹp vợ đẹp không thể chỉ nhìn mà no. Mọi người, ai lại không muốn có nhiều tiền. Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn sự giầu có theo khía cạnh vật chất chưa chắc đã đủ mà còn thứ giầu có khác tiền bạc không thể mua được. Sự giầu có này cũng gồm có nhiều loại: giàu lòng vị tha, giàu học vấn, giàu sự hiểu biết, giàu khả năng chuyên môn. Những sự giàu có tách rời khỏi thế giới vật chất này cần tâm hồn mở rộng để học hỏi và tập luyện của con người đồng thời được bổ túc bởi kinh nghiệm sống. Sự giàu có tâm tưởng hoặc tinh thần không bao giờ có thể hư hao, thất thoát như tiền bạc. Kinh nghiệm cho thấy có những người tiền bạc của cải ngày xưa khá nhiều, sau một thời gian, tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Hơn nữa, lại cũng có những người tiền bạc nhiều không đếm xuể, tiếng tăm nổi như sóng cồn thế mà lại tự tử chẳng hạn trong trường hợp một số ca sĩ, tài tử màn bạc... Trái lại sự giầu có tinh thần chỉ càng ngày càng giúp con người sống vươn lên.

Sự giầu có tinh thần và giầu có vật chất thường hay đối nghịch lẫn nhau. Người giầu có vật chất dựa vào tài sản làm căn bản nên sinh ra nghèo nàn về tinh thần; trái lại người giàu có về tinh thần không coi của cải làm trọng nên lại có thể được giầu có về vật chất nữa. Điều này không lạ gì vì tiền tìm người thì dễ nhưng người tìm tiền thì khó. Hơn nữa, người giầu có về tinh thần lại có tinh thần khó nghèo mà người giầu có về vật chất sẽ không thể có được bởi chính cuộc sống vật chất ảnh hưởng mạnh mẽ tinh thần. Chẳng hạn, người đang lái quen chiếc xe tiện nghi mắc tiền sẽ không thể nào có được niềm vui khi phải dùng đến chiếc xe cũ mèm rẻ tiền thiếu tiện nghi mà ngược lại cảm thấy phần nào khó chịu. Thế nên, tâm tình khó nghèo chỉ có được nơi những người giầu có về tinh thần chứ không phải vật chất. Hơn nữa, người giầu tinh thần dễ có chiều hướng sống tinh thần khó nghèo trong khi người giầu có vật chất, tiền tài ít khi nhận thức được giá trị và niềm vui của tâm tình khó nghèo. Vì vậy căn bản của tâm tình khó nghèo là sự giầu có về tinh thần.

"Khó nghèo" được dùng ở đây ngược nghĩa với nghèo khó vật chất. Khó nghèo thuộc về tinh thần và ảnh hưởng lối sống, cách sống, quan niệm sống cũng như tư cách, thái độ của một người. Tâm tình khó nghèo không có nghĩa mình muốn trở thành khố rách áo ôm hoặc không đồng xu dính túi mà là một tinh thần sống có mực thước, không hoang đàng, không phí phạm, không tham lam muốn giầu bốc trong một ngày nhưng biết chấp nhận cuộc đời. Tâm tình khó nghèo mang một phần nào nghĩa tu đức về tinh thần khó nghèo. Tinh thần khó nghèo phải được học hỏi, tập luyện và am hiểu về tu đức học mới có thể có được. Còn tâm tình khó nghèo có thể nói một phần nào tự bản chất vì không phải tập luyện nhưng được đào luyện do hoàn cảnh, truyền thống, luân lý nên trở thành cá tính, bản năng phụ thuộc. Nguyễn Công Trứ qua câu "Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc" cũng nói lên được chút ít tâm tình khó nghèo.

Tâm tình khó nghèo được thể hiện qua nếp sống đơn giản, an bình, không đua đòi, chỉ sao giải quyết những nhu cầu cần thiết cho cuộc sống. Tâm tình khó nghèo giúp một người có được lòng thanh thản, hưởng được những niềm vui, hạnh phúc đơn giản. Muốn có được những niềm vui đơn giản cần phải có một tinh thần khoáng đạt, cảm thông, đồng thời đi kèm theo bộ óc trào phúng, biết nhìn những khía cạnh khác lạ của những chuyện bình thường xảy ra trong cuộc đời.

Hầu hết người Việt sống trong những hoàn cảnh khó khăn của một nước chiến tranh, chậm tiến vì do phải tranh đấu với thực tại để bảo tồn sự sống còn bản thân nên đã tự tạo cho mình một tinh thần kiên trì, phấn đấu. Đương đầu triền miên với trở ngại, đe dọa hoặc viễn tượng mịt mờ của tương lai, người Việt lại có thêm được cá tính chấp nhận cuộc đời. Nhìn lại quá khứ và so sánh cuộc sống một người Việt với người Tây Phương, người Việt Nam đã có một thân phận không biết chắc được tương lai nơi một đất nước nghèo nàn vì chiến tranh, chậm tiến vì thiếu cơ hội phát triển. Ăn không đủ chất bổ dưỡng, công việc làm chẳng gì bảo đảm, và ngày mai trong tương lai không ai có thể đoán trước. Thuốc men, điều kiện vệ sinh lại càng sơ sài do đó chính điều kiện sống đã rèn luyện cơ thể người Việt chịu đựng dẻo dai, tinh thần bền bỉ và khả năng sinh tồn cực cao. Chính khả năng sinh tồn cực cao này bổ túc cho sự chấp nhận cuộc đời, đối diện với hoàn cảnh không thể trốn thoát để chịu đựng với những bất trắc có thể xảy ra.

Trái ngược với thực tại khó khăn cuộc sống, người Việt được nuôi dưỡng và phát triển trong lãnh vực truyền thống phong phú, một nền luân lý cộng đồng khá cao, và đồng thời một khuôn mẫu giáo dục gia đình như kết quả của ảnh hưởng từ truyền thống và luân lý xã hội. Dĩ nhiên "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài," truyền thống làm căn bản cho luân lý xã hội và luân lý ép buộc gia đình giáo dục những thành viên của mình sao cho rập khuôn với truyền thống và luân lý vây bọc. Truyền thống và luân lý cộng đồng này ảnh hưởng người Việt cũng như khí thở chi phối cơ thể cá nhân. Nếu trong không khí mịt mù khói thuốc, dù không hút, người thở cũng bị khói thuốc thấm nhập cơ thể làm choáng váng. Hoặc nếu trong không khí đặc nghẹt mùi rượu, người không quen uống cũng sẽ bị ảnh hưởng hơi rượu. Thế nên, dù muốn hay không, sống trong truyền thống và luân lý cộng đồng đã sẵn có bao gồm những mẫu mực cách thức hướng dẫn chiều hướng tâm tư cũng như thái độ, tư cách, người Việt tự động thấm nhập những điều hay, nét đẹp ngàn đời khuôn mẫu mà không để ý do đó ít được nhận ra. Hơn nữa, người Việt thường chỉ cảm thấy mình sống cách nào cho phải theo sự nhận biết của mình chứ không đặt vấn đề tại sao mình phải sống như thế. Tâm tình này chứng tỏ truyền thống và luân lý xã hội đã được thấm nhập nơi người Việt qua lối giáo dục gia đình và khuôn mẫu luân lý xã hội để rồi chính những gì đã thấm nhập nơi một người trở thành nguyên tố làm mẫu mực suy nghĩ nơi họ. Nói cách khác, sống trong truyền thống, luân lý xã hội được giáo dục bởi gia đình và xã hội, hầu hết người Việt đã giầu có về tinh thần. Sự giầu có về tinh thần này cộng với tinh thần chấp nhận cuộc đời được đào tạo do hoàn cảnh khó khăn tranh sống kiến tạo nơi người Việt tâm tình khó nghèo.

Điều hiển nhiên, tâm tình ảnh hưởng toàn bộ thái độ cũng như cách sống một người, khi lòng vui, lời nói cử chỉ cởi mở nhã nhặn, lúc buồn hay cảm thấy khó chịu vô lý và dễ phát sinh những tư tưởng yếm thế. Nói cách khác, tâm tình là động lực phát sinh cách sống cũng như thái độ của một người. Bởi tâm tình khó nghèo giúp con người biết chấp nhận cuộc đời, sống đơn giản, mực thước tùy theo điều kiện hoàn cảnh do đó có thể nói nó đóng vai trò quan trọng kiến tạo đạo bình thường vì nguyên tắc của lối sống này là "Coi thì mà ở, chọn theo cỡ mà xài." Chẳng những thế, đặc tính chấp nhận cuộc đời lại là kết quả của nhận thức chấp nhận bản thân đồng thời đưa đến sự chấp nhận người khác do ý thức thân phận con người nhiều lầm lỗi và khó hài lòng với thực tại dù ở đấng bậc nào nên không dễ gì thát khỏi ảnh hưởng của tham sân si. Bởi vậy, cũng có thể câu ca dao "Ai nhất thì tôi thứ nhì, ai mà hơn nữa tôi thì thứ ba" được cảm ứng từ tâm tình khó nghèo...

Từ ý thức thân phận con người và chấp nhận cuộc đời, tâm tình khó nghèo đem lại sự an bình vui hưởng những niềm vui đơn giản, niềm hạnh phúc không dễ gì có được nơi cuộc sống bon chen tranh dành lợi danh. Như vậy, tâm tình này cũng là cội rễ cho an bình tâm tưởng, yêu chuộng hòa bình, không so sánh, ganh đua như kết quả của sự nhận ra giá trị cuộc sống cũng như giá trị bản thân. Đây là nấc thang ý thức hệ cao nhất và cũng là động lực cho cá nhân thẩm định và lựa chọn lý tưởng cũng như đường hướng và hành động thực hiện mục đích tùy thuộc tài năng và điều kiện hoàn cảnh thực tại.

Câu "Bụt nhà không thiêng" xét theo phương diện nhận thức bản thân cũng có lý. Mình đang mang sẵn điều hay mà không biết để phát triển cả là một sự thiệt thòi.


MỖI NGƯỜI VIỆT LÀ MỘT THI NHÂN

 

Nói về người Việt mà không nhận biết đặc tính mẫn cảm của họ là cả một sự thiếu sót. Dân Việt sống theo tình cảm hơn là lý trí bởi thế, "Yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai ghét cả tông chi họ hàng" là lẽ thường. Sống theo tình cảm nên những lý luận phán đoán bị tùy thuộc vào sự ưa hay không ưa nơi tâm tình của mình đối với sự việc hoặc với người khác. Cũng cùng một vấn đề xảy đến nơi một người nào, có thể nói, nếu mình ưa người đó, chuyện dở được cho là thường mà khi không ưa, chuyện hay có thể là đầu mối cho mọi sự chỉ trích. Chính lúc này, đặc tính mẫn cảm chen vào để vẽ vời, tô điểm, thêm góc cạnh cho câu chuyện lớn hơn theo sự phỏng đoán dựa trên tầm hiểu biết và kinh nghiệm liên hệ cá nhân. Vì thế, cũng chẳng lạ gì, một khi đã không ưa ai, tất nhiên, chuyện vạch lá tìm sâu là lẽ khó tránh mặc dầu điều này xét ra thật bất công cho họ.

Đặc tính mẫn cảm kèm theo sự phán đoán dựa trên tình cảm không phải chỉ thường ảnh hưởng sai lạc nhận xét cá nhân mà ngược lại chính vì sự ảnh hưởng thiên vị này nơi lối nhìn tùy theo tình cảm về một người, tạo cho người đó khả năng sống cần biết suy trước nghĩ sau sao cho hợp tình hợp lý tránh những hiểu lầm nếu có tạo thành từ những quan điểm một chiều, chủ quan, không cần biết đến ai. Kinh nghiệm cho biết "không ai là một hòn đảo" mà lối sống một người bị ảnh hưởng liên đới tới những người chung quanh. Những ai liều lĩnh chạy theo thị hiếu hèn kém riêng, không cần biết đến dư luận đa số là những người chẳng ra gì và lại cũng thường là những người cô độc. Bởi sống cô độc đau khổ hơn bất cứ điều kiện thực tại nào do đó để được chấp nhận và cảm thông, cá nhân tự chấp nhận biến đổi và bị ảnh hưởng theo phần nào của dư luận và tâm lý những người chung quanh.

Người sống bất cần dư luận tự nhiên đã tách rời mình với người khác; chẳng hạn một người ăn mặc hở hang khêu gợi, diêm dúa tham dự một đại hội trang trọng chắc chắn trông rất lố bịch gây bất thiện cảm nơi mọi người. Bất cần dư luận có thể mình không cần biết đến ai, tự cô lập chính mình hoặc vì không cần biết người khác nghĩ gì khiến không ai muốn tới gần hoặc giao dịch. Đặc tính mẫn cảm giúp cá nhân sống hòa hợp với những người chung quanh mặc dầu đôi khi có thể sinh ra lệ thuộc dư luận hoặc sợ người khác hiều lầm. Đặc tính mẫn cảm cũng giúp con người nhạy cảm với thiên nhiên, sự việc hay tư tưởng, hoặc những trạng thái tình cảm hỉ, nộ, ai, bi, ái, ố... Những tình tiết của sự việc hoặc truyện gợi nơi tâm hồn người mẫn cảm sự cảm thông hòa nhịp, tự đặt mình vào trường hợp nhân vật liên hệ đến sự việc rồi cảm ứng sinh tình coi như sự việc đang xảy ra nơi chính mình.

Tháng ngày dần trôi, kinh nghiệm càng nhiều càng tạo nơi con người khả năng sáng tạo ở mức độ cao hơn. Khả năng sáng tạo cũng là kết quả do nhận xét một sự việc qua nhiều khía cạnh khác biệt, tìm hiểu sao có thể kiếm được cơ hội đem lại lợi ích cho cuộc đời mình. Thật ra khả năng này chỉ có thể có được khi có cái nhìn tổng quát hỗ trợ bởi kinh nghiệm để rồi đặctính mẫn cảm phụ họa cho óc suy tư nhận thức tìm tòi những khía cạnh mới của một vấn đề hay sự việc. Chính khả năng sáng tạo là cội nguồn cho thi văn vì thi văn được bộc phát do cảm hứng của con người với sự việc, tâm tư, hay hoàn cảnh.

Xét như thế, câu "Mỗi người Việt là một thi nhân" không có gì quá đáng. Hòa mình vào cuộc sống, chấp nhận, nổi trôi với dòng đời để rồi tức cảnh sinh tình đó là đặc tính thi nhân. Đem tâm tình mình thổ lộ qua những lời văn có vần và điệu tất phải là thi sĩ. Hơn nữa nhờ đặc tính mẫn cảm, tâm tình mình được bày tỏ qua ngôn từ khiến người khác cảm nhận được; đó là thi văn.

Tiếng Việt, nếu nhìn theo khía cạnh ngôn ngữ, ngay từ trước thời giáo sĩ A Lịch Sơn Đắc Lộ, người đã có công dùng mẫu tự La Tinh ráp nối theo âm thanh, thêm dấu để khai sinh Việt ngữ, các giáo sĩ Tây Phương đã diễn tả người Việt mình nói như chim hót. Bây giờ, người Tây Phương khi nghe hai người Việt nói chuyện tưởng mình đang hát đối...; âm thanh tiếng nói Việt Ngữ đã tự mang tính chính chất trầm bổng của cung nhạc, âm điệu của thơ. Hơn nữa, Ca Dao, Tục Ngữ, Vè, v.v...rất được phổ thông trong dân gian ngoài tính chất giáo dục về luân lý hay tâm lý, Ca Dao, Tục Ngữ v.v... được viết xếp đặt ngôn từ cho có vần điệu hoặc thành thơ để cho dễ nhớ. Nghe quen hay thuộc lòng phần nào Ca Dao, Tục Ngữ, người Việt một cách vô tình đã được làm quen với âm điệu thơ. Những âm điệu này trở thành khuôn mẫu căn bản cho thơ mặc dầu một người thuộc Ca Dao, Tục Ngữ chưa để ý hoặc không biết luật thơ nhưng vì quen âm điệu thơ, lối nói cũng được ảnh hưởng nên ráp khuôn theo vần điệu.

Nhìn một cách tổng quát, cá tính mẫn cảm giúp người Việt dễ có cảm ứng với thực tại hay tâm tư để hòa tâm hồn sống hiện thực. Tính chất sáng tạo giúp người Việt có cái nhìn sự việc theo nhiều chiều khác biệt, cộng thêm khuôn mẫu âm điệu Ca Dao, Tục Ngữ, Vè, v.v... tạo thành tính chất thi sĩ nơi tâm hồn. Nói theo khía cạnh này, dân tộc Việt, có thể nói, là một dân tộc thi sĩ. Hơn nữa, dù là "thơ con cóc" cũng vẫn là thơ. Tính chất thi nhân giúp người Việt sống hiện thực, hòa đồng, và cận nhân tình hơn.

Thật ra, biết bao nhiêu người Việt làm thơ và biết bao nhiêu sáng tác nơi người Việt đã không được ai biết đến hoặc vì không được phổ biến hoặc vì mặc cảm nghĩ rằng thơ mình không có giá trị nếu đem so sánh với những vần thơ đã được phổ biến hay in trong sách vở. Trung thực mà xét, tất nhiên không sáng tác nào có thể giống sáng tác nào cũng như không có cây nào giống cây nào trong muôn vàn loại cây. Mỗi cây có nét đẹp riêng của nó và chỉ được một số người ưa thích tùy theo kiểu nhìn tưởng tượng hoặc tâm tình riêng tư của mình. Thơ cũng vậy, cùng một bài thơ, người thích, kẻ chê là chuyện bình thường. Thử hỏi rằng những nhạc sĩ, văn sĩ nổi tiếng phải bao nhiêu năm mới được người khác biết đến tên? Một bản nhạc được ca tụng là hay, ý nhị thế bao nhiêu năm sau khi viết mới được thịnh hành và khen ngợi. Những văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ nào đã lận đận, năn nỉ những tòa báo, nhà in đăng hay phát hành thơ văn hoặc ca sĩ hát nhạc của mình. Giá đầu tiên phải trả quá mắc mỏ cho một thi nhân hay văn nhân đã làm nhụt nhuệ khí bao tác giả và cũng đã chận đứng bao tác phẩm chẳng bao giờ được biết tới để rồi rơi vào quên lãng... âu cũng bởi mình chận tiến mà ra.

Hơn nữa, đặc tính mẫn cảm như con dao hai lưỡi, một đàng giúp người viết có tính chất thi nhân, đàng khác cũng dễ bị mặc cảm để rồi tài năng thiên phú không có cơ hội phát triển. Điều này cũng nói lên một sản phẩm khác của đặc tính mẫn cảm là sự thiếu bền chí theo đuổi một mục đích bởi tính chất cảm thông và chấp nhận hòa nhịp với dòng đời. Dĩ nhiên, người bền chí phải chấp nhận lạnh lùng với những vấn đề ảnh hưởng bất lợi tới mục đích và công việc của mình; đôi khi với chính ý thích của mình, phương chi là những lời nói suông, phê bình không căn cớ hay có ý muốn lạm dụng, hoặc do bởi sự thiển cận của kẻ khác. Tâm hồn thi sĩ giúp người Việt nhạy cảm với cuộc đời, và vì tính chất nhạy cảm này nhiều khi chủ trương và mục đích mình muốn thực hiện bị ảnh hưởng đến độ chẳng bao giờ thực hiện được. Cuộc đời, ai thì cũng thế, cũng gặp phải những thăng trầm chẳng bao giờ muốn. Vấn đề còn lại chỉ là người nào "Có chí thì nên," và đồng thời cần biết mình muốn gì.

Yếu tố quan trọng cho nguồn cảm ứng của thi nhân là sự mở rộng tâm hồn đón nhận thực tại với bản chất hiện thực không để bất cứ kinh nghiệm hoặc điều kiện nào chi phối. Lẽ tất nhiên, mọi sự kiện đều có căn nguyên nhưng thường bị che lấp bởi điều kiện thực tại hoặc bị nhận thức qua nhiều chiều hướng khác biệt lệ thuộc quan điểm hay kinh nghiệm người tìm hiểu. Chẳng hạn, người mẹ thức đêm hôm chăm sóc con thơ bệnh hoạn, ai cũng chỉ nhận ra sự hy sinh vất vả lo lắng cho con mà thường không để ý nói lên động lực của sự hy sinh nơi bà mẹ là lòng thương mẫu tử. Hoặc nếu đưa một tờ giấy trắng trên đó có một chấm mực và hỏi tờ giấy có gì đặc biệt; ai ai cũng chỉ để ý nói lên chấm mực nhỏ mà quên phần lớn hơn là mầu trắng của tờ giấy. Thi nhân, với cái nhìn đơn sơ, nhận ra yếu tố căn bản cho nguyên nhân của sự kiện hay thực trạng không bị che đậy. Bởi thế, khả năng dùng mỹ từ, lời văn bóng bảy chỉ được khen mà ý nghĩa văn từ thi nhân dùng phô bày lại được cảm nhận. Chiêm ngưỡng thiên nhiên với cái nhìn đơn sơ để nhận ra nét uyển chuyển của thời tiết, mùa màng, sự bao la ngập tràn không gian và thời gian dẫn đến nhận thức con người giới hạn... đó là đặc tính của thi, văn nhân để nói lên thực trạng như chính nó và từ đó rút tỉa kinh nghiệm hoặc phương thức sống... thường được gọi là sáng kiến... ai cũng nhận ra... nhưng chỉ thi nhân dùng chữ nghĩa để lại. Phải chăng vì vậy người xưa có câu: "Thi thơ bất độc, tử tôn ngu?" Tất nhiên, không chấp nhận tìm hiểu, học hỏi thêm làm sao có căn bản khai sáng cho con cháu.

Một đặc tính của thi, văn nhân là tìm kiếm giá trị đích thực của những quan niệm sống đồng thời đưa lên những điều không nên, làm hại nhân phẩm cần từ bỏ. Không lạ gì, cuộc đời lắm bả phù vân làm mờ mắt con người như lợi, danh, tham, sân, si... Chỉ có thi, văn nhân là giới nhẹ nhàng bày tỏ và khuyến khích con người nhận thực những giá trị nhân bản không mang tính chất giáo điều, không ép buộc bất cứ ai... Có chăng trước cảnh đau lòng do kết quả của sự ganh đua phù phiếm, thi, văn nhân đưa ra những nét cười diễu cợt mong thức tỉnh lòng người... Từ những nhận thức về cuộc đời đem đối chiếu với lòng mình, thi, văn nhân dễ tìm ra bản chất thực con người để chấp nhận chính mình, bước tiến đầu tiên cho sự cảm thông với mọi người để rồi tìm phương thức thăng tiến cuộc đời. Nói cách khác, đây là hành trình của triết lý thực tiễn kiếm tìm những giá trị vĩnh hằng, lý tưởng cho con người sống vươn lên.

Triết là phân tích, tìm hiểu nguyên nhân đồng thời giãi bày những liên hệ của tư tưởng, quan niệm. Triết đối với người Đông Phương là lối sống, cách sống thể hiện tư tưởng, quan niệm... chứ không tách rời tư tưởng với cuộc sống. Xét như thế, thi nhân là triết gia về cảm ứng của con người đối với cuộc đời. Thi, văn, sản phẩm của thi, văn nhân nói lên mọi khía cạnh liên hệ giữa con người với chân, thiện, mỹ cũng như nỗi lòng, tâm tình tùy cảm ứng của tác giả. Thi văn gợi lại nơi lòng độc giả tâm tình sẵn có đối với sự việc được nêu lên. Sự kiện này xảy ra bởi độc giả đã phần nào có cùng tâm sự, kinh nghiệm, cảm ứng hoặc suy tư với tác giả do đó khi gặp cơ hội "đồng khí" tất nhiên "tương cầu." Thật ra, thi, văn nhân chỉ là người đem sự việc mình kinh nghiệm sắp xếp cho có thứ tự giãi bày bằng ngôn ngữ mời độc giả tìm lại nơi chính họ kinh nghiệm tương đồng đã trải qua. Thế nên, đặc tính thi nhân một mức độ nào đó có sẵn nơi độc giả, và thi nhân là người chuyên tâm phát triển đặc tính này qua sự thể hiện bằng ngòi bút. Là người Việt, ai không nhận ra đặc tính thi nhân sẵn có nơi mình?


ĐÁM XÁ

 

Một trong những tục lệ tốt lành nơi dân Việt là vấn đề đám xá. Ngày xưa khi còn đình làng, đình đám cả là một vấn đề, nào chia ngôi thứ, chỗ ngồi, rồi mâm trên mâm dưới, rồi "Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp," âu cũng bởi dân nghèo đói, vả lại còn kém ý thức nên xảy ra một vài tệ đoan như thế. Nhưng nay dân trí được nâng cao, cái miếng giữa làng không còn được đánh giá quá cao như ngày xưa để chỉ còn lại tục lệ thăm hỏi khi một gia đình có chuyện quan trọng như cưới hỏi cho con cái hoặc tang ma khi cha già mẹ héo. Đám xá mang nhiều khía cạnh nhưng chung qui lại, giá trị của đám xá đặt nơi điểm then chốt: nói lên sự liên hệ tình người cùng huyết thống, trong giòng tộc cũng như bạn bè thân quen. Ngoài điểm tình thân giữa con người và con người, đám xá cũng là cơ hội cho con người giúp con người hầu nối kết thêm tình thân hữu.

Trong Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính, Sống Mới xuất bản năm 1983, tác giả thấy lệ khao vọng đem lại những phiền hà cho dân chúng thời bấy giờ: "...hạng kỳ mục, động ai có việc gì mời mọc đến, ăn uống no say rồi thì giở ra cách chơi bời thuốc phiện hút khói um nhà, bài bạc đùa cười rầm rĩ, ấy thế là thỏa thuê, ấy thế là hê hả;" để rồi "... phép vua thua lệ làng, thực là một lời đáng khinh bỉ." Tác giả viết tiếp: "Than ôi! Ngoài chốn hương thôn không còn biết giời đất là đâu, ngoài sự ăn uống không còn sự nghiệp gì, như thế thì trách làm sao mà dân chẳng hèn nước chẳng nhược?" (trang 147). Toan Ánh trong cuốn Nếp Cũ do Đại Nam xuất bản đưa ra thêm: "... hương lý, kỳ mục... yêu cầu gia chủ phải mời ả đào tới hát để họ mua vui... Chính vì vậy nên nhiều người dù túng thiếu đến đâu cũng phải cố lo cho đủ lệ làng để khỏi bị thôn xóm chê cười, để khỏi thua kém ai" (Trang 275).

Xét ra những lệ khao vọng mà Phan Kế Bính và Toan Ánh lên án vì đã là gánh nặng hoặc làm phiền toái, hư hại, tổn ải đến người có chút danh vọng do bọn xôi thịt hương lý, kỳ mục. Còn như đám xá thì cho tới nay, chưa thấy ai viết lên án cả, có chăng chỉ những lời bàn ra tán vô với hy vọng sao cho dân mình giữ được những tục lệ tốt mà không thái quá đến nỗi đôi khi gây ra những phiền hà. Tuy nhiên, đa số những người chê trách thường tự mang sẵn nỗi bất bình nào đó với nhà đám hoặc một vài ý hướng riêng tư xét ra hơi bất công cho gia đình hay những người có việc cần đến tiệc tùng. Khi nhà có việc, ai chẳng bận rộn nên làm sao có thể vừa lòng hết mọi người. Việc ăn uống cũng như các món ăn đâu thể chiều theo ý thích riêng mình mà tùy người nấu; do đó có chê bai thì chỉ chứng tỏ mình là người thiếu hiểu biết. Có nên chăng, chỉ lấy đó làm kinh nghiệm lỡ khi mình có việc thì sửa đổi sao cho tốt lành hơn mà thôi.

Đám xá không mang nghĩa như khao vọng vì khao vọng dành cho những người được thăng trật hoặc chức tước. Theo Toan Ánh, "Khao có nghĩa là thết tiệc đãi khách trong một dịp vui mừng, còn vọng là nộp tiền hay lễ vật theo hương lệ để được hưởng ngôi thứ trong làng." (Nếp Cũ; trang 274). Đám xá chỉ về những chuyện cần đến ăn uống khi có khách khứa tới thăm hoặc chia vui như cưới hỏi, hay chia buồn như trong vấn đề tang ma đã nói ở trên. Khi một gia đình có chuyện quan trọng, anh em bà con, hàng xóm láng giềng chạy tới, người ở xa, kẻ ở gần đến giúp việc thì sự đáp lễ của gia chủ nói riêng và gia đình nói chung phải thế nào để đáp lại tấm thịnh tình thân quen đã có lòng nghĩ đến mình mà tới. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn chấp nhận "Được bữa giỗ lỗ bữa cày" và còn tổn ải thêm nhiều phần khác liên hệ trong cuộc sống. Hơn nữa, cho dù có một số người mang tật xấu, cứ thấy nơi đâu có đình đám là xà vào bởi ăn không ngồi rồi chẳng có chuyện gì làm lại kèm theo thói hư thích chè chén ăn nhậu thì số này cũng rất ít không đáng để ý do đó cũng chẳng ảnh hưởng gì đến tập quán tốt lành đám xá của dân ta.

Điều rất thường và cần thiết nhưng đôi khi không được đặt thành vấn đề là sự ăn uống. Ai không ăn mà có thể sống; thế nên, chẳng lẽ khi một gia đình có chuyện quan trọng, anh em thân quen chạy tới mà để họ ra chợ kiếm ăn hoặc ở khách sạn chơ vơ! Đám xá đầu tiên là sự giữ lễ của gia đình đối với tình nghĩa thân bằng quyến thuộc và hàng xóm láng giềng thân quen. Một số người khi có đám xá ở gần nhà đã giữ kẽ, tránh những sự phiền hà cho nhà đám nên khi tới bữa về nhà ăn cơm thay vì ăn tại nhà đám. Đây cũng là một điểm đáng được nêu ra. Dân ta đâu phải ai ai cứ thấy ăn uống là xà vào đâu! Lại nữa, có những người cực chẳng đã, mời gẫy đũa bể bát cũng chưa thèm ăn, có chăng chỉ ăn cho qua, lại một phần nào sự nấu nướng chung khó hợp với khẩu vị hoặc cách thức riêng của từng người nên ăn nơi nhà đám không được đặt thành vấn đề đối với họ bởi đâu ai lạ gì "Miếng ăn quá khẩu thành tàn."

Sự ăn uống nơi đám xá xét như thế cần phải có vì là lẽ tự nhiên con người cần ăn để sống; lại càng cần hơn vì một phần nào là lễ của nhà đám tiếp đãi bằng hữu thân quen, những người có lòng đến với mình. Tuy nhiên, trong sự ăn uống, thế nào chẳng có cảnh rượu vào lời ra, lời ra vì uống rượu phải say, không muốn say sao lại uống rượu. Đồng ý rằng có những người sau khi chè chén ăn nói lung tung. Ngoại trừ những nố vì cố ý mượn chén rượu mà châm chọc, khích bác kẻ khác trả mối thù riêng hoặc uẩn ức tâm tư, còn chung chung thì những "lời ra" do rượu vào cũng một phần nào góp vui nơi tiệc vui hoặc làm giảm buồn nơi những chốn tang ma. Cứ thử nghĩ xem, khi mình đang vui, không có ai thêm thắt đôi câu dù vớ vẩn đến thế nào cho niềm vui bộc phát thêm thì cả là một thiệt thòi, đời sẽ buồn như sa mạc hoang vắng. Khi đang mang tâm trạng mất mát của con người, những lời nói chia sẻ hoặc kể lại những đức tính tốt người đã quá cố, hay những câu chuyện nhỏ nhặt được gợi lại trong cuộc đời, còn phương thuốc nào chữa lành mau hơn. Bao nhiêu người thèm có lấy một vài người để tâm sự mà kiếm nổ mắt không ra? Có được anh em thân thuộc, hàng xóm láng giềng tới chung vui hoặc chia buồn khi nhà xảy việc trọng đại là cả nguồn thân tình lớn lao cần thiết.

Ngoài vấn đề thăm hỏi giúp việc nơi đám xá, dân ta còn có thói quen đóng góp giúp nhà đám tùy theo sự thân quen sơ sài hay mật thiết và khả năng cho phép. Lẽ đương nhiên, "Hòn đất ném đi hòn chì ném lại." Có người cho rằng đó là cái nợ đồng lần, nay người mai ta. Âu cũng là một điều đáng khích lệ, một thứ bảo hiểm dựa trên tình thân ái giữa con người và con người ngoại trừ một vài nố so đo hơn thiệt. Không kể những người may mắn có của ăn, dư của để, phần đông khi có đám xá cần phải tiêu những món tiền lớn, gia đình nào cũng cảm thấy thiếu hụt. Sự đóng góp của anh em thân quen và hàng xóm láng giềng mỗi người một chút giúp cho gia đình khỏi lâm vào cảnh thiếu hụt, nợ nần. Ông bà ta có câu: "Đồng tiền liền khúc ruột," xét ra, khi có chuyện vui như cưới hỏi mà khách khứa cả vài trăm người, ai cũng cứ kè kè đem quà tặng thì nhà đâu mà treo, chỗ đâu mà để trong khi tiền bạc chi phí lại đang không biết xoay xở nơi đâu. Hơn nữa, quà tặng coi có vẻ to tát, có một cái gì trong tay... nhưng kinh nghiệm cho biết, chẳng đáng bao nhiêu. Tặng quà lại cũng gây ra lắm cảnh trái ngang; có những nhà sau tiệc cưới, mười mấy chiếc đồng hồ treo tường. Không treo thì e người tặng nói mình coi khinh; treo thì nhà biến thành giống như tiệm bán đồng hồ. Thực tế hơn chút nữa, đang đêm cả mười mấy chiếc đồng hồ thi nhau báo giờ; mà nào có báo cùng một lúc; chúng như sợ không ai nghe thấy nên cứ cái nọ tiếp theo cái kia kêu inh ỏi làm phiền hà giấc ngủ. Cái kiểu học đòi thói quen người khác không đúng cách, đa số không mang lại niềm vui mà sinh ra khó xử cho người khác. Người Tây phương thường hỏi người được tặng trước khi mua đồ xem thích gì hoặc cần gì. Còn đua đòi không chịu suy xét cứ tưởng rằng người được tặng thích đồ mình mua mặc dầu mình chẳng thích gì (vì có thích chăng thì nhà đã có;) hơn nữa, đa số thường thì mua cho qua... Thế nên tặng đồ đôi khi biến thành bắt người nhận chưng bày những gì họ không thích. Và từ đó lại cũng trở thành một thứ nợ đồng lần. Kẻ bị giữ những sự không thích hay không cần thiết tiếp tục ép kẻ khác hài lòng chưng bày tặng vật bất đắc dĩ... Ai có qua cầu mới cảm thấy cảnh đoạn trường... ôm đống tặng vật, lo cày trả nợ. Đồng tiền không những liền khúc ruột mà còn giải quyết gánh nặng thiếu hụt cho gia đình có đám cưới hỏi hay tang ma.

Gia đình có chuyện vui, dù tốn phí, ai cũng cam lòng. Gặp cảnh tang gia bối rối, đã vừa bị mất người lại mang thêm sự lo lắng của ngân sách thì đó là cả một gánh nặng trần thân cho gia đình. Tiền đâu chi phí cơm nước đãi đằng anh em ít ra một phần nào gọi là cho thỏa lòng nhận biết mối thân tình của họ. Tiền đâu làm tang ma, áo quan, đèn hương, lễ nến... Không có sự giúp góp của những người thân quen e rằng đa số nhà đám muôn đời trả nợ. Sự hiện diện thăm hỏi kèm theo chút ít giúp góp khi một gia đình có chuyện tang ma không những nói lên tình tương thân tương trợ, một đặc tính tốt lành của dân Việt mà còn nhiều khi tránh cho nhà đám cảnh lầm than khổ cực trong tương lai bởi nợ nần, một thứ bảo hiểm thân tình cần thiết trong cuộc sống liên đới giữa người với người.

Dĩ nhiên, cuộc đời ai không gặp cảnh khó xử ít là một lần. Tuy nhiên, sự giúp góp không bị bắt buộc giới hạn thời gian như hạn đóng bảo hiểm... Hơn nữa, nếu được coi như nợ đồng lần trong hoàn cảnh khó khăn ngân sách thì chỉ cần bớt tiêu pha chút trà chút muối cũng phần nào giải quyết được một cách dễ dàng.

Ai là người không nhận ra giá trị của việc ăn uống nơi đám xá, khi có việc, cứ làm cỗ bày ra đó, chẳng có ma nào đến ăn mới hiểu thấu được nỗi lòng cô độc trơ trụi. Cuộc đời, đâu cũng thế, hòn đất có ném đi, hòn chì mới trả lại.


Cùng quí độc giả,

 Nói về văn hóa dân tộc sẽ không bao giờ cùng... Hương Hoa Dân Việt ra đời mang ước vọng ngưỡng mộ phần nhỏ gia tài văn hóa Tiền Nhân Dân Việt để lại theo cảm ứng giới hạn và thiển kiến cá nhân; do đó, thiếu sót và lầm lẫn không thể tránh khỏi. Chính vì thế, đôi dòng này thay lời ngỏ tới quí thức giả với hy vọng đón nhận những ý kiến bổ túc cho lần tái bản.

LÃ MỘNG THƯỜNG





Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả