Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]








___________________ TÌNH ƠI VỖ CÁNH

-Anh đâu có thể viết lách như nhà văn, làm sao biết về thuốc men giống bác sĩ, hoặc sửa xe giỏi bằng thợ máy... Anh chỉ là kỹ sư kiến trúc...

-Hương không thể yêu được người thua kém hết mọi người...

Thế rồi tiếng ống nghe chát chúa đập trên điện thoại tựa nhát búa vạn cân dội qua, xuyên thủng màng nhĩ xoáy tận tâm não Hùng kèm theo âm điệu u u... kéo dài, nhạo cười nét hụt hẫng tâm tư như kết quả của mảnh tình vỡ tan. Ngước mắt ngẩn ngơ nhìn qua cửa kiếng, hàng hàng lớp lớp xe nơi bãi đậu bỗng như đồng loạt rồ máy tranh nhau xông về phía chàng; tiến tới đi, cán nát thân thể ta tan ra thành cát bụi cho bớt tê tái. Ta đang cần sức mạnh vũ bão nổ tung giúp niềm đau trào thoát khỏi lòng quặn thắt; niềm đau nung nấu nước mắt bốc hơi, ép nghẹt con tim thôi bơm máu, co thắt buồng phổi chận đứng liên lạc với thế giới bên ngoài dù chỉ qua làn không khí. Ta muốn hét lên giải tỏa sức dồn nén tái tê mà không còn hơi sức! Hỡi loài người, các người độc ác vì nàng đã hất hủi ta, bởi ta không thể trở thành thằng phỗng nhưng đầy quyền năng như nàng mong muốn. Hãy xúm lại bầm nát ta đi; hãy nguyền rủa vì ta chỉ là mộtkỹ sư kiến trúc không biết gì về thuốc men, không nói được những lời văn chương bóng bẩy làm mát dạ nàng. Ta vô dụng, ta vô dụng dưới ánh mắt kiêu sa đầy tham vọng. Ta đã không có tài năng dọn đường cho bóng dáng ngà ngọc bước lên tuyệt đỉnh danh vọng, chốn vinh quang chỉ mình nàng đáng được hưởng cho loài người tung hô; những lời chúc tụng gào thét bật ra từ rừng cửa miệng mọi nơi mọi chốn. Sao các người cứ mãi nhởn nhơ cười nói không thèm nhận biết nỗi khốn cùng ta mang để họa may buông đôi lời an ủi hoặc tệ hơn quăng cho ánh mắt ngần ngại xót thương.

Tiếng u u... nơi ống nghe điện thoại biến thành nỗi thất vọng ê chề; lời trăn trối xua đuổi đắng cay thấm nhập cơ thể làm tiêu tán năng lực sinh động nơi chàng kỹ sư kiến trúc không gian, Hùng, thân tự lập thân từ ngày vượt biên, may mắn được bảo trợ vô đất Mỹ theo diện mồ côi, chồng chất từng cố gắng bon chen với cuộc sống, nhịn thèm những bữa cơm thịnh soạn ngào ngạt mùi vị quê hương mỗi khi bất chợt đi ngang qua nhà hàng Đông Á. Mùi phở lan rộng theo gió quyện thêm hương nhẹ rau húng, ngò gai gợi chàng tưởng nhớ những ngày xưa dấu ái. Tám năm trời đằng đẵng từ thân phận bơ vơ câm điếc giữa xứ người kéo về tâm tưởng... Những nỗi cô đơn được đàn áp bằng sự cần cù miệt mài với sách vở mong đón nhận mảnh tương lai bù đắp... Tất cả như tan biến theo lời nói cắt đứt mối ân tình của nàng. Có nàng, chàng có tất cả và đứt đoạn với nàng, chàng cảm thấy hiện tại lẫn tương lai tiêu tán... Thẫn thờ nhìn ống nghe điện thoại công cộng cầu mong một phép lạ viễn vông hình thành nơi cõi lòng mất mát bất chợt được nàng gọi lại bởi quay điện thoại lộn số, Hùng treo vào quai máy, đôi vai chùng xuống kéo theo chiếc đầu cúi gầm do sức yếu ớt của cần cổ đã bị mất hết năng lực cố hữu khiến không thể ngước thẳng. Nỗi thất tình chợt đến làm cơ thể chàng thèm được co rúm lại; đôi tay thừa thãi muốn đứt lìa khỏi bả vai chậm chạp tìm hai túi quần; thân xác tựa làn dây thung bị sức kéo dãn đến tột cùng muốn co thắt trở về vỏ ốc tư duy, nặng nề lê bước chân ra xe đậu nơi bãi.

Buồn! Không đúng, những cố gắng không ngừng nghỉ tranh đấu với thực tại để vượt qua bao khó khăn từ cuộc sống thể chất lẫn tinh thần tạo nên năng lực phấn đấu không cho phép chàng chấp nhận dù chỉ là cảm nhận buồn. Hương ơi, cuộc đời ai không bao giờ gặp cảnh khó khăn cần lòng kiên nhẫn! Mà có nên kiên nhẫn đuổi theo trái bóng bay đã vuột khỏi tầm tay, hoài công ráng sức vươn lên khoảng không gian vô hạn tìm bắt điểm tựa ảo tưởng? Trái bóng dẫu có bay cao cách mấy thì cũng bị những làn gió vô định đẩy đưa mông lung, tròn xoay đến hết hơi sức để rồi qua đêm, nơi miền xa lạ hoang vu nào đó xìu nhược bơ vơ không ai biết đến hoặc rơi nhằm vườn trẻ lại trở thành trò chơi cho những bé em vô tình dày đạp. Trái bóng càng chóng vươn cao, càng chóng đi vào lãng quên dẫu được nhiều người giương mắt ngó... Em mộng cao quá Hương ơi! Dầu sao, anh chỉ là con người với những giới hạn...

Thất vọng! Không! Nào có chi hy vọng mà thất! Ly Hương, tên em tự vô tình đã mang nỗi niềm từ giã; anh dù cố gắng mơ ước gần gũi cách mấy cũng đã sớm nhận ra cảnh biệt ly từ dạo mới quen. Được lớn lên nơi môi trường phát triển thuận lợi, em trở thành mỏng dòn dễ vỡ bởi chưa vương vấn bụi trần. Khó khăn, tranh đua ngoài đời đối với em chỉ là huyền thoại vì lớp bọc điều bao quanh phận số tạo tham vọng ngút ngàn. Thương em, lòng anh quặn thắt nhìn chiếc bóng bay dật dờ vô định đuổi theo viễn ảnh quá tầm tay, mờ mờ thôi thúc. Những trắc trở nhỏ nhoi chưa đủ giúp em nhận ra tính chất thơ ngây đơn thuần đang dần phải đối diện với mọi mưu đồ lừa lọc nơi thực tại cuộc đời. Cứ mỗi lần nghĩ về viễn ảnh đớn đau ấy, kết quả cuộc chơi đuổi bắt trong tương lai sẽ xảy đến được mường tượng chợt hiện ra theo nỗi âu lo thương xót, lòng anh quặn thắt e sợ vết hằn tàn phá dáng mỏng manh. Người trong cảnh ngộ còn mãi mê say theo mộng hờ chiến thắng; kẻ đứng nhìn tan nát tâm can; còn dằn vặt nào đau đớn hơn, còn tê dại nào cảm xúc có thể nhận... Con tim bầm dập chỉ còn biết trơ mắt ngó thực tại phũ phàng nghênh ngang tràn tới cuốn hút người thương. Ly Hương, biết em không thuộc về mình từ độ mới quen thì có chi thất vọng... Chẳng có cuộc đuổi bắt nào hiện thực khi lòng mình không ươm hình chiếm giữ. Anh mang niềm mơ nhỏ bé nghe giọng em thì thầm qua đường giây điện thoại nay hiện nguyên hình khoảng cách xa xăm của căn nhà được bọc hàng dậu kín, cho mình anh ôm nặng nỗi xót xa.

Thân xác nặng nề do lòng đầy muộn phiền hụt hẫng, Hùng gieo người vô tay lái. Tình yêu đã bị cắt đứt; còn gì đáng cho chàng đeo đuổi với những ngày tháng còn lại. Tiếng cửa xe đóng ngăn khoảng không gian cách biệt với thế giới bên ngoài, ngắn gọn nhưng êm hơn tiếng cúp điện thoại. Em ơi, thế là hết; mọi ước vọng tương lai đôi lứa đã như mây khói bay theo mộng tưởng em mang. Mùi hương nào phảng phất đâu đây còn sót lại của ngày xa xưa ấy; con chim bé bỏng thơ ngây lạc lõng nơi lề quãng đường vắng, run vì lạnh vẫy tay nhờ người giúp bên chiếc xe xẹp lốp nghiêng một góc chúi bên đường. Chiếc Toyota xinh xinh màu xám đậm, màu mới nhất thi thoảng thấy xuất hiện qua lại trên xa lộ, mang bảng số tạm chứng tỏ mới mua. Những đắn đo suy nghĩ nhảy lẹ trong óc, nếu là mưu mô không ai mang xe mới ra làm thí nghiệm; thái độ cô bé luống cuống thiếu tự nhiên, đầy vẻ vụng về không thể nào là cử chỉ của kẻ cướp đường; bộ đồ cùng màu xám chiếc xe ôm sát trên người hòa với mái tóc đen chấm vai tạo cho nàng vẻ mi nhon kênh kiệu. Mái tóc đen giúp Hùng vững tâm... nhưng biết đâu! Vội đạp thắng đủ để vượt qua xe nàng rồi mới dừng lại, nhào người qua hạ hé cửa kiếng bên kia đoạn ngồi chờ... Chàng cố ý đậu sát lề xe chạy; nàng phải đi vòng cửa kiếng bên kia..., và qua kiếng chiếu hậu, lần chót Hùng theo dõi đối tượng... nếu có gì nghi ngờ... dọt!

Làn gió nhẹ quẩn theo khí lạnh xa lộ khoanh đôi tay nàng trước ngực tạo thêm vẻ yếu ớt thu gọn, cố co ro phô bày nét bơ vơ của một cánh chim lạc bầy. Càng lộ nét lạc lõng hơn với đôi giầy cao gót khập khễnh bước trên lề đường đất nghiêng, cỏ hơi cao do thiếu được chăm sóc cắt xén, nàng tiến tới cửa hông bên kia tay lái đoạn cúi người vừa tầm kính hạ thấp, giọng run nhẹ do thời tiết giá lạnh ảnh hưởng kèm theo đôi mắt chứa chan hy vọng nhờ cậy:

-Could you please help...

-Cô là người Việt nam.

-Dạ phải, xe em bị xẹp lốp; anh làm ơn giúp dùm được không?

Ngần ngại suy tính thoáng qua trí óc, để nàng đứng ngoài gió lạnh coi chừng bị cảm nhưng cho nàng ngồi vô xe phỏng có phải liều mạng nhất là trong thời buổi dẫy đầy tin tức đáng nghi ngại xảy ra trên xa lộ... Hùng nghiêng qua mở chốt cửa... thuận tay đẩy nút sưởi lên mức tối đa.

-Vô trong xe tránh gió lạnh.

Nàng không kịp ngần ngại, gọn lỏn bước vô xe đưa tay giập cánh cửa, quay kiếng, đôi hàm răng khua lập cập. Chợt Hùng sang số đạp chân ga cho xe tiến tới.

-Ông làm gì vậy? Nàng thét lên lanh lảnh quên run vì lạnh trong khi tay mở cửa xe...

-Cho chừa dám bước lên xe người lạ.

-Dừng xe cho tôi xuống nếu không tôi nhảy. Giọng nàng hốt hoảng đến độ tội nghiệp.

-Không được ngu dại như thế, nhảy sẽ té què giò...

-Nhưng...

-Không nhưng chi hết, bình tĩnh! Đã ai ăn thịt cô đâu; từ nay chừa tội liều ẩu.

-Tôi nói dừng xe lại.

Hùng đạp thắng cho xe chậm lại từ từ...

-Ngồi im, tôi de trở lại bơm bánh xe. Đóng cửa lại, bộ cô nóng lắm sao.

Cô bé tròn mắt nhìn chàng ra chiều quái lạ hình như không thể tin được những gì vừa nghe.

-Chứ sao anh chạy xe đi?

-Tôi cũng sợ như cô thôi, lỡ ra gặp tụi ma giáo "trích".

-Tưởng gan to lắm ai ngờ cũng sợ... Nàng lộ vẻ an tâm, nói vớt vát để tự trấn an.

Hừ, mới hét lên chói lói vì hoảng hốt mà đã vội bẻm mép, Hùng cảm thấy vui vì thái độ của cô bé, định nói lời ngạo nàng làm quen nhưng lại e lỡ phiền lòng kẻ nghe...

-Ai mà không nghi ngại, vì có thể phiền hà đến thiệt mạng.

Lùi trở về gần xe nàng, Hùng lục nơi sàn xe phía sau lấy ra bình hơi ép dự trữ...

-Xe anh như một ổ chuột, nhất là mùi thuốc lá đến nghẹt thở.

-Xin cảm ơn về nhận xét đúng đắn, nhưng "A clean car is the sign of a sick mind."

-Anh học lõm được ở đâu thế?

-Ở phía sau xe tôi mà. Đừng lắm miệng ý kiến lung tung nữa, bây giờ bơm hơi tạm rồi chạy theo tôi tới cây xăng gần nhất thay vỏ xe chứ ở bên đường lạnh thâm môi trông tội lắm.

-Á, anh nói xéo tôi có phải. Tôi không cần nhờ nữa đâu.

-Hừ, tự ái to như cái núi! Ai mượn không "make up"?

-"Make up" làm gì, chỉ chứng tỏ sự che dấu.

-Ai ngờ trên đời này có người dám hãnh diện phát biểu mình đẹp...

-Sao chưa chi anh cứ đía tôi vậy?

-Tôi khen cô dám nói thật mà chưa vừa lòng ư? Thông minh quá hóa ra suy nghĩ trật duột!

-Thế mà lâu nay tôi cứ nghĩ mình dốt đấy chứ!

-Bây giờ cô muốn tôi bơm vỏ xe hay cô bơm...

-Tôi nhờ anh mà, thôi đi, năn nỉ!

-Ráng thưởng thức ổ chuột của tôi một lát rồi lái theo nghen!

Vài phút sau, Hùng lái xe chạy trước; nàng theo sau chừng năm dặm tới một cây xăng. Đoạn đường bỗng nhiên thật vui... Đã bao lần qua lại từ Pass Christian tới trung tâm NASA, chưa khi nào lòng chàng phấn khởi như hôm nay. Bầu trời chợt như bừng sáng, hoa lá, cây cỏ reo vui bởi được gió thì thầm san sẻ niềm hạnh phúc vừa chợt đến với chàng. Thường ngày trên đường tới sở, chàng lái xe bất kể sống chết... Biết bao chuyến đi về, đâu khi nào cảnh vật ảnh hưởng ý nghĩ và được chàng để ý như hôm nay. Nào những chương trình, những đồ hình không gian, những "projects", những cuộc thí nghiệm ngập tràn không cho phép đầu óc suy nghĩ mông lung. Có chăng, hình ảnh lênh đênh của con tàu nhóm chàng làm việc ngoài khơi mỗi lần đi công tác đo ám sóng tiềm thủy đĩnh địch. Một vài lần gặp tàu Nga cũng cùng công việc, nhân viên hai tàu đối nghịch ra ký hiệu chào nhau cầm chừng... Mới một năm đi làm, sáu tháng lênh đênh; cuộc đời chàng như được sắp xếp để miệt mài say mê với những khám phá, kiểu mẫu mới chạy đua với sự đua chen tranh sống của loài người... Có lần còn đang bận suy nghĩ về với dự án thiết kế thêm vài bộ phận cần thiết cho trạm không gian, tiếng còi hú éo éo xuyên qua áp lực không khí lọt vô xe... Chiếc đèn xanh chớp nhoáng liên hồi sát phía sau khi chàng chợt tỉnh ngó vô kiếng chiếu hậu...

-Good morning sir, may I have your drive licence? Your speed was over 80.

Từ tốn đưa bằng lái xe cho người cảnh sát kèm theo thẻ nhân viên cảnh sát cũ ba năm trước, có thời giờ, chàng dự khóa huấn luyện sáu tháng định gia nhập nhóm bạn dân ngày ấy.

-Hey friend! Don't let me run after you anymore. Have good day but drive the grave away... Good luck.

Cũng hên, không ngờ cái thẻ nhỏ xíu có giá trị hơn tờ giấy xanh ba số... Hùng mỉm cười với nhân viên cảnh sát:

-Don't worry! It's too early to see God for I am not ready yet. Thanks, bye then.

Tới trạm xăng lúc đèn đường vừa chợt bật sáng. Trời tháng hai mau tối và vẫn còn khá lạnh, Hùng ra hiệu cho cô bé đậu xe lùi vô phía hông cửa tiệm tương đối khuất gió...

-Kéo cần mở trunk...

-Cần nào?

-Phía dưới ghế ngồi bên góc trái.

-Em có chìa khóa mà.

-Ừ thì ra mở.

-Khoan, chỉ cho em kéo cái nào.

-Đó, kéo nhẹ lên, nắp trunk sẽ được mở. Thế chưa bao giờ thử?

-Chưa, vậy vỏ xơ cua đâu có chạy lâu được, lại phải thay, sao không vào tiệm vá vỏ xì này.

-Giỏi, lái xe mà không thèm biết xe mình có những gì lại còn dám leo vô xe kẻ lạ... rồi la hoảng lên.

Trời mát lạnh mà cô bé hồng lên đôi má.

-Ai mượn anh nói em vô, lạnh chết người.

-Cho đáng đời, thích khoe cặp giò đẹp đời nào không lạnh...

-Đủ rồi, thưa nhà phê bình thẩm mỹ... Hay em lái về tiệm vá vỏ luôn.

-Dĩ nhiên lối nào cũng phải vá nhưng hiện giờ không chạy nhanh được. Thay vỏ xơ cua vô đã.

-Thay vô rồi lại phải tháo ra lần nữa.

-Đã bao giờ thèm ngó đến nó chưa?

-Chưa, vỏ xơ cua nào chả thế, chỉ được dùng tạm thời!

-Rồi biết.

Hùng loay hoay lấy bánh xe ra khỏi trunk.

-Thử so sánh với mấy bánh xe kia xem thế nào... thợ bói.

-Ủa, sao nó to thế này, thường thì nó nhỏ cơ mà!

-Có lẽ hãng xe ráp lộn. Coi như may mắn. Xe còn mang bảng số tạm, mua được bao lâu rồi?

-Một tuần, quà tặng của ba me mà, chứ tiền đâu mua.

-Tặng vì gì?

-Mới xong cái "bắc".

-Bắc chi?

-Anh là nhân viên điều tra hay chánh án?

-Kẻ bắt cóc người dại dột; muốn biết điều kiện gia cảnh để đòi tiền chuộc. Nói, bắc gì, nộp đơn đi làm chưa?

-Chưa, ba năm nữa...

-Định học gì mà những ba năm?

-Dược.

-Ah, thì ra dược sĩ tương lai. Chẳng khai cũng biết Biology. Đang học ở đâu lận?

-Birmingham.

-Xong màn thẩm vấn, thôi, cho phép vô tiệm đứng kẻo bị cảm lạnh biến thành con mèo đỏ mũi thì phiền.

-Như thế bất công.

-Bất công gì?

-Chưa khai chức vụ kẻ bắt cóc.

-Cần không?

-Cần thì không nhưng "be fair".

-Khai lý lịch mà tên cũng không thèm nói lại đòi fair. Nói đi!

-Nói chi nữa?

-Tên.

-Ly Hương. Còn anh?

-Họ.

-Gì mà cứ như nhà thẩm vấn cộc lốc. "Họ", giống như hò trâu kéo xe ngừng lại.

-Ai cộc hơn ai! Họ gì?

-Anh nói tên trước.

-Thôi được, Nguyễn Tiến Hùng.

-Nghề nghiệp.

-Ai đang thẩm vấn ai?

-Học theo anh thôi. Tiếp, nghề! Ly Hương coi bộ thích thú với lối nói ngắn gọn, nhát gừng này.

-Vô tiệm đi, lạnh run rồi kìa.

-Anh muốn đánh trống lảng?

-Người ta quan tâm mà. Vô tiệm đứng dùm, em đứng trong đó tôi ấm ngoài này.

-Cái miệng anh khá quá, mới nói thế mà đã không thấy lạnh rồi. Trả lời tiếp, nghề!

Nàng như một cô bé bướng bỉnh vui tươi, nằng nặc đòi cho bằng được điều mình muốn.

-Nghe xong vô tiệm đứng nghen! Không có nhì nhằng nữa. Kiến trúc.

-Anh chưa nói làm ở đâu mà!

-NASA. Vô tiệm đi thôi, tôi đang vội, cứ nói lang thang bao giờ mới xong, sáu giờ rồi.

-Kiến trúc sư... Thế anh phải vô NASA bây giờ sao?

-Không, đi New Orleans.

-Ồ, sorry, không ngờ em làm phiền anh quá, lỡ trễ đào bỏ thì tiêu tán đường.

-Đường đâu mà tiêu...

-Chứ chi mà quan trọng đến thế.

-Có người bạn lập gia đình mời tham dự "reception".

-OK. Không nói nữa để anh đi sớm.

-Quên, họ gì?

-Anh cần đi gấp mà!

-Nói.

-Anh không đi New Orleans nữa sao?

-Đã nói là quên!

-Đỗ.

-Đỗ Ly Hương?

-Đỗ Vũ Ly Hương.

-Vượt biên lúc trời mưa bị té, hèn chi rét run.

-Tên em đẹp thế mà anh dám giải nghĩa tào lao. Vậy Nguyễn Tiến Hùng mang ý gì! Tiến hùng, túng tiền; túng tiền là nghèo; nguyễn nghèo là ngoẻo nguyền; nguyền rủa cho mau chết.

-Sao mà mau chết?

-Anh thông minh mà chậm hiểu; nguyền rủa cho ngoẻo, không chết thì hai năm mươi.

Đang lo ráp bánh xe bỗng nghe Ly Hương diễu phiếm tên mình mang nghĩa trù ẻo cho mau chết, Hùng chợt cảm thấy nàng khá thông minh và mau miệng. Ai mượn dám cả gan mới gặp đã đía, chàng thầm nghĩ, cho đáng đời! Tuy nghĩ thế nhưng Hùng tự cảm thấy lòng khá thân thiện với người con gái vô tình mới quen này. Đã bao lâu nay chàng cố kiếm một người bạn gái mong sao cho hợp ý mà vẫn bóng chim tăm cá. Nhan sắc không thành vấn đề, miễn sao cho thông minh, lanh lợi, chàng muốn có một người bạn gái tự lập và tin vào sự thông minh sáng kiến của chính mình, dám suy nghĩ, mở rộng để chấp nhận những gì mới lạ đồng thời cũng dám xét lại những thói quen vô ích để từ bỏ. Định nghĩa Đỗ Vũ Ly Hương là vượt biên lúc trời mưa bị té đã là quá xạo và táo bạo; đàng này bẻ quẹo bẻ quặt rồi nói lái ngược xuôi biến Nguyễn Tiến Hùng thành nguyền rủa cho mau chết, nàng ắt hẳn rất thông minh, hèn chi học dược. Cứ so sánh giữa hai cái miệng, chàng thua đậm nhưng lại chẳng lấy thế làm mảy may tức mà còn cảm thấy khẩu phục tâm phục...

-Chịu thua một không. Có lẽ tôi phải "tune up" lại cái miệng cho khá hơn mới hy vọng huề được sau này. Ly Hương, làm ơn vô tiệm đứng, lạnh thâm hết môi rồi... Coi kìa, đứng khoanh tay như thế nào có ấm hơn được chi.

-Hy vọng huề thì sẽ chẳng bao giờ huề được vì đó chỉ là hy vọng mà hy vọng thuộc về may rủi, không thể nắm chắc. Còn có một con tán nữa thì vô tiệm làm chi. Em mới run thôi mà! Hơn nữa, công việc nào không cần "supervisor" để khuyến khích và hướng dẫn!

Có xe, không biết kéo nút mở trunk, không biết giỏ xơ cua lớn nhỏ, to bé thế nào mà dám lẻo mép làm cai, quả thật cô bé láu cá nhưng thông minh... Mặc dầu nói trống không nhưng ẩn chứa sự thân thiện, biết ơn, lại biết điều. Dĩ nhiên, nhờ người khác làm việc gì thì mình cũng nên có mặt để chứng tỏ sự quan trọng của họ và sự quý mến, tôn trọng họ nơi mình... Nhưng trường hợp này đâu cần thiết, Hùng e ngại Ly Hương sẽ bị cảm lạnh bởi đã phải chờ xe lâu bên đường... Ngược lại, nàng coi bộ không cần biết đến giá lạnh mặc dầu run, cứ tươi vui với cái miệng như con sáo biết nói thích líu lo.

-Có lẽ Ly Hương đội giỏi lắm.

-Chưa thử bao giờ nhưng biết chắc cứng cổ. Anh không trả thù được đâu...

-Khá thông minh nhưng làm ơn vô xe... tôi nào có ý định gì đâu mà được với không.

-Anh chưa hạ con độn mà!

-Vô xe đi, muốn nói tiếp thì quay cửa kiếng xuống... không chừng bị cảm lạnh.

-Khoan, em phải vô tiệm chút...

Ly Hương rảo bước vô tiệm. Trông nàng mỏng manh như làn khói nhưng lại mang đầy vẻ mi nhon mặc dầu dáng dấp hơi run bởi lạnh. Lúc trở ra, tay cầm bình hơi ép đưa cho Hùng:

-Cảm ơn anh nhiều, trả lại bình hơi ép của anh.

-Em giữ luôn, cứ coi như món quà hạnh ngộ... Để nó ngay ở ghế bên tay lái và mỗi khi bước vô xe, nó sẽ nhắc nhở vai trò supervisor bất đắc dĩ ngày hôm nay...

-Anh không biết tán phái nữ chút nào nên nếu có vợ sớm chắc cũng do bố mẹ cưới cho... Bỏ bình hơi ép vào trong xe của Hùng, miệng Ly Hương tiếp tục liến thoắng. Bởi thế, xe thì dơ dáy, miệng lại quá quắt, có lẽ chị ấy phải đi bác sĩ thẩm mỹ thường xuyên...

-Xin cảm ơn em đã nói lên những nhận định tuyệt vời nhưng trật lất. Áo anh còn đang rách vai làm sao cần đến bác sĩ giải phẫu thẩm mỹ miệng.

-Chưa cần bác sĩ giải phẫu tại vì đồ hình anh vẽ chưa được hay chưa gặp?

-Gặp rồi nhưng không cần vì nó đâu có cơ hội ăn da non.

-Thế ra anh bảo em lắm điều?

-Chính em vừa xưng ra sao lại dámngang ngược đổ vạ cho anh. Em quên rằng vỏ quít dày sẽ gặp móng tay nhọn cho đuề huề hay sao?

-Vậy là một đều, anh đấu em cay cú như vậy phỏng đã đủ bù đắp công sức thay giỏ xe chưa?

-Nào có ai đòi công lao đâu mà đủ với thiếu. Cứ tạm gọi là buổi ra mắt, khai khẩu gặp may nên bất chiến tự nhiên thành.

-Anh nói gì bất chiến tự nhiên thành? Ah, không ngờ mới đầu coi bộ anh có vẻ ngố thế mà tán phái nữ quá thông minh. Chắc chắn anh là người rất cô độc... Anh có còn dám cho nhận định của em là trật lất nữa không?

-Em nên học ngành tâm bệnh trị liệu mới đúng. Trễ rồi, anh phải đi, hy vọng gặp lại... xin chào.

-Cảm ơn và chào anh, chúc anh may mắn và hữu duyên...

-Không có chi, chúc Ly Hương luôn vui tươi...

Lái xe đi New Orleans mà lòng Hùng mang lẫn lộn niềm vui cùng nỗi ưu tư khó tả. Ly Hương nói đúng; đã bao lâu nay chàng cảm thấy mình thật cô độc... Bạn bè không thiếu nhưng lòng chàng thiếu sự cảm thông nào đó. Dẫu cố gắng hòa mình và chấp nhận cuộc đời nhưng sao thấy nỗi ưu tư về thân phận và giá trị cuộc đời một người mang đầy tính chất mâu thuẫn, kỳ cục, khiến lắm lúc chàng tự hỏi tại sao mình được sinh ra và câu trả lời hình như cứ lần lữa bị gượng ép chấp nhận cho qua, không rõ ràng, thiếu hợp lý, hợp tình mà còn có vẻ giả tạo, liều lĩnh đến độ buông thả để tự an ủi rằng mình phải sống vì đã só sự sống. Dĩ nhiên, khi nghĩ đến giá trị cuộc sống thì đã và đang sống mà câu hỏi sống thế nào, sống với mục đích gì vẫn không có được sự trả lời rõ ràng. Xét về quan niệm sống lại càng làm đầu óc quay cuồng tăng thêm ưu uất bởi những quan niệm đối nghịch không phương hòa giải. Bao nhiêu người đã qua với muôn ngàn lý thuyết để lại, nào là duy vật, duy tâm, nào duy linh, duy thực, nào hiện sinh, duy lý... chẳng có cái duy nào được coi là hoàn hảo. Con người đâu phải chỉ là cái đầu say mê cả mớ tưởng tượng không hiện thực. Con người cũng đâu phải chỉ là thân xác đơn thuần lầm lũi kiếm miếng ăn cho thỏa cái dạ dày kêu réo. Chẳng những thế, cuộc sống còn có những liên hệ chồng chất tạo thành lắm thứ tham sân si mà nhà Phật gọi chung là cái dục.

Chẳng nói đâu xa vời, ngay như giây phút hiện tại đang lái xe, chàng đã phải tuân theo muôn thứ luật giao thông nhưng vì quá quen thuộc nên không để ý. Không thể cho xe chạy với vận tốc 30 dặm trên xa lộ mà vận tốc giới hạn chậm nhất là 45 dặm một giờ, cũng không thể chạy giữa vạch phân chia đường, không chạy sát phía sau xe khác quá vì dễ gặp tai nạn v.v... Chính giây phút đang lái xe mà đặt vấn đề duy vật hoặc duy tâm để mơ tưởng quên cả lái xe thì chỉ mau tới nấm mồ duy linh. Tất nhiên, không biết sống cho phút giây hiện tại sẽ chẳng có tương lai và chỉ ăn năn về dĩ vãng bởi mình đã không biết sống trong khi câu hỏi sống để làm gì lại cứ mơ hồ dường như chẳng bao giờ có câu trả lời thế rồi chấp nhận tạm sống theo bản năng. Đời người thọ lắm bẩy, tám mươi năm, lúc chết đi phỏng còn lại gì? Bao nhiêu người đang sống và đã qua, ai không tiếc nuối vì đã không thực hiện được những ước mộng thời son trẻ? Họ đã sống thế nào, đã làm gì mong hoàn thành niềm mơ cao vời nào đó và sự ăn năn vì đã lỡ để tiêu hao cuộc đời cách vô ích dằn vặt tâm tư họ như thế nào? Phỏng mình có thể chấp nhận sống cho qua, sống không mục đích, ngày ngày lầm lũi kiếm miếng cơm manh áo chờ lúc chìm vào lãng quên như đã từng không hiện hữu nơi cuộc đời? Bao nhiêu chim chóc, cây cỏ, bao nhiêu thú hoang, vật lạ, bao nhiêu kiếp người đã xuôi tay nhắm mắt vì cuộc đời đã được coi như thừa thãi nên đành chấp nhận trở về hư vô, đến từ cõi không và mất về cõi không! Cuộc đời một người nếu giá trị chỉ có thế thì tệ hại hơn là đừng được sinh ra vì sống vô ích thì chỉ thêm chật đất, khiến đồ ăn thức uống và vật dụng mắc mỏ thêm, làm cho người khác khó sống thêm. Sống vô tích sự, nếu nhìn theo khía cạnh này, tự nó đã mang án đáng bị nguyền rủa vì đã làm khổ những người khác... một cuộc sống nhục nhã, thừa thãi, không đáng sống.

Có lẽ chính vì không có một mục đích theo đuổi hướng dẫn cho cuộc đời trong khi khát khao nó, người ta dễ dàng bị lầm lẫn nên dùng phương tiện cho sự sống làm mục đích để rồi chạy theo. Thế nên, đã chẳng thiếu gì cảnh đam mê làm tiền đến nỗi đánh mất cả hạnh phúc gia đình, bỏ rơi con cái vì quan niệm sai lạc, tỏ tình yêu thương bằng cách chỉ biết làm tiền thay vì nhận xét để hiểu rõ hơn nhu cầu tình cảm của người phối ngẫu cũng như những điều kiện cần thiết cho một mái ấm gia đình, đến lúc chuyện đã lỡ mới nhận thức được thì quá muộn màng. Có người lại tưởng rằng ăn xài, vui thú này, hưởng lợi kia, biết hết mọi sự theo ý thích dù có chết cũng không phải tiếc nuối... Từ đó những hình thức, kiểu cách đối xử, ăn chơi, mánh mung dành tư lợi, hoặc xiêu chiều làm tôi mọi bản năng đã được thăng hoa trở thành những điểm tới đầy hấp dẫn và dễ dàng đạt được giữa muôn chiều sóng cuộc đời đẩy xô dồn ép khiến con người quay cuồng không thể phân biệt rõ ràng và cũng không muốn nghĩ tới chủ đích sống hoặc nhận định giá trị làm người của mình. Nào có lạ gì, những ai càng cần phải nhịn ăn để bớt mập thì lại càng thèm ăn và ăn càng ngon nên thích ăn; những gì con người thấy không nên thì lại càng hấp dẫn. Bởi vậy, ai nhận ra bản tính và chiều hướng bình thường của con người để rồi dám đối diện với sự thực lòng mình mong canh cải cho có cuộc đời vươn lên thì lại trở thành không giống những người chung quanh.

Lẽ đương nhiên, là người, ai không kinh nghiệm đã nhiều lần có những hành động phi lý và kỳ cục. Những chuyện chẳng hợp lý, hợp tình đã xảy ra nhiều đến độ ảnh hưởng cả ngôn ngữ tạo thành lời nói ngượng ngạo "tức cười." Phỏng đó là sự thường của cuộc đời hay đó là tính chất người cho nên không ai tránh thoát? Phỏng có phải cũng vì những điều nghịch thường ấy lại cứ thường được xảy ra nên đã có những người không muốn đối diện thực tại cuộc đời do đó muốn trở thành mê thay vì tỉnh. Thế rồi người chấp nhận cuộc đời với những nghịch ngạo, coi chúng là sự thường để hòa đồng sao cho giống như mọi người, phỏng được coi là thường tình hay bất thường? Tất nhiên, giòi bọ thì rúc rỉa như loài giòi bọ và những sinh vật nào không chui rúc trong vũng bùn lầy của chúng đều là bất thường đối với chúng; người tỉnh giữa đám người điên sẽ là kẻ điên độc nhất. Kẻ muốn mê đi để chấp nhận hòa nhịp, để con tim khỏi bị thổn thức do thực trạng ngập đầy hỗn mang bởi càng tỉnh, lòng mình càng ray rứt, thống khổ gấp ngàn lần mê, phỏng có được sự yên ổn tâm hồn tránh khỏi phải đối diện với những thao thức giá trị làm người?

Càng suy tư, Hùng càng cảm thấy lòng mình hoang dại, bơ vơ tựa cung đàn lữ thứ, lạc lõng giữa mọi âm thanh nhốn nháo, gượng gạo nơi dòng đời. "Chắc chắn anh là người rất cô độc," nhận xét của Ly Hương gợi về kéo theo dáng dấp mi nhon tựa nốt nhạc tươi vui phá vỡ cung điệu trầm buồn nơi bản hòa tấu. Ơ, sao cô bé cứ luẩn quẩn phá đám mình mãi thế này, chàng tự hỏi. Mới chợt đặt vấn đề, dáng dấp, giọng nói, nét mặt, cử điệu của Ly Hương đã tuần tự diễn tiến tạo cơ hội cho chàng hồi tưởng về hình ảnh người con gái vô tình gặp gỡ vừa qua. Hùng cảm thấy dường như sự thân thiện nơi chàng đối với Ly Hương xảy đến một cách tự nhiên ngược lại với thói quen dè dặt nhận xét người khác đã bao lâu nay cố tập luyện. Nào ai lạ gì phái nữ, họ dễ vội đánh giá trị người khác theo hình thức bên ngoài, lại thích được phỉnh nịnh; bản chất họ sống theo tình cảm hơn là lý trí nên những gì hài lòng thuở ban đầu dễ in sâu vào tâm trí. Không thế mà có người nói "phái nữ nghi ngờ tất cả những gì bạn nói ngoại trừ những lời bạn khen họ." Ngược lại chàng quan niệm tình cảm đầu tiên có được do ảnh hưởng phiếm diện sẽ làm giảm bớt sự chân thành nơi cung cách đối xử sau này. Một người có cảm tình với mình do hình thức bề ngoài trong buổi gặp mặt lần đầu sẽ nghĩ gì sau một thời gian quen biết, khi hiểu rõ hơn về con người thực của mình. Tất nhiên, ai không có những điều tốt lành đáng phục đồng thời nào ai tránh thoát được những cá tính ngược lại với những thói quen nơi người khác. Thế nên, khi bộ mặt thật lộ ra thua kém vẻ hào nhoáng buổi ban đầu nơi một người sẽ khiến kẻ khác giảm bớt mối thiện cảm đã sẵn có. Ngược lại, sự thoạt định giá về người nào đó vào thời điểm đầu tiên thấp hơn giá trị tư cách thực sự của người ấy mà mình vẫn chấp nhận, khi được nhận ra, sẽ gây mối tò mò muốn hiểu rõ thêm sau này. Chính sự tò mò khuyến khích lòng nhận thức và tạo thành mối khâm phục về một người sẽ mang lại lợi điểm cho đối tượng mỗi ngày một gia tăng. Bởi quan niệm như thế, Hùng đã không bị gò bó nơi thái độ, cách ăn mặc cũng như hình thức, kiểu cách ăn nói với bạn bè, thân hữu cũng như những người mới quen biết...

Hay là hôm nay mình ăn bận lịch sự nên được nàng chú ý? Nàng có thèm chú ý tới mình đâu mà còn chê chiếc xe dơ dáy, nặc mùi thuốc lá trong lúc cần nhờ cậy. Thái độ rất tự nhiên, thoải mái và sòng phẳng, nàng trả lại bình hơi ép dẫu nó chẳng đáng bao nhiêu; điều này chứng tỏ nàng có tư cách sòng phẳng. Hơn nữa, qua lối nói chuyện, nàng có vẻ rất thông minh lại không kiểu cách rườm rà. Chàng nói một, nàng trả đũa một cho đồng cơ nhưng khi nhận ra bị đưa vào thế hạ phong lép vế lại dám nói toáng lên rằng mình thua bằng cách đổ qua giá trả công sức. Lý do gì nàng dám xác quyết chàng rất cô độc? Chẳng lẽ chàng đã nói hở ra tâm sự gì nên nàng bắt trúng tẩy...? Hùng suy nghĩ, mình vừa lặp lại câu "Bất chiến tự nhiên thành" ám chỉ miệng lưỡi của nàng không vừa gì bằng cách đổ cho nàng tự khai do câu hỏi "Thế ra anh bảo em lắm điều?" Nàng cho rằng lối nói bóng gió của mình là phương pháp tán phái nữ quá thông minh nên xác quyết mình cô độc... Ah, cô bé lập luận suy nghĩ sắc bén... lật trúng tẩy của mình. Chắc có lẽ nàng cũng mang tâm trạng cô độc khó có người suy nghĩ tương đồng hèn chi nhận ra sự cô độc nơi mình... Ước chi có cơ hội gặp lại... Hùng lẩm bẩm.

Hùng chợt nhận ra mình để ý phân tích kiểu cách của Ly Hương và cảm thấy lòng rộn niềm vui khi nghĩ về nàng kèm theo ao ước gặp lại khiến tình cảm bâng khuâng mơ hồ nhẹ nhàng bộc phát. Thế rồi từ đó, mỗi lần lái xe ngang qua đoạn đường gặp nàng lần đầu, chàng nghe lòng mình dâng lên nỗi nhớ mông lung. Bảo rằng thương thì chưa đúng mà thầm mong vô tình gặp lại thì chẳng biết bao lần. Gặp chiếc xe nào mang màu xám đậm có kiểu giống xe của nàng chạy phía trước, chàng cố lái xe lại gần coi cho rõ... nhưng bóng chim tăm cá, hình dáng nàng vẫn biền biệt theo chiếc xe Toyota Camry xinh xắn màu xám đậm không một lần qua lại.

o o o

Thời gian chầm chậm trôi... Nơi buổi tối dạ vũ, người người thật đông nhưng sao Hùng cảm thấy nỗi cô đơn chợt bùng lớn mặc dầu cố gắng cười nói với bạn bè mong che dấu nỗi lòng bơ vơ... Cùng lứa tuổi, sao họ vui tươi, thoải mái, dễ hòa đồng, và vô tư trong khi chàng luôn mang tâm trạng khắc khoải. Một vài người lập gia đình đã có hai, ba đứa con kháu khỉnh; dăm người mới cưới năm ngoái, năm kia, mười mấy cặp đang trong thời gian chuẩn bị bản án chung thân đôi lứa... Trộn lẫn trong sự ồn ào náo nhiệt, ai nấy mặt mày hớn hở cười nói như cùng chia niềm vui với đôi tân hôn. Rồi từng cặp, từng cặp, những đôi thanh niên nam nữ dìu nhau quay tròn theo ánh đèn màu được phụ họa bởi các làn sóng âm nhạc vũ bão nối tiếp. Dẫu hút thuốc, chàng vẫn bị nghẹt thở vì khói hòa nhập với nhạc thời trang dồn dập gào thét phóng ra từ hai giàn loa khổng lồ xoáy tận màng óc. Chiếc đèn nháy xạ những lằn sáng đập vào cặp mắt nhộn nhạo bởi vòng cầu phản chiếu tạo nên cảm giác không gian quay mòng mòng khiến người ta muốn dồn hết năng lực luân vũ hòa nhịp với hàng loạt âm thanh đang thi đua vận sức thúc đẩy. Trong buổi tối dạ vũ, mọi người vui tươi, hăng say với nhịp âm nhạc hòa điệu chân bước, nhưng sao chàng lại cảm thấy mình lạc lõng. Cô dâu chú rể đã cố gắng chọn hội trường tách biệt khỏi phố xá đông người cho niềm vui bạn bè thêm trọn vẹn mà chàng vẫn thấy khó hội nhập. Từ dạo ra trường, chàng nghĩ mình có thể vui với công việc thay đổi, lúc cặm cụi với đồ hình tính toán đường bay hoặc mài miệt cho xong những bản phúc trình lê thê sau những ngày thâu nhận dữ kiện ngoài khơi lênh đênh với sóng nước, thỏa mơ ước anh hùng tính của một chàng trai trẻ khó chấp nhận lối sống buồn tẻ ngày ngày lặp lại những công việc không thay đổi như một cái máy... cũng như cố gắng hoàn thành trách nhiệm của một người con may mắn có cơ hội học hành thăng tiến bản thân, giờ là lúc báo đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục đến song thân còn đang ở lại bên kia nửa quả địa cầu...

Tâm tình đối nghịch thực tại gợi ý tìm về yên tĩnh, chàng ghé qua quầy giải khát lấy lon bia lạnh, bật nắp bước ra hành lang chạy dài phía sau hội trường hướng chiều triền dốc... Khí hậu mát lạnh của buổi tối tháng ba giúp Hùng sảng khoái. Mờ nhạt trong bóng đêm, ánh trăng tựa tấm màn tơ trải đều trên từng khóm cây, ngọn cỏ xuôi theo triền đồi tạo thành vẻ tĩnh mịch muôn phần hấp dẫn ngược hẳn với bầu khí ồn ào náo nhiệt trong nhà. Chàng lững thững bước về phía cuối hành lang nơi có những bậc xi măng nối tiếp với lối nhỏ dẫn vòng ra con suối cuối triền dốc, âm thầm luồn lạch dưới chân những hàng cây. Dòng nước phản chiếu ánh trăng nổi màu trắng bạc lấp lánh trườn mình chui vào khoảng tối một bụi cây rậm rạp. Đâu đây, văng vẳng tiếng côn trùng phụ họa giọng kêu của chú nhái đơn độc vọng về từ mé nước càng khiếng cảnh vật đêm trăng thêm thơ mộng, hấp dẫn. Cảnh vật gợi nhớ tới Ly Hương, chàng thầm nghĩ, không hiểu sao hình dáng nàng vẫn mãi in đậm nơi tiềm thức để cứ chợt nhắc nhở chàng mỗi khi đối diện những cảnh sắc mơ huyền.

-"Hi!"

Vừa đi ngang cột hiên to lớn xây bằng gạch, thấp thoáng bóng người nào đó đứng khuất thưởng lãm cảnh trăng đêm... Chàng buông tiếng chào ngắn gọn theo thói quen nhưng không quay nhìn, tiếp tục bước...

-Anh Hùng!

Chàng chợt nhận ra giọng nói hơi quen nên quay lại để ý nhìn cho rõ... Mái tóc, nét mặt mờ mờ trong cảnh tối khó nhận...

-Sao cô biết...

-Tên anh? Nàng cướp lời.

-Ly Hương... Giọng Hùng nhẹ nhàng thêm phần reo vui vì bất ngờ gặp lại. Sao em ra đây đứng một mình?...

-Hai chứ đâu phải một.

Cái miệng vẫn láu cá như ngày nào, chàng chợt nghĩ, thế ra nàng vẫn còn cay cú câu "Bất chiến tự nhiên thành." Đã vậy, đía xem nàng xoay xở ra sao.

-Em chờ từ bao giờ?

Ly Hương ngớ ra không biết đối đáp sao để chiếm thượng phong. Nàng đã nhảy xổm vào câu hỏi thay vì trả lời; Hùng mới dợm nói sao chỉ có một mình đứng thưởng trăng, nàng kéo anh chàng vô phá câu nói bởi đâu phải chỉ có mình nàng đang ở ngoài... Hùng đổi ngược gán cho nàng vào thế đợi chờ... tạo thế ăn miếng trả miếng và chiếm phần chủ động.

-Một không... Anh thù dai vậy đó hả?

-Anh đâu dám hy vọng vì hy vọng thuộc về may rủi...

-Không ngờ anh có trí nhớ khá quá...

-Có lẽ mới ba tuần nên chưa quên... vả lại...

-Vả lại sao?

-Anh cứ tiếc đã không hỏi địa chỉ của em hôm đó nên càng mơ ước muốn gặp lại thành ra nhớ...

-Nhớ gì?

-Mới lần thứ hai gặp nhau sao em cứ bắt chẹt anh. Hãy khoan nói... Hùng chợt cảm thấy Ly Hương thông minh đến độ sắc sảo, có phản ứng lẹ làng bất ngờ nên giả vờ lép vế rồi dồn nàng vào ngõ bí xem thử tầm mức phản ứng. Chàng đưa tay hướng về lối xuống dốc ra dấu mời bước dạo đoạn làm ra vẻ ngập ngừng... Cứ mỗi lần nhìn thấy bình hơi ép lăn lóc trong xe, anh lại tự đặt câu hỏi tại sao quá vô tình, sao không để em giữ nó lỡ khi có chuyện cần phải dùng đến... Thế rồi lan man nhớ lại hình ảnh cô bé co ro đứng bên đường cặp môi tím ngắt bởi lạnh; những bước chân tràn đầy hy vọng vội vàng trên lối cỏ; thái độ ngỡ ngàng đến hoảng sợ tưởng bị bắt cóc; nhất là giọng la hãi hùng của em thỉnh thoảng còn nghe vọng lại khi lái xe khiến anh cảm thấy ăn năn vì đã vô tình dỡn quá độc ác... Cứ tưởng tượng em rủa thầm mà nghe lòng xót xa... Cho anh xin lỗi nghe, người em nhỏ nhắn như thế này mà sự hoảng sợ lại quá to lớn...

Nghe giọng trầm buồn tâm sự mang vẻ ăn năn chứa đựng tràn đầy nhung nhớ, Ly Hương cảm thấy mũi lòng, kèm theo tâm trạng ngỡ ngàng, vui vui vì có người trồng cây si; nàng tỏ vẻ cởi mở:

-Chẳng ăn thua gì; hơn nữa, em đâu dại gì rủa thầm...

-Tại sao?

-Rủa thầm anh đâu có nghe mà chỉ có mình em nghe.

-Thế ra em muốn chửi lớn tiếng?

-Mới định thôi...

-Anh đang lắng nghe.

-Em đã nghĩ được câu độc ác nào đâu mà đòi nghe.

-Có cần anh chỉ cho không?

-Chỉ cách nào?

-Anh nói trước, em lặp lại.

-Bộ anh nghĩ em dốt lắm sao?

-Dốt thì không, nhưng mình làm ra kiểu phu xướng phụ tùy...

-Anh ăn gian...

-Chứ không lẽ chờ hô ầm lên... Nào nắm lấy tay cho chắc, coi chừng trượt chân... Hùng đưa tay cho Ly Hương.

Ly Hương ngoan ngoãn nắm tay Hùng vì trườn dốc nối liền mấy bậc xi măng hơi dựng đứng...

-Thế anh định hô làm sao?

-Thương quá!

Ly Hương ngất ngây bấm mạnh vào lòng bàn tay Hùng; những móng tay nhọn bấm sâu vào da thịt như chứng tỏ sự chấp nhận tình chàng bày tỏ... Và thế rồi tiếp theo những lần hò hẹn cuối tuần... Bờ biển chạy dài từ Pass Christian dọc theo Long Beach, qua Gulfport, Biloxi, đôi khi bên Ocean Springs thường là địa điểm cho đôi con tim suốt hai năm phô bày mộng ước...

o o o

Bãi biển chận đứng không cho con đường lao xuống mặt nước; Hùng thẫn thờ bẻ quẹo vô lăng ngừng xe dưới tàn cây rậm rạp được tô đậm thêm bởi màn đêm đang dần buông. Cũng nơi đây, hai người đã thường đậu xe song bước trên chiếc cầu gỗ dẫn tới chiếc chòi bát giác cho du khách câu cá hoặc thưởng ngoạn cảnh trời nước mênh mông. Như chiếc xác không hồn, chàng lầm lũi bước, bóng dáng âu sầu như vật vờ theo làn gió biển hòa nhập trong cảnh tranh tối tranh sáng của ánh chiều còn vương đọng lại nơi làn nước, lòng dằng dặc nỗi thất vọng và tiếc nuối của tâm trạng chợt vuột khỏi vòng tay một vật trân quí; không, hơn thế nữa, Ly Hương đã chiếm trọn cả cuộc đời chàng, từ tâm hồn cho tới xác thân. Có nàng, chàng có tất cả, và không có nàng, chàng mất luôn cuộc đời, mộng ước. Nàng là năng lực thêm sức sống vươn lên, nguồn suối vui tươi cũng như điểm tựa cho mọi sinh hoạt chàng kỹ sư trẻ... Kéo Hùng ra khỏi cơn mê tình cảm, tiếng còi xe lửa nổi lên giữa những âm thanh sầm sập sôi động của đoàn tàu như đe dọa chiếc cầu nối liền hai bờ Pass Christian và Bay St. Louis gợi chàng hướng mắt dõi theo lúc ngồi xuống băng ghế gỗ nơi căn chòi bát giác. Mặc dầu đoàn tàu đã được cặp đường rầy ép khuôn dẫn lối, nó vẫn còn phải nhờ chiếc đèn pha soi đường... Chiếc đèn pha giúp người lái tàu hay giúp con tàu trên tuyến đường đã định sẵn? Hùng cảm thấy ý nghĩ mình ngây ngô, tự hỏi nếu không có đèn pha, con tàu phỏng có bao giờ đến đích? Ly Hương mang đến cho chàng niềm vui, nguồn sống mới; nếu không có nàng chung bước trong cuộc đời, chàng sẽ ra sao? Những ước mơ đã cùng nhau thổ lộ có phải ngoài tầm tay với? Nhưng phỏng mộng ước của nàng về chàng có thể là điều quá quắt không thể thực hiện? Không thể thực hiện hay không biết để thực hiện hoặc tại chàng ỷ lại không muốn nhận biết và thực hiện...?

Cùng đồng trang lứa với những người khác, Ly Hương mang cả khối ước vọng lớn lao vượt hẳn ý nghĩ bình thường của bất cứ ai chung quanh. Một mái ấm gia đình với đôi tim uyên ương nàng cho là thường, là thiếu giá trị làm người, là không xứng đáng đủ với hồng ân sự sống... Nàng muốn phải là một con người khác biệt vượt hẳn bản năng tầm thường mưu sinh... biết tận dụng mọi khả năng có thể hầu giúp cuộc sống vươn lên...

-Em không muốn trở thành một cái máy tầm thường, ngày ngày tới sở làm việc chỉ để phục vụ cho cuộc đời ấm no riêng mình... nàng hơi ngập ngừng, nói cách khác, sống theo kiểu chỉ lo sao có dư của ăn của để là điều chẳng đáng gì cho em mơ ước. Nếu chỉ lo kiếm sống, chúng ta đã thấy con thú nào chết đói bao giờ đâu... có thì ăn ngon, chẳng có, cơm rau mắm cũng chưa chết ai... nhưng ý nghĩa cuộc đời một người, theo em nghĩ, mình phải có bổn phận đặt vấn đề sao cho sống không thẹn với giá trị làm người của mình... Mình được ăn học, tất nhiên mình mang ơn những người khác đã giúp mình có cơ hội ý thức giá trị sự sống... Em không muốn trở thành một kẻ sống thừa... Em nghĩ, công việc mưu sinh chỉ là điều kiện căn bản cho mỗi người phát triển những khả năng sẵn có hoặc đã được gầy dựng bằng cách nào đó, hữu ý hay vô tình trùng hợp. Tự tìm hiểu chính mình xem có thể xử dụng được khả năng nào hợp thời giúp cho cuộc sống có ý nghĩa hơn phải là điều quan trọng không ai có quyền thiếu sót. Nếu không để ý đến nhận thức này, con người đã tự chấp nhận mình sống thừa... Em yêu anh nhưng em không muốn có một người chồng ỷ lại, an phận với những gì mình có và chỉ biết chăm chuyên kiếm tiền...

-Mỗi người có khả năng khác nhau nên làm những công việc khác nhau... Hơn nữa, đâu ai có thể biết hết mọi sự; ai cũng có giới hạn riêng của mình... Anh chỉ là kỹ sư kiến trúc không gian làm sao biết về đặc tính cũng như cách chế biến thuốc men như em. Em thử nghĩ coi, giả sử đưa em tính toán đường bay vệ tinh, em sẽ thấy thế nào? Hùng lên tiếng khi Ly Hương đặt vấn đề nhận biết khả năng.

-Nói về ngành chuyên môn thì anh là kỹ sư kiến trúc không gian, em sẽ là dược sĩ, nhưng khả năng lại khác. Một người có nhiều khả năng khác nhau và khả năng nào được học hỏi, huấn luyện sẽ trở thành tài năng trổi bật hơn... Chẳng hạn ngành chuyên môn của em là dược nhưng em còn khả năng hát, chơi đàn guitar, vẽ, nấu ăn, may đồ... Anh đã bao giờ nghĩ đến những khả năng khác nơi anh chưa hay chẳng bao giờ để ý rồi cho rằng không có và không cho mình cơ hội thử? Lẽ tất nhiên, nếu mình không nhận ra con người mình thế nào, có những khả năng gì sẽ không biết những gì còn thiếu sót để phát triển hoặc những gì không nên không phải để sửa sai. Và như thế, tự ty mặc cảm mỗi ngày một lớn mạnh do nguồn gốc thiếu tự tìm hiểu mà ra...

-Không biết nào đã chết ai đâu... vì dầu sao anh cũng chỉ là một con người giới hạn... Hùng gàn bướng chống đỡ.

-Tức là anh chấp nhận thua kém hết mọi người?

-Thua thì đã sao... "Ai nhất thì tôi thứ nhì..." Chàng nói ngang.

-Em không muốn nói cù nhầy nữa; anh đưa em về...

Ước vọng của Ly Hương đã là đầu mối cho Hùng phiền muộn, và bây giờ tình cảm dứt ngang. Nếu mình chưa lo được cho chính mình, phỏng làm gì được cho ai? Mặc dầu có công việc vững chắc, lương cao nhưng mẹ và các em còn đang ở Việt Nam cần sự giúp đỡ của chàng hàng tháng... Tuy công việc tại sở không nặng nhọc gì nhưng phải vận dụng đầu óc giải quyết nhiều chuyện cần những nhận định trong giới hạn thời gian đã đủ cho chàng mệt lả khi lái xe về tới nhà... Đâu ai thuê người làm việc không đem lại ích lợi gì... Thế nên làm thuê phải chu toàn công việc theo ý người. Nàng chưa ra trường, chưa đi làm nên có thể còn đang nhìn đời bằng cặp mắt viễn mơ... Nhận xét cho đúng, sức người chỉ có hạn... do đó không ai có thể biết hết mọi sự; hơn nữa, ước mơ trở thành những gì tức là chưa đạt tới điều mình mong muốn. "Hương không thể yêu được người thua kém hết mọi người..." Lời nói qua điện thoại như một bản điếu văn chấm dứt liên hệ tình cảm...

Hùng thở dài, nhìn đoàn tàu như con sâu khổng lồ nuốt gần trọn cây cầu mà hãy còn các toa nối tiếp, bánh sắt cọ sát đường rầy rít lên chát chúa ở khúc quanh trước khi tiến vào giang san sóng nước. Tiếng rít tựa lời đay nghiến đớn đau: "Hương không thể yêu được người thua kém hết mọi người..." Trong màn đêm, cây cầu quá mỏng manh so với đoàn tàu nặng nề và to lớn gợi cho chàng sự so sánh sức chịu đựng của con người khi đối diện với những thăng trầm cuộc đời... Nhưng cuộc đời không phải là cây cầu được tính toán trước khi xây cất mà có thể là hố thẳm đợi chờ ngoạm lấy mộng mơ thiếu thực tế hoặc vội vàng non dại chưa kinh nghiệm. Ly Hương có lý khi nhận ra còn nhiều khả năng nơi một người không bao giờ được dùng đến; tuy nhiên, đâu phải cứ có khả năng là có thể thực hiện được hết mọi điều mình muốn. Làm sao có thể xây được một căn nhà tiện nghi theo ý mình giữa một thành phố nghèo nàn, dân chúng khốn khổ? Ai dám sắm xe thanh lịch nơi không có đường nhựa?... Ước mơ là điều tốt nhưng nếu không hợp thời, hợp hoàn cảnh coi chừng chỉ biến con người thành mộng tưởng...

Cơn đau tình ái khiến Hùng thấy trời hôm nay buồn lạ! Không có Ly Hương, sông nước bao la biến thành thảm cảnh. Còn đâu những buổi hoàng hôn thơ mộng cùng ngắm mặt trời đỏ rực chìm dần phía bên kia hàng cây mờ mịt... Còn đâu niềm vui nhìn đàn chim mó đói mồi lượn vòng quanh khách ngoạn cảnh đớp những miếng bánh mì tung bổng trong không khí... Làn gió nhẹ ươm nồng mùi biển mặn đã chẳng còn là năng lực sảng khoái tâm thần mà trở thành nặng nề khó thở... Nơi chòi bát giác, người người mải mê với thú vui câu cá, chỉ có chàng âu sầu câm nín... Đôi nhân tình tựa lan can thì thầm to nhỏ gợi nơi chàng niềm nhung nhớ quắt quay... Có phải tình là mối dây định mệnh dễ buộc khó mở? Phỏng nàng có nghĩ đến ta? Hoặc nàng đã có người yêu mới với đầy đủ điều kiện hòa nhịp ước mơ?...

Và rồi đã một tuần nay, Hùng gọi điện thoại, Ly Hương không muốn gặp. Buổi chiều nàng nhấc phôn, "Hương không thể yêu được người thua kém hết mọi người..." Hùng thở dài, buồn bã lê bước trở lại xe...

o o o

Không những nỗi buồn ray rứt gặm nhấm tâm tư mà chính Hùng cũng tê tái muốn lịm đi với cõi lòng rạc rài ngúc ngoắc nuốt nỗi buồn mang mang. Càng cố gắng nhận chìm mảnh sầu vào tận đáy lòng thì nỗi buồn lại càng bị dồn nén tăng thêm áp lực tựa trái bong bóng đầy hơi được xiết chặt từ từ một đầu; phần còn lại căng cứng chận ngang lồng ngực khiến chàng chừng như muốn nghẹt hơi. Những âm thanh thở dài não nuột thay tiếng nấc nghẹn thỉnh thoảng được buông ra tràn ngập căn phòng dồn bầu không khí ngưng đọng, nặng nề nỗi chán chường, lây sang mọi vật tạo nên vẻ thinh lặng của khoảnh không gian nơi bãi tha ma vào những đêm tối hanh trời yên gió. Lòng chàng ngập buồn, đơn độc, dằn xác thân ngồi đấy nhìn chằm chằm vào chiếc gạt tàn nơi làn khói thuốc đang cháy dở cố xuyên thủng bầu không khí đặc quánh ưu tư chèn ép không cho lan tỏa nên bị bóp lại thành sợi tơ mong manh nối tiếp từng sợi từng sợi theo nhau vượt lên cao bám víu vào những mảnh sơn bong loang lổ vàng khè đã bao nhiêu năm tẩm mầu nhựa thuốc. Lòng chàng tựa mảnh trần nhà bị lãng quên, cằn cỗi niềm sầu đau mong gắn chặt với mảnh tình mỏng manh, nhưng có chăng chỉ còn lại vết hằn độc hại của nhựa thuốc càng làm cho vết thương lở loét chóng lan tràn phá hủy.

Giọng nói nào của dĩ vãng chừng như mới ngày hôm qua mềm ngọt xuyên đường giây điện thoại kèm theo tiếng cười khúc khích khi chàng ví nàng giống con bọ cạp thích giơ còng giơ gọng, cong đuôi chí tử chích, quắp, giờ đã như chìm tận cõi hư vô mất mát mang theo nguồn sinh lực, bỏ lại xác thân rã rời ngập đầy nhớ nhung tiếc nuối. Chỉ vài ngày, nét đau thương biến sắc diện chàng già đi trông thấy bởi niềm đau cắn xé khiến lòng dạ lịm dần không muốn thở e sợ phần hình bóng mơ màng còn sót lại tan loãng vào thinh không. Nỗi nhớ nhung da diết dằn vặt chàng đảo điên, mường tượng như bị rơi vào chốn hỗn mang của quá khứ trộn lẫn hiện tại ẩn hiện đây đó từng ánh mắt, nét môi, vọng về lời yêu thương tha thiết. Nào những hồi hộp đợi chờ thanh âm điện thoại, những dỗi hờn nhức nhối hong đượm nét tình dâng, những đam mê quên ngủ với ước mơ hò hẹn; nào niềm đau đợi chờ nàng không đến được bù đắp bằng lời thở than, chịu đựng tha thứ. Giờ ngập đầy tê tái tràn lấp châu thân... Tình ơi! Vỗ cánh...

Có tiếng kêu thương đơn lẻ của cánh chim ngoài không gian tăm tối lất phất mưa bụi vang vọng xuyên qua cửa kính! Phải chăng giác hồn chàng đã theo chim tìm người yêu dấu nhắn lại xác thân bất động chớ vội quỵ ngã trước khi trở về! Mơ hồ rơi nhẹ giọt nước quyện bụi mưa, ngập ngừng lo ngại lỡ đánh động chàng thức tỉnh phải đối diện với niềm đau. Chàng đang sầu, bụi mưa bảo nhau là đà đáp ngọn cỏ sau khi quyện quanh khung cửa chợt thấy dạng chàng thất thần. Làn gió vờn quanh vùng ánh đèn hắt sáng từ khung cửa kiếng rì rào qua kẽ lá bụi cây: "tình chỉ đẹp khi còn dang dở," mà người thất tình nào sợ sầu tư! Hùng vẫn ngồi đó bất động tựa gỗ đá im lìm nhờ làn khói thuốc bẻ góc âm thầm thiêu đốt nỗi đau hương tình đã vút bay. Mối sầu chầm chậm rút tỉa chất sinh động gần tàn của thân xác, gậm nhấm nỗi lòng từng phút giây để lại mảnh hình hài tựa nấm mồ mỏng manh chất chứa ngàn vạn nỗi đau thương vỡ nát chẳng khác gì mồi lửa đốt thuốc thành khúc tro tàn chừa lại khuôn mẫu chỉ một rung động nhẹ nhàng đã dễ dàng tan biến. Điếu thuốc cháy dở vẫn gắng gượng nhả khói chỉ được chàng đụng đến một lần khi mồi lửa và cứ thế mông lung lặng ngắm vẻ mỏng dòn của làn tơ, dại khờ quên bẵng thói quen thiêu đốt buồng phổi... Tình lỡ đốt chàng phê hơn khói thuốc...

Chàng cử động, đưa tay dụi thuốc... rồi chậm chạp như một cố tật đốt tiếp điếu Malboro còn sót lại trong bao. Điệu bộ mồi thuốc mới sầu thảm làm sao! Hai tay chàng run run cầm bật lửa trịnh trọng tựa tín đồ ngoan đạo thầm khẩn nguyện ăn năn xin xá lỗi lầm với lòng ngập đầy thống hối kéo đầu hơi cúi, nghịch hẳn những ngày trước dùng một tay thiện nghệ vung quẹt. Ngọn lửa chỉ bén được hơi đốt sau mấy tiếng xèn xẹt tung đốm sáng của bánh xe chạm đá chứng tỏ sự mất mát năng lực của một hơi sức đã vội tàn tạ do âu sầu dãi dầu đục khoét đến mỏi mòn. Chẳng hơn gì hơi sức chàng, ngọn lửa yếu ớt dưới ánh điện vàng vọt càng thúc đẩy đôi tay run thêm bởi e bất cứ chuyển động nào cũng có thể làm vụt tắt, thu hút bộ mặt thảm sầu gầm cúi sâu xuống cho đốm sáng bắt lửa điếu thuốc. Tiếng thở dài hòa lẫn làn khói òa vỡ tăng thêm nỗi buồn não nuột được tiếp theo bằng cử động quen tay đặt điếu thuốc vừa mồi nơi vị trí hoẳm sâu độc nhất của chiếc gạt tàn... Chàng lờ đờ giương mắt ngó vệt khói mờ buông lơi, mường tượng hình ảnh mảnh tình dần loãng tan để càng đậm tô dĩ vãng, gợi nỗi lòng ray rứt trở về.

Đưa tay với cánh thiệp được cẩn trọng đặt riêng nơi góc trái bên kia cạnh bàn nghiêng nghiêng chiếm giữ vị thế nổi bật, chàng ngẩn ngơ tưởng nhớ... Từng chữ nối tiếp ráp thành hàng tựa lưỡi gươm dĩ vãng dấy đỏ màu máu, nổi bật trên sắc vàng lá úa, màu của chia ly tan tác, chợt vùng lên tranh nhau xuyên thấu con tim héo hắt... thúc đẩy tay phải đặt nhẹ lên phần ngực, ép chặt, đẩy phần thân thể cong vòng... và trào lên nét mặt cảm giác chợt bị nhói đau... Sau vài giây đôi mắt khép lại để lòng cố hướng về cõi xa xôi hầu gượng lại chút năng lực hỗ trợ, chàng rọi tia nhìn lờ đờ vào lưỡi gươm hàng chữ dường như cố moi móc chút hương tàn vương vất... Lưỡi gươm nhảy múa qua lời tình tự êm mơ tựa nhát đâm gọn ngọt: "Chàng đã cho em mộng tơ vương hạnh phúc..." Hùng muốn lịm ngất trở về với yêu thương ngày cũ. Em ơi, em nào ngờ anh đã chôn vùi trọn viễn ảnh tương lai, dĩ vãng, đào bới tận đáy lòng, từ mỗi tế bào kiến tạo xác thân, từ những ước vọng nhỏ nhoi mờ mờ nơi ký ức cho hình ảnh em muôn đời ngự trị. Anh đã đem tất cả những gì thuộc về mình dù mỏng manh tạm bợ hoặc dẫu chỉ là hơi thở dồn đọng xây đắp mộng nơi em để giờ đây được gom thành vết xuyên tâm rướm máu...

Dòng chữ kế tiếp cố đẩy lưỡi kiếm thêm sâu: "Chàng mang đến em niềm an bình ngọt ngào..." Và đắng cay là cặn bã, kết quả của nỗi vui đổi mới được thải ra giờ anh hấng chịu. Niềm an bình nào nuôi lớn trong em hồng thêm giấc mộng tươi mát lúc này vỗ cánh ra đi! Phần anh, còn lại chỉ xót xa hằn tâm khảm, quạnh quẽ cô đơn theo nhau vây bọc và nỗi nhung nhớ dằn vặt gợi dư âm ước mộng đã thoáng xa bay, bỏ rơi tháng ngày tiếp nối đưa dần về nấm mồ vô vọng dù chỉ một lần kiếm lại chút hương mơ.

Lời ân tình xưa càng đong đưa, lòng Hùng càng dật dờ tê lịm, "Em mường tượng một viễn ảnh uyên ương đôi tim chúng ta cùng hòa nhịp đập..." Giấc mộng nào không là con đẻ của ước mơ, mường tượng, thao thức, nhưng dẫu sao cũng chỉ là giấc mộng! Mộng nào muôn đời không tan và viễn ảnh đâu phải thực tại. Thế nên, cho dù tình còn vương vấn mãi thì mộng ngày ấy giờ cũng đã tàn phai; ai thương nhớ ai, cố níu kéo giấc mộng nhạt mờ tiếc nuối đang dần chìm vào quên lãng. Xảy có những thoáng dư hương gợi về khua động lòng người ôm mộng tình lỡ thì thời gian đã nhiệm mầu xóa mờ nét rung vỗ cánh tình xa.

Tiếng nói nào còn vương lại tựa bóng mây oan nghiệt duyên tàn vây kín hồn hoang cô lẻ, "Chàng là hiện thân của niềm vui tuyệt vời..." Niềm vui nào đã tô thắm làn môi thời ấy, cho nụ cười thêm tươi đem bầu trời gom nơi ánh mắt. Những ước mơ ngọt ngào ru em ngày tháng cũ có bao giờ thức dậy chậm bước chân chim khiến ngỡ ngàng gợi lòng thương xót? Dáng dấp em có còn vui tươi bóng sáo hay đã bị phũ phàng dồn chặn lối đi tạo lòng nghi ngại mỗi khi phải đối diện với thực tại cuộc đời? Anh nguyện xin đường em đi muôn hoa dìu dặt ru gót son trải nhẹ, biến viễn ảnh ngày xưa thành hiện thực, cho em hân hoan đạt thành mộng ước.

Dĩ vãng khiến chàng thẫn thờ như mơ như tỉnh hướng mắt qua khung cửa nhìn thấu vào màn đêm buồn ảm đạm dõi theo cõi xa mờ kỷ niệm... Hiện về bãi biển hoang vắng một chiều lặng gió với người tình đã trở thành sinh động chốn thiên thai; cả trời đất hòa nhập xây mộng tình yêu đôi lứa. Cánh chim đơn lẻ không nỡ than phận cô liêu, lượn vòng trên không bỗng nhào xuống mặt nước tạo vòng tròn loang sóng khua động bầu khí yên tĩnh nhắc nhở hai đứa tình yêu đang hiện hữu; nàng thì thầm giọng êm ngọt nép người dưới vòng tay... Hùng say say ru hồn theo nụ hôn vương nồng hương tóc đón tấm thân ngà ngọc ép sát ngực đê mê, thầm khẩn cầu thời gian đọng lại cho ân tình vươn mãi quên cảnh gần kề, tô thắm nét cuồng si... Chàng muốn được biến thành không khí vây bọc lấy nàng hoặc tan vào hơi thở hòa lẫn xác thân. Vòng tay xiết chặt kéo nàng thật gần, môi chạm môi, má kề má đê mê ngây ngất... Chàng dìu nàng dạo bước đó đây hoặc ngồi im lặng ngắm tóc nàng bay bay quấn quýt vờn ngang vai xoay xoay làn gió nhẹ, thầm ghen với làn tóc chảy dài được đôi bàn tay mềm mại vỗ về mơn trớn hoặc đôi khi áp đặt lên má, lên môi...

Nhung nhớ dồn nén làm chàng có cảm tưởng nàng đang hiện hữu đâu đây; bóng dáng mập mờ tự khoảng xa xa nhẹ nhàng chân bước với dáng xưa mềm mại... Bóng đổ của những hàng cây chen chúc hai bên đường cũng chừng như mang sức nặng đè trên cổ trên vai của hình hài mảnh mai khiến mái tóc thề bay nghiêng gượng chống đỡ ngược chiều gió. Chiếc áo màu tím bông cỏ ôm sát khoảnh eo thon đẩy lồng ngực căng phồng sức sống đoạn chảy dài quấn gót chân che kín cố không cho bụi hồng lối nhỏ vương mỗi nhịp đi... Cỏ nơi sân rầm rì bảo nhau mềm cánh lá dọn đường dẫn nàng tắt bước dừng bên khung cửa... Chàng rạng rỡ trong mơ; đôi mắt chỉ vài phút trước thẫn thờ vội sống động tựa trẻ thơ đang chờ cho bánh... Nét héo hắt tắt nhanh thay bằng kiểu cách ngỡ ngàng chỉ chực hô hoán... Nàng đã đến, hiện thân bên kia lớp kiếng mờ ảo xóa tan bao nhung nhớ chờ mong. Bóng hồng vượt không gian truyền năng lực ngập tràn mảnh thân tàn chất sinh động... Chàng hoan hỉ dợm người tiến lại... Chợt tiếng đập khô khan giáng mạnh nơi cửa kiếng vang động cả gian phòng yên lặng xóa tan hình hài yêu dấu khiến chàng giật mình sững sờ thoát cơn mơ... Nổi lên giữa cảnh tĩnh mịch vọng từ phía ngoài cửa kiếng, tiếng soàn soạt gấp rút bất thường tựa như con vật bé nhỏ nào giãy chết... Hùng thẫn thờ đưa tay với chiếc đèn rọi nơi kệ bên hông trái, chậm bước vòng tường gạch... Làn mưa bụi phản chiếu ánh đèn pin quệt ngang tựa muôn ngàn bóng ma trơi nơi cõi âm được gọi về đưa đón mối tình tan... Ngay đám cỏ ngoài khung cửa kiếng, một xác chim đen màu tang tóc, xuôi chân, ngoẹo đầu, đôi cánh vật vờ nhịp nhịp giãy chết nuối tiếc khoảng trời bay. Lượm xác chim bé nhỏ còn vương hơi ấm chất sống truyền qua tay, giọt nước mắt bất chợt buông dài nơi khoé lăn nhẹ xuống làn môi mằn mặn... Mi đã chết đem giác hồn ta từ cõi âm trở lại...! Lòng Hùng ngập đầy thương cảm đoạn đời ngắn hạn một cánh chim đêm mưa lẻ bóng...

o o o

Đã một tuần qua, thời gian dường cố trôi chầm chậm để dằn vặt chàng. Có phải mình cố chấp, coi trọng tự ái hơn Ly Hương? Hùng nhiều lần tự hỏi. Nhưng nếu tỏ ra quá lụy vì tình phỏng có thể gây cho Ly Hương phần nào coi thường con người mình và từ đó giảm bớt sự tôn trọng, yếu tố cần thiết phát triển tình yêu của nữ giới? Mặc dầu tôn trọng nàng trong quan niệm giá trị bình đẳng của mọi người, chàng hiểu phần nào tâm lý nữ giới và tư cách cần có của phái nam nếu muốn bảo vệ tình yêu. Không có sự tôn trọng lẫn nhau, hạnh phúc chỉ là một gượng ép vá víu. Không biết tôn trọng tối thiểu tự do cá nhân của người phối ngẫu, hôn nhân, nếu nhìn theo khía cạnh nhân bản, chỉ là sự lạm dụng. Trong trường hợp giữa chàng và Ly Hương, nàng có thể đi vượt quá mức độ bình đẳng tôn trọng cá nhân, muốn chàng trở thành mẫu người trong mộng... muốn chàng phải hơn thực trạng đang có, được diễn tả với quan niệm nhận thức khả năng sẵn có để phát triển... Nàng có thể có lý trong khi đẩy chàng vào ngõ bí... Mình phải làm gì? Câu hỏi quái ác cứ dằn vặt theo nỗi nhớ... Muốn có Ly Hương, chàng phải thay đổi, phải đạt được phần nhỏ ước vọng của nàng... Ly Hương không đòi hỏi cho chính nàng nhưng ép buộc chàng hoàn thành quan niệm của nàng... Lý do gì khiến Ly Hương đặt vấn đề nhận biết khả năng... Tại sao nàng lấy điều này làm quan trọng?...

Nỗi đớn đau và nhung nhớ cộng thêm mặc cảm bị coi thường chẳng những dằn vặt tâm tư mà còn làm thân xác chàng rã rượi. Nói cho đúng, quyền yêu thương Hùng hay không tùy thuộc nàng, nhưng nó đã khiến chàng đớn đau. Những ai đã bao giờ bị người yêu bỏ theo kẻ khác mới thấu nỗi dằn vặt tổn thương tự ái xâu xé. Bao nhiêu lần tự nhủ chàng không có quyền ép buộc nàng phải yêu mình hoặc không nên yêu kẻ khác; Hùng biết thế và chấp nhận như thế nhưng sao vẫn còn đau. Tại sao cảm thấy đớn đau khi chuyện xảy ra không phải do lỗi lầm của chàng? Từ ý nghĩ, lý luận này, chàng tự hỏi, nàng hướng chiều đến người khác do cá tính, bản chất nơi nàng hay bởi tại chàng không kịp thay đổi cho phù hợp với ước vọng người trong mộng của nàng. Nếu nói tại cá tính nơi nàng, chàng phải làm sao... Tất nhiên nếu lòng đã mang cá tính có mới nới cũ hoặc thích chạy theo những gì chưa thuộc về mình hoặc do tính chất lãng mạn hay muốn thỏa mãn nhu cầu nào đó... chàng không có hy vọng gì giúp nàng tự nhận thức bởi đâu ai muốn chấp nhận những chuyện không ra gì của mình mà có chăng luôn luôn tìm tòi hay tạo dựng nhiều lý lẽ, điều kiện để che dấu do sự không dám đối diện với thực tại nội tâm. Chàng phải làm gì để giúp nàng trong trường hợp này? Tất nhiên, giúp nàng tự nhận thức tham vọng không có nghĩa mong liên hệ để kéo nàng trở lại với mình bởi không ai giữ được kẻ đã ra đi.

Nguyên nhân khác cho sự thay đổi của nàng có thể là chàng đã không biến cải kịp thời cho phù hợp với ước vọng nơi người yêu. Cả là một vấn đề rắc rối gồm ít nhất hai phần chính yếu. Sự thay đổi của nàng và sự cải thiện của chàng. Chắc chắn sẽ không bao giờ chàng có thể cải thiện kịp thời cho phù hợp với sự thay đổi của nàng bởi chỉ cần một vấn đề nhỏ hay quan niệm nhỏ được thay đổi nơi nàng, sự cải thiện nơi chàng cần mang tính cách lũy tiến do sự liên hệ của quan niệm tới các cá tính, chiều hướng và ảnh hưởng khác nhau kết hợp thành một con người. Hơn nữa, thay đổi một thói quen hoặc cá tính nào dù chính mình không thích, đòi hỏi thời gian và sự luyện tập... Sự cải thiện nơi chàng nếu được nhìn theo đường hướng này mà không có điều kiện chấp nhận kèm theo thời gian, càng không có hy vọng gì nối lại liên hệ tình cảm. Xét thế, vấn đề trở thành ảnh hưởng của quan niệm hầu mong con người nhận thức được chính mình để chấp nhận đồng thời biết chấp nhận người khác tùy theo điều kiện trong sự cải thiện con người. Mất hẳn gốc nhận thức này sẽ không bao giờ có được ý thức giúpmình và giúp người làm đẹp cuộc đời. Đây cũng là nguồn gốc của tất cả những thái độ, ước mơ muốn người khác trở thành mẫu người mình muốn họ trở thành hoặc muốn người khác hoàn thành những gì mình thiếu sót do không muốn tự cải thiện hoặc không bao giờ có thể đạt tới. Con người là thế và chính sự nhận biết này đã gây nên mối đau khổ khó kiếm người chia sẻ... Nói sao chăng nữa, lỗi lầm do sự thiếu hiểu biết mà ra, đồng thời đau khổ lại là kết quả của lỗi lầm, của sự thiếu nhận thức căn bản tâm lý chung.

Trời đã quá khuya, Hùng thầm nghĩ... Suốt tuần qua mất ăn mất ngủ, công việc ở sở càng ngày càng chồng chất trong khi lòng chàng tan vỡ không còn tâm trí làm việc, năng lực giảm sút nhưng vẫn phải khoác bộ mặt bình thường... Sắc diện chàng biến đổi thấy rõ, Hùng nhận ra như thế... Phải chấm dứt tình trạng này, nếu không, làm việc không được sẽ bị đuổi... lấy gì sinh sống, lấy gì giúp gia đình... Không thể vì một mối tình đem chôn sống cuộc đời, bỏ phí tương lai, hoặc không đếm xỉa đến sự giúp đỡ thiết thực gia đình đang cần đến mình... Gương mặt lộ nét rắn rỏi, quyết định, chàng lấy giấy viết thơ...

Ly Hương,

Xin cảm ơn em vì những ngày ta có nhau. Qua hai năm quen biết, em đã giúp anh nếm được niềm hạnh phúc của tình yêu. Em đã cho anh biết thế nào là nhớ nhung, mơ mộng, thế nào là hy vọng, trông chờ, thế nào là bản chất muốn yêu và muốn được yêu của con người. Em đã giúp anh nghe được tiếng nói con tim của mình vang lên theo từng nhịp đập, lúc tràn đầy ước mơ hạnh phúc cũng như nỗi đau quặn thắt khi tan vỡ niềm tin...

Tuy nhiên, quan niệm về cuộc đời khác nhau do đó niềm mơ cũng như ước vọng cá nhân lại tùy theo chiều hướng của lối nhìn và khả năng nơi mỗi người. Nhân gian thường nói: "Có bột mới gột nên hồ." Nếu cứ muốn là đã được một nửa, có lẽ không ai trong cuộc đời này phải đối diện với những thất bại ê chề; thế nên biết bao người ôm mộng với những lý thuyết tuyệt vời đã phải đắng cay vì mộng không phải là thực.

Ước vọng em đặt nơi anh cũng là nguyên nhân cho sự xa cách của đôi ta một tuần qua; nó đã không đem lại lợi ích cho tình yêu hai đứa mà còn trở nên bức tường chia rẽ. Khi một người mơ ước chuyện gì, vấn đề đó tự động đã được thăng hoa và được gán ép giá trị nào đó; đồng thời cũng chính người ấy mới biết họ phải làm gì để đạt tới mục đích. Lẽ tất nhiên, khi họ biết phải làm gì tức là họ đã có sẵn môi trường cũng như khả năng thực hiện mơ ước của mình. Anh nghĩ, thật là bất công nếu cho rằng những gì tốt đẹp hoặc đem lại lợi ích cho mình cũng tốt đẹp và hữu ích cho kẻ khác. Anh thích ăn bê thui chấm nước mắm gừng có thêm ớt cho cay... nhưng không thể chấp nhận đem bê thui làm thực phẩm cho đứa bé mới được năm tháng... Những gì anh thích chắc chắn không phải là những gì có thể làm hài lòng em hoặc ngược lại. Bởi thế, ước vọng em mang sẽ chẳng bao giờ anh có thể hoàn thành... và cũng có thể điều em ước mơ không có nơi anh. Xét như thế, anh đâu có bổn phận phải hoàn thành mơ ước của em. Tất nhiên, khả năng của anh có giới hạn nên cho dù có muốn thêm chi nữa cũng không hơn được. Anh không thể bay như con chim vì anh không có đôi cánh, không kéo nổi chiếc xe chở nặng vì không có sức mạnh như con bò. Thế nên, chỉ em mới có thể hoàn thành niềm mơ của chính mình bởi chính em mới có điều kiện và biết phải làm gì để hoàn thành ước mơ ấy.

Ly Hương, một tuần xa nhau đủ để anh nhận thức mình không thể là ai khác; anh chỉ có thể và phải là chính anh. Anh không là nhà văn nên không biết nói những lời bóng bẩy, không là bác sĩ nên chẳng hiểu về phương thức trị bệnh... Tương tự như thế, nếu em lên võ đài chắc chắn sẽ bị đấm trọng thương văng khỏi vòng rào... Hơn nữa, mơ ước mới chỉ là mộng trong khi thực tại phải trả giá. Thực tại minh chứng, có những kinh nghiệm phải trả giá mắc mỏ đồng thời cũng có kinh nghiệm phải trả giá một đời. Anh không muốn ôm mộng mà chỉ thực hiện những gì trong tầm tay với, trong điều kiện lương tâm cho là đúng, không gây tai hại cho mình cũng như cho người, và không để sau này phải tự thẹn. Anh không muốn phải trả giá cho mộng tưởng vì nó không giúp ích chi cuộc đời mà có chăng chỉ ngược lại.

Hãy thực hiện và trở nên bất cứ gì em có thể tùy thuộc ước vọng em mang; anh cầu mong như thế. Anh mơ được nhìn thấy ngày nao những bước chân em đi tới có hàng người chào đón, tuyên dương... Hãy vững tin tiến bước, anh chờ và cầu chúc mộng em hoàn thành.

Tiến Hùng

Viết xong thư, Hùng cảm thấy buồn da diết. Lòng yêu tha thiết khiến chàng có ý nghĩ lời thư phần nào quá độc ác bởi dồn Ly Hương vào đường cùng, thách đố nàng thực hiện điều không bao giờ có thể xảy ra với hy vọng giúp nàng nhận thức cũng như chấp nhận giới hạn khả năng của mình. Nàng muốn chàng phải là một cái gì khác; chàng đặt điều kiện nàng phải trở thành người có tiếng tăm, uy quyền và được mọi người ngưỡng mộ. Không còn cách nào khác, Hùng nghĩ, đành phải chấp nhận "điều đau nhớ đời," bởi nếu không, mộng tưởng có thể là nguyên nhân gây nên tự ty mặc cảm nơi nàng sau này khi đối diện với thực tại cuộc sống. Ly Hương rất thông minh lại chưa phải trải qua những thăng trầm, bon chen cho miếng cơm, manh áo nên còn nhìn đời một cách ngây thơ đâu hiểu được biết bao nhiêu người đã và đang ôm nỗi thất vọng ưu uất vì bao công lao thực hiện ước mộng tốt lành nhưng đã không thể nào đạt được kết quả trong khi những cảnh "Tốt số hơn bố giầu" vẫn nhan nhản xảy ra. Hơn nữa, nào phải cứ thực hiện những chuyện tốt lành là mang lại ích lợi cho mình cũng như cho người khác đâu! Nếu đơn giản chỉ có thế làm chi có câu "Chữ tài liền với chữ tai." Có tài, bỏ công sức làm điều tốt nhưng cái tai phải nghe những điều phê bình ngược ngạo trắng trợn là chuyện bình thường xảy ra trong cuộc đời... không thế sao có những người giỏi giang, tốt lành nhưng bất mãn với thời cuộc. Ước vọng và thực tại, nào ai biết đâu mà lường.

Nàng sẽ nghĩ gì khi đọc xong thư? Có thể nàng cho rằng mình là người hèn kém không dám nhìn lại chính bản thân mà chỉ cố tình bào chữa hoặc ương bướng, cố chấp, rúc sâu trong tổ kén ỷ lại, tự thỏa mãn để được an thân, con đẻ của tâm tư chạy trốn trước những thách đố giá trị làm người! Hoặc nàng nghĩ mình cho rằng cái nhãn hiệu kỹ sư kiến trúc không gian, có việc làm vững chắc là quá to lớn không cần phải cố gắng phát triển bản thân! Hùng tự đặt vấn đề. Dẫu có bằng cấp hay tiếng tăm đến thế nào chăng nữa thì giá trị làm người đâu lệ thuộc vào những cái "mác" ấy. Tuy nhiên, dù muốn thực hiện thêm bất cứ chuyện gì đòi hỏi khả năng nào đó... Dẫu Hùng cảm thấy có thể sự hài lòng với những gì mình đang nắm giữ tự nó mang phần nào thái độ chấp nhận tự ty e ngại khó khăn nhưng muốn làm gì thêm, muốn cuộc đời mình có giá trị vươn lên hơn mà khả năng lại giới hạn sao biết chi để thử... Ly Hương có ý tốt của nàng khi thách đố mình... Lý do nào khiến nàng tỏ thái độ khinh thường... "Hương không thể yêu được người thua kém hết mọi người..." Hùng không giận nàng, không muốn mất nàng, nhưng, chàng thở dài... chuyện gì tới sẽ tới... "Vô duyên diện kiến bất tương phùng." Lòng ngậm ngùi, chàng lấy bì thư ghi địa chỉ...

Sáng nay, Ly Hương gọi lại nói nàng muốn gặp chàng, nhưng với tâm trạng rã rượi vì mất ngủ quá nhiều do niềm đau dai dẳng cắn xé, Hùng cay đắng buông lời hờn trách:

-Gặp làm chi? Em có muốn gặp anh đâu!

-Ai mượn anh nghĩ dùm em vậy? Giọng Ly Hương chùng hẳn xuống; chắc hẳn mắt nàng rươm rướm nhưng chàng vẫn không buông tha, mỉa mai nhắc lại:

-Vì em đâu yêu được người thua kém hết mọi người...

Tiếng đập điện thoại vang lên chát chúa nơi đầu dây bên kia... Thế là hết! Tự ái rởm to lớn đã làm Hùng đau đớn sau khi buông ống nghe... Chàng giận chính mình đã không biết chụp cơ hội nối lại mối ân tình. Tuy nhiên, đau đớn vì tự ái ngu muội thì ít mà xót thương cho Ly Hương bởi chàng cố chấp lặp lại câu nói của nàng như một thái độ hận thù sẽ làm nàng đau khổ... Hùng biết Ly Hương rất thương chàng nhưng tư tưởng và ý chí ngang ngạnh không thua chi mình. Tất nhiên, nếu cả hai vẫn cố chấp giữ vững thái độ, càng yêu thì lại càng gấu ó lẫn nhau. Nhận được điểm này nhưng khi nhìn đến ống nghe lỏng chỏng lơ chơ nằm ngoài hộp điện thoại đang vang lên tiếng bíp bíp... tự ái lại vùng dậy nhận chìm lý trí. Không cần nhận phôn bất cứ ai, Hùng lẩm bẩm, lê thân xác nặng nề ra xe tới sở...

Ba giờ chiều, Hùng cảm thấy mình như muốn khùng, làm việc không được, đụng đâu hư đấy... Chỉ có mỗi cái đồ hình phúc trình tần số rung vùng biển Ý Đại Lợi của chuyến đi vừa rồi mà suốt từ buổi sáng tới sở đến lúc này chàng vẫn không làm xong. Cả ngày, văn phòng như có ma ưu uất quyện quanh; đụng đến computer, dẫu đã quá quen thuộc, thế mà không hiểu tay chàng quờ quạng ra sao "program" cho những con số lộn xộn đành phải "copy backup". Thùng rác ngập đầy bản in nháp, cái thì thiếu điều kiện này, cái thừa chi tiết kia... May đã viết xong bản phúc trình, chàng thầm nghĩ... xếp gọn lại bàn giấy nói với thư ký nghỉ buổi chiều...

Đoạn xa lộ 10 hằng ngày thường đi về sao hôm nay dường như dài vô tận trong khi Hùng chán nản, rã rời không còn năng lực. Nhìn những xe du lịch Cardillac, Lincon, Maxima, Cresida bóng bẩy vượt qua rồi so sánh chiếc xe cũ mèm Pinto đang lái, chàng nghĩ mình có thể mua chiếc Camry khá hơn chạy cho thoải mái trên đường từ nhà tới sở... Nhưng mẹ và các em ở Việt Nam sẽ bị cắt bớt trợ giúp, chàng nói với chính mình. Có những điều nên và có thể nhưng không được thực hiện vì lợi ích cho việc khác cần thiết hơn... Chẳng những mình cần tiền gửi về mà lại cần tiền trả vé phi cơ bảo lãnh... Khi nào mẹ và các em qua tới nơi sắm xe mới cũng không muộn... Bận mãi mê nghĩ đến toan tính cho những ngày sắp tới, Hùng chợt nhận ra mình vừa đậu xe dưới gốc cây quen thuộc có cầu gỗ dẫn ra chiếc chòi bát giác...

Bốn giờ năm phút, Hùng thở dài nhìn đồng hồ theo thói quen khi rời xe buồn bã bước xuống cầu gỗ; hôm nay chạy xe chậm hơn mọi ngày 15 phút. Bình thường, dẫu chiếc xe cà rệch cà tang nhưng chỉ cần 45 phút đã có thể đưa chàng từ nhà tới sở hoặc ngược lại. Lòng chàng làm buồn lây tới chiếc xe ảnh hưởng cả công việc và cảnh vật chung quanh. Nhìn con nắng chiều chan hòa trên sóng nước soi rõ từng đàn cá đối vào bờ kiếm mồi theo nhịp thủy triều lên khiến cả vùng nước cạn rợp màu đen, chàng nhớ lại niềm vui bùng lớn của Ly Hương khi kéo chài, bốn con cá đối mỗi con lớn bằng cổ tay lưng đen phơi lườn trắng nõn dãy dụa tìm đường tẩu thoát.

-Cá đẹp quá, bỏ chúng vào cái gì bây giờ?

-Buộc túm ống quần lại rồi bỏ chúng vô!

-Nó cắn!

-Cho chúng uống thuốc ngủ.

-Anh ngạo em đó phải không?

-Thông minh nhưng hơi trễ...

-Sao anh cứ kiếm cách đía em hoài vậy?

-Túm ống quần lại chưa? Hùng hỏi trong khi đưa tay gỡ cá khỏi chài.

-Sao anh không buộc mà nói em?

Hùng quăng con cá xuống nước...

-Ê! Sao anh thả cá đi?

-Em định giữ chúng lại để làm gì? Chiên, kho, hấp, gỏi, em định làm món nào mà giữ?

-Lần sau, em phải mang theo chiếc thùng nhốt cá.

-Để làm gì? Em có muốn mang về bây giờ không?

-Mẹ em nói cá đối hấp ăn ngon lắm. Em muốn ăn thử.

-Muốn thế, đứng đây chờ và phải về ngay sau khi anh quăng thêm vài mẻ chài nữa.

-Vậy anh làm sao giữ chúng?

-Bói thử. Hùng trở lại xe, lấy sợi dây cột một đầu vào giữa đoạn cành cây nhỏ chàng vừa bẻ bên đường, đầu kia xâu vào miệng xuyên qua mang cá đoạn thả xuống nước.

-Có lý, anh học đâu được nghề này...

-Nào có chi đâu, lúc đói đầu gối phải bò. Giữ đầu dây này để anh quăng chài bắt thêm mấy con nữa...

Hình ảnh cũ gợi về khiến lòng chàng ngậm ngùi... Nếu yêu đòi hỏi một sự chọn lựa, so sánh, xin trả cho người mảnh mơ ước ngày nao; ta đành gửi lòng nơi cánh gió xôn xao tan về muôn hướng vất vưởng tìm quên bởi nặng nợ ưu phiền khi mình được đưa lên bàn cân giá trị. Em ơi, tình nào được định giá bằng nét môi khóe mắt hay nhan sắc chóng tàn? Tình nào đòi hỏi mảnh bằng chức nghiệp hoặc tài sản tiền nong? Tình nào cần tài cán xoay xở, mưu mô gạt gẫm, lời nói đong đưa, hoặc hẹn hò săn đón? Nếu đó là những yếu tố xây đắp nên tình, ta đã tự hợm mình kiếm tìm một mục đích được che đậy. Có thể nói, chúng chỉ là sản phẩm của tình yêu vì nếu đã chẳng có tình, tất cả trở thành lường gạt... Bay đi em ơi, chẳng còn lời nào để nói... Ta ngậm ngùi mang nỗi nhớ khó tàn phai... Tự hỏi phỏng có nên chờ? Hy vọng người trở lại? Không, bởi đã chẳng còn tình thì nào có chi mà hy vọng; đó chỉ là sự tuyển chọn có điều kiện, yếu tố... Những màu sắc tự chúng không thể nào tạo nên bức tranh mà căn nguyên sáng tạo bức tranh tự nơi tâm hồn nghệ sĩ hòa hợp với mối rung cảm nghệ thuật. Tình ta đã có nhưng khó nối tương giao...!

Bỏ đàn cá nhắc nhở kỷ niệm với người yêu ngày nao nay đã xa, Hùng lầm lũi tiến ra phía chòi quen thuộc... Mùi nước biển theo gió ngập không gian hòa tan trong nắng vẫn không đủ sức tẩy sạch nỗi cô đơn trống vắng. Chàng bước theo từng cơn mê kỷ niệm mà lòng ngập tràn nhung nhớ hòa lẫn nỗi ăn năn đã lỡ cố chấp khi nàng gọi phôn sáng nay. Mình có tự ái; nàng cũng mang tự ái! Chàng định quay trở lại xe về nhà gọi điện thoại... Nhưng thôi, để tối... Hùng tự nhủ.

Một bóng dáng thân thiết, mảnh khảnh ngồi quay lưng lại khi Hùng chợt ngẩng lên lúc gần tới chòi khiến lòng chàng rộn rã như mở hội; bao nỗi ưu tư, sầu muộn vụt tan biến nhường lại lòng yêu thương tràn lấp. Chàng muốn chạy nhào tới nhưng bỗng nghĩ lại, không hiểu tâm tình nàng lúc này thế nào...? Nơi chòi, chỉ một mình nàng vì trời còn quá sớm, thiên hạ chưa ai đi câu. Hùng cố gắng bước nhẹ chân định tới sau lưng nàng; thế mà đôi chân không vâng lệnh ý định, cũng rộn theo niềm vui, tạo nên tiếng động. Ly Hương quay lại... Ánh mắt hơi ngỡ ngàng hòa lẫn nét buồn mênh mông. Nàng nhìn chàng chừng như có muôn điều muốn nói nhưng vẫn lặng thinh. Nàng gầy hẳn đi, con tim chàng nhói đau khi hình ảnh nàng chơ vơ muốn lọt tỏm giữa hàng ghế dựa. Hình ảnh ấy chặn bước chân chàng dán xuống sàn gỗ lòng ngập tràn tê tái...

-Sao anh có thể ở đây giờ này? Ly Hương lên tiếng, giọng nhẹ buồn tha thiết, phá tan bầu khí cách biệt. Chiều nay nàng biết kẻ chì lên mắt và đôi môi được thoa lớp son hồng nhạt...

Chàng định hỏi Ly Hương đang chờ ai nhưng kịp chận lại bởi nghĩ rằng cay cú cũng chẳng lợi gì mà đôi khi chỉ sinh phiền... Đồng thời, Hùng cũng vội nhận ra chàng quá cố chấp... Cố chấp nào mang lại lợi ích gì, chàng tự nghĩ, hay chỉ càng ngày càng đẩy nàng ra xa. Từ từ bước lại sau lưng ghế, hai tay chàng đặt lên đôi vai mỏng manh của Ly Hương hầu mong giao tiếp niềm cảm thông cho nỗi đau nhung nhớ dịu lại. Ly Hương không một phản ứng, Hùng nghĩ cách làm hòa và thế là sáng kiến đã vội trôi theo cái miệng mau mắn:

-Coi kìa, ai dám đánh em thâm cả mắt, dập cả môi như thế?

-Anh thông minh như vậy tại sao có thể dốt không thể tưởng tượng được? Giọng Bắc của nàng có vẻ tươi vui hơn khiến Hùng nghe thấy ngọt tai.

-Có dốt mới hiện diện ở đây giờ này chứ thông minh thì còn đang ở sở.

-Thế ra miệng anh vẫn chưa chừa thói đía...

-Ai nói anh dốt? Em thử xét xem có phải là oan Thị Kính không? Em nói anh dốt; anh nhận mình dốt thì em lại cho rằng anh đía...

-Anh nên học làm luật sư mới đúng. Vậy tại sao anh thêm "hiện diện ở đây giờ này"? Anh không đía thì nói câu đó có nghĩa gì, chỉ giỏi bẻm mép...

-Hết nói đía, em lại cho rằng anh bẻm mép. Tuy nhiên, cũng phải công nhận em có tài làm thợ bàn.

-Bàn ghế chi...

Tình yêu rõ thật là phép mầu xoa dịu và nối liền ngăn cách giữa hai tâm hồn. Mới đau đấy, mà giờ đây cả hai vui như đã không có chuyện gì xảy ra.

-Không chấp nhận thợ bàn thì cô giải!

-Anh lại nói nhăng nói cuội! Cô giải là thứ gì?

-Thì các nhà nghiên cứu giải thích những vấn đề nào đó nếu là đàn ông được gọi là chú giải. Em là phái nữ nên tạm gọi là cô giải. Thôi, dẹp những lý lẽ loanh quanh đó đi; hôm nay em kẻ mắt vẽ môi coi ngộ gớm.

-Cảm ơn anh, có khen em thì dốt vẫn hoàn dốt khiến bực cả mình...

-Em giải thích cái dốt của anh cho rõ ràng được không?

-Ngồi xuống đi ông mãnh. Đây, đọc lại lá thư anh viết xem có thể nhận ra được những gì...

-Anh viết nó nên đâu cần đọc lại; xin lỗi em, anh đã dùng lời hơi quá quắt...

-Em yêu cầu anh đọc lại, nếu nhớ, anh đọc thuộc lòng cũng được, nhưng em muốn anh đọc lại ít nhất một lần.

Nàng đã dùng tiếng "ông mãnh" thân thiện lại cứ nằng nặc đòi đọc lại thư chàng đã viết... Hùng cảm thấy an tâm vì nàng không hề nhắc nhở trách móc chàng chuyện gì mà chỉ có vẻ âu yếm chê dốt... chữ dốt gợi niềm vui lộ nơi ánh mắt. Ngồi xuống cạnh nàng, cầm lại thư liếc qua một lượt nhưng tâm trí chàng xoắn xít lấy nàng...

-Có chi khác lạ đâu mà em muốn anh đọc lại... Ly Hương, chàng hạ thấp giọng, anh muốn vòng tay qua ôm em...

Câu nói của Hùng khiến Ly Hương cảm thấy rúng động. Mình có quá khắt khe với chàng không, nàng tự hỏi. Dẫu hai người yêu nhau thắm thiết nhưng bất cứ chuyện gì có liên hệ đến nàng chàng cũng hỏi ý kiến, chẳng hạn dù chỉ một vòng tay ôm. Mới thoạt nghe, nàng nghĩ Hùng có vẻ kiểu cách mặc dầu thái độ rất tự nhiên; ít lần sau nàng chợt hiểu, đó là sự tôn trọng quyền tự do của người khác. Chính sự thẳng thắn hỏi để người đối diện nói lên sự ưng thuận hay không đã tập cho cả hai lối sống tự nhiên, thích thì gật, không ưng thì lắc tránh hiểu lầm đôi khi có thể xảy ra trong trường hợp kẻ ở tư thế bị chịu cố gắng gượng ép chấp nhận... Nhớ lại buổi tối hôm ấy, lần thứ ba hai người hẹn hò cũng nơi chòi bát giác này, nàng nằm dài trên ghế gối đầu nơi đùi chàng và toàn thân được đắp chiếc mền mỏng chàng mang theo vì trời gió hơi lạnh.

-Ly Hương, Hùng nhẹ nhàng nói, anh muốn hôn em.

Nào có ai cấm anh hoặc bắt xin phép đâu mà kiểu cách đến thế, Ly Hương thầm nghĩ, nhưng muốn thử xem thái độ chàng ra sao nên nói nhẹ nhàng:

-Cấm đó. Mới hẹn hò lần thứ ba, việc gì phải vội vàng sớm thế?

-Nếu anh cứ hôn?

-Thì sẽ chẳng có lần thứ hai, không tin thử thì biết.

Nàng nói thế và nằm khoanh tay, lim dim cặp mắt đợi chờ... vì tình trong như đã... Hùng đưa tay vỗ nhè nhẹ bả vai Ly Hương trong khi chiêm ngưỡng nét mặt người yêu mờ mờ dưới ánh đèn điện bên cầu hắt lại, mỉm cười mường tượng đến tính chất bướng bỉnh dễ mến phụ họa cho sự thông minh nơi nàng. Đợi mãi mà chàng vẫn cứ như sân si, Ly Hương cảm thấy tiếc nuối đến độ khó chịu. Người gì mà ù lỳ, nàng thầm nghĩ, nhưng lại tự giận chính mình vì đã lỡ nổi hứng rởm ra lệnh cấm nên trở mình ngồi dậy tỏ điệu bộ muốn về.

-Sao hôm nay em muốn về sớm vậy, hay có điều gì làm em không hài lòng?

-Em chỉ muốn về sớm... Đã lỡ đành chấp nhận lỡ luôn nên nàng kiếm cách nói tránh.

-Cho anh xin lỗi, từ bây giờ đến khi nào có lệnh, anh không hỏi nữa đâu!

Đúng là đứa khùng, đứa dở, Ly Hương cảm thấy mình hơi cáu bởi vừa tức lại vừa tiếc...

-Em có bắt anh xin phép đâu mà bày đặt hỏi... Nói vội cho mau qua thế mà mặt nàng chợt nóng bừng bừng, lộ đầy nét e thẹn...

-Ah! Không ngờ anh vừa ngu, vừa tệ. Hùng ôm chầm Ly Hương, kéo nàng nằm ngửa trên đùi. Nhắm mắt lại, chàng ra lệnh, bây giờ anh không xin phép nữa.

-Không, trễ rồi, anh phá em giận cho coi. Ly Hương nửa thích, nửa quê, đưa tay bịt mặt...

-Thôi được, tối nay cho em về nhà ray rứt tiếc nuối; buông tay ra, để xem ai năn nỉ ai cho biết...

Hùng nói đúng, chưa về Ly Hương đã tiếc, nhưng cũng từ đó nàng tin tưởng và quí mến chàng hơn bởi phong thái rõ ràng, minh bạch, thẳng thắn bày tỏ ý định đồng thời biết tôn trọng ý kiến, chiều hướng và ngay cả những ý thích cá nhân nhỏ nhặt của nàng... Tuy thế, nhận định điều tốt lành nơi người khác thì được nhưng khả năng đặc biệt của chính mình thì chàng lại không...

-Đối với anh nó thường nhưng em thấy không thường chút nào. Anh trả lời coi, anh có cố ý dùng những chữ nào đặc biệt trong thư không?

-Chả có gì đáng nói là đặc biệt hay đặc sắc... Nghĩ sao, anh viết vậy, đôi khi chỉ dùng chữ để đọc cho xuôi tai một chút. Thật ra, ai mà không viết được lá thư thường như thế. Chữ nghĩa có bổn phận mang ý nghĩ, tư tưởng của mình tới người đọc thôi chứ có chi đáng nói mà em làm như quan trọng lắm...

-Anh không thấy quan trọng vì nó thuộc về khả năng của anh do đó bị anh coi thường. Riêng đối với em, nó rất ư quan trọng vì em không thấy lá thư thường chút nào. Anh dùng những chữ bình thường mà diễn đạt được ý nghĩ một cách mạch lạc; ý nghĩ của anh lại được xếp đặt có thứ tự, lớp lang, rõ ràng khiến cho người đọc nhận ra điều anh muốn nói. Hơn nữa, qua sự xếp đặt ý nghĩ, anh dẫn người đọc đi từ thực tại ai cũng có thể nhận thấy đến điều anh cho là nên hay không nên và khuyến dụ người đọc chấp nhận cũng như nên đi theo đường lối anh cho là đúng. Cuối cùng, anh đưa lên lời cảnh cáo nếu không muốn nói rằng bảo không nghe, sẽ gặp thất bại trước mắt. Em hỏi anh, nhận ra như thế, lá thư anh viết có thường nữa không? Em thử đặt vấn đề, nếu dùng những danh từ đao to búa lớn mà chẳng nói lên được điều mình muốn nói hoặc chỉ chứng tỏ chính tác giả cũng chẳng biết mình muốn nói gì thì nào lợi ích chi? Đó chỉ là sự kiên nhẫn lục lọi và ráp chữ một cách vô ích chứ không phải khả năng hoặc tài năng. Đàng này, những chữ anh dùng ai cũng hiểu được, dù em nhỏ mới học lớp sáu, lớp bẩy đã biết dùng mà lại mang cả một ý thức cảnh tỉnh người đọc đừng chạy theo ý định viễn mơ... không đặc biệt thì thế nào? Anh có giỏi thử biện hộ cho sự dốt nát của anh coi... Anh đã nhận ra cái dốt của mình chưa hay là vẫn còn cố u mê với thói quen bẻm mép dễ thương "không dốt mà ở đây vào lúc này." Ngay từ buổi chiều mới gặp trên xa lộ, em đã nhận thấy cái miệng của anh nào có vừa chi... Tất nhiên, khả năng ăn nói chứa đựng tính chất đặc biệt nào đó của tâm hồn nên em cứ thắc mắc trong khi anh lại cho rằng em ước mộng viễn vông; em muốn anh trở thành điều em mộng tưởng. Anh chứng minh xem em mộng tưởng ở điểm nào? Hay là anh chưa trở nên chính anh, chưa phát triển khả năng sẵn có nơi anh. Lý luận nghe hay lắm nhưng anh chưa nhận ra khả năng của mình sao phát triển, sao đòi trở thành chính mình. Đó, anh biện hộ để chứng tỏ anh là tên ngu muội, vô tài, bất tướng coi! Nói thế nào, lý luận ra sao cũng được nhưng phải hợp lý, hợp tình để chứng minh anh thường như vẫn nghĩ... Cho anh xử dụng luôn khả năng bẻm mép để dấu đầu lòi đuôi nữa đó. Anh đúng là tên học trò ương ngạnh và quá quắt; cái miệng nhanh như ăn cướp lại trơn như bôi mỡ...

Hùng lặng thinh, đôi mắt xa xăm, mông lung hướng về phía chân trời mờ mịt, hừng lên đó đây những vùng ánh vàng nhạt nhòa, yếu ớt của đèn điện từ những thành phố nơi tầm xa con mắt phản chiếu lên không gian, ngẫm nghĩ về những lời Ly Hương vừa nói. Lý luận của nàng khiến chàng tối tăm mặt mũi... Tại sao nàng có những nhận định này mà chàng chưa bao giờ nghĩ đến. Mới học xong trung học thì vượt biên, mà những ngày ấy việt văn lại là môn làm chàng khốn khổ... Bài luận nào cũng dưới điểm trung bình trong khi toán lý hóa đối với chàng trở thành ngón ruột... Không biết bao nhiêu sách, truyện... chàng đã phải cố tình đọc với hy vọng giúp cho môn việt văn khá hơn; thế mà không bị zéro hãy còn là may mắn khiến chàng có mặc cảm thày dạy đã thương hại cho điểm vớt vát. Những bài làm về triết vỡ lòng, luận lý, đạo đức của chàng luôn luôn bị phê "ngoài đề tài" hoặc lý cụt, lý ẩu, lý ba xu, lý gàn, lý Congo..., câu hỏi một đàng, viết một nẻo... Tại sao? Thêm một câu hỏi quái ác bắt chàng nhớ lại những kiểu cách đã làm cho những luận đề thời niên thiếu... Mình cũng ngang... Hùng thầm nhận ra; những gì được nghe thày giáo giảng, những gì nơi sách học ngày ấy đã bị chàng cho rằng viết ra chỉ là thứ nhai lại, ăn không tiêu, nuốt vào thế nào nhả ra thế ấy... không có gì lạ, chẳng có chi hay, giỏi. Chàng muốn chứng tỏ mình biết nhiều hơn, muốn đưa ra ý nghĩ, nhận xét về những điều đã học, đã nghe nên làm bài với sự hiểu biết riêng đồng thời đặt thành vấn đề cần suy nghĩ thêm nơi những điểm nào... Trật là phải! Luận đề về ý thức đạo đức của lương tâm, chàng đặt vấn đề làm sao lương tâm được giáo dục đúng đắn để có ý thức đạo đức tương đối cho phù hợp những hoàn cảnh khác biệt...; không bị zéro do lòng thương hại của thày giáo là may... trong khi bài làm tại nhà trường chỉ cốt ý kiểm lại những gì học sinh đã thâu lượm được qua sách vở hoặc từ những lời thày giảng dạy. Thế ra, dám suy nghĩ nhiều khi cũng bất lợi đối với lối học từ chương... Hèn chi đã sinh ra lắm cảnh nhai lại một cách máy móc, thiếu nhận thức bởi đã quen thói...

-Có phải anh đang tìm cách chạy trốn nhận thức... Thấy Hùng lặng thinh, Ly Hương lên tiếng cố dồn chàng phải trả lời để nói lên nhận định.

-Em nên học văn chương mới đúng... thế mà đi học dược...

Chàng thông minh và quá ương bướng, Ly Hương thầm nghĩ, đã bị dồn vào thế kẹt không thể kiếm cách chối từ mà vẫn còn cố tình xoay xở đánh trống lãng. Thay vì để ý phân tích hoặc nhận ra những điều nàng vừa phát biểu đúng sai thế nào, chàng dùng câu nói ám chỉ khen nàng hữu lý tránh mất lòng đồng thời đẩy nàng trở thành đề tài thay thế cho sự nhận định về chính mình. Ma giáo nhưng dễ thương, đã vậy phải kéo ngược lại thế cờ; tính toán như thế, nàng tiếp:

-Khoan đã, chưa đến lúc phân tích về em vì chuyện của anh chưa xong. Anh quan niệm rằng cần khuyến khích người khác phát triển ưu điểm nơi họ vậy anh đã nhận ra ưu điểm nơi anh chưa?

-Có chứ sao chưa. Anh chịu khó làm việc, không tiêu xài hoang phí mà biết tiết kiệm để giúp gia đình còn đang ở Việt Nam. Suy tư chút chút để sống sao cho không bị hổ thẹn với lương tâm... Bộ đó không phải là những ưu điểm làm thăng tiến con người ư?

Giỏi che lấp điều không muốn nói, Ly Hương thầm khen Hùng khá nhanh miệng. Chàng chỉ nói lên những điều đang xảy ra ai cũng có thể kiểm chứng để tránh trả lời câu hỏi chính. Có phải vì tự ái nên chàng ngại nhận sự thực không nhìn thấy khả năng viết lách của mình, hoặc thực sự chàng chưa nhận ra và cần thời gian nghiệm chứng. Phỏng mình quá quyết đoán, Ly Hương chợt đặt vấn đề. Xưa nay, vì là con một, nàng muốn gì được nấy nên có thể phần nào thiếu kinh nghiệm trong vấn đề liên hệ với những người khác... Ly Hương cảm phục Hùng bởi chàng mang đầy tính chất nam giới nhưng lại dễ phục thiện khi nhận ra điều hay, lẽ nên nhưng nếu muốn chàng thay đổi điều gì mà không có bằng cớ chứng minh hoặc luận cứ hợp tình, hợp lý, chàng trở nên ương bướng không mong gì lay chuyển. Qua thời gian quen nhau, nàng nhận ra con người của Hùng đầy tính chất đam mê bao bọc một lý trí sáng suốt tạo nên mối cân bằng tình cảm; thế nên, Ly Hương có phần nào chột dạ do nghĩ rằng có thể nàng vì quen thói được nuông chiều nên đã áp dụng nó trong lãnh vực tình cảm mà ép buộc chàng theo ý mình. Nghĩ như vậy, nàng nhẹ nhàng nhưng không kém phần lý luận:

-Vậy đã bao giờ anh nhận ra khả năng đặc biệt nơi anh chưa? Em muốn nói đến khả năng chứ không nói về tài năng.

-Em quan niệm khả năng là thế nào và tài năng khác khả năng ra sao?

-Đối với em, khả năng phát sinh tự bản chất và do sự tổng hợp bởi kinh nghiệm, học vấn, cũng như môi trường sống tạo nên nơi mỗi người trổi bật về phương diện nào đó chẳng hạn như lý luận, lối nhìn, văn chương, thi phú, v.v... Tài năng là khả năng nổi bật được phát triển do luyện tập, thực hành nơi mỗi người. Thí dụ, ca sĩ có tài hát tất nhiên đã có khả năng hát nhưng khả năng này cần được phát triển bởi học nhạc lý cho biết nhịp điệu, cần học hát để phát âm đúng và gây rung cảm nơi khán thính giả... Như thế đã quá rõ...; vậy khả năng đặc biệt nơi anh là gì, anh đã nhận ra chưa?

-Anh thấy, trên mọi phương diện, cái gì anh cũng thường thường vậy; mà có chăng, một vài phương diện anh không bao giờ dám nghĩ tới. Thí dụ, hát, xử dụng nhạc cụ, làm chính trị, buôn bán... và nhiều thứ khác nữa... có thể nói muôn đời anh cũng không bao giờ dám mộng tưởng đến một số ngành chuyên môn như học làm bác sĩ, chuyên viên hóa chất, hội họa, quảng cáo... Bởi nhận ra như thế, anh cảm thấy hài lòng với công việc của mình và con người mình, không đua chen hơn kém, không ganh tỵ hão huyền mà vui với niềm vui nơi công việc mình đang làm đồng thời nghĩ về tương lai sao cho có cuộc sống an bình, thảnh thơi...

-Em muốn nói về sự nhận ra khả năng qua lá thư anh viết...

-Anh đã nói rằng ai cũng có thể viết được lá thư như thế, đâu cần gì khả năng với tài năng.

-Đó mới là điều làm em mừng... Anh có khả năng viết lách, lý luận mà vẫn không nhận ra...

-Em nhận ra được, tất nhiên em có khả năng hơn. Tại sao em không nói về khả năng này của em mà cứ rối lên rồi giận dỗi làm anh muốn đứng tim... May mà anh về sớm ra đây chứ nếu không gió thổi em bay mất tiêu...

-Anh cứ ngạo em, Ly Hương nhõng nhẽo, không phải nhận ra khả năng của một người nào là mình có tài hơn người ấy. Cũng như không phải biết thưởng thức những món ngon là có tài nấu ăn hơn đầu bếp. Hôm nọ, đọc cuốn sách phân tích về thơ của tác giả gì đó, em không tin ông ta biết làm thơ. Khi làm thơ nào ai để ý đến luật này, luật kia, thế này, thế nọ. Đâu ai mở tự điển tìm ra chữ nào bạo, chữ nào nhược để ráp vô thơ mà tùy hứng... Văn chương cũng vậy, đâu phải nhận ra văn hay là mình có thể viết hay; đâu phải cứ học văn chương thì viết sẽ cảm được lòng người. Bằng cấp chỉ nói lên mớ kiến thức đã được học hỏi trong khi văn nghệ sĩ phát triển khả năng sẵn có của họ thành tài năng. Em ước mơ anh trở thành nhà văn; thôi, không dùng chữ nhà văn đao to búa lớn làm gì; em muốn anh viết cho giới bình dân, giới trẻ học lớp bốn, lớp năm trở xuống...

Lời nói của Ly Hương tựa trái nổ phá vỡ tâm tưởng bao lâu nay mãi ngủ mê với quan niệm hạn hẹp sống làm sao không tự thẹn với chính mình là đủ; Hùng thấy mình quá nhỏ nhoi, thêm phần ích kỷ nếu thực sự chàng có khả năng viết lách mà không xử dụng. Năng lực nào đó bỗng bùng lên trong lòng chàng thúc đẩy máu chảy mạnh hơn... truyền qua cánh tay ôm nàng chặt thêm... Ly Hương, Ly Hương, thế ra em không những đã vì tình yêu người dân quê chất phác cùng giống nòi mà còn vì yêu anh nên đã phải chịu nỗi thương tâm dày vò đến độ gầy guộc xác thân. Em nghĩ đúng, nếu ai cũng chỉ biết sống cho chính mình và gia đình thì bao giờ nước mới giầu, dân mới có thể mạnh... Khi người ta còn chưa biết đọc, biết viết thì sao có thể có cơ hội học hỏi thêm để cải thiện lối sống, sao có thể nhận ra giá trị tối thiểu của quyền làm người, nói chi đến những ý tưởng tự do dân chủ, nhân quyền hay dân quyền. Tuy nhiên, ý nghĩ, mơ ước là một chuyện mà thực hiện ước mơ không đơn giản chi dẫu có khả năng. Biết bao người có tài mà vẫn lận đận; đâu phải cứ những người có giọng hát hay đã có thể trở thành ca sĩ... Phải xét lại đầy đủ yếu tố mới nên đặt thành vấn đề vì cuộc đời này nhiều chuyện coi vậy nhưng không phải vậy. Em dầu sao cũng chưa phải đụng chạm với thực tế nên ước mơ còn tràn đầy, còn muốn giang tay ôm trọn cả bầu trời. Hơn nữa, trong nghề nghiệp đã quen với những chuyện xảy một ly đi một dậm, anh không muốn có bất cứ quyết định nào trước khi suy nghĩ chín chắn. Chẳng những thế, điều kiện thực tại đòi hỏi con người khi sắp xếp một chương trình cần phải chuẩn bị cho rành rẽ đường đi nước bước, nếu không, cứ thấy đúng đã làm nhiều khi những ảnh hưởng do thất bại cỏn con làm nhụt nhuệ khí hoặc chán nản bỏ dở ước mơ sinh ra bất đắc chí... Nghĩ thế, Hùng giả vờ kiếm cách nói tránh.

-Đồng ý hai tay hai chân, em có ý kiến hay. Anh sẽ viết cho lứa tuổi trẻ thơ... tuổi mới lọt lòng mẹ đọc...

-Anh ma giáo, nói chuyện đổ bùn sang ao...

-Em nói gì, anh nhận lời viết cho trẻ thơ mà em nói ma giáo, đổ bùn sang ao là thế nào?

-Anh coi rẻ em quá. Nếu nói rằng viết cho trẻ thơ, mới lọt lòng mẹ, sao chúng đọc được nên đâu cần viết. Anh nhận lời nhưng chỉ để mà nhận cho khỏi phải làm...

-Nhưng...

-Khoan hãy biện hộ để em lôi cái tẩy láu cá cho lộ rõ ràng bộ mặt chuột của anh, chừa thói coi em như con nít muốn lừa kiểu nào cũng được... Để coi, và nếu em lý luận trẻ thơ mới lọt lòng mẹ đâu biết đọc thì anh lại biện minh khi lớn lên chúng đọc; không ma giáo chẳng lẽ ma đạo? Anh cãi bướng nữa không?

-Đúng là anh tránh gò phải mả nên bị cái miệng của em đấu cho tơi tả... Nhưng... em thử xét coi, văn chương thiên hạ viết đã đầy ngập những nhà sách... mà nào có lợi ích chi... Văn sĩ thì nghèo xơ nghèo xác; ai có giỏi lắm cũng chưa đủ tiền giấy bút... còn lại bao nhiêu thì viết chùa. Thích viết, mê viết thì viết chứ có ai bán chữ mà ăn đâu trong thời buổi văn chương rẻ hơn bèo này. Em thử đọc tiểu sử các văn sĩ nổi tiếng coi; người nào người nấy chẳng nghèo thì cũng phải làm nghề khác để giữ nồi cơm cho khỏi vơi... Anh sợ cô dược sĩ chê văn sĩ nghèo không đủ tiền cho cô mua dép nên không dám nghĩ đến văn chương, văn nghệ... trong khi em cứ rối lên về khả năng với tài năng. Em ơi, Hùng kéo dài giọng, tài năng văn chương của anh không ngăn cản được đứa nào nó đấm em đến thâm cả mắt, chảy cả máu môi như thế này đâu...!

-Anh Hùng, anh hiểu sai ý của em rồi. Em không cần anh phải được gọi là văn sĩ, viết sĩ. Hôm nọ, có một ông cụ cỡ bẩy mươi tuổi ở gần nhà em mới về Việt Nam thăm anh em họ hàng. Trở lại Mỹ, cụ nói rằng dân chúng nơi làng cũ của cụ nghèo khổ lắm; suốt ngày đàn ông phải ở trần vì không có áo mặc; có được hai cái áo thì phải để dành lỡ có chuyện đi đây đi đó... hơn nữa, mặc thường xuyên áo mau hư lấy tiền đâu mà may mới... Đồ ăn thức uống không có tiền mà mua nên ăn khoai ăn sắn cho qua ngày; học hành thì chỉ trình độ lớp ba lớp tư lại bỏ lâu ngày nên chẳng biết viết và quên cả đọc... Từ khi nghe ông cụ nói, em nảy sinh mơ ước viết những truyện ngắn nho nhỏ với mục đích phát triển kiến thức, lối sống, sự suy nghĩ, những điều hay, lẽ nên, và làm thế nào để in ra cho những người thiếu cơ hội tới trường đọc. Vì là truyện ngắn dễ đọc do đó càng đọc càng biết đọc và càng hiểu biết hơn. Anh thử nghĩ coi, muốn truyền bá tư tưởng mà người ta không biết đọc, biết viết thì truyền bằng cách nào nếu chỉ có một thân một mình... Vả lại, không truyền bá tư tưởng thì bao giờ dân mình mới sống vươn lên được... hèn chi cứ bị những con buôn chính trị lạm dụng, tuyên truyền bậy bạ... Mơ ước của em chỉ có vậy, dù cho anh gọi là mộng tưởng cũng không thể tránh thoát được thực trạng hiển nhiên đang xảy ra nơi con dân của đất nước mình...

-Em nói rằng người ta với trình độ lớp ba, lớp bốn thì truyền bá tư tưởng gì được...

-Em không đặt vấn đề truyền bá tư tưởng cho họ mà tạo cơ hội cho họ tiếp tục đọc... Khi đã có thói quen đọc, đọc riết cũng mở mang trí tuệ hơn. Anh xem, họ đâu có ngu; dân Việt mình nổi tiếng thông minh mà, nhưng không có cơ hội trau dồi, tìm hiểu thêm nên dốt. Dốt chứ không phải ngu. Ngu là không có khả năng hiểu; dốt tại không có cơ hội phát triển..

-Em cần nhận thực một vấn đề... Viết truyện không khó nhưng làm sao có phương tiện phổ biến?

-Em tin rằng không phải chỉ anh và em nghĩ đến điều này mà còn biết bao người Việt có nhiệt tâm nhiệt huyết với dân tộc, đất nước đã và đang âm thầm làm việc. Vấn đề là mình có sẵn sàng bắt đầu không đã rồi chuyện đến sẽ đến... Miễn sao những truyện anh viết đem lại lợi ích xây dựng nhân bản là được. Theo em, không cần chi nhiều, trong một câu truyện ngắn cho trẻ con miễn là sao có được những câu chẳng hạn như, những em bé tốt lành, ngoan ngoãn là những em biết vâng lời và giúp đỡ cha mẹ... Đưa ra những mẫu người hùng cho các em noi theo là đường hướng thực tiễn nhất để xây dựng một xã hội công chính sau này...

Trời đã khuya tự bao giờ, Hùng có cảm nghĩ mơ ước của Ly Hương lấy hết ánh sáng vùng đất bên đây theo mặt trời đang rọi xuống phía bên kia nửa quả địa cầu...





___________________ DẬY NÉT XUÂN HỒNG

Và thế là chúng mình có nhau, bé em. Lúc mới gặp, anh cứ ngỡ mình đã quen tự kiếp nào để kiếm tìm nơi khoảng không ký ức, nhưng càng lục lọi càng chẳng thấy vết tích dù mờ ảo mà chỉ càng tô bóng hình em thêm đậm cõi tâm tư dẫn anh vào những giấc mơ ắp đầy dáng dấp người yêu dấu. Hình ảnh em như tự ngàn đời anh đã biết, được đóng ấn nơi con tim ngay lúc mới sinh cho bao ngày tháng kiếm tìm không gặp gỡ, vun đầy ước mơ rồi cứ ngỡ mình chẳng bao giờ đạt được tình mộng. Thế nên ngỡ ngàng đưa lối đã níu kéo đôi uyên ương do định mệnh lại gần; lưu luyến bùng dậy sau bao năm tháng ngủ yên bó chặt hai hướng lòng khắc khoải thành một khối tạo nên những hẹn hò, nhung nhớ. Mà có phải là nhung nhớ? Không! Em như làn hương quyện quanh thân xác anh, ép sát khơi nguồn hạnh phúc, thúc đẩy hương lòng ca ngợi Thượng Đế đã ban cho loài người có em. Cảm ơn đời đã dưỡng nuôi em. Cảm ơn những con đường đưa bước chân, dẫn em tới nẻo hẹn hò. Cảm ơn những hoàn cảnh khó khăn vất vả nếu có đã đào luyện em thành người dễ mến, biết chấp nhận và chia sớt nỗi ưu tư. Cảm ơn cây cỏ hoa lá đã ươm nồng hương sắc xác thân em. Cảm ơn bầu không khí ấp ủ nuôi lớn em theo tháng ngày qua từng hơi thở, thêm hương cuộc sống. Cảm ơn những hạt mưa đã đổ ươm mát làn da cho dậy nét xuân hồng.

Từ ngày biết em, anh đã hiểu tại sao có ước mơ. Ước mơ là làn sóng định hướng con tim phác họa bóng hình cho lòng dõi tới, mê say dò dẫm, chọn lựa trong muôn người tấm hình hài mập mờ nơi mơ mộng. Anh đã có lý do giải thích những thực tại dây chuyền nối kết tạo nên con người chính mình như một chuẩn bị hòa nhịp của ước mơ. Xin cảm ơn những hoàn cảnh đã đi vào xa mờ dĩ vãng, những giây phút hương hoa cuộc sống, hữu tình nhưng không được nhận biết, tài bồi cho tâm tưởng, cá tính và thiết lập phong cách riêng tư. Dẫu là những may mắn không công lao có được, xin cảm ơn; dù cho đắng cay, khổ cực, phải trả với giá đau xót, đó lại là những kinh nghiệm quí giá nhớ đời; càng tê lịm ngất ngây trong đền bù mắc mỏ do kết quả chẳng ngờ lại càng in đậm nơi tâm trí phát sinh nét cá biệt chuẩn bị đón nhận niềm mơ hạnh ngộ.

Xin cảm ơn tháng ngày đã nuôi lớn đôi ta, những dại khờ tuổi thơ chìm mờ nơi ký ức, những hạnh phúc đong đầy trong giây phút hoặc những ray rứt ăn năn cho lỗi lầm lặn dần vết tích. Đã qua đi bao chuẩn bị thời gian cũ, xin nhường lối cho khung trời mới, cho hoa nắng tin yêu ngập tràn, xóa nhòa bao vết thương ngày qua nếu có, cho hương lòng trổi nhạc khúc yêu thương tô đậm thêm những nét chấm phá bản tình ca bất diệt.

Em, lời nói nào diễn tả cho thấu dù chỉ một góc cạnh của yêu thương, của ngạt ngào luyến nhớ, của đợi chờ hò hẹn. Dẫu nhịp đập con tim khi lơi khi rộn rã, khát khao luyến ái trào dâng khiến mạch máu như nghẹn lại chận đứng thói quen cố hữu ngây ngô rung, cho chậm dần động tác để rồi cứ mỗi nhịp đập, con tim anh lại muốn bùng lên ca ngợi tình yêu đang chất ngất cõi lòng. Ngôn từ nào nói lên niềm yêu thương đong đầy tâm khảm khiến dạ ngất ngây chuyển dần vô cõi mê hương mờ ảo ngạt ngào hương sắc gợi nhớ lúc bên nhau! Anh muốn hét lên cho loài người thấy niềm thương yêu tràn ngập đang phủ lấp mảnh tim bơ vơ đã bao ngày đơn côi chiếc bóng giờ có cả bầu trời ắp đầy tin yêu hạnh phúc. Từ nay, bầu trời luôn vương hương bóng hình người yêu dấu; cảnh vật nào cũng khơi lại dáng dấp em thương. Tình em cho anh như hoa lá ươm mát tâm hồn, ngập tràn trên ngàn cây cỏ. Những quãng đường cô quạnh hằng ngày đếm bước ngang qua, nay bỗng vui như mùa xuân mở hội. Người người đáng mến và nỗi tươi vui của họ như chứa đựng phần nào nét âu yếm em mang. Mùa xuân, hoa lá ngập tràn nhắc nhở anh tình em vươn mãi. Lá cây giao động theo làn gió gợi lại dáng áo em bay; hoa rung rinh chuyển nhẹ phô bày nụ cười của người yêu dấu. Mùa hạ nóng cháy đã không còn khiến anh khô bỏng mà có tình em ươm mát. Làn gió nóng như nỗi lòng ngây ngất hong khô suối tóc người tình rồi trở thành hương ngát khi phớt qua làn da tươi mát hây hây. Tình em khiến lá cây mùa hạ thêm xanh, thêm đậm đà cho bóng mát phôi pha lòng nóng cháy. Mùa thu không còn gợi lại nơi tâm tư những ngậm ngùi cay đắng mà trở thành mùa ươm ắp mộng mơ. Mưa thu lất phất tặng anh nhiều nhung nhớ và ước thầm có em bước song đôi. Lá cỏ hoang đồi trở thành biểu tượng tình em mùi chín xây đắp thêm niềm khao khát tựa cây trơ vơ hướng về chỉ một bóng hình vương vất ám ảnh. Mùa đông với ánh lửa hồng lung linh nơi lò sưởi gợi anh niềm nhung nhớ dáng mơ. Tình yêu sưởi ấm tâm hồn băng giá của lòng anh như sức nóng lửa hồng đuổi tan lạnh lẽo thân xác; hơn thế nữa, tình em cho là năng lực chống trả cái lạnh đất trời ngăn cản thời tiết tê tái xâm nhập châu thân để rồi cứ nhớ đến em, ngọn lửa lòng trào dâng khơi nguồn ấm áp.

Có em, anh có cả bầu trời. Yêu em, anh yêu luôn loài người. Tình em biến bôn ba vất vả cuộc đời thành những nấc thang cho anh bước tới vẹn toàn. Cuộc đời anh đã có hướng đi tới; tình yêu giúp anh vượt qua trở ngại chông gai tạo dựng hạnh phúc tương lai đôi lứa. Tình em như con sông anh ngụp lặn trong dòng nước êm đềm xuôi chảy để rồi hun đúc nơi tâm hồn những nhớ nhung quay quắt thấm nhập từng giây từng phút cho ngọn lửa yêu thương bùng lên thiêu đốt anh tan biến thành sương khói hòa lẫn nơi dòng tình lờ lững.

Em ơi, dẫu tình em cho ngập tràn như bầu khí quyển bao bọc xác thân, con tim anh vẫn còn khao khát như sa mạc ngày hạ đợi chờ những cơn mưa giông tràn ngập cho phần nào giảm bớt nỗi lòng nóng cháy thiết tha. Tình em tựa chiếc đũa thần nơi tay tiên nữ đụng vào con tim khô cằn sỏi đá làm nát tan lớp vỏ cứng sân si biến thành con tim thịt mỏng mềm đỏ hồng nhạy cảm. Con tim dào dạt với tình yêu muốn nổ tung vì hạnh phúc; thế nhưng càng cảm nhận được, nó lại càng tham lam muốn thu gọn tình em trong những ngăn hồng nhỏ bé, cho chất ngất, cho rướm máu, cho quên nhịp đập, cho nát tan, cho dại khờ bởi được yêu, quên đi quá khứ lỡ làng, quên đi thực tại hiện hữu, và quên luôn viễn tượng tương lai vì đôi tay anh đang ôm đầy hạnh phúc. Em đã gieo hạt giống bông hồng nơi anh, mảnh đất khát bỏng yêu thương. Bông hồng tình yêu hương ngát đỏ như màu máu con tim. Bông hồng phô bày tình ta qua từng cánh mềm, êm như nhung tơ và nhẹ tựa hơi thở. Tình em khiến anh quên thở; tình em khơi vạn niềm nhớ cho những thớ thịt quên rung, ngủ yên trong mê đắm dẫn tới mộng mơ bóng hình lý tưởng.

Nhung nhớ khiến lòng anh quặn thắt, tê lịm tâm can. Con tim mỏng mềm muốn ngừng đập, muốn trốn khỏi khoảng không gian cách xa hoặc tan hòa vào bầu không khí cho luôn luôn được cận kề vây bọc mảnh hình hài ngày đêm mơ tưởng. Dẫu biết rằng con tim e sợ tan vỡ sẽ không bao giờ dám mơ ước yêu thương, mà càng yêu thương, con tim càng muốn tan vỡ; tan vỡ để hội nhập nơi em cho thỏa niềm nhung nhớ, quên trời xa cách và không còn than trách những thời gian hẹn hò ngắn ngủi chóng qua. Niềm mơ nào không bị thực tại chặn đứng; mà không có thực tại, lấy chi làm nền tảng xây dựng mộng mơ.

Tình yêu dẫn anh qua khung trời mới, chỉ nghĩ, tưởng nhớ và hướng tới người tình với nỗi lòng hiến dâng không biên giới. Chỉ biết cho đi mà chẳng hề đặt vấn đề giữ lại hoặc so sánh thiệt hơn. Cuộc đời anh không còn niệm ý cho chính mình mà cho một bóng hình yêu dấu, một chấp nhận biến tan nơi xác thân của tháng ngày đã qua hướng về cuộc đời mới, viễn ảnh tin yêu vời vợi trộn lẫn yêu thương nồng thắm. Sống cho người tình là bồi dưỡng chính mình; sống cho người tình làm cuộc đời mình vươn mãi không biên giới. Nghĩ tới em, đời anh biến thành thơ mộng, đoạn đường cô độc nở rộ nét yêu thương; những chán chường trở nên hư ảo và bao thảm não hoang tàn quá khứ tự biến về ảo giác hư vô. Tình em cho anh tràn đầy sinh lực biến đổi nét nhìn thực tại cũng như viễn ảnh tương lai. Tình em cho khơi mùa xuân tự trong lòng đông giá, đưa tháng ngày hạ nên ươm mát lòng người cho hạt giống khô cằn dậy mộng chồi vương mãnh đúc kết thành những cánh hoa tình ngàn đời bất diệt. Em như ngọn gió ươm mát lòng người cho hương đời trổi dậy, cho kẻ ngây ngô biết ươm mơ dệt mộng, cho tâm hồn trống vắng hiểu nỗi lòng thắm thiết yêu thương, cho người chán chường chợt bừng hương sống biến đổi thực tại chai đá nên cõi mộng thiên thai. Ngày mai trong tầm tay hiện tại rồi tương tư trở lại xây dấu ái tình người.

Anh muốn chia xẻ với mọi người niềm hạnh phúc tuyệt vời nơi cõi lòng đong đầy yêu thương rộn rã. Xin cảm tạ tất cả những ai đã dạy con tim hiểu mật mã tần số yêu đương vì đã biết kiếm tìm yêu thương trong những bước đường đi trước, đã ca ngợi hồng ân lớn rộng như triều nước đại dương mà Thượng Đế đóng ấn nơi từng con tim mỗi người khơi nguồn rung cảm tuyệt vời, biết mở rộng lòng mong đợi và hòa nhịp đập kiến tạo cảm nhận yêu thương tới những tâm hồn còn đang như cánh rừng hoang cổ góp thêm nét chấm phá mỹ miều và tô đậm thêm nét nhạc bản tình ca ân sủng.

Em thương, rồi một ngày anh sẽ đưa em đi về miền xa cho quên trời nhung nhớ, cho quên bước chân lang thang những ngày tháng cũ đã mỏi mòn. Ngày đó anh hết luyến nhớ vì ước mơ đơm đầy để đưa đón em phiêu du vào cõi mộng cuộc đời. Anh mong bước chân em qua cho con tim khắc khoải bừng lên lẽ sống mới; cho làn hương tóc mây làm ấm nóng cõi lòng mong đợi. Xin ước mơ em mang dào dạt lan vươn tràn sức sống, và cho bến uyên ương dâng để tình ta thêm mặn nồng. Ngày đó xin chờ, em thương, em là mục đích cho niềm mơ anh đạt tới.





______________________ CON SÂU

Thailand ngày 24 tháng 7 năm 1993.

..."Kính lạy cha, bố con con ở đây đã gần 3 năm rồi cha ạ, cuộc sống của bố con con rất là khó khăn và thiếu thốn lắm. Lạy cha, bố con con rất là nghèo, cuộc sống của bố con con ở đây chỉ sống với ẩm thực của cao ủy phát cho thôi, rất là thiếu và hẩm hưu lắm. Mà bây giờ cao ủy họ lại cắt bớt phần lương thực đi nữa cha ạ. Lạy cha, bố con con không có thân nhân ở nước ngoài hải ngoại giúp đỡ cho, còn bố của con thì đã lớn tuổi già yếu rồi, hay bị bệnh lắm vì không quen với khí hậu, rồi phần hay lo nghĩ hoang mang ám ảnh hồi bị chìm bể tàu ở trên biển, rồi chỗ ăn ở thiếu thốn chật hẹp sô bồ. Lạy cha, kính xin cha thương đến hoàn cảnh khó khăn ngặt nghèo của bố con con ở nơi cấm tỵ nạn này với, kính xin cha thương xót giúp cho bố con con 38 đô để bố con con mua mùng mền và cái thùng xách nước. Lạy cha, bố con con không có tiền để mua cha ạ, mà mùng mền thùng của bố con con đã bị hư rách rồi, vì quá lâu rồi, mà trại chúng con đang ở là rừng núi của nước Thái Lan, rất là nhiều muỗi và lạnh lắm. Lạy cha, hồi bố con con mới bắt đầu nhập vào trại thì cao ủy họ có phát cho mỗi người một cái, mà nay họ không phát cho nữa, họ nói là chỉ phát cho mỗi người chỉ một lần khi mới nhập vào trại thôi. Và ở đây cũng thi thoảng phát quà cho người nghèo, họ nói là tiền của hải ngoại cho, nhưng cha ơi, đến được tay của đồng bào nghèo chúng con thì có là bao, người có người không, vì người đại diện việc này đã xén bớt đi rồi, thí dụ hải ngoại cho 5 đồng thì bị xén bớt đi rồi còn lại nhiều lắm là 2 đồng chứ không như ở hải ngoại nghĩ đâu, thật ra nào có ai hay biết cha ạ, cũng người nội bộ của họ ăn chia không đồng đều rồi đưa nhau ra thưa chúng con mới biết. Con thưa qua để cha biết. Lạy cha, vậy kính xin cha thương và ban tình thương của cha đến với bố con con với, cũng như tình yêu thương của Chúa đến với mọi người với tất cả nhân loại vậy. Kính xin cha thương ban giúp cho bố con con trong tình cảnh ngặt nghèo này... Kính lạy cha, con thật không được biết đến cha bao giờ. Lạy cha, cũng vì lòng bác ái thương người, giữa tình người và người. Lạy cha, thì có cái chị ở gần chỗ bố con con, chị ấy thấy hoàn cảnh khó khăn của bố con con mà bố của con đang bị bệnh nữa. Lạy cha, tự nhiên chị ấy đưa cho con cái địa chỉ của cha và cả tiền con mua cái thơ này để viết nữa cha ạ. Lạy cha, chị ấy nói con là hãy viết thơ đến xin cha giúp đỡ cho và nói rõ hoàn cảnh cho cha biết. Lạy cha, con rất ngại, vì con không biết cha thế nào. Nhưng lạy cha, chị ấy nói con là cứ viết đi. Kính lạy cha, cũng vì quá khổ và thiếu thốn nên con cũng đánh liều viết đại đến làm phiền cha. Lạy cha, cha nhận được thư này của con kính xin cha thương hồi âm cho con ngay nhé! Cha cho tiền bố con con thì cha cứ bỏ vào thơ bảo đảm gởi bằng đường bưu điện đến là bố con con nhận được. Cha đừng có gởi bằng thơ thường sợ bị mất đấy. Cha gởi tên con hay tên của bố con cũng được, tên của bố con là..., số tỵ nạn của bố con con là Pst... Sikiew. Xin cảm ơn cha thật nhiều... Ký tên Phạm Bạch Vân."

Tôi ngỡ ngàng khi nắp hộp thư vừa được mở, những một chồng, cỡ mười mấy chiếc, dẫu đã biết chắc thế nào cũng có một vài lá thư "Aerogramme" màu xanh từ trại tỵ nạn bên Thái Lan gửi tới. Cảm nghĩ chới với lần nữa chợt đến; đã bao lần kể từ hai tháng nay, khởi đầu bằng lá thư bên trại tỵ nạn Sikiew lạc tới, được trả lời, và cứ mỗi ngày, thư đến một nhiều... Thư nào cũng chứa đựng những lời ai oán khẩn thiết kêu gọi lòng thương xót đến cảnh khốn cùng của người viết đang phải sống nơi khổ ải nhất trần đời... cơm không đủ ăn, tiền không có trong thời gian đợi chờ thanh lọc và vẫn chưa có nước thứ ba nào chấp nhận cho định cư.

Mỗi lần nhận thư, hình ảnh của những ngày nơi trại tỵ nạn hơn mười năm trước trở lại. Chín ngày chín đêm lênh đênh trên con thuyền chiều dài chỉ 11m50 vừa vượt khỏi hải phận Việt Nam chẳng bao xa thì gặp bọn cướp Thái. Máy bể ống ép hơi... thêm mười lần cướp tiếp theo, cuối cùng tôi chao đảo lội nước bước lên bờ cùng với bốn mươi sáu người, thân xác tàn tạ, lòng hằn ngập vết thương biển cả nhưng cảm thấy an tâm vì đã đặt chân lên miền đất hứa hẹn tự do... Thời ấy, Pulau Bidong vừa được cất bớt gánh nặng của bốn mươi sáu ngàn người; mười ba ngàn dân tỵ nạn sống trên đảo tương đối dễ thở. Chúng tôi không phải lo ngại nơi ăn chốn ở bởi được thừa hưởng tàn tích còn sót lại của những người đã ra đi định cư... Cơm gạo đầy đủ, những lon đậu, cá ê hề thế mà những lời phàn nàn than trách Mỹ xù, Úc chê vẫn làm ray rứt lòng người. Ngày ấy đối với dân tỵ nạn, Canada đất lạnh trùm mền đã là một viễn ảnh đầy đọa; ngày nay, trong tình trạng o ép trả người về, được chấp nhận vào sổ người tỵ nạn đã là nỗi sướng vui hiện thân của sự sống mới không cần biết nơi nào sẽ là chốn định cư.

Thi thoảng tiện dịp, tôi kể lại kinh nghiệm nơi đảo, sáng sáng thức giấc, vội vàng nấu cơm mang theo không quên pha thêm hũ cà phê rồi vác chèo ra bến xuồng, dồn hơi sức bơi ra biển câu cá, trước hết có đồ ăn tươi, thứ đến bán kiếm tiền mua thêm nhu yếu phẩm lúc người người nơi trại còn đang chìm đắm trong cơn mê ngủ... Nhiều khi nhớ lại ngày ngày bốn tiếng đồng hồ bơi ra khơi trên chiếc xuồng làm bằng ván ép mỏng manh vừa đủ chỗ hai người ngồi, lỡ gặp sóng gió thì chỉ có nước phó linh hồn, tôi cảm thấy mình thật liều. Tuy nhiên, khi đói đầu gối phải bò... không xông xáo tiền đâu hút thuốc, uống cà phê... tiền đâu mua chai mắm mực... Dĩ nhiên, còn sống, kỷ niệm nào không vương đậm nét nơi ký ức bởi đã vượt qua! Giờ này đối diện với những lời kêu van kẻ cùng đường, tôi nhận ra ngày xưa nơi đảo mình hãy còn hạnh phúc tràn đầy. Không thiếu gạo, không thiếu cá, đậu hộp, mà chỉ vì miếng cà phê, chai mắm mực hoặc có đồ tươi để ăn, tôi đã bất chấp nguy hiểm liều mạng. Lúc này, anh chị em tôi, một tuần lương thực chỉ đủ ăn hai ngày; thử hỏi còn cảnh nào khốn khó hơn?

Mấy năm gần đây, có những hội thiện nguyện hoặc cơ quan bác ái tại Mỹ lo cho những người xấu số gửi thư tới nhiều người xin tiền hàng tuần, qua nhiều kiểu, lắm cách... Nào gửi cho mình đồng 10cents gắn trong thư để mình biếu nhiều hơn bởi ai ký ngân phiếu mấy đồng bạc; nào hình ảnh khốn khó của thực trạng người nghèo đang phải đối diện; nào lời Kinh Thánh được chọn lựa để mới thoạt nghe tưởng là lời kêu gọi lòng thương xót, giúp đỡ, nhưng ẩn ý cả là một sự đe dọa nếu không cho có thể là đã phạm một trọng tội; nào cây bút, thiệp Giáng Sinh hay thiệp tết... được gửi tới theo kiểu nhận hàng trước trả tiền sau mang đầy hối thúc ý thức mua hàng phải trả tiền theo lẽ công bằng... Thế nhưng, tôi vẫn có thể chấp nhận lờ đi bởi nghĩ rằng đã có nhiều người nơi đất nước này giúp họ. Nhớ có lần nói chuyện với một cha bạn về những thư từ xin giúp đỡ, ngài kể: "Họ làm cho mình cảm thấy tội lỗi nếu không cho..." Tôi thản nhiên trả lời: "Có lần hội thiện nguyện nào đó xin được hai triệu dollars để giúp những người gặp hạn hán ở Ethiopia... Truyền hình và báo chí loan tin rằng số lượng đậu nành chuyển tới người đói khát chỉ trị giá hai trăm ngàn, còn lại một triệu tám trăm ngàn là tiền văn phòng và chuyên chở. Họ kiếm việc cho họ chứ nào thiết tha chi đến người nghèo đói..." Tuy nhiên, khi những lá thư từ trại tỵ nạn tới, lòng tôi không chai đá được. Họ là những con dân Việt đang gặp cảnh khốn khổ; đồng thời, tâm lý mà xét, mỗi người Việt Nam đều có niềm tự hào riêng nên không muốn xin xỏ bởi khi mình xin ai, mình cảm thấy bị đụng chạm tự ái. Những người bên trại tỵ nạn cùng khổ lắm mới phải viết thư kêu gọi giúp đỡ... làm ngơ sao được...

Và rồi đính kèm những lá thư trả lời là những tờ money order... Thoạt đầu, mỗi người tôi gửi hai thơ, mỗi thơ kèm theo money order 25 dollars và không quên nói rõ là có hai thơ như thế tới. Thơ trả lời nói rằng chỉ nhận được một... Thế rồi ùn ùn thơ tiếp tục tới khiến tôi tối tăm mặt mũi... Lời thơ nào cũng làm ray rứt lòng; lời thơ nào cũng biến con tim chai đá của tôi thành mềm như bún bởi bị hòa nhập với nỗi xót thương...

Trong vòng ba tuần đầu từ ngày nhận thư tỵ nạn, hai mươi hai chiếc thơ được gửi đi; tiền lương một tháng đi theo khiến tôi phải đặt vấn đề. Nếu cứ đà này, lấy gì mà cho vì tiền vô thì có hạn, tiền ra đi vô giới hạn! Nhân gặp một cha bạn đang cổ động quyên tiền giúp cho người tỵ nạn tại Phi Luật Tân, tôi thử đặt vấn đề hy vọng ngài chi cho một phần giúp người tỵ nạn ở Thái nhưng được trả lời: "Tôi cũng nhận được hai thư từ trại tỵ nạn Thái Lan nhưng không trả lời vì biết rằng nếu giúp một người, thư xin tiền sẽ ùn ùn kéo đến." Tôi không nghi ngờ thiện chí của cha bạn đã cố gắng vận động giúp người tỵ nạn Phi đã từ sáu năm nay, nào khuyến khích những người trẻ xung phong sang trại tỵ nạn làm việc, nào dùng đủ mọi cách có thể để gây quĩ giúp những người còn đang gặp cảnh khó khăn, nhưng lòng cảm thấy không vui bởi nghe được trại tỵ nạn Sikiew là trại khó khăn nhất từ xưa đến nay mà chưa được ai đứng ra tổ chức giúp. Nhân được mời tham dự một đám cưới, tôi nói chuyện với một số người quen hy vọng họ giúp được chút ít nào chăng... rồi cũng không ai để ý, chỉ những đề nghị hão huyền sao không thế nọ, sao không thế kia... Lời van xin của tôi chỉ như nước đổ đầu vịt. Có phải tại tôi đã không cố gắng hết sức hoặc không chuẩn bị đủ lời nói làm mát tai người nghe hay tại lòng người sinh ra chai đá khi đã có cơm no áo ấm? Có phải tại đời sống mới này tạo nên con người ích kỷ cho rằng đã có nhiều người khác giúp, hoặc người nghe nghi ngại bị tôi lừa bịp với danh nghĩa giúp người tỵ nạn...?

Một hôm nhân ghé thăm người bạn, tôi cũng nói chuyện về vấn đề làm sao có ngân quĩ giúp những người khốn khó viết thư xin trợ giúp thì được anh ta trả lời: "Cha đừng tin những lời họ viết vì chính con cũng đã sống trong hoàn cảnh ấy. Những người nghèo khổ thực sự thì tiền đâu để họ mua giấy và tem viết thư; hơn nữa họ lại đầy tự ái không muốn làm phiền đến ai mà có sao chịu vậy. Những người đã có tiền mua tem bên trại để viết thư sao không để tiền ấy mà ăn. Đa số họ là thành phần không ngay chính bởi đâu phải họ chỉ viết thơ tới mình cha mà viết cho cả bao nhiêu người khác..." Lời người bạn một phần nào khiến tôi phân vân bởi khó bề giải quyết mười sáu chiếc thư mới nhận từ trại tị nạn Thái... Những phong thư xanh mang đầy hy vọng đợi chờ kèm theo những hình ảnh màu huyết dụ tựa vết loang lổ màu máu nhỏ từ tim người gửi khiến lòng tôi như bị ai nhồi bóp. Một lá, hai lá, mười lá, hai mươi lá... thư tới càng ngày càng nhiều và đến bây giờ thêm một cọc mười sáu lá, làm sao tôi có thể giúp hết mọi người nếu không đặt vấn đề thanh lọc để gạn bớt, dành cho những người trong trường hợp thực sự khẩn cấp. Lá thư Phạm Bạch Vân tha thiết và đau khổ quá, tôi muốn mua money order gửi ngay lập tức vì nghĩ mỗi giờ chậm trễ là mỗi giờ tăng sự đau khổ trong khi niềm hy vọng của họ dần dần lịm tắt... Nhưng đâu phải chỉ có một bố con Phạm Bạch Vân! Mười sáu lá thư nhận được cùng lúc đều nói lên những cảnh đáng thương khác biệt mà cảnh nào cũng cần được nhận sự chia sẻ cấp thời.

Nghĩ như thế, tôi viết thư nhờ một người quen đang sống nơi đất Thái luồn lạch xin vô trại tỵ nạn để xem xét và yêu cầu anh ta gửi cho tôi danh sách của mười gia đình khốn khó nhất cần được giúp đỡ, đồng thời tìm đến tận nơi cũng như hỏi thăm những người chung quanh để cho tôi biết về thực trạng Phạm Bạch Vân. Tôi cũng viết cho Bạch Vân hỏi tên người đã cho địa chỉ của tôi. Sỡ dĩ viết cho Bạch Vân trước khi gửi tiền chỉ vì mười sáu lá thư đến cùng ngày nảy sinh nơi tôi dấu hỏi to lớn: Ai đã đưa địa chỉ của tôi cho mọi người trong khi tôi gửi tiền sang bằng địa chỉ giả bởi muốn tránh sự theo dõi của chính quyền và yêu cầu những người nhận kín tiếng; hơn nữa một phần nghi ngờ cũng chỉ vì Bạch Vân viết: "Tự nhiên chị ấy đưa cho con cái địa chỉ của cha và cả tiền cho con mua cái thơ này để viết..." trùng hợp với mười lăm thư tới cùng ngày đều có những câu tương tự...

Ngày 04/9/93 tôi nhận được thư Bạch Vân trả lời: "Còn cái người cho con địa chỉ của cha là chị bạn thì đã hồi hương cách đây mấy hôm rồi cha ạ, vì đã bị rớt thanh lọc rồi, và khi chị ấy được thông báo là nếu ai đã bị rớt rồi mà không về thì số tiền cộng đồng Âu Châu họ sẽ trừ bớt đi tính từ nay đến ba tháng nữa. Hôm chị ấy về con có hỏi thì chị ấy nói là chẳng hy vọng mà đi được, còn chị giúp cho con việc liên hệ đến cha giúp đỡ cũng là việc bác ái thôi, nếu được chị ấy rất là mừng, và từ hôm có thông cáo giảm tiền thì đồng bào ùn ùn ra về quá nhiều. Có một thầy tu ở đây cũng ra về chuyến đấy rồi cha ạ... Lạy cha, còn bố con thì bệnh quá nặng cao ủy đã cho đem ra nhà thương ở ngoài Bangkok rồi cha ạ, con được ra một tuần hai lần thăm bố con..." (Thư đề ngày 29/8/93). Nhận được thư, tôi vội mua money order gửi, lòng ăn năn vì quá nghi ngờ đối với người khốn cùng bệnh hoạn... Miếng khi đó bằng gói khi no; giúp người dầu chỉ là một chút, lòng tôi vui như nhận thêm được phần nào giá trị của cuộc sống...

Mười ngày sau, tôi nhận được lá thư trả lời của người bạn đang sống bên đất Thái: "Trọng kính cha, nhận được thư cha tuy vui nhưng song song đó cũng đem lại một nỗi buồn khó tả được. Quả là lòng bác ái của cha đang bị lạm dụng một cách quá đáng. Nói thẳng ra 'đem ra rao bán đấu giá.' Có lẽ cả cộng đoàn Công Giáo Hoa Kỳ mới mong giúp đỡ hết những lá thư từ các trại tị nạn gửi đến, trong đó có trại Sikiew nơi người Việt đang tạm dung. Người tị nạn quả là ích kỷ, không biết điều, chỉ khư khư biết quyền lợi nghiêng về mình. Chính bản thân con cũng không khỏi cảm thấy hổ thẹn thầm trong lòng. Hay là tại cuộc sống tù túng, hoàn toàn cô lập với cuộc sống bên ngoài, chung quanh là các hàng rào kẽm gai, thêm vào là ăn uống kham khổ, thiếu thốn nên đã nảy sinh ra tình trạng đó. Hễ gặp chuyện gì, họ đều đổ lỗi cho hoàn cảnh. Con xin kể đến cha về trường hợp cha Pière người Pháp từng giúp đỡ cho các đồng bào tị nạn đi đường bộ ở trại site two (biên giới Thái Miên). Người tị nạn Việt vinh danh cha là vị cha cao quý của người tị nạn. Người tị nạn Việt mình lạm dụng cha một cách trắng trợn. Hàng tuần vào chủ nhật, khi cha vào làm lễ, cha thường đem tiền và những lá thư bằng aerogramme vào giúp đỡ người tị nạn mới đến. Những người có thân nhân giúp đỡ, thấy vậy cũng xin xỏ, thậm chí họ viết thư đi không dán tiềm tem. Cha phải bỏ tiền tem cho họ (lẽ ra số tiền tem này cha có thể giúp đỡ thêm một số đồng bào nghèo nữa.) Có một lần lính Thái xét, bắt gặp trong người cha có thư. Bọn lính thái bắt cha bỏ ra hết, bắt cha phải lăn qua, lăn lại gầm xe của ngài. Người tị nạn chứng kiến cảnh đó, không khỏi khóc ròng. Ai cũng đấm ngực kêu than 'lỗi tại tôi.' Ai cũng thương cho sự hy sinh vô bờ bến của cha. Được vài tuần không làm phiền, rồi sau đó đâu cũng vào đấy, lại tiếp tục làm phiền. Hiện nay cha đã già và hưu trí ở Pháp. Còn đồng bào ở trại Sikiew hiện nay ra sao? Cũng không hơn, không kém. Nghĩa là biết được một mạnh thường quân nào giúp đỡ là cứ truyền tay nhau lạm dụng. Không một mạnh thường quân nào có thể kham nổi. Họ đều phải 'chạy dài.' Cha biết không? Thậm chí thư viết đến địa chỉ mạnh thường quân đó, họ không dám nhận, trả lại cho bưu điện để trả lại cho người gửi vì có mở thư ra đọc, hoàn cảnh nào cũng khổ sở cả. Mà đọc xong rồi, không giúp thì lương tâm lại áy náy. Thôi thì cứ làm như ta đã đổi địa chỉ là xong. Kính trọng cha! Tục ngữ Việt cũng có câu: 'Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.' Vâng, thưa cha, có những người thân nhân giúp đỡ tiền xài không hết, nhưng hễ đánh hơi chỗ nào có sự giúp đỡ thì y như rằng họ tìm đến cho bằng được, không kể đến sĩ diện gì cả. Điển hình là 'cô Phạm Bạch Vân' số nhà... mà cha nhờ con đến tận nơi. Thực ra không phải là cô mà là một nam nhi chi chí hẳn hòi. Sức dài vai rộng, tiền lãnh vào không hết. Anh ta đi với bố và hai em, vì tên anh ta giống tên là một nữ giới, nên anh ta thường xuyên viết thư đi những nơi nào có mạnh thường quân, tự xưng là nữ giới. Cà rá, dây chuyền đeo cổ, anh ta không thiếu một thứ gì. Trọng kính cha, theo như cha viết trong thư, con đã phải làm quen với bọn Thái gác cổng vào tận nơi dò xét. Sau một tuần lễ đi tìm hiểu các nhà ở trong trại, con được biết những gia đình sau đây, họ đã bị từ chối tư cách tị nạn hai lần và chờ bị trao trả về... Cuộc sống họ rất khổ sở. Có người lo nghĩ quá phải uống thuốc an thần..." (Nhận ngày 14/9/93).

Trong thư người bạn cho tôi danh sách 10 gia đình khốn khó nhất trại cần được giúp đỡ. Bạn tôi viết thêm: "Có một gia đình này, vợ vừa sanh, khổ lắm cha ạ. Lúc trước thân nhân còn giúp, nhưng 5, 6 tháng nay thân nhân của họ không hiểu lý do gì mà không thấy gửi. Thấy hoàn cảnh mới sanh con cũng thấy tội nghiệp tặng cho một trăm bat... Đây là tên và địa chỉ... Giúp gia đình này hay không tùy vào sự quyết định của cha."

Chẳng lạ gì, con người tranh nhau dành sống trong hoàn cảnh đói khổ nên sự lạm dụng và lòng tham thường nảy sinh. Tuy nhiên, những điều tốt lành khi lỡ trao vào tay kẻ chẳng ra gì sẽ trở thành mối thiệt hại cho những người đáng thương khác. Dầu thế, cũng chẳng trách... cũng chẳng trách... tôi tự nhủ lòng để dằn niềm đau cắn xé. Người có chút của ăn của để thường tranh nhau tiếng tăm, danh lợi; kẻ nghèo hèn dành giựt miếng ăn... Đôi khi sự tham lam làm mờ lý trí, và đối diện với đói khổ nên coi thường phẩm giá con người... Tôi không trách gì hết cũng chẳng tiếc xót vì cho dù giúp đúng người hay sai thì đó cũng là việc nên làm... Chỉ thương cho anh chị em tôi, những người vượt biên sau này tìm tự do, những con dân tìm chốn yên ổn nương thân, đã kém may mắn, đã phải và sẽ còn trải qua rất nhiều gian truân thử thách dầu biết bao người đã trả giá bằng cả mạng sống mà chưa dù chỉ được đặt chân lên mảnh đất tự do bao ngày mơ ước.





_______________________ GIÀN MƯỚP

Xếp mấy gói phân hóa học vào chiếc thùng nilon có quai xách cho tiện việc đem xuống xuồng, cụ Lâm nhớ lại lời dặn của thằng Minh,

-Bố nhớ, khi mướp bắt đầu ra bông cái và đang có trái, loại phân trong gói màu đỏ phải được dùng nhiều hơn vì loại này làm cho cây đượm trái; gói màu vàng phân ngay khi mướp bén rễ bởi nó giúp cho cây ra nhiều rễ hút chất đất; còn gói màu xanh, độ chừng bốn tuần khi mướp leo tới giàn thì phân tiếp theo với gói màu vàng. Màu vàng khi mướp bén rễ, màu xanh giúp cho lá, và màu đỏ để có nhiều quả, bố cũng đừng bỏ phân nhiều quá một lúc vì mặn, mướp sẽ chết...

Quăng dây cột xuống đầu mũi, cụ Lâm dùng bai chèo chặn xuồng sát mé cầu gỗ được bác nhô ra khỏi bờ nước cho tiện việc lên xuống, đưa mắt quan sát xuôi theo khoảng trống chạy dài phân chia khối xanh dây, lá tựa hai đoàn quân đối nghịch ra công lấn lướt trên chiếc giàn băng từ bên này qua bờ bên kia con lạch được nâng đỡ bằng những sợi dây cáp giăng ngang. Cụ để ý những ngọn mướp là đà rời khỏi giàn, định bụng sau khi bỏ phân sẽ bắt lại cho leo ra phía khoảng rộng. Nắng rực rỡ xuyên qua kẽ lá phản chiếu từ mặt nước tạo nên ánh sáng trắng, đẩy màu xanh lá mạ của những trái mướp hương song song buông thõng rộ niềm kiêu hãnh như muốn chứng tỏ công lao của cụ đã đem lại thành quả là hoa trái... Một rừng mướp, cụ Lâm thầm nghĩ. Nhìn chiếc giàn trải rộng tới tận bên kia bờ nước và dọc theo con lạch, cụ tưởng mình đang bước vào cõi thiên thai. Cả một bầu trời trong tầm tay với dưới ánh nắng chan hòa hoa lá bao trùm một cõi khiến tâm hồn thoát khỏi mọi bon chen dành sống cũng như những náo nhiệt, ồn ào của xe cộ nơi phố thị.

Đôi khi khí trời đột ngột thay đổi giữa lúc gắt nắng làm cho nước bốc hơi. Làn hơi hòa vào ánh nắng tạo thành những chùm sáng rọi xuyên hoa lá tựa những vầng hào quang mỗi buổi chiều khi mặt trời nấp sau đám mây; khung cảnh riêng tư của cụ Lâm trở nên mờ ảo. Những trái mướp buông thõng từ giàn dáng chừng có ma lực cuốn hút làn sương hơi nước, chuyển vận qua năng lực biến đổi của lá, thúc đẩy màu hoa đậm nét vàng hơn, khoe sắc thi đua cùng ánh mặt trời. Hoa lá đua chen che sức nóng gay gắt nung đốt khối nước; khối nước tỏa làn sương tạo những bụi trắng tinh nguyên thẩm thấu bồi bổ lá hoa; cụ Lâm không nhớ rõ ý nghĩ này đã đến với mình tự bao giờ, chỉ biết nó thường mờ mờ ẩn hiện mỗi lần nghĩ về cuộc đời của mình với những mối liên hệ họ hàng thân thuộc cũng như bạn bè anh em, những ai còn sống ở lại, những ai đã ra đi vào lòng đất lạnh...

Lãng đãng đâu đây vọng về nơi tâm tưởng lời ca dao ngọt ngào: "Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn," dường như nhắc nhở cụ mối dây liên kết tình người bên kia và bên đây nửa quả địa cầu. Đã mấy lần cụ trồng thêm khóm bầu nước cho leo cùng giàn với mướp nhưng chẳng bị sâu ăn thì cũng bị mấy con rái cá leo lên cắn nát. Cụ không dám trồng nhiều bầu nước vì khi thằng Minh thấy cụ bắt nhánh bầu cho leo lên giàn nó nói bầu nước trái nặng coi chừng dây chăng chịu không nổi chùng xuống gần mặt nước khó bơi xuồng. Trong thâm tâm, cụ chỉ muốn thấy hình ảnh vài cánh hoa bầu trổi lên lác đác giữa một rừng hoa mướp. Những lần đi nhà thờ về ngang bên kia con lạch, cụ cảm thấy ấm lòng khi nhìn một giãi bông vàng trải rộng ôm sát mái nhà màu nâu che gần hết chỉ còn nhô lên phần nóc... gợi lại hình ảnh mái ấm miền quê cũ.

Nhà cụ ngày ấy, lúc thằng Minh mới chập chững, được dựng trên thửa đất ngay bên con sông đào, phía đàng sau có ao thả cá. Cụ thường đứng ở bậc lên xuống té nước tưới mấy gốc mướp leo kín khung giàn nối liền nhà trên và căn bếp, vừa có trái nấu canh, vừa cho bóng mát những trưa hè. Chẳng những thế, nụ và lá mướp non còn được bà cụ hái xào hoặc nấu món nhắm rượu mỗi khi có khách khiến cụ cảm thấy hãnh diện vì tài tháo vát của vợ. Những chùm nụ mướp chúm chím gần nở xào với ếch hòa lẫn mùi thơm đậm đà hành tỏi, và thoang thoảng hương rau húng quế, ngò gai, thêm vào đó vài cọng ngổ, mấy khúc hành hoa nhai sồn sột, mới nghĩ tới đã bắt thèm. Cụ Lâm nuốt nước bọt, ngẫm nghĩ không hiểu hương vị quê hương làm cho những món ăn đơn giản thêm phần hấp dẫn hay vì cảnh đời nghèo túng đã khiến cho khẩu vị dễ chấp nhận và hài lòng với những gì mình có. Sống trên đất này, thịt cá nào có thể địch lại món ốc ao xào bông chuối với mẻ, trộn lẫn mùi rau răm và những miếng ớt thái mỏng xanh xanh đỏ đỏ nổi bật giữa màu nâu tím bông chuối và đen đen, ngà ngà của miệng ốc? Kiếm đâu cho được món lươn um gói lá mướp non, lá mướp nhậu ngon hơn thịt lươn? Gia vị nào tuyệt bằng mắm rươi chấm thịt ba chỉ luộc? Những hương vị món ăn quê hương nhắc nhở tình thân làng xóm cũ... Năm nay mướp được mùa, cụ đã bán được vài trăm. Chỉ ít ngày nữa trời bắt vào lạnh; mai hay mốt cụ gieo xu hào, cải xanh và rau diếp, hành hoa... Thằng Minh nói tuần tới sẽ mua dăm cây sắt về làm khung che mảnh vườn trồng rau thơm... Cầu xin cho dự tính xuôi chảy, cụ Lâm thầm nghĩ, mình sẽ có được chút quà tết gửi về cho ông anh, mấy người em và các cháu... Thế mà đã gần hai chục năm, hôm nọ thằng cháu viết thư qua nói căn nhà của mình gia đình vợ chồng Ty đang ở...; nhà nó những sáu đứa con... kể cũng tội; chẳng hiểu anh chồng có biết đặt dậm quanh bờ ao bắt cá lẹp nấu ăn qua ngày không... Nhưng nghèo như thế tiền đâu mua dậm? Ừ, đã thương thì thương cho trót; gửi cho vợ chồng anh chị ta vài chục mua cái dậm may ra giúp họ đỡ cực khổ hơn, ít nhất là có miếng ăn qua ngày... Với ý định ấy, cụ Lâm cảm thấy công việc làm vườn mang giá trị tình người... Mình ở đây dù sao chăng nữa cũng không bao giờ thiếu một bữa...

Từ ngày dọn về New Orleans, mảnh vườn sau nhà đã là niềm vui của cụ. Kỳ mới xuống, cụ bà gieo mấy hạt mướp đắng, mướp hương mang về từ miền lạnh; gặp đất mới, những cây mướp chẳng mấy chốc leo kín hết đám chà rào khi phá vườn cụ để dành lại, leo qua trùm luôn mấy cây bên đất hàng xóm... Mướp lan ra đủ mọi nơi mọi chỗ trông đến thích mắt, lại có thể được dùng làm quà biếu mấy người thân quen. Kỳ thằng Minh ra trường, mấy người họ hàng ở miền lạnh xuống thăm, khi về, mỗi người được biếu một bịch mướp đắng, mướp ngọt ra chiều quí hóa lắm... Và mấy gốc mướp đã đem lại niềm vui tuổi già. Cụ Lâm tính toán kiếm cây bắc giàn trong mùa lạnh năm ấy chuẩn bị cho mùa nóng gần tới... Thế là cụ đi bộ vòng qua cầu sang bên kia con lạch mãi tận đám rừng cách nhà cỡ nửa cây số, và suốt một ngày chui rúc chọn cây, đốn gốc, chặt cành, cụ vác về nhà bốn cây cột cao gấp đôi đầu người... Thằng Minh ở xa, cách nhà cụ cỡ hơn tiếng lái xe, hôm sau về thăm cụ ngạc nhiên hỏi:

-Bố đốn cây về làm chi mà nhiều vậy?

-Tôi định làm cái giàn mướp để trồng vào mùa nắng. Mướp leo chà rào khó chui vào hái trái mà lại chẳng được bao nhiêu.

-Thế bố định làm giàn ở đâu? Trồng vài cây mướp cần chi phải giàn!

-Thì cả cái khu vườn này, chứ để nó leo lên cây bên hàng xóm khó coi quá... cũng may họ tốt lành không nói chi hết.

-Bố định làm cái giàn lớn như thế thì bao nhiêu cây cột mới đủ? Bố có tuổi rồi tội chi làm nhiều cho mệt.

-Tôi tính cứ hai sãi một cây, được bao nhiêu làm bằng đấy. Hôm qua lội qua khu rừng mãi đầu phía bên kia con lạch, tôi đã đếm được những mười mấy cây... chỉ đốn vài buổi là hết.

-Tính như vậy thì các cây đà bắc ngang bố kiếm đâu ra cho đủ... Thôi đi bố, nghỉ cho khỏe, hơi sức đâu...

-Đành chấp nhận được đến đâu hay đến đấy chứ không có thì biết sao bây giờ!

-Cứ như ý định của bố, bề ngang cần bẩy cây, bề dài hai mươi sãi phải có mười một hàng, vị chi bẩy nhân với mười một là bẩy mươi bẩy cây cột; đà ngang thì không biết bao nhiêu mà kể, cây đâu kiếm cho ra. Tuy nhiên bố đã thích vậy để con tính xem... Phải làm giàn kiểu khác... Bố chịu khó đan lưới, con nghĩ chỉ cần mười cây cột và căng lưới lên là xong; bố đỡ phải vất vả.

-Ban nãy anh tính những bẩy mươi bẩy cây cột sao bây giờ lại chỉ cần có mười cây thì sao chịu nổi cái giàn.

-Con không làm cột bằng gỗ mà mua cột sắt hoặc đổ bêtông kéo dây cáp làm rường rồi đan lưới căng lên trên. Mười hai sãi bề ngang, mỗi cột cách nhau ba sãi nên cần năm cột một phía vườn do đó cần mười cột...

-Được vậy thì còn nói gì nữa; có cái giàn như vậy, phía sau nhà tha hồ mát...

Và rồi đến mùa nắng kế tiếp, chiếc giàn mới bắt đầu được coi là to tát cũng trở thành quá chật hẹp không đủ cho năm gốc mướp hương và mười gốc mướp đắng khiến dây lá chồng đống lên nhau đến nỗi những trái mướp ngọt không có chỗ thòng xuống nằm gác trên đám lá che khuất trở thành già quá lứa.

-Bố trồng nhiều gốc mướp quá; cây chạm lá, cá chạm vi thì làm sao có trái.

-Tôi tưởng rằng cũng cùng một công tưới nên trồng thử mười mấy gốc. Ấy là mới có vậy, giả sử trồng bốn mươi gốc thì không biết tính sao nữa...

-Trồng mướp cho thích mắt chứ trồng nhiều làm chi...

-Tôi tính không có việc gì làm cũng yếu người ra, ngủ không ngon, ăn không được. Hơn nữa, mình ở bên này dù sao cũng không đói khổ; tuy mình trồng chơi nhưng cũng cùng công làm, may ra có được thêm đồng nào gửi về cho mấy đứa cháu nghèo khổ ở quê nhà còn hơn là để phí uổng thời giờ.

-Bố nói cũng có lý, vậy thì bố để kha khá hạt giống, sang năm mình trồng bốn chục gốc mướp ngọt, và cái giàn này chỉ dành riêng cho mướp đắng leo mà thôi.

-Những bốn chục gốc mướp ngọt thì chỗ nào cho nó leo?

-Bố đan lưới, con căng dây là có chỗ leo...

-Nhưng chẳng lẽ cho mướp leo bên trên nóc nhà thì sao mà hái trái.

-Bố đừng lo, mình cho nó leo băng ngang con lạch mới thơ mộng. Từ bên đây sang bên kia cỡ ba chục sãi, chạy dài cả năm chục sãi đã đủ cho bốn chục gốc mướp leo chưa?

-Thế rồi làm sao hái mướp, chẳng lẽ đi xuồng?

-Chứ còn gì nữa, chèo xuồng hái mướp tha hồ thích...

Và chiếc xuồng được mang về để rồi giàn mướp băng ngang con lạch thành hình từ đó... Mấy cụ hàng xóm thi thoảng ghé qua mượn cảnh giàn mướp vỗ về nỗi nhung nhớ thôn làng cũ. Một hôm, cụ Châu đến chơi, nhân lúc cụ Lâm rảnh rỗi, sau khi ngắm cảnh, hai cụ cùng nhau chén tạc chén thù. Cụ Châu cảm hứng tặng câu thơ lục bát:

"Ngọc Lân có giãi mướp hương,

Có chợ Chồm Hỗm vấn vương lòng người."

Hương mướp trộn lẫn hương thơ, hai cụ đắc ý cưa đôi chai rượu thuốc bởi mềm môi qua những câu chuyện liên tưởng về làng xưa thôn cũ. Cụ Lâm nhớ mãi buổi chiều hôm ấy; nhớ vì được tặng câu thơ lục bát thì ít mà nhớ vì hàng ngày cụ có được niềm vui thanh thản nhìn thấy công trình của mình triển nở nơi từng ngọn mướp leo cao, được nhắc nhở do nét lay động nhẹ nhàng của cánh hoa, phiến lá, qua làn gió thoảng... Mảnh vườn nhỏ nhoi và giàn mướp băng ngang con lạch chẳng những đem lại cho cụ niềm vui tuổi già mà còn cả niềm vui tình người.

Năm trước, cụ Lâm còn làm thêm mảnh vườn bên kia con đê để trồng khoai sọ. Chừng nửa buổi sáng vào mùa ấm sau khi bán mướp, cụ chạy chiếc Mobilet lủng bô kêu phành phạch, dọc trên đường đê, và rồi vượt sang bên kia làm cỏ, vun khoai. Cụ thích đứng trên đê phóng tầm mắt nhìn những mảnh vườn kề nhau san sát nối tiếp từ chân đê đuổi ra tận mãi khu rừng nước mặn. Cả một vùng bao la được cắm vè, ngăn đường, luồn lạch chẳng có một thứ tự lớp lang nào, nhưng chúng mang cả một màu sắc quê hương của cụ. Đám chuối nhà ai vươn những tàu lá óng ả được chăm sóc và rọc bán cho người gói bánh gai; dãy sắn mì tốt ngập đầu người được chia hai khu một bên cuộng trắng, một bên cuộng tím. Những giàn mướp ngọt và mướp đắng được làm bằng gỗ không khác chi mái chòi nơi nương rẫy miền nam đất Việt. Nào vườn rau thơm đủ loại đôi khi gió xuôi chiều đem hương về thoang thoảng. Những luống rau xanh đậm của mùng tơi, kế bên, màu nhạt hơn là rau cải ngọt, rau đay... Những giàn bầu nước, các khoảnh bí đao, bí đỏ, dưa hồng, dưa gang trái xanh trái vàng..., tất cả nói lên lòng nhung nhớ tình quê, nhung nhớ vườn rau ao cá của con dân Việt được thể hiện bằng công việc vườn tược của quí cụ ông, cụ bà... đem lại không những niềm vui tuổi già mà còn một phần nào nói lên tình tự dân tộc chan hòa nơi người Việt tha hương. Sống nơi nước người, đất đai tuy rộng nhưng quí cụ bị bó chân bó tay. Muốn đi đâu, lái xe không được nên phải nhờ con, nhờ cháu, mà nào chúng có giờ rảnh để giúp... Làm việc tại công sở lo kiếm miếng cơm manh áo hoặc mài miệt lo việc học hành chuẩn bị cho tương lai đã quá đủ bận rộn đối với họ; quí cụ có tuổi cảm thấy bị quanh quẩn ở nhà chẳng còn phương tiện nào tiêu pha ngày tháng. Ra đường, tiếng người không hiểu sao có thể đi đây đó; nguồn an ủi độc nhất là mớ phim truyện tiếng Việt thì coi mãi cũng chán; mở truyền hình lại càng mù tịt, người ta cứ nói thứ tiếng mình không hiểu. Hơn nữa, xưa nay được nuôi dưỡng nơi bầu khí thảnh thơi của đồng ruộng, chôn chân mãi nơi phòng khách, phòng ngủ khiến cơ thể bứt rứt khó chịu... Và thế là một vài người khởi công phá cây dọn cỏ, trồng sắn vun khoai... tiếng đồn chuyền tai quí cụ... Khu rừng bên kia bờ đê vài năm sau đã mang hương sắc đồng quê đất Việt...

Vào gần dịp tết trông mới thích mắt; những luống xu hào chạy dài phơi bày công sức chăm sóc, phân bón được kết tinh thành những củ mọng bóng màu trắng xanh no tròn. Vàng lên cả khu vực bên kia, màu lá non trổi vượt của những liếp rau diếp... Ước gì có cá rô kho nhan nhát để chấm rau; ăn vào chỉ còn nước quên chết...

Thêm vào đó, tính chất cần kiệm, ưa hoạt động của người dân quê Việt còn được dây chuyền thể hiện bằng khu chợ Chồm Hổm. Mới mờ sáng, người ta đã đèn đóm họp chợ. Thôi thì đủ thứ hoa trái, rau cỏ, sản phẩm từ khu trồng tỉa bát ngát bên kia bờ đê và những mảnh vườn tí hon tại nhà. Ai có dịp ghé qua vùng Versaille, được người Việt đọc trại thành Vực Sâu thuộc danh địa East New Orleans, tiểu bang Louisiana, thường được gọi Ngọc Lân, mà không cảm thấy thích mắt với những luống rau chạy dọc theo con lạch sát bên ngôi Thánh Đường gần khu thương mại người Việt. Nào rau cần, rau muống, giàn bầu, giàn mướp... tất cả sản phẩm nơi vườn tược được đem ra chợ Chồm Hỗm phơi bày. Chợ Chồm Hổm có thể được coi là nơi nối kết tình người của những con dân mang tóc đen da vàng. Ai đã một lần đi chợ Chồm Hổm mới cảm nhận được những gì lẩm cẩm, lỉnh kỉnh của sắc dân mình đang vun xới cho tình người mang mang nơi dòng máu. Mới sáu giờ sáng đã nổi lên tiếng gọi nhau ơi ới, vang dội giữa những lời chào hỏi ồn ào khi người quen gặp nhau hòa vào lời mời mua hàng quà, bánh trái... Thịt tươi màu đỏ hồng nóng sốt, lòng heo mới luộc còn đang bốc hơi, phèo phổi, gan ruột và những cuộn giồi hấp dẫn, bắt mắt. Cá mới lưới còn đang ngáp không khí nhớ nước... chả giò, chả chìa... bánh trôi, bánh tét, bánh ướt, bánh lá... kẻ đến người đi cùng nhau tạo thành thời điểm họp chợ cho tới bẩy rưỡi, tám giờ mới trả lại khung cảnh bình thường cho các gian hàng bán lẻ, khác xa với hàng quán Tây Phương.

Cụ Lâm nhớ dạo mới về miền nam nghe người ta đồn thổi khen vùng "Cà Phê Đu Mông" (French Quarter) thế nên đã có lần bảo thằng Minh đưa cụ đi xem thử. Buổi tối, loanh quanh khu vực French Quarter kể cũng vui vui. Cảm nhận đầu tiên đến với cụ khi đặt chân vô nơi nổi tiếng của văn hóa Tây xa xưa để lại là bầu trời tràn ngập ánh sáng đèn điện tạo cho du khách cảm giác đang được tắm dưới ánh trăng của đêm rằm trời quang đãng. Sau vài phút đi bộ vòng vo, leo lên leo xuống những bậc xi măng, ngọn tháp nhà thờ St. Louis sừng sững im lìm đếm khách thản du ghi vào ký ức theo năm tháng dần trôi, hình như có vẻ ngậm ngùi bởi người người còn mải mê tìm kiếm những gì thoải mái chóng qua, giả tạo cuốn hút sát mặt đất mà quên ngẩng mặt vươn lên vùng thượng tầng thoát khỏi cảnh bon chen là đà ấy. Màu xi măng bạc dần theo năm tháng nơi chân tháp mờ xám dưới ánh điện gợi lòng cụ mối cảm thương cho thân phận bị bỏ rơi... hoặc là không còn hợp thời hấp dẫn, hoặc không thể hòa vào thị hiếu kẻ đang mê đắm chốn bụi trần. Một nhạc công hát dạo, tiếng trumpet lạc lõng kêu gọi sự bố thí của khách qua đường... Cách một khoảng, người nghệ sĩ đang rên rỉ với chiếc kèn Sexophone kêu gọi lòng xót thương rộng tay cho tiền... Giữa đường, chàng thiếu niên Mỹ đen kiểu cách giống như đang lên cơn động kinh làm đôi chân giật giật tạo thành những nhịp điệu khô khốc của cặp đế giày đập xuống mặt đường chờ tiền du khách quăng vào chiếc mũ lật ngửa.

Khu này, một dãy những thợ vẽ truyền thần hoặc cắt hình bằng giấy đen, trắng; nơi kia, các cửa tiệm bán đồ ăn thức uống... Cụ Lâm mỏi cẳng theo bén gót thằng Minh trên những đường ngang, lối dọc ngào ngạt người và người. Có những cửa tiệm đi ngang chợt nhìn vào qua khung cửa kiếng khiến cụ chóng cả mặt... Ai đời nào một chị thân hình phốp pháp, hầu như không mặc quần áo đang nhún nhảy theo những tiếng kèn, tiếng trống của dàn nhạc... và người ta thì kẻ vỗ tay, kẻ uống rượu, cười nói... Mới vô tình liếc qua mà cụ đã cảm thấy tự thẹn, thầm nghĩ mình không thuộc về giới người đó. Nơi cụ thích nhất là quán Cà Phê Đu Mông; nó chẳng khác gì một quán ăn bình dân bên Việt Nam. Kiếm một bàn ngồi vào, gọi cà phê và bánh ngọt nhâm nhi nhìn người lũ lượt từ muôn phía đến rồi đi không hàng lối, thứ tự cũng bõ công cho chuyến xe từ nhà đến phố Pháp. Dẫu là quán cà phê nhưng có lẽ nó nổi tiếng về cà phê thì ít mà nổi tiếng vì người ta được ngồi đó thoải mái, hút thuốc không cần gạt tàn, cứ quăng phần dư của điếu thuốc hút còn lại xuống nền hồ, lấy giầy di cho tắt cũng là một cái thú. Ngoại trừ những dãy nhà cổ, những thú ăn chơi mình không bao giờ bén mảng tới, khu phố Pháp không thể nào địch lại với khung cảnh họp chợ Chồm Hổm, cụ Lâm so sánh. Phố Pháp làm sao có lòng heo, huyết bò mua về băm tiết canh; tìm mỏi mắt cũng không thể nào kiếm ra rau thơm, bánh ướt, tôm tươi, tép gạo còn đang nhẩy trong rổ hoặc cá bông lau, ngò ôm, bạc hà... nơi khu vực tứ chiếng ấy. Đi xem phố Pháp cho biết nhưng lúc đang trên đường về, cụ Lâm đã tự nhủ mình không nên đến nơi đó lần thứ hai... Đồng ý rằng, văn minh nước người có điểm hay riêng của nó, cụ lý luận, nhưng cũng có rất nhiều phương diện không hợp với con người mình. Những gì hay thì nên theo là lẽ cần nhưng những gì quá lố, với tuổi của mình, không nên bén mảng để ít nhất tránh cho tuổi trẻ cơ hội mượn cớ học đòi. Cứ coi trên truyền hình vào thời kỳ gần ngày Mardi Gras thì biết; cả một thói quen tốt lành bị lạm dụng có thể nói nhiều khi sinh ra hủ tục... Tổ chức những buổi diễn hành phô bày những nét đẹp là điều nên nhưng lạm dụng chúng để che mặt, làm những chuyện tệ hại, ở trần trước công chúng lại là điều quá lố... Những cái được gọi là văn minh quá trớn ấy sao có thể so sánh với những buổi họp chợ Chồm Hổm chan hòa sắc thái tình thân dân tộc được thể hiện qua sự trao đổi những hoa trái như kết quả của cá tính tự lập cánh sinh, với những món ăn thuần túy lòng heo, bánh cuốn, bánh dày... Nghĩ đến lòng heo, tiết canh, rau húng, mùi vị quê hương nhắc nhở hơi men dẫn câu thơ lục bát giàn mướp vọng về, không ngờ đã có lần mình uống nhiều rượu thuốc như vậy, cụ thầm nghĩ, dùng bai chèo ép xuồng sát cầu gỗ bước xuống.

Chiếc xuồng lướt êm trên mặt nước tạo thành những gợn sóng nối tiếp đuổi nhau dạt vào bờ hoặc nấp sau những cụm lục bình lững lờ trôi, đua chen khoe từng đọt bông màu tím hoa cà phô bày sự hòa hợp màu sắc giữa các tàu lá xanh viền quanh dưới ánh nắng nhạt nhưng không kém phần nóng nực của buổi sau trưa thượng tuần tháng mười. Những cụm lục bình trôi nổi xuôi theo làn gió đổi hướng bất chợt, khi dồn lại san sát tạo thành khoảnh rừng xanh mướt che kín mặt hồ nhỏ tận mãi đầu hướng phía nam con lạch, gợi về hình ảnh những cánh đồng lúa con gái bát ngát thân thương ngày nao của vùng lúa xạ, lúc lại rong ruổi kéo nhau từng đám trôi ngược hướng bắc, rồi chen kẽ khít khao chiếm ngự hết phần đầu con lạch tạo thành chướng vật ngăn cản bất cứ ghe, xuồng nào muốn vượt qua. Mới tháng trước cụ Lâm căng hai sợi dây ngang con lạch ngăn lục bình trôi về cản lối xuồng hái mướp, con bé Huyền vi, cháu ngoại, trông thấy đám lục bình đọng lại cứ nằng nặc đòi cụ tháo dây thả cho chúng trôi; màu xanh lá mạ của những cánh lá lục bình tạo cho con bé niềm vui thích nhìn nét sinh động vươn lên nơi cảnh vật...; thế mà giờ này đã đầy những bông vươn cao sung mãn, cụ Lâm chợt nhớ nét thơ ngây của con bé mà lòng dâng lên niềm hãnh diện...

-Ngoại à, ngăn dây như thế lục bình không trôi được, cá không cắn câu...

-Cắt dây chúng trôi đầy về đây sao chèo xuồng hái mướp... Hơn nữa, lỡ người ta về xịt thuốc khai quang giết lục bình thì mướp sẽ bị đui hết...

-Mướp nhiều bông vàng, lục bình xanh trôi phía dưới, ngồi câu cá thích lắm.

Cụ Lâm nhìn cháu gái, lòng rộn niềm vui. Mới sáu tuổi đầu mà đã nhận biết cảnh thơ mộng của thiên nhiên. Ngày ngày, hai ông cháu quấn quýt bên bờ lạch, dưới bóng mát giàn mướp. Con bé học đòi cụ cũng thích câu cá; thế nên cụ đã phải bỏ ra suốt hai ngày trời đóng khung, vây lấy một phần sàn gỗ làm chỗ cho cháu ngồi câu. Con bé líu lo hỏi đủ chuyện nhiều khi cụ không biết trả lời làm sao.

-Ngoại, mau lên, mau lên, con cá nó giãy quá cháu không giữ được... Huyền Vi dùng hết sức nắm cần câu ghì xuống thành ngăn trong khi con cá lùng dưới nước cố vẫy vùng tìm đường tẩu thoát...

-Khi gặp cá to, cháu kéo lùi cần câu vào phía sau, đặt nó vào khấc trũng này rồi ghì xuống...

-Cái con cá này nó giãy dữ quá cháu sợ vuột mất... Con cá rô nó giãy ít hơn.

Dẫu đang bận làm cỏ, cụ Lâm cũng ngưng tay mỗi lần cháu gọi gỡ cá hoặc mắc mồi câu. Kể ra, con bé câu cũng sát cá, cứ thi thoảng lại gọi ông ngoại gỡ cá hay mắc mồi. Những ngày trở trời cá ít cắn câu, con bé ngồi lẩm nhẩm như đọc thần chú: "Cá không ăn câu, mồ cha con cá dại." Và, "Cá ơi cá mày ăn đá chẳng ngon, lại đây tao có mồi tôm, mày đớp tao giựt cái phựt..." Lẩm nhẩm chán, con bé cất giọng ca những khúc hát đạo nhớ được bởi thường đi nhà thờ với ngoại, câu được câu chăng khiến cảnh êm đềm thêm sinh động. Mới chừng hơn tháng từ ngày có chiếc cần câu tí hon, con bé câu đã có vẻ lành nghề. Mỗi khi phao động đậy, con bé dường như dồn tất cả tâm trí vào đôi tay, chờ chiếc phao vừa chìm khỏi mặt nước là hất ngược cần câu lên. Lúc đầu, giật mạnh quá khi cá đớp sẩy mồi, lưỡi câu bung lên mắc vào giàn mướp phía trên phải kêu cụ gỡ; và dẫu con bé có vẻ hối tiếc công lao của ngoại nhưng cũng khôn khéo nhắc nhở:

-Ngoại ơi, thôi, con lại dính câu trên giàn mướp rồi...

Con bé có bộ điệu giống hệt mẹ từ nét mặt, đôi mắt, dáng người và sự thông minh. Huyền Lan là con gái út của cụ, mẹ của Huyền Vi. Vợ chồng con rể và đứa cháu ngoại sống với ông bà đem lại niềm an ủi tuổi già. Thấy con gái và con rể hòa thuận lại hiếu thảo, cụ thường tưởng nhớ về thời son trẻ của mình những năm tháng đầu hai vợ chồng mới cưới. Tưởng rằng hiếm hoi chỉ có được hai người con, thằng Minh và Song Nguyệt... May mắn, Trời cho thêm được con bé Huyền Lan. Con bé thật dễ thương. Cưới nhau những ba năm sau bà mới sinh thằng Minh đầu lòng... có thể cũng vì muộn mằn và hai vợ chồng chịu khó làm ăn, chắt chiu dành dụm nên đã tạo dựng được căn nhà bên sông. Lại cũng ba năm sau khi thằng Minh đã biết chạy chơi mọi nơi mọi xó, Trời mới ban thêm cho bé gái Song Nguyệt. Đặt tên cho con cũng là một giai thoại kỷ niệm tình yêu thương vợ chồng... Bà nhất quyết đặt tên cho con gái có chữ "song" vì hy vọng có thêm được mụn gái nữa trong khi ông lại không mấy để ý.

-Đặt tên Song, lỡ người ta dại mồm dại miệng nói thành chữ xong có phải là phiền không... nhất là người ta hay đánh vần lộn chữ x và chữ s theo lối nói địa phương...

-Bố cứ nói bậy, em muốn đặt tên đệm cho con là chữ Song, còn tên thì bố đặt...

Từ khi có thằng Minh, bà gọi chồng bằng tiếng bố xưng em để tự mình nhắc nhở là đã có con. Có con, bà cảm thấy đời mình cao trọng hẳn lên; có con, có người gọi bằng mẹ, và bà được xếp vào một trong những bức tranh đẹp nhất trên đời, hình ảnh người mẹ âu yếm ẵm con. Hơn hai năm đầu mới cưới, bà đã lo lắng khổ sở vì trông chờ... Người ta con đông con tây mà mình vẫn còn son sẻ. Thấy thiên hạ bế con đi đây đi đó bà rầu rĩ phải tránh đường e họ cho rằng gặp người hiếm muộn thì xui xẻo, ảnh hưởng mấy đứa nhỏ khiến chúng khó ăn khó ở. Đứa em gái cưới sau một năm mà con nó đã biết bò...; thi thoảng gặp cháu, bà bồng, bà ẵm, bà hôn lấy hôn để đôi má bầu bĩnh của nó lắm lúc làm thằng bé khóc thét lên... Nhưng cũng không bằng có được đứa con của mình... bà ngậm ngùi thầm tủi...

Ông nào có ơ hờ chi nhưng vì thương vợ, ngại bà âu sầu có hại nên cố tỏ ra kiên nhẫn chấp nhận. Lắm hôm hai vợ chồng thủ thỉ, ông phải dỗ bà...

-Mình à, hay em đi cắt thuốc uống...

-Em đau hay sao mà uống thuốc bắc; nếu cảm đã có thuốc viên...

-Em muốn uống thuốc bắc để mau có con... Nghe đâu ông lang Thuật giỏi lắm; họ nói mấy người lâu có con, ông ấy chỉ cắt cho chục thang, uống chưa hết đã có bầu...

-Ối giời ơi, rồi đến lúc đẻ "la phan," để mũi rãi con cái thề lề lại làm khổ anh thôi...

-Anh chỉ nói bậy. Có con, khổ thế nào em cũng chịu được...

-Thế em muốn con trai hay con gái?

-Con nào cũng được, miễn là con của mình...

-Anh tưởng con hàng xóm, mai đi vơ quàng mấy đứa tha hồ cho em hầu hạ...

-Anh cứ nói bậy! Em rầu muốn chết mà còn giỡn.

-Em đừng lo, vợ chồng chúng mình khỏe mạnh... không sớm thì muộn cũng có con, không việc chi em phải lo lắng...

-Nhưng nhỡ ra...

-Không nhỡ chi hết, chỉ sợ em không đủ sức chăm sóc con cái sau này...

Có được thằng Minh, bà yên tâm, vui tươi... nhiều khi ông chọc bà thương con quên cả chồng. Đến khi có được bé gái, thật khó kiếm tên để phụ họa với chữ đệm là Song theo ý muốn của bà. Tuy nhiên, sau một lúc ngẫm nghĩ ông chọn tên Nguyệt, ánh trăng đêm rằm...

-Vậy anh đặt tên cho con là Nguyệt, Trần Trần Song Nguyệt.

-Sao lại Trần Trần giống như nói lặp...

-Anh họ Trần, em cũng họ Trần, đem ráp hai họ vào tên con để về sau nó nhớ mẹ cũng họ Trần... Thằng con trai là Bắc Minh, con bé em là Song Nguyệt; em ráng chuẩn bị chọn tên đặt cho đứa tiếp theo...

-Em muốn anh đặt tên cho con...

-Anh đặt hai tên rồi, vả lại, em là mẹ của chúng nên anh không thích độc quyền...

-Không, em muốn anh đặt tên cho những đứa con của em...

-Anh chỉ đặt tên cho con của anh thôi...

-Vậy từ nay, con trai là con của em, con gái là con của anh...

-Em muốn có thêm đứa con gái nữa sao không nhận con gái là con của em mà lại nói là của anh?

-Em biết đứa sau sẽ là gái nên để anh đặt tên luôn...

-Có được thêm đứa con gái đẹp như em cũng thích... Xem nào, nếu em sinh thêm một bé gái có đôi mắt đen và đẹp như mắt của em, anh sẽ đặt cho nó là Huyền Lan... Trần Trần Huyền Lan.

Ba năm sau, Huyền Lan chào đời, đôi mắt tròn và đen huyền giống mẹ... Cụ Lâm khuấy nhẹ bai chèo mơ màng nhìn mấy cụm lục bình lững lờ theo chiều gió, so sánh với thân phận đời người lênh đênh, ba chìm bảy nổi chưa biết đâu là bến bờ. Làm thân tỵ nạn có nơi dung thân đã là may mắn, biết bao người bỏ nhà bỏ cửa không bị chết mất xác trên biển thì giờ này vẫn còn đang chầu chực thanh lọc không biết phận số của mình sẽ ra sao. Và rồi anh em, họ hàng thân thuộc, những người ở lại, nghe đâu miếng cơm manh áo đang là nỗi âu lo hằng ngày.

Sang tới đất này, có miệng có tai mà cũng không hơn gì kẻ câm điếc. Mới sang, không biết đường đi nước bước thế nào, cuộc sống sẽ ra sao sau này, tiền đâu chi dụng lúc trợ cấp chấm dứt, tiền đâu cho con đi học, may sắm, mua xe, mua nhà... Và thế là mới hơn ba tháng từ khi định cư, ngày ngày, tờ mờ sáng cụ đã phải lần mò ra trạm xe buýt tới hãng mổ heo làm việc. Ngày đầu tiên đi làm, người Mỹ bảo trợ đến nhà, dẫn cụ ra trạm xe, đi theo tới hãng thông dịch và chỉ dẫn cụ từng chút... Tất cả công việc chỉ quanh đi quẩn lại đánh rửa những chiếc nồi, chảo nấu thịt heo to lớn, rửa chuồng nhốt heo, những bàn xẻ thịt, và nền nhà... loại công việc nặng nhọc mà người Mỹ không ai muốn làm. Đã quen sống khổ cực cộng thêm sự chịu khó, cần cù, qua mười hai năm làm việc lương cụ từ hai đồng hai mươi cents cuối cùng đã lên đến tám đồng bốn mươi cents một giờ. Công việc nặng nhọc nơi hãng không làm cụ ngại bằng đi bộ từ nhà ra trạm xe và từ đó tới hãng nhất là trong những ngày mùa đông tháng giá. Vào mấy năm cuối trước khi về hưu, cụ đã nhờ được người cai của mình cho đi chung xe. Người cai thường ở lại xem xét hãng xưởng thế nên cụ có thêm một giờ làm việc được trả lương gấp rưỡi, trả tiền xăng xe đi về chưa hết lương phụ trội của một giờ... cụ cảm thấy mình may mắn.

Sau mười hai năm làm việc và nhờ có sức khỏe, bẩy mươi hai tuổi cụ mới nghỉ dưỡng lão; thế nên tiền hưu cao, giúp cho cụ ông cụ bà đỡ phải lo lắng vấn đề sinh kế hằng ngày. Hơn nữa, nhà cụ đã mua, lại có vợ chồng Huyền Lan trả tiền điện, nước và phôn nên cụ cảm thấy thảnh thơi vui với vườn rau, giàn mướp cầu mong có được thêm đồng nào giúp cho anh em, con cháu chẳng may lâm cảnh túng bấn. Niềm an ủi lớn lao nhất là con cái đã trưởng thành, đứa nào đứa nấy lo làm ăn chăm chút cho gia đình. Cụ còn có đứa cháu ngoại xinh xắn ngày ngày bầu bạn... chẳng dám ước mơ gì hơn... nhưng nỗi ưu tư về làng xóm thân thương và anh em họ hàng vẫn luôn khiến cụ vương vương xót dạ. Thêm vào đó, nhận thực đời mình chẳng còn sống được bao lâu, cụ mơ một lần về thăm quê cha đất tổ, ngó lại căn nhà cũ, và chân mình bước trên lối xưa, miền đất đã trổ sinh hoa trái, những sông lạch, vườn rau ao cá đã nuôi lớn cụ nửa phần đầu đời, đã ấp ủ con cái cụ những ngày còn tấm bé... Cụ khao khát gặp lại anh em, những người thân quen nói chuyện ôn về kỷ niệm ấu thơ và nghe được giọng nói địa phương kết thành bởi luống rau, dãy sắn... Hai tiếng quê hương chất chứa muôn ngàn nỗi lòng thao thức... Ôi dân Việt... ôi anh em...

Hình ảnh mấy cụm lục bình nổi trôi gợi sự so sánh thân phận kiếp người bao nhiêu, cụ cảm thấy xót dạ bấy nhiêu. Nơi đất nước này, làm ăn cực nhọc và không dễ chi kiếm được đồng tiền của những chủ hãng nhưng không ai phải thiếu ăn thiếu mặc. Mờ mịt bên kia nơi làng thôn cũ, thời xưa nhiều lần cụ đã phải lòng không nhảy xuống sông giữa trời giá lạnh căm căm mò tôm bắt cá kiếm của ăn sống qua ngày; ấy là hãy còn may mắn vì cụ có được ngón nghề đặc biệt ít người học được. Đưa tay bắt cá bơi trong chậu đã khó, đàng này, cụ có thể mò cá dưới sông. Những người dân quê, dẫu chăm chỉ việc cấy cày, trồng rau, làm rẫy nhiều khi vẫn lâm vào cảnh có được chén cơm chan chút mắm cáy đã là niềm hạnh phúc được gọi ấm no. Những ngày ấy, bao nhiêu người đi gặt không công, chỉ mong được bữa cơm chắc bụng... và bây giờ...

Cụ Lâm đẩy mạnh bai chèo, chiếc xuồng vội vã lướt tới đưa cụ qua bên kia con lạch. Thầm tính toán sau khi phân cho mướp và bắt ngọn, cụ sẽ chuẩn bị dăm luống đất gieo cải bẹ, xu hào, cấy hành hoa, và chừa lại một phần đất. Thằng Minh nói cuối tuần mua sắt làm khung nhà che lạnh để trồng rau thơm mấy tháng đông giá... Cụ phải làm cho miếng đất trổ hương trước khi tết đến.





_________________ ƯỚC VỌNG MÙA XUÂN

-Kiến Anh, anh phải năn nỉ em thế nào?

Duy cảm thấy tim mình bị co thắt một cách bất thường. Mỗi lần nàng giận hờn, tâm trí chàng như muốn ngừng không chịu làm việc để rồi trạng thái xốn xang, bứt rứt tiêu diệt tất cả những ý nghĩ, chương trình... nơi tâm tư. Đã nhiều lần chàng tự hỏi tại sao lại có thể có trạng thái tình cảm ảnh hưởng toàn bộ tâm trí như thế. Chàng biết mình là người có ý chí, kiên nhẫn, có khả năng tháo vát thêm vào đó tính chất văn nghệ, yêu thơ nhạc, thích đọc văn chương... Nói chung chàng thuộc mẫu người rất quân bình, lý trí sáng suốt, không dễ gì có thể làm chàng rối loạn ngay cả những chuyện khẩn cấp. Mới hơn một năm nhận việc tại nhà thương, với sức làm việc dồi dào năng lực, chàng đã được thăng chức phụ tá y sĩ trưởng của phòng mổ. Mười bác sĩ làm việc trong khu vực giải phẫu chàng là người thứ nhì. Lẽ tất nhiên, chức vụ càng cao thì trách nhiệm càng nhiều, nhất là nhiệm vụ của bác sĩ giải phẫu, tranh giành từng giây từng phút với tử thần. Những mũi dao, những đường kim, mối chỉ ngăn cản lưỡi hái quái ác của thế giới chết chóc. Trong năm thứ tư của ngành giải phẫu, có lần chàng phải cứu cấp một bệnh nhân trên bàn mổ khi vị bác sĩ gây mê duy nhất trong bệnh viện nghỉ phép. Rủi thay, bệnh nhân mất mạng vì tim nhược và rối loạn nhịp đập mà y tá chuyên viên đánh thuốc mê không để ý đến. Thế nên sau khi tốt nghiệp y sĩ giải phẫu, chàng quyết định học thêm ngành gây mê.

Thuốc mê giúp cho bệnh nhân không cảm thấy đau đớn đang khi giải phẫu nhưng thuốc mê lại cũng là điều kiện tối quan trọng và nguy hiểm, quyết định lằn ranh sống chết của bệnh nhân. Không đủ thuốc mê để bệnh nhân chợt tỉnh khi còn đang trên bàn mổ, bịnh nhân sẽ cảm thấy đau đớn tột cùng và bị kinh nghiệm sợ hãi khó bề xóa bỏ. Quá nhiều phân lượng thuốc mê hoặc chỉ 10 phần trăm không hợp điều kiện cơ thể, thuốc mê sẽ đưa bệnh nhân vào giấc ngủ ngàn thu. Đánh thuốc mê thì ai cũng có thể làm, nhưng sao giúp bệnh nhân tỉnh lại đúng lúc mới là chuyện khó, mới cần đến khả năng chuyên môn. Hơn nữa, thuốc mê không có hẳn định lượng rõ ràng như thế nào mà lại bị ảnh hưởng kinh nghiệm để áp dụng cho mỗi người bịnh tùy phản ứng và điều kiện cơ thể. Bởi thế bác sĩ trưởng phòng và chàng thay nhau trực mỗi người một tuần không được ra khỏi thành phố mặc dầu tám bác sĩ còn lại chia nhau trực tại bệnh viện ngày đêm.

Tranh đấu với tử thần để giành giựt sự sống cho bệnh nhân đối với chàng là chuyện bình thường như cơm bữa... đồng thời còn giúp chàng phát triển thêm khả năng trấn tĩnh... Trường hợp càng nguy hiểm, cấp thời, chàng thấy mình càng trầm hẳn lại... Trầm như bất động trong khi những người khác bởi tính cách cấp tính của công việc đã làm họ phần nào giao động hoặc có những hành vi, cử động... hơi thừa. Chính những lúc như thế, khối óc chàng làm việc tới mức tối đa ra lệnh cho đôi bàn tay những cử động chính xác hoặc tổng hợp các điều kiện cần thiết thu thập qua kinh nghiệm trong nghề đối phó với con bệnh... đồng thời cảm quan thứ sáu... óc sáng tạo được dịp bành trướng. Những lúc gặp chuyện cấp cứu, các y tá dường như theo dõi chàng một cách khẩn trương. Có một điều lạ, như các y tá nói lại, không hiểu sao, trong những lúc khẩn cấp, cử động của chàng coi bộ chậm chạp mà ngược lại công việc được giải quyết rất nhanh. Trong cái chậm nơi trường hợp khẩn cấp của chàng mang đầy đủ sự hòa hợp của tài năng, lý trí phán đoán, mệnh lệnh và hành động khiến đôi tay không còn những cử động thừa... Thế mà...

Đôi khi chỉ một tiếng thở dài hay vài lời dỗi hờn của Kiến Anh, bao nhiêu sức sinh động, tài năng suy đoán của chàng bị tiêu tán... Nàng ngồi trầm ngâm... lại thở dài nhưng không chịu mở miệng, không quay nhìn chàng...

-Em nhất định không nói sao? Thôi đừng lẫy nữa mà... anh năn nỉ.

Nàng bật cười, xoay người dựa vô chàng. Duy đan tay ôm trọn người yêu.

-Tại sao lúc nãy em không thèm dù chỉ liếc qua anh?

-Nếu nhìn anh em đâu còn giận được...

-Ah! Thế ra người ta cố tình lẫy. Con gái lớn tồng ngồng rồi, "hai mươi nhăm" chớ bộ mà vẫn còn cố tình làm ra vẻ nhí nhảnh... lẫy.

-Đâu phải cố tình lẫy, chỉ hơi lẫy thôi. Em muốn xem thái độ của anh thế nào...

-Thế em thấy được gì?

-Ông bác sĩ ngố không chịu được... Ai đời lại hỏi "Anh phải năn nỉ thế nào." Anh thấy có ai dở như thế không? Vậy chứ nơi phòng giải phẫu có bao giờ anh hỏi bệnh nhân rằng anh phải dùng con dao mổ trâu hay búa bổ củi để mổ họ không?

Nghe Kiến Anh nói, Duy mới nhận ra... cái nghịch thường của mình...

-Anh cũng không hiểu sao nữa. Hình như em biến anh thành bất thường. Có một điều lạ là nơi phòng cấp cứu anh trầm tĩnh bao nhiêu thì khi đối diện với em hoặc nói trên điện thoại chỉ tiếng thở dài của em cũng làm anh cảm thấy tan nát. Cũng may, em không bao giờ gọi cho anh trong giờ làm việc, nếu gọi, có lẽ khối người thác oan...

-Em đâu có ý định làm anh xáo trộn bao giờ.

-Thế sao em không nói thẳng ra những điều gì em cảm thấy phiền mà cứ thở dài hoặc đôi khi im lặng nhìn anh với cái nhìn buồn tê tái... Có lẽ ngày nào đó anh sẽ bị đứng tim chết bất tử. Chán quá với con tim ngố này. Dao, kéo, kim, chỉ, không sợ, tử thần cũng không ngán mà lại chới với vì cái nhìn, cái thở dài của em... Kiến Anh...

-Dạ.

-Từ nay em làm ơn nói gì thì nói nghen, đừng thở dài hoặc nhìn anh cái kiểu lẫy hờn ấy... anh sợ...

-Em đâu có thể nói lời trách móc anh được... dù chỉ nghĩ đến em đã thấy đau lòng rồi...

-Thế sao em cứ thở dài hoặc nhìn... tê tái kiểu đó.

-Em thương anh quá mà, anh biết rồi còn cứ làm bộ hỏi... Mỗi lần cảm thấy buồn vì sự vô tình của anh em chỉ biết thở dài hoặc nhìn anh thôi.

-Vừa rồi anh đã làm gì mà em nói vô tình?

-Em ngồi bên mà anh chẳng để ý gì chỉ chăm chú nhìn chiếc cần câu. Em cố tình ngồi xích ra xa anh cũng coi như không biết.

-À ra thế; chứ em muốn anh "nịnh đầm" bằng cách nào?

-Mọi khi anh quàng tay qua vai ôm em, anh vuốt tóc em, anh kéo đầu em tựa lên vai anh...

-Mới có một tối tuần trước mà đã nghiền thế rồi ư!

-Anh lại ngạo, em giận cho coi...

-Em thích tựa đầu vào vai anh thật ư? Giọng Duy diễu diễu.

-Dạ, em thấy lâng lâng như bay bổng khỏi mặt đất.

-Sao em không nói trước.

-Em nghĩ anh hiểu chứ!

-Giỏi, em không nói ra mà tưởng anh hiểu... Thông minh trật rồi cô dược sĩ! Em mà tập cho anh làm thày bói kiểu này, khối kẻ sẽ chầu Diêm Vương cách oan uổng.

-Sao lại chầu Diêm Vương.

-Vì anh bói trật. Người ta cần giải phẫu bụng anh đè ra mổ đầu, không chầu Diêm Vương thì chỉ có về tiên cảnh.

-Anh lại ngạo em nữa. Chẳng chịu hiểu gì cả, thương phải anh chàng bác sĩ ngố, lắm lúc thiệt thòi.

-Kiến Anh, chẳng phải anh cố tình làm ra vẻ lạnh lùng, cũng không phải thiếu hiểu biết cách nịnh đầm nhưng anh tôn trọng em. Anh không muốn em có mặc cảm bị coi thường cũng như không muốn có mặc cảm thiếu tôn trọng em.

-Sao anh có lối lý luận gàn lạ kỳ như thế; em biết anh thương mà!

-Vậy em có thương anh không?

-Anh hỏi gì!

-Em có thương anh không?

-Sao anh hỏi vậy?

-Em trả lời đi. Em có thương anh không?

-Không thương mà như vầy à!

-Em trả lời có hay không thôi.

-Có! Khỉ, anh cố tình chọc quê em. Anh biết em thương nên ngạo hoài.

-Thấy không, chỉ mỗi tiếng có mà em không chịu nói ra, cứ loanh quanh luẩn quẩn nào anh hỏi gì, sao hỏi vậy, rồi không thương mà như vầy à...; lại còn nói anh chọc quê.

-Chẳng những chọc quê mà anh còn cố tình tảng lờ cho em tức nữa.

-Nào anh có biết em muốn được ôm đâu, có biết em muốn được vuốt tóc đâu! Thế ra có người muốn dựa đầu vô vai, muốn được vuốt tóc. Không vuốt tóc, người ta lẫy.

-Anh... đía hoài...

-Anh không đía, chỉ cố gắng lập đi lập lại để nhớ. Từ lần sau, gặp em là anh ôm chầm lấy cho bõ ghét... vuốt cho rụng tóc luôn để hết hờn, hết...

-Sao hôm nay anh lắm miệng vậy, cứ lôi em ra làm đề tài...

-Nghe thử xem anh có ngạo hay lắm miệng không...

-Anh đang chuẩn bị ngụy biện.

-Không ngụy biện.

-Thì biện hộ.

-Không biện hộ.

-Vậy bào chữa.

-Không chửa đẻ gì hết.

-Sao lại có đẻ với sinh vào đây?

-Em có muốn nghe không mà đòi coi anh như những hóa chất nơi phòng thí nghiệm...

-Vâng, thưa nhà chuyên môn không mổ mò, em nghe...

-Thế em nghĩ gì khi một người vừa gặp em đã vội chồm tới ôm chầm lấy...

-Em không nói về những người khác mà chỉ nói anh thôi.

-Nghĩa là em muốn anh vuốt tóc không cần hỏi...

-Ừ hứ!

-Nhưng anh thấy thái độ vồ vập có vẻ bất lịch sự...

-Em đâu nghĩ thế.

-Anh phải tôn trọng chính mình trước. Anh không muốn em nghĩ anh là thứ nô lệ cho tình cảm, ít nhất là thái độ bên ngoài vì thực ra anh cảm thấy anh đã bị nô lệ cho tình cảm một cách nặng nề rồi.

-Làm sao mà anh gọi là nô lệ tình cảm.

-Em đâu ngờ, chính sự im lặng không nói mà đau xót nhìn anh làm cho anh chẳng còn biết thế nào nữa.

-Thì anh nói lên "phải năn nỉ thế nào"...

-Anh nói thực với lòng mình lúc đó. Thấy không, chẳng nô lệ là gì.

-Thôi bỏ qua đi anh, chuyện chẳng có gì mà cứ bới ra.

-Em nhớ dùm, bà bóng... thà em nói, có nói anh mới biết chứ! Nhìn như vậy chỉ có nước đau tim...

Kiến Anh đưa tay bịt miệng Duy:

-Em không thích bị gọi là bà bóng. Bà bóng nghe già làm sao ấy!

-Không bà bóng thì cô đồng...

Kiến Anh cười khanh khách vì bất ngờ nghe tiếng cô đồng. Nàng có mái tóc dài thật dễ thương. Một hôm, chẳng hiểu sao nàng lại quyết định uốn cho tóc co bớt lên. Dĩ nhiên ai không muốn làm đẹp nhất là phái nữ. Lần đầu tiên gặp Kiến Anh sau khi uốn tóc, câu nói đầu tiên bật ra khỏi miệng chàng bác sĩ trẻ là hai tiếng "bà bóng" kèm theo cái háy mắt không hiểu khen hay chê. Và nàng được gọi với biệt danh bà bóng từ dạo đó... bà bóng hay lẫy...

Đưa mắt nhìn ngang, những ánh đèn phía xa bên kia bờ dọc theo đường nhựa phản chiếu trên mặt nước khiến Kiến Anh có cảm giác chơi vơi như đang ở nơi thủy cung. Một chiếc cần câu bị kéo cong vòng rồi thẳng lên, lại gục xuống cách chậm chạp...

-Kìa anh, cá cắn câu.

-Có lẽ con cá to, Duy từ từ buông Kiến Anh đứng dậy.

-Sao anh biết cá to?

-Vì cần câu bị kéo gục rất chậm, nghĩa là con cá có sức mạnh kéo lâu. Những con cá nhỏ mới chạm giẫy đã bị sức năng của cần câu kéo ngược lại nên cần câu bị giựt ngắn và nhanh hơn. Con này có lẽ phải cỡ 10 pounds. Nó kéo dữ quá.

-Anh có đoán được cá gì không?

-Chín mươi phần trăm catfish.

-Tại sao anh nghĩ là catfish?

-Mỗi cái giựt thường khá mạnh lúc đầu và kéo dài hơn bình thường so với cá rô biển. Cá dứa giựt yếu hơn và êm hơn, cá bơn hay lưỡi trâu giựt nhẹ và rung nhiều...

Mặt nước bị khua động ầm ầm bởi con cá khá lớn cố tình kiếm cách thoát thân. Khó khăn lắm Duy mới thu ngắn được dây cước. Tỳ cán vào hông, chàng hết sức dùng tay trái bẩy cần câu kéo con cá về gần phía mình đoạn buông xuôi trong khi tay phải quay cần cuốn dây. Khi dây cước được rút ngắn tối đa, con cá lờ đờ quậy trên mặt nước vì không còn điểm tựa, Duy dùng vợt múc cá lên. Con catfish mập ú, có lẽ hơn 10 pounds.

-Cá lớn quá trông phát sợ... Thôi thả nó ra đi anh.

-Để anh đem về cho một gia đình người quen; họ nghèo lắm..

-Đã mất công câu lại phải mang đi cho.

-Cuộc sống là như thế đó. Có những người thừa thãi ăn không hết đến độ phí phạm, đổ đi, trong khi bao nhiêu người nghèo khổ không có đủ miếng cơm dằn bụng.

-Đó là thực trạng cuộc đời đâu mà chẳng có. Có kẻ giàu thì cũng có kẻ nghèo; chứ nếu mọi người giầu hết thì đâu lấy ai làm công. Hơn nữa, đã chắc gì người nghèo do số phận của họ mà đa số người nghèo nơi xứ này là do họ không biết dành dụm, bóc thì ngắn lại ham cắn dài hoặc muốn làm giầu trong một ngày rồi tán gia bại sản bởi thiếu kinh nghiệm. Nói cho đúng, cũng có một số lười, không chịu làm ăn gì hết...

-Thì cũng phải công nhận có những người như em vừa nói nhưng cũng có những thành phần muốn ngóc đầu lên mà không ngóc được do hoàn cảnh xã hội hoặc khả năng không có. Em xem, có những người làm ăn khổ cực như nghề làm ghe đánh tôm, cực khổ mà đâu thể nào bốc lên được. Mùa tôm chỉ có mấy tháng rồi tiền trả nhà băng đâu có ngưng được tháng nào. Vốn thì tay không, đi vay mượn ngay cả tiền "down" để được nhà băng "financed." Đôi khi lại mất mùa, hoặc ghe nhiều quá thì tôm bao nhiêu cũng vẫn ít... như vậy có đến muôn đời cố gắng, chịu khổ cực thì nghèo vẫn hoàn nghèo. Có chăng chỉ làm giàu cho nhà băng...

-Thì sao họ không làm nghề khác.

-Họ sang tới đây tuổi đã lớn; vợ con đùm đề, sức học không có, tiếng anh tiếng em không biết trong khi ở Việt Nam cả đời chỉ biết có biển rả nên tới Mỹ cũng lao mình vào nghề biển... Ở trên bờ lấy việc đâu cho họ làm! Có vào hãng tôm, ghẹ, hay sò thì tiền công đâu được bao nhiêu lại không đủ việc để làm và rồi bảo hiểm cũng không có... Nói đâu xa, bao nhiêu năm rồi em mài ghế nhà trường mà cho tới nay vẫn còn đang phải học. Nếu họ dù cho có đủ khả năng đi học như em thì vợ con họ ai nuôi? Đàng nào cũng khó giải quyết.

-Sao anh lắm hơi thế, cứ lo nghĩ chuyện con bò trắng răng...

-Em nói gì? Đó là thực trạng dân chúng chứ nào bò bê chi. Mình sống giữa những người như thế, cuộc đời mình cũng bị ảnh hưởng chứ đâu lo được gì cho họ. Em biết không, một con cá như thế này chỉ cần ít mắm muối, gia vị và nồi cơm là một gia đình năm người có được bữa ăn dư dật. Đem thả nó xuống, mình tự nhiên quăng đi một phần nào giây phút hạnh phúc của ít nhất năm người.

-Em cứ tưởng anh chỉ biết mổ, cắt rồi khâu thôi chứ ai ngờ cũng lắm lý luận "Tích phân nhân chủng"...

-Nhân chủng thì đúng nhưng tích phân thì không.

-Sao anh nói không lý luận?

-Đây không phải lý luận mà đặt vấn đề về ý thức và giá trị cuộc sống.

-Cuộc sống tự nó có giá trị chứ cần gì phải đặt vấn đề. Chẳng lẽ anh chưa đặt vấn đề thì anh chưa sống sao?

-Em nói có lý mà lý trật. Dĩ nhiên sự sống tự có giá trị của nó, một giá trị tuyệt đối mà con người không thể tự tạo; có thể nói sự sống là hồng ân chỉ Thượng Đế có quyền cho các sinh vật. Nhưng cuộc sống bao gồm sự sống và lối sống hay ý thức sống. Nói về giá trị cuộc sống là nói về cách sống thế nào, theo nghĩa tốt, xấu, hay hoặc dở...

-Đương nhiên em dùng chữ giá trị theo nghĩa tốt chứ có ai nói đến giá trị xấu bao giờ.

-Có chắc gì nếu một sự việc hay vật nào đó có giá trị tốt luôn luôn tốt không?

-Anh nói chi quanh quẩn kiểu cối chày như thế. Sự việc có giá trị tốt thì luôn luôn tốt là cái chắc. Chẳng lẽ lúc thì nó tốt, lúc xấu mà gọi là tốt.

-Dạ thưa "chuẩn dược sĩ," thuốc chế ra để chữa bịnh được coi là có giá trị tốt hay không tốt, hữu ích hay không?

-Không hữu ích mà người ta tốn tiền bạc bào chế rồi lại tốn tiền mua ư?

-Thế thì người dùng thuốc để tự tử nó sẽ thế nào?

-Anh nói nhăng nói cuội, giá trị của thuốc và hành động của người dùng thuốc là hai vấn đề khác nhau. Tại sao anh cố tình ngụy biện đem góp chung lại lấy sự sai lầm của hành động ráp vô giá trị viên thuốc.

-Nói như thế mà vẫn chưa tỉnh... Bé cái lầm rồi. Nếu nói rằng cuộc đời tự nó có giá trị tại sao có những người có cuộc sống đáng nêu cao làm gương cho bao nhiêu người khác; đồng thời cũng có những người cuộc sống đáng bị phỉ nhổ. Nếu giá trị cuộc sống không có liên quan đến đời người và những hành động của con người thì có lẽ đâu ai cần phân biệt cuộc đời con người và cuộc sống con thú...

-Sao anh không làm triết gia mà làm bác sĩ giải phẫu?

-Cần chi phải triết "da" triết thịt mới nghĩ được chuyện này. Khi mình đặt vấn đề sao cho cuộc sống vươn lên thì đó là triết rồi chứ đâu phải học triết mới triết... Coi chừng triết gia lại là người bị thiên hạ coi là gàn...

-Anh nói gì, triết gia mà gàn?

-Có gì đâu, anh mới đặt vấn đề sống sao cho ý thức một chút em đã thấy chói tai thì những người dám nói lên điều nên làm, nên sống, trái ngược với những chuyện thường tình mọi người chấp nhận không thèm để ý không bị coi là gàn thì là dở hơi cũng thế.

-Anh cứ loanh quanh. Gàn là gàn, dở hơi là dở hơi, nào có dính dáng gì đến sống ý thức.

-Em không thấy bao nhiêu gương trước mắt ư! Một Đức Giêsu, dân Do Thái xưa không đem đóng đanh là gì? Một Gandhi không bị bắn chết ư! Một Kennedy cũng thế, nào có thoát bị người ta giết. Giá trị cuộc sống do ý thức giá trị làm người và dùng cuộc sống đem lại sự hữu ích cho cuộc đời dù tư tưởng hay hành động... Nhưng vì ý thức điều nên theo thường đối nghịch với những điều không nên đang được áp dụng do đó bị chống đối bởi chưa được nhận ra.

-Đấy chỉ là một số trường hợp đặc biệt. Còn bình thường chẳng hạn như các nhà bác học phát minh ra những thuốc chống lại bệnh tật đâu có ai bị kết án và cho là gàn đâu.

-Có tiến bộ trong lý luận nhưng chỉ phiếm diện bên ngoài. Thử hỏi ngày xưa ở Việt Nam, tại sao nhà thương Grall mổ ít người chết mà các nhà thương khác bị nhiều người chết? Chẳng lẽ số phận của những người đó đều bị chết trên bàn mổ một cách phi lý như vậy?

-Em đâu biết, thời đó em nhỏ quá mà...

-Nghe đâu cũng chỉ vì không nhận được giá trị vị thế của thuốc mê ảnh hưởng sinh mạng bệnh nhân trên bàn mổ thế nào... nên không trọng dụng người có khả năng về gây mê, hoặc sợ mất ảnh hưởng... đem đến giá trị xấu giết người... Thế rồi nào có ai nhận lỗi tại mình đâu...

-Anh học về thuốc mê cũng vì lý do đó hả?

-Lý do đó chưa đủ mà anh thấy sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức đem tai hại tới con người mới quan trọng. Danh vọng, chức quyền chẳng là chi hết; điều tiên quyết để anh học thêm chỉ để phá ngu mà thôi.

-Anh mà còn nói học để phá ngu thì thiên hạ dốt hết ư?

-Em tập láu cá rồi, dám bẻ quặt ý anh muốn nói. Ai cũng có bổn phận thăng tiến chính bản thân mình tùy môi trường sống bằng cách này hay bằng cách khác. Nếu chỉ chấp nhận sống cho qua, vinh thân phì gia là đủ thì cái giá trị làm người của người đó quá thấp nếu không muốn nói là không có. Thế nên, sự học không phải để kiếm việc nhiều tiền. Đồng tiền do công việc mình làm cần được xử dụng để trở thành phương tiện thăng tiến con người; như thế cuộc đời mới đáng sống.

-Anh sẽ không bao giờ biết an phận và thường thì người lắm tham vọng luôn luôn khổ.

-Em nói khổ ư! Sung sướng mới đúng. Người ta chỉ cảm thấy sung sướng khi kiếm tìm một cái gì. Lúc đạt được rồi, ước vọng tan biến đôi khi khiến con người chán nản. Còn an phận, nếu mọi người cứ chấp nhận an phận, chẳng sớm thì chầy thế giới sẽ trở về thời đại ăn lông ở lỗ.

-Anh nói gì? An phận mà trở về ăn lông ở lỗ.

-Họ đã an phận đâu cần tìm kiếm thêm, đâu cần phát triển thêm. Nhà xây rồi, đến lúc mục nát thì chấp nhận ở mục nát. Quần áo cũng đến ngày mục nát không may mới. Nhà không còn, quần áo không còn, mọi sự cũng không còn vì nếu ai cũng chấp nhận an hưởng những gì mình đang có không trở thành ở lỗ thì mặc đồ da. Em có giỏi an phận đi, đừng học nữa khỏi ra dược sĩ sẽ thấy ngay. Vừa mới chớm đề nghị an phận đã thấy tương lai dược sĩ đi đoong. Ôi hết lý luận cùng; thôi cho nó tắc biến đi kẻo không cho nói thì khóc, cho nói lại mếu.

-Anh già mồm nhưng cũng có lý...

-Lý gì?

-Lý già mồm.

-Em thua anh mấy tuổi?

-Năm.

-Em nói đúng. Cái miệng anh hơn miệng em năm năm thọ; già là phải.

-Thôi mà, được nước cứ cả vú lấp miệng em.

-Em nói gì, ai cả vú?

-Anh quỉ này, cứ bắt nạt em...

-Cho chừa. Từ nay có người phải tự bò ra khỏi vỏ ốc để giương mắt ếch lên ngó xem thiên hạ bày lắm chuyện mới lạ.

-Em đâu giống anh mà đa sự như thế. Chuyện người để người lo; mình lo cho cuộc đời mình cũng chưa rồi sức nào lo chuyện người. Anh là chuyên viên lắm chuyện nhưng chưa chắc có làm được chuyện gì dầu mình muốn; chỉ e rằng cóc không lo nổi chuyện cóc lại đi lo chuyện ểnh ương.

-Chuyện nào là chuyện mình và chuyện nào thuộc về người. Nếu chỉ nói về miếng cơm manh áo sống cho qua ngày thì đồng ý rằng ai lo phận nấy bởi không phải em ăn anh no mà chính mỗi người tự lo cho mình. Nhưng cuộc sống không đơn giản chỉ có miếng cơm manh áo.

-Anh còn muốn chi nữa. Ban nãy anh nói tiếng tăm, chức quyền chẳng là gì mà.

-Em bắt đầu nhảy ra khỏi vỏ ốc một chút nhưng chưa đủ, cần giương cao cổ thêm chút nữa...

-Để biến thành cổ cò cho hợp với mốt thời trang...

-Em hợp thời trang có thừa... Ai không công nhận như thế!

-Cảm ơn, từ ngày quen anh, mãi tới giờ mới thấy anh lần thứ nhất nói một câu nghe được...

-Hình như có người thích được khen đẹp phải không?

-Ô hay, thích được khen đẹp có chi đặc biệt đâu!

-Giỏi, dám chấp nhận sự thực lòng mình. Em tiến bộ khá nhanh! Nhưng người còn muốn được kẻ khác khen đẹp vẫn còn chứng tỏ mình chưa nhận ra mình đẹp.

-Người đẹp mới thích kẻ khác khen mình đẹp chứ chỉ người xấu mới muốn được khen đẹp ư? Như vậy anh muốn nói người nào thích được kẻ khác khen đẹp tức là người đó xấu.

-Em bắt đầu làm triết "da" rồi. Phải dùng tiếng "tâm lý triết da" mới đúng.

-Sao lại tâm lý triết "da" mà không thịt?

-Em lý luận về tâm lý người thích được khen đẹp, mà cái đẹp có thể nhìn thấy đầu tiên về một người là bộ da bọc bên ngoài. Thế không phải tâm lý triết về da thì chẳng lẽ xương!

-Miệng anh có ráp máy bơm mỡ hay sao mà nó trơn trượt lung tung. Đang nói về tâm lý người thích được khen đẹp anh đổi qua tâm lý triết da, triết thịt.

-Anh khen em đó chứ. Em bắt đầu "chiết" về tâm lý mà. Em tập giải phẫu tâm lý thì không triết là gì.

-Anh định tảng lờ lý cụt phải không?

-Không đâu, đang định nói thì em cứ bắt quàng qua chuyện khác. Có phải anh nói về người thích được khen đẹp chưa nhận ra mình đẹp phải không?

-Đúng... chứng minh...

-Nếu em có mười đồng, em biết rõ thế, có cần phải ai nói cho em biết nữa không?

-Tiền khác...

-Em có cần nhắc nhở năm nay em 25 tuổi rồi không hay là muốn rút bớt...

-Tuổi khác...

-Chẳng khác chi hết. Người muốn nói bớt tuổi vì sợ cái già đang xồng xộc tràn tới. Người muốn được khen đẹp vì sợ mình không đẹp bằng người khác. Tâm lý sợ mình không đẹp bằng người khác nói lên chưa tin mình đẹp, chưa biết mình đẹp.

-Em nghĩ người đó biết họ đẹp hơn người khác mà vẫn muốn được người khác khen...

-Muốn được người khác khen tức là muốn được họ để ý. Vậy muốn được kẻ khác để ý vì lý do gì? Có bao giờ vào ngày nghỉ, sáng dậy sớm, em trang điểm, đóng bộ cho thiệt đẹp đoạn cứ ở trong phòng ngắm mình nơi gương hay leo lên giường ngủ tiếp không ra khỏi nhà không?

-Anh nói gì ngược đời, đâu ai làm thế.

-Như vậy không ai làm đẹp để tự mình ngắm mà làm đẹp cho người khác ngắm phải không? Do đó người ấy không cần biết gì về chính họ nhưng làm đẹp vì người khác...

-Mình đã đẹp rồi còn cần gì phải ngắm.

-Thế sao em thích trang điểm.

Kiến Anh đớ người ra, mặt nàng đỏ hồng trong khi Duy móc mồi vào lưỡi câu, chàng vút mạnh cần câu tung mồi ra xa, giọng vẫn đều đều:

-Cuộc sống tự nhiên cần có sự liên đới ngớ ngẩn như thế. Thực ra làm đẹp để người khác chiêm ngưỡng chưa chắc mang lại lợi ích gì cho họ mà em cứ trang điểm; bao nhiêu phụ nữ vẫn trang điểm. Điều chính yếu anh muốn nói là sự liên đới nơi cuộc đời giữa con người với con người; sự ảnh hưởng do sống liên đới này không thể làm ngơ. Em còn có thể nói họ có cuộc đời họ mình có cuộc đời mình nữa không?

-Thế anh muốn nói ảnh hưởng liên đới về vấn đề gì?

-Xét về vấn đề vật chất, sống trong một xã hội bần cùng, mình cũng bị bần cùng lây. Cái giầu có trong xã hội bần cùng vẫn thua cái nghèo nơi một xã hội có mức sống cao. Nhưng vấn đề ảnh hưởng liên đới quan trọng hơn lại là vấn đề luân lý và đạo đức xã hội.

-Thì người tốt sống tốt, kẻ xấu làm bậy; ai làm người nấy chịu chứ mắc mớ gì phải lo cho mệt xác. Chẳng lẽ người khác làm chuyện không ra gì mà mình mang họa ư, hoặc mình làm điều tốt lành người khác tranh mất phần hay sao. Mình làm cho mình trước, mình lãnh hậu quả đầu tiên... Chẳng lẽ anh mổ người khác em đau hoặc em ăn mà anh no được à? Anh nói chuyện giống như ông bán thuốc lào quảng cáo ngày em còn nhỏ: Chồng hút vợ say và thằng bé lăn quay...

-Lý luận hay nhưng lại trật, trật nặng nề. Nếu cho rằng mình làm mình chịu đúng như lời em vừa nói thì mấy người la lối om xòm lên rằng tuổi trẻ mất gốc họ đã đúng một phần nào.

-Tại sao anh nói họ đúng?

-Vì đối với người Việt, mỗi người trong gia đình có bổn phận bảo vệ và xây dựng danh dự gia đình. Ông bà mình có câu "cha nào con nấy" hoặc "xem quả biết cây." Mình sống chẳng ra gì sẽ ảnh hưởng tới gia đình mình. Mình sống tốt lành, gia đình được thơm lây. Em quan niệm mình làm mình chịu tất nhiên bị gán cho mất gốc...

-Vậy chẳng lẽ em làm điều phạm pháp bố em vô tù hoặc ngược lại? Phi lý.

-Vô tù là chuyện khác, danh dự gia đình liên hệ tới danh dự cá nhân không đơn giản như thế. Em quên câu "Một người làm quan cả họ được nhờ, một người làm bậy cả họ xấu lây" sao? Sống trong xã hội cũng thế, mình bị ảnh hưởng chung với xã hội.

-Thí dụ...

-Vài tuần trước đây trên chương trình truyền thanh loan tin một trường trung học tại New York phát không "condom" cho học sinh với lý do để tránh lây bịnh Aids. Một số mục sư, linh mục gọi điện thoại đến nói việc cho không condom cổ võ cho sự vô luân lý. Nhân viên nhà trường trả lời họ chỉ muốn ngăn cản sự lan tràn bệnh Aids mà thôi. Như vậy đương nhiên họ tự chấp nhận tự do luyến ái bất kể luân lý. Nói cách khác, điều này nói lên phần nào nền luân lý trong lãnh vực sinh lý đang sụp đổ... Cứ đà này xét về luân lý sinh lý, con người và con thú không còn có sự khác biệt... Hơn nữa mình sống trong vũng lầy chắc chắn mình dây bùn... để rồi đến độ không biết mình lấm bùn. Rồi nữa, điều mà người ta gọi là pro-choice... Nhìn kỹ hơn, khi người đàn bà đã rơi vào tình trạng không biết giải quyết hậu quả của tự do luyến ái thế nào thì làm gì còn sự lựa chọn mà đặt vấn đề pro-choice... Muốn có pro-choice, phải là trước khi xảy ra chuyện đã rồi... Xét cho chín chắn, nếu mình có muốn an phận cũng không được; có sống riêng cho mình cũng không tránh thoát ảnh hưởng liên đới đang từ từ thấm nhập qua truyền thanh, truyền hình, báo chí... và những người sống chung quanh.

-Anh nói đúng, trước khi chuyện xảy ra mới có sự chọn lựa, mới có pro-choice... Thế còn những trường hợp đặc biệt?

-Đành rằng có những trường hợp nguy hại cho sự sống còn của người mẹ hoặc trường hợp bị hãm hiếp khiến người đàn bà không còn lối nào giải quyết thì đó là những trường hợp đâu thể đồng hóa để trở thành điều nên chung cho mọi người, đâu có thể dùng tiếng pro-choice. Và rồi trường hợp ngăn ngừa bệnh Aids; không muốn bị Aids thì đừng làm chuyện đó với những người lăng nhăng. Chẳng lẽ để bảo vệ mạng sống cho những người ăn cướp lại đem cho họ bộ đồ chống súng đạn hay sao...

-Không ngờ anh "giải phẫu luân lý" khá quá... Phải dùng tiếng tích phân luân lý cho anh mới đúng.

-Làm gì có ai gọi tích phân luân lý. Sở dĩ anh đặt vấn đề vì thấy dân Việt mình giờ đây đã bị suy sụp từ kinh tế đến tinh thần... nghĩ tới là anh muốn khùng luôn cho khỏi phải suy tư.

-Suy tư thì mắc mớ gì đến khùng mà anh nói chi lạ.

-Vì khi nghĩ đến dân tộc mình, thấy nhiều vấn đề phải làm lại từ đầu về bất cứ phương diện nào, từ văn hóa, chính trị, kinh tế, ý tế, xã hội v.v... Anh thấy rối um lên chẳng biết phải làm sao nên muốn khùng...

Những người câu cá gần đấy rải rác ra về để lại sự yên lặng cho hai kẻ yêu nhau bàn thảo. Kiến Anh nhìn Duy với đôi mắt thán phục. Nàng cứ nghĩ những ông bác sĩ chỉ chuyên môn về những bệnh tật tàn phá trong con người chứ ai ngờ cũng để ý sâu sắc đến hiện trạng chung quanh. Tự dưng Kiến Anh hỏi một câu chẳng ra đâu vào đâu.

-Sao anh lắm tham vọng thế?

-Nào có tham vọng gì. Anh đâu muốn làm ông nọ ông kia, tiền bạc anh đâu thiếu, nhưng vì dân mình giờ trở thành quá chậm tiến đối với các dân tộc khác... Dân mình khổ quá rồi...

-Anh học sử có nhớ, ông cha mình đâu vừa chi; cả một miền Nam từ Phan Rang, Phan Rí thuộc dân tộc Chàm cho tới Sài Gòn, Cà Mau thuộc Thủy Chân Lạp tức Cam Bốt... đâu phải đất mình...

-Nếu nói rằng mình phải trả nợ cho ông cha mình thì bao nhiêu năm rồi chưa đủ sao. Vậy chứ hơn 700 năm Tàu cai trị, dân mình trả nợ cho ai? Hơn 80 năm Pháp đô hộ chưa đủ ư? Đến nay lại bị bứng tận gốc rễ; dân chúng không ai tin được ai mà cả một dân tộc tan nát...

-Anh không nhớ tướng một mắt Do Thái nói khi qua quan sát tình hình chính trị Việt Nam sao?

-Ông ta nói đúng, phải thua mới thắng được... Cũng có thể chính sự tàn phá tận gốc rễ này mới làm cho dân mình thức tỉnh để rồi nhận thức được mình quá nghi ngờ và phân rẽ... Nhưng không ngờ được dân mình tan nát đến độ có nhà văn miền Bắc đã phải hô lên: "Dân ta tiến từ thời đồ đá đến thời đồ đồng, và bây giờ tiến đến thời đồ đểu." Nghe mà xốn xang...

Câu chuyện khô và khó nuốt thế mà lôi cuốn Kiến Anh vào say mê. Không ngờ ngoài lương tâm và trách nhiệm, lòng yêu nước tích cực như muốn tràn ra từ nơi tâm hồn chàng.

-Theo anh nghĩ phải cần bao lâu đất nước mình mới xây dựng lại được những gì đã mất?

-Khả năng suy đoán và nhận xét của anh không đủ để ước lượng được vì thực ra cái nhìn của anh còn quá nhỏ hẹp. Tuy nhiên, nói chuyện với một số người thuộc các giới khác nhau, họ cho rằng có thể phải cả thế hệ.

-Nghĩa là tới khi nào lớp người bây giờ chết hết thì lớp người tiếp theo mới bắt đầu được.

-Đấy là theo ý họ nói vể tư tưởng, quan niệm hoặc tâm não... Anh hy vọng...

-Anh muốn rút ngắn thời gian hơn?

-Ai không thế. Vấn đề chuyên viên kỹ thuật, luật sư, bác sĩ, khoa học gia... dân Việt ở hải ngoại không thiếu. Nếu đem so tỉ số với dân chúng, anh ước lượng dân mình có tỉ số chuyên gia khá cao so với các nước khác. Vấn đề còn lại chỉ là sự nhận thức của dân chúng; nói cách khác... tẩy não, nếu dùng theo danh từ thực dụng.

-Anh đã nghĩ được cách nào chưa?

-Làm cách nào phổ biến cho dân chúng rằng dân mình nghi ngờ nhiều quá rồi; con người ở Việt Nam bị nhồi sọ bởi nỗi lo sợ của cuộc sống bấp bênh đến tận xương tủy. Mình có bổn phận phải gióng lên tiếng nói rằng không phải thế, chúng ta cần một xã hội yêu thương. Chúng ta có thể tin nhau được để cùng nhau chung tay xây dựng đất nước... xây dựng tình người...

-Anh muốn làm chuyện đội đá vá trời... Anh nhớ cho, cả một dân tộc chứ không phải một nhóm nhỏ nhoi.

-Nhưng nếu những nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ đổ dồn vào viết để xây dựng thì nhất định lay chuyển được lòng dân chúng chứ.

-Làm sao dân chúng đọc được, làm sao phổ biến...

-Đây là vấn đề phụ. Tất nhiên, nếu có một số người muốn thực hiện, sẽ có người ủng hộ... Chỉ cần 1000 Mỹ kim có thể in cả ngàn bản của một cuốn sách ở Việt Nam bây giờ. Tại hải ngoại, chúng ta có bao nhiêu hội ái hữu, bao nhiêu nhóm đang tìm cách giúp nước. Anh nghĩ, nếu thực hiện bằng văn chương, sách báo, không cần đến một thế hệ. Tối đa chỉ 15 năm kể từ bây giờ nhưng phải được truyền bá cho mạnh mẽ...

Kiến Anh cau mày nghĩ ngợi, không ngờ vấn đề càng lúc càng nan giải.

-Anh hy vọng được bao nhiêu phần trăm các văn sĩ, thi sĩ, nhạc sĩ sẽ viết theo khuynh hướng này?

-Văn thi sĩ và nhạc sĩ họ viết kiểu nào không được. Anh nghĩ nếu có hội nào có khả năng tài chánh chẳng hạn như hội y sĩ hải ngoại hay nhỏ hơn, hội y sĩ tại Mỹ, mỗi vị bác sĩ tặng cho chương trình này mỗi tháng 10 Mỹ kim. Hội này có cả ngàn bác sĩ, vị chi mỗi tháng có cả mười ngàn Mỹ kim; anh dám bảo đảm sách, truyện sẽ được viết tung về Việt Nam tới tận hang cùng ngõ hẻm bất cứ nơi nào.

-Nhưng phỏng ai là người đáng tin cậy để giữ trách nhiệm cần một uy tín tuyệt đối không ăn tay ăn túi như thế?

-Em trở lại vấn đề căn bản. Tuy nhiên, cứ kiếm thử một người đứng ra nhận bản thảo để giới thiệu cho ban đại diện hội y sĩ duyệt qua để nhận định sách nào đáng được in để phổ biến. Ngân quỹ ký trả trực tiếp nhà in từ ban đại diện hội thay vì chuyển qua cá nhân nào đó thì có gì để phải nghi ngờ ăn tay ăn túi.

Đầu Kiến Anh quay quay mặc dù những làn gió nhẹ đượm mùi nước biển đem theo hơi mát dìu dịu. Ước vọng của Duy khó có thể thực hiện và không thực tế chút nào...

-Anh Duy, mình chỉ quanh quẩn mơ ước, em chưa thấy chút gì thực tế để có thể hy vọng...

-Anh thấy rằng không phải mơ ước cũng chẳng phải không thể thực hiện. Nếu bỏ tiền ra in một cuốn sách, anh không sợ vì ai cũng có thể cho được, nhưng 100 cuốn và rồi phương cách nào tuyển chọn, phổ biến... anh nghĩ cần một số đầu óc hợp lại làm việc. Thực ra vấn đề này ở giữa mơ ước và sự thực hiện. Anh tin tưởng chắc chắn rằng đã là người Việt, ai cũng yêu nước dù cho có lầm, anh vẫn tin. Tuy nhiên, làm sao để họ có thể thực hiện vấn đề giúp dân mình nhận ra sự cần thiết của lối sống ý thức là điều tiên quyết làm nền tảng cho sự phát triển đất nước thì cứ làm anh muốn khùng vì không biết làm sao.

Kiến Anh cắn môi, nàng đăm chiêu nhìn xuống mặt nước trải rộng:

-Anh đã nói ý kiến này với ai chưa?

-Chưa, vì anh cũng còn nghi ngờ. Anh nghi người ta không tin mình hoặc cho rằng mình muốn nổ bậy kiếm chút danh vọng hay chút cháo... Ôi! mình nói dân mình hư hết đầu não mà chính mình cũng đã hư... không hư tại sao nghi ngại... Chính vì thế, anh cũng nghĩ đến cách khác tránh đụng chạm đến vấn đề tiền. Chẳng hạn nếu cuốn sách nào được chọn có giá trị giúp dân mình, mỗi phòng mạch bác sĩ nhận tiêu thụ dùm cho 10 cuốn với một nửa giá phải trả trên thị trường. Không cần tính nhiều, chỉ 500 bác sĩ có phòng mạch riêng nhận làm như thế đã tiêu thụ được 5000 cuốn sách. Tiền lời của 5000 cuốn sách này ít nhất cũng được mười ngàn Mỹ kim... Nhưng...

-Anh thử coi, ít nhất có một người tin anh; người đó là em. Em sẽ nói với một số bạn bè; anh nói thêm một số người rồi dần dần ý kiến này sẽ được lan ra. Thế anh còn tính gì khác nữa không?

Duy cắm chắc cần câu vào kẽ ván thành cầu đoạn dìu Kiến Anh đi dọc chiếc cầu cụt.

-Có thể rằng anh về Việt Nam nhưng không biết lấy dụng cụ đâu để anh làm việc... Nhưng dầu sao anh cũng muốn về một chuyến cho biết rõ thực trạng dân mình như thế nào và riêng khả năng anh có thể giúp được những chuyện gì. Khám bệnh giúp dân mình là nhu cầu cần thiết có thể thực hiện được ở bất cứ nơi đâu.

-Anh là bác sĩ giải phẫu mà!

-Có những nơi không cần chuyên môn vì không có phương tiện cho ngành chuyên môn. Em thấy không, mẹ Therèse có biết chi về thuốc men, kinh tế, hoặc ngành chuyên môn nào đâu, chỉ giúp người nghèo khổ. Anh nghĩ, bất cứ gì cần thiết có thể giúp được là anh làm; điều này thực tiễn và cấp thời hơn.

-Rồi sao anh sống?

-Đừng lo, người ta sống được, mình sống được...

-Anh đang làm lương gần 200 ngàn Mỹ kim mà định bỏ ngang về Việt Nam... có hợp lý không? Tại sao anh không tiếp tục làm việc ở Mỹ, dùng số tiền mình làm ra để thực hiện ước mơ phổ biến văn hóa của anh.

-Em xem, lương độc thân gần 200 ngàn một năm trừ thuế còn được bao nhiêu, rồi tiền xe cộ, chi phí cho cuộc sống nơi đây thì còn được bao nhiêu với lối tách thuế lũy tiến này... Cứ ở Mỹ thì chẳng bao giờ có thể giúp được dân Việt mình nếu chỉ làm việc riêng rẽ...

Kiến Anh bàng hoàng, giọng nàng đầy xúc động pha lẫn yêu thương:

-Anh định về Việt Nam thật không?

-Sao không!

-Vậy còn chuyện tụi mình?

-Em còn những một năm nữa mới ra trường mà.

-Nhưng...

-Sau tết, anh về xem đã rồi mình sẽ tính vì hiện giờ đâu đã biết được gì. Hơn nữa tình hình "chính chị chính em" còn lôi thôi chưa đâu ra đâu cả mà.

Nghĩ đến lúc phải xa nhau "những một năm", giọng Kiến Anh hờn dỗi:

-Có người bảo chẳng sung sướng gì lấy chồng bác sĩ thế mà đúng.

-Em nói sao mà đúng?

-Em có bà chị họ; chị ấy nói không sung sướng chi đâu mà lấy chồng bác sĩ. Nếu lấy được một bác sĩ có lương tâm nghề nghiệp thì họ mê man chăm sóc bệnh nhân đến độ quên cả vợ con; mà người bác sĩ biết lo lắng cho vợ con thì lại không có lương tâm nghề nghiệp.

-Sao vậy?

-Khi chị ta đến gần lúc sanh, chồng chị ta cứ lo chăm sóc cho bệnh nhân mà không lo chở chị ta đi nhà thương...

-Thế em mới yêu bác sĩ thôi mà...

-Em cảm thấy anh yêu dân Việt hơn em.

-Anh e rằng một ngày nào đó em sẽ mê dân Việt hơn mê anh. Em muốn anh chứng minh không?

Kiến Anh đứng lại, nàng kéo hai tay Duy vòng qua eo mình.

-Em lạnh hả?

-Em muốn được ôm và nghe anh nói tiếp.

-Em có nhớ những lần coi phim thuyền nhân hoặc những phim nhạc có hình ảnh thuyền nhân em đã khóc vì thương hại cho họ không; trong khi anh không khóc.

-Đấy chỉ là tình cảm nhất thời về sự đau khổ của người khác.

-Nếu đem cái tình cảm nhất thời ấy áp dụng vào thực tế khi em nhìn thấy tận mắt dân Việt mình như những cây sậy khô cằn lao đao làm lụng kiếm bữa cơm bữa cháo cho qua ngày hoặc những thân xác nằm thoi thóp đợi tử thần trong khi em biết chỉ cần vài viên thuốc có thể giúp họ lấy lại sức khỏe, coi chừng em sẽ bán cả anh lấy tiền mua thuốc đem cho không họ...

Bây giờ Kiến Anh mới vỡ lẽ, giọng nàng dọ dẫm:

-Anh muốn em nhập "băng" với anh?

-Không phải nhập băng mà anh muốn tình yêu chúng mình được xây dựng bằng lòng thương yêu dân tộc. Có thế cuộc đời mình mới mang đúng giá trị đã may mắn được đào luyện...,Duy ngập ngừng, và biết đâu chúng mình lại chẳng cùng đi một chuyến về Việt Nam.

Trời đã khá khuya, Kiến Anh gỡ vòng tay Duy, từ từ bước tới khoanh tay đứng tựa nơi cột cầu đôi mắt mơ màng hướng về khoảng không gian xa thẳm, nơi đó hiện lên viễn ảnh một khung trời mới, quê hương diệu vợi của nàng, của gần bẩy chục triệu dân Việt sẽ được vun đắp đầy tình người; nơi có những dòng sông êm ả trôi giữa hai dãy tre xanh, luồn lạch qua các cánh đồng phì nhiêu vương mùi lúa chín được phân bón bởi những giọt mồ hôi thân thương của người dân yêu chuộng hòa bình và thiết tha với quê cha đất tổ. Hình ảnh bác nông phu vai vác cày, tay dắt trâu trên những con đường mòn lầy lội thuở ấu thơ lãng đãng trở về nơi ký ức. Ý nghĩ bác nông phu không dám cỡi trâu để dành sức cho con vật làm việc chợt dậy lên trong tâm hồn nàng nhận thức về đặc tính thương yêu nơi trái tim người dân Việt. Dù chỉ một con vật cũng được chăm sóc giữ gìn và bảo vệ, phương chi con người. Bỗng Kiến Anh như chợt bừng tỉnh, xô người về phía Duy hôn lên má chàng giọng reo vui thích thú của một trẻ nhỏ:

-Anh Duy, cảm ơn anh; ý kiến anh thật tuyệt...

Duy ngơ ngác nhìn Kiến Anh giống một đứa trẻ khi thấy bà bóng lên đồng... Chợt một chiếc cần câu bị uống cong, Kiến Anh reo lên...

-Anh Duy, con cá...





___________________ NIỀM VUI GIÁNG SINH

-Chúng ta tính tổ chức mừng Giáng Sinh năm nay thế nào? Thành vừa dứt câu hỏi, nhiều cánh tay đồng lượt giơ lên.

-Văn nghệ Giáng Sinh.

-Nhậu.

-Xỉn.

-Không được, Huyền nói lớn, các anh xỉn chứ tụi em không xỉn được.

Thật là ồn ào, ồn như cái chợ, quá o­ng vỡ tổ. Ca đoàn Thành tập hát gồm bốn mươi người, chàng là bốn mươi mốt. Ở vùng kinh tế mới với gần 80 gia đình, hầu hết thanh niên thiếu nữ tham gia ca đoàn bởi chẳng còn sinh hoạt hội hè nào khác. Thành viên ca đoàn gồm đủ mọi hạng tuổi từ mười lăm tới ba mươi ba. Thành ngày ấy hai mươi tám, không già cũng chẳng trẻ được mọi người bầu giữ ca trưởng. Chàng hài lòng với sinh hoạt của nhóm trẻ này bởi cá tính cởi mở, ham vui, hơn nữa chàng tôn trọng sự tự do ý kiến cá nhân nên ai nấy đều cảm thấy được chàng tôn trọng và để ý.

Giữa đám ồn ào lộn xộn ý kiến, kẻ muốn thế này, người ưng kiểu kia, Thành điềm tĩnh ghi vội những đề nghị nơi cuốn sổ, miệng cười mỉm chi có vẻ hài lòng với sự tranh luận ý kiến hàng tôm hàng cá này. Chàng đưa mắt điểm qua những người trong thế họp bàn tròn mặc dầu được xếp ngồi quanh hai chiếc bàn dài hình chữ nhật ghép lại, tài sản độc nhất được kiến tạo bởi công sức mấy anh lớn xẻ cây suốt một tuần lễ kỳ trại mới được thành lập. Gọi là trại cho có vẻ gợi nhớ lại cảnh di cư 54 từ Bắc vô Nam. Thực ra, sau ngày miền nam Việt Nam bị đổi chính thể, một số người làm việc cho chính quyền ngày xưa e ngại trong lúc hỗn quân hỗn quan, sự trả thù nhỏ nhen của kẻ có quyền hành, súng ống trong tay sẽ mượn cớ làm hại nên kiếm nơi vùng đất lạ dung thân sống qua ngày. Và thế, họ đã tự nguyện đi kinh tế mới.

Năm anh em ruột ngồi sát cánh trái Thành đang vui vẻ bàn bạc về cái thú tuyệt vời của nhậu... Họ đang tính xem rượu mua ở đâu ngon hơn và món nhậu bằng gì mới thú.

-Tao sẽ làm bẫy bắt mấy con chồn hay cù lần về nấu rượu mận, bỏ ớt cho cay nhắm mới đã.

-Làm thêm món cà ri chấm bánh mì.

-Không, giả cầy nấu củ chuối ngon hơn, nước ăn với bún thì tuyệt.

-Anh hai, em đề nghị tiết canh và tái vịt, rồi vịt nấu chao nhúng rau muống...

-Sao bay đòi ăn khôn dữ, thế tiền đâu mua vịt? Rồi còn bún nữa?

-Bún nói má làm, chỉ còn có vịt...

-Bốn mươi mốt người phải ít nhất năm con vịt, tiền đâu mà cứ đề nghị sảng...

-Chặt cây bán lấy tiền...

Không ngờ người em út của nhóm năm người bè trầm lại có ý kiến hay. Ở đây đa số người ta đi chặt cây bán cho nhà nước làm nhà kinh tế mới. Ý nghĩ đốn cây lấy tiền mừng lễ Noel đến với Thành... Cái chợ bây giờ trở thành nhóm bàn luận. Vài ba cái đầu chụm lại ý kiến, tranh luận phải làm gì, thế nào, và sao có tiền.

-Có ai thêm ý kiến nữa không? Thành chậm rãi trong khi đưa cặp mắt đầy tự tin nhìn quanh một lượt...

Thành nói hơi nhỏ, khiến một số người đang mãi bàn cãi không nghe thấy. Chàng râu, anh cả nhóm năm anh em bè trầm phụ họa:

-Ê, quí vị hàng cá, nghe anh trưởng nói, có ai muốn thêm ý kiến, ý đồ gì nữa không?

Mọi cặp mắt đổ dồn về Thành; chàng tiếp:

-Có ai thêm sáng kiến xin cho biết. Nếu không, chúng ta tổng kết và chọn quyết định theo phiếu kín.

Những cái miệng trơn như mỡ đang thao thao bất tuyệt chợt im lặng kèm theo cặp mắt chờ đợi.

-Nếu không còn ý kiến gì thêm, tôi xin đọc lên những đề nghị đoạn chúng ta bỏ phiếu kín chọn một trong những đề nghị này. Bất cứ ý kiến nào được chấp thuận với hai phần ba số phiếu sẽ được mọi người thực hiện. Sau đây, những ý kiến nêu lên gồm có:

Trình diễn thánh ca - văn nghệ Giáng Sinh - nhậu - picnic trong rừng - đêm không ngủ đón Giáng Sinh - tiệc Giáng Sinh - kiệu Giáng Sinh - hội chợ - phát quà Giáng Sinh cho các em bé - hát mừng Giáng Sinh tại mỗi gia đình - đại hội gia đình Giáng Sinh. Đề nghị đại hội gia đình Giáng Sinh chưa được giải thích ra sao, anh Thân, anh có thể giải thích sơ qua cho mọi người biết được không?

-Tôi đề nghị là, Thân tiếp lời, trại chúng ta chỉ có hơn kém tám chục gia đình. Hôm đó ca đoàn mình mời mọi người tới ăn bữa cơm chung...

-Lấy gì cho họ ăn? Một giọng nữ sốt sắng nhảy xổm vô.

-Đừng vội nóng, Thân diễu, tôi tính mỗi gia đình góp một bộ cây là ăn mệt nghỉ. Chỉ còn vấn đề sao có thể nấu nướng và chén đĩa là xong, hoặc mỗi gia đình tự làm một món ăn mang đến ăn chung cũng được.

Ý kiến của Thân quá mới lạ nên ai nấy nhao nhao phản đối với đủ mọi lý do nào ăn chung thế chỉ làm phiền phức, mất giờ không cần thiết; nào nhà đông người, nhà ít người không công bằng; nào không có nơi nào đủ bàn ghế để mọi người cùng họp chung vui, v.v... Kết quả, mọi người chấp thuận tiệc Giáng Sinh; nhưng phải có gì nhậu cho bè nam, vừa có gì ăn cho bè nữ; có rượu, có bún, v.v...

-Làm sao để chúng ta thực hiện tiệc Giáng Sinh? Ngân quỹ lấy đâu ra và ai chịu trách nhiệm điều hành từng phần của công việc? Xin mọi người cho ý kiến.

-Mình tổ chức chặt cây một ngày lấy tiền làm tiệc.

Người em út của nhóm năm anh em bè trầm đưa ra đề nghị được mọi người hoan nghênh.

-Thế ngày nào sẽ đi đốn cây và ở đâu? Rồi những ai sẽ đi?

Ý kiến đốn cây coi bộ hợp lý hợp tình nhưng chưa ai nghĩ ra làm cách nào để thực hiện... Ngược lại với lúc đầu buổi họp, mọi người ồn ào bao nhiêu thì giờ này họ lại trầm ngâm suy tính bấy nhiêu. Đây đó, những mái đầu chụm lại vang lên vài tiếng xì xèo bàn tán... Sau đôi phút suy nghĩ, Thành nói:

-Muốn có cây đốn trong một ngày, mình cần có một khu rừng có đủ cây. Thứ đến, cần có những người xung phong đốn, vác xếp đống, và đồng thời cũng cần một ban nấu cơm trưa cho mọi người. Cũng có thể mỗi người mang riêng phần cơm của mình nhưng như thế nản lắm, làm không khỏe được. Tôi đề nghị thêm là chúng ta bớt ra hai bộ cây, một bộ tặng cho bà cụ Lan, tứ cố vô thân; chiếc lều của bà cụ tệ quá rồi cần được sửa chữa, và bộ còn lại bán lấy tiền trả công chở bộ cây ấy về trại. Có ai có ý kiến thêm không?

-Anh Thành có ý kiến hay. Chúng mình mừng Giáng Sinh vừa vật chất vừa tinh thần... tụi em đồng ý... Thy Loan phát biểu.

-Phải dzồi... nói mãi... Đối với Thy Loan thì bao giờ ý kiến của anh Thành chẳng hay...

Thy Loan nguýt Hộ Con bằng ánh mắt liếc sắc như dao cau:

-Ai mượn con nhà "cáo" xía vô.

"Hộ Con" là tên gọi được đặt cho Trần huy Hộ bởi dáng người loắt choắt nhỏ. Chữ hộ đọc trại thành hồ, họ hàng nhà cáo nên Trần huy Hộ có thêm tên cáo. Thy Loan là con của một nhân viên mật vụ thời quốc gia; gia đình nàng ngày xưa thuộc hàng khá giả. Năm 1975, nàng đang theo học năm thứ hai tại Văn Khoa Sài Gòn; xảy ra vụ quốc biến nàng theo gia đình ẩn cư nơi vùng kinh tế mới đèo heo gió hút tới nay đã bốn năm. Thông minh, lanh lợi lại có chút nhan sắc nên khó kiếm đối tượng dầu đã hai mươi bốn cái xuân xanh, lứa tuổi đối với dân quê nếu chưa có chồng được coi như ế. Nàng có cảm tình đặc biệt với Thành trong khi chàng lại cứ ngơ ngơ dường như không biết hoặc không để ý. Là thơ ký ca đoàn, nàng trở thành phụ tá đắc lực cho chàng không những về các vấn đề sổ sách mà còn khuyến khích, kêu gọi từng người đi tập hát. Vào thời buổi khó khăn, tiền bạc hiếm hoi mà sinh hoạt ca đoàn cần nhiều sự khuyến khích, nàng cùng ba chị khác chung tay trổ tài chè cháo cho mọi người dằn bụng sau mỗi lần tập hát. Nào chè khoai, chè bắp, chè sắn, chè đậu; hết chè lại tới bánh trôi, bánh lá... mùa nào thức nấy khiến đối với một vài người, tập hát trở thành một nhu cầu, nhu cầu dằn bụng vì quá đói. Cũng nhờ thế, sinh hoạt ca đoàn một phần nào đem lại niềm an ủi đến mọi người trong nhóm.

Thực ra, Thành nào phải không biết, nhưng chàng đành chấp nhận ra vẻ như chẳng để ý dẫu đôi khi mối cảm tình nàng dành cho chàng được biểu lộ quá rõ ràng... Sự săn sóc với những chén chè đặc biệt, những nét nhìn trìu mến, hoặc sự im lặng đồng lõa khi có ai nói lên xu hướng thiên về Thành của nàng... Lắm lúc chàng muốn chấp nhận an phận, cùng nàng xây dựng gia đình cho qua tháng ngày; khổ nỗi, niềm ước mơ một tương lai khác biệt với thực tại luôn luôn thôi thúc tận đáy lòng. Điều chàng thắc mắc là tại sao cuộc đời run rủi chàng gặp cảnh ngộ này. Dân chúng lầm than vất vả mà không đủ miếng ăn tối thiểu dành cho sự sống. Người người chung quanh vóc dáng mỗi ngày một tàn tạ. Những nước da mới ngày nào chạy loạn dù trong lo sợ mà vẫn mang vẻ tươi mát giờ trở thành khô cằn đen đủi hằn lên những đường gân. Bốn năm trời sống trong cực khổ thiếu ăn lại phải làm lụng vất vả, người nào người nấy giống như bộ xương cách trí biết đi. Dù mấy nàng con gái đang ở thời kỳ sung sức cũng không tránh khỏi nét khô cằn lao khổ phần nào ảnh hưởng. Chẳng những thế, hoàn cảnh xoay vần đã làm con người không thể tin được bất cứ ai. Chàng cảm thấy ngao ngán cho cuộc đời! Phỏng còn được ai chàng có thể tin? Những chuyện con cái tố cáo cha mẹ, vợ tố cáo chồng nhan nhản xảy ra càng làm chàng e ngại. Mà khổ nỗi, những vu vạ cáo gian kèm theo những danh từ buộc tội đi vào cõi chết đao to búa lớn mang đầy tính chất lừa đảo dường như được soạn thảo sẵn cho kẻ tố cáo lặp lại như cái máy... Vì lý do gì những chuyện như thế đã xảy ra? Thành không có cơ hội hoặc phương tiện tìm hiểu nếu cứ bo bo sống nơi đất này. Sách báo không có; rađio thì chỉ những tố giác, phát giác, những buộc tội, những phản cách mạng, phản dân tộc... bị rêu rao. Thành nghĩ, giả sử chàng bị rơi vào những cạm bẫy phải trở thành kẻ bán đứng người quen vào đường chết, chàng sẽ như thế nào? Ngay ngoài đầu đường dẫn vào trại, có cặp vợ chồng trẻ với hai đứa con. Thằng công an xã muốn tòm tem chị vợ đã giở thủ đoạn sai du kích ban đêm kéo đến bắt anh chồng còng đi với mảnh giấy buộc tội phản cách mạng bởi những lý do vu vơ. Thế rồi chị vợ càng cố gắng chạy chọt lo cho chồng càng bị rơi vô bẫy của tên công an...

Nhiều lần đứng nhìn giàn mướp nơi miếng đất gần bờ suối, dây lá phủ rợp trên giàn được làm bằng các nhánh chà, trái thòng xuống mơn mởn, song song tựa hàng ống sáo phong cầm kèm theo hương mướp lan nhẹ trong không khí, chàng cảm thấy thoải mái, hài lòng với sự êm ả thanh vắng của cảnh vật. Chàng mến cây cỏ; chàng yêu nét mộc mạc miền quê; chàng mơ một mái ấm, có vợ hiền, dịu dàng chăm sóc con cái, chia xẻ nỗi vui buồn và cùng nhau đem tình người xây đắp cuộc đời, thông cảm với nỗi gian truân cuộc sống để khuyến khích con người thêm sức chịu đựng sống vươn lên. Nét hiền hòa của giàn mướp, những chùm hoa vàng rực đua chen với lá xanh óng ả khẽ lay động theo từng làn gió nhẹ như mời gọi, khuyến khích chàng chấp nhận an hưởng giấc mộng thường. Chàng thở dài mang đầy vẻ nuối tiếc để trả lời cho niềm khao khát nhỏ bé chợt trào dâng. Nỗi uất hận và ước mơ xa mờ nào đó vụt tràn lấp tâm hồn thúc đẩy chàng phải có một quyết định. Quyết định gì! Chàng chưa dám nghĩ tới...

-Anh Thành, anh đang định làm thi sĩ?

-Thi sĩ gì?

-Thi sĩ giàn mướp... Anh trồng mướp lắm trái ghê nơi!

Vai vác cuốc, tay kia cầm bao cát, Thy Loan tiến lại đứng bên chàng. Thành chợt có cảm nghĩ so sánh chàng và Loan với một vài cặp vợ chồng trẻ trong vùng. Nàng có học thức, thanh nhã lại dễ thương. Thành chợt cảm thấy xót dạ! Sao mình lại gặp nàng trong hoàn cảnh khắt khe... nếu không phải thời điểm này... Chàng thở dài...

-Ước gì cuộc đời êm ả như cảnh giàn mướp chốn này!

-Sao anh thở dài? Thy Loan mông lung nhìn chàng; mắt nàng lộ nét cảm mến. Chừng như muốn xích gần thêm chút nữa nhưng ngại nên nàng hạ cuốc khỏi vai, chống về phía chàng có ý chặn giữ khoảng cách...

-Thì lâu lâu thở mạnh đẩy hết không khí cũ tồn lại nơi lồng ngực cho khỏe...

-Hình như anh có tâm sự gì... Cứ mỗi lần thấy anh ra đây, anh đứng thật lâu. Có lần anh hút đến bẩy điếu thuốc mà vẫn còn đương ngắm giàn mướp.

-Có người ghen với giàn mướp... Trồng mướp muốn có nhiều trái phải chịu khó đứng ngắm nó mới mau lớn và lắm bông...

-Anh bịa chuyện lảng tránh câu hỏi của em. Em chẳng ghen với giàn mướp đâu bởi có gì mà ghen, nhưng em thấy anh hình như buồn làm sao ấy. Những lúc anh đứng ngắm giàn mướp một mình, dáng anh tê tái như chìm sâu vào cảnh mộng nào đó...

-Em theo dõi anh kỹ thế cơ à! Cuộc đời này có muốn yên cũng chẳng được; có muốn làm phó thường dân cũng không xong. Đến loài cây cỏ còn bị bứng gốc thì mình còn gì đâu mà mơ với mộng. Có lẽ anh bị cảnh thiếu thốn làm khờ đi thôi! Khờ nên chả nghĩ được gì, đứng ngắm giàn mướp xem hoa lá đùa với gió... Thế em định đi bới khoai nấu chè?

-Vâng, tối mai tập hát, em định làm bánh bột sắn mì. Anh đi nhổ củ mì với em không?

-Ừ thì đi. Nhổ mì mà em đem cuốc theo chi cho mệt?

-Em định vạt thêm một luống đất mai trồng sắn dây; ngày mai sẽ đi xin ít mống.

-Giỏi, dân văn khoa thay ngòi bút bằng cuốc biến chữ nghĩa thành luống đất...

-Ôi ngày xưa ấy đã qua, nhắc chi cho thêm lưu luyến... Nghe giọng anh buồn ghê nơi!

Ba tiếng "buồn ghê nơi" tạo nên nỗi se thắt lòng chàng. Người miền trung ở một vài vùng nào đó dùng tắt chữ "nơi" thay vì anh ơi, được dùng với tính cách thân thiết... lâu dần thành quen. Thy Loan chỉ nói tiếng "nơi" với chàng; nàng dùng chữ có ý tứ mà chàng cố tránh như không biết. Mối thân tình càng ngày càng đậm, chàng tự nhủ, quyết định của mình càng ngày càng mờ nhạt. Ngày nao mình không cưỡng lại được sự yếu mềm của con tim, ngày ấy mình tự ký bản án không lường... Nàng dễ thương đấy chứ... còn ai có thể xứng đôi vừa lứa với chàng hơn... nhưng...

-Chừng nào đi đốn cây anh Thành?

Một trong năm anh em bè trầm lên tiếng hỏi cắt đứt tơ vương cảnh cũ.

-Trước hết mình cần người kiếm khoảnh rừng nào đủ cây để đốn cho một ngày. Mình có tất cả bốn mươi mốt người, hy vọng sẽ có thêm vài thợ rừng đốn dùm. Tôi chia ra như sau, cứ một người đốn cây thì hai người vác xếp đống. Hơn bù kém, mình cần đủ số cây cho mười lăm người đốn và gần ba mươi người vác chất đống. Do đó yêu cầu anh chị em nói với những người quen đi rừng để ý xem có khoảnh rừng nào đủ cây cho ít nhất bốn mươi lăm bộ sườn nhà. Một người một ngày đốn lai rai ba bộ vị chi cần một khu rừng đủ cho bốn mươi lăm bộ. Bỏ ra một bộ tặng bà Lan, một bộ trả tiền công chở còn lại bốn mươi ba bộ. Mình lại cần mười bộ cây chi phí cho bữa ăn trưa của bốn mươi lăm người. Tổng kết, chúng ta chỉ còn lại ba mươi ba bộ bán lấy tiền mừng Giáng Sinh. Điều cần nhất bây giờ là người thăm rừng và ngày đốn cây. Tạm cho một tuần thông báo kết quả thăm rừng và mình sẽ chặt cây ngày thứ bẩy. Liên lạc sao cho xe bốc cây vào thứ hai thì cỡ thứ năm sau đó sẽ có tiền. Những ai nhận sẽ nhờ người thăm rừng?

Năm cánh tay giơ lên...

-Làm ơn nói với họ, tôi sẽ gặp họ vào tối thứ sáu để bàn luận xem cánh rừng nào dễ đốn cây hơn. Thế còn cơm nước cho bữa trưa đốn cây, tôi cần ba người hay hơn càng tốt.

Tám cánh tay xung phong và một người hỏi:

-Anh định nấu nướng thế nào mà chỉ cần ba người?

-Tôi định nhờ năm người, mỗi người nấu cho một nồi cơm lớn đủ chín người ăn, còn ba người làm thịt năm con vịt hầm với măng khô cho bữa cơm rừng. Tính ra số tiền của mười bộ cây còn dư đủ tiền nước chanh sau khi ăn. Thế ai giúp pha nước chanh?

-Làm sao có đủ nước trong rừng để pha nước chanh?

-Mỗi người chúng ta mang thêm một bi đông nước lạnh để pha nước chanh thì sẽ không sợ bị thiếu.

-Ý kiến hay... Thy Loan chen vô.

-Cảm ơn, xin nhớ, tôi sẽ gặp các thợ rừng tối thứ sáu, mời dùm họ tới nhà tôi uống cà phê... Vấn đề còn lại là sao có thể xoay ra tiền ứng trước đi mua vịt cho ngày chặt cây!

-Mua chịu, nhà bác em có ba con, nhà bà Tám có sáu con, sau khi có tiền mình sẽ trả.

-Được, tôi sẽ tới gặp họ. Có ai còn ý kiến gì nữa không?

-Thế còn bộ cây biếu bà Lan?

-Tôi yêu cầu mọi người giữ kín chuyện này. Tối trước hôm liên hoan, chúng ta sẽ chia nhau vác tới tặng bà. Bộ cây sẽ được chọn lựa đặc biệt và gửi tại nhà ông Hoan kế bên đường xe chạy. Tôi muốn mình có niềm vui tinh thần trọn vẹn hơn thay vì để người khác biết trước. Có ai còn ý kiến gì nữa không; nếu không, chúng ta giải tán.

-Thế còn nồi chè?

-Tôi quên, mấy chị thông cảm. Chúng tôi sẵn sàng chiếu cố tận tình cho vui lòng người nấu, và đồng thời có lời cảm ơn trước.

-Quí hóa quá, hôm nay anh Thành trở giọng cảm ơn... Thy Loan lên tiếng.

-Nào có chi đâu, chúng tôi chỉ muốn có thêm những nồi chè khác... Tử tế vậy đủ chưa Thy Loan...

-Thế xưa nay anh không cảm ơn thì không có?

-Từ hôm nay bắt đầu tập sự... Đôi khi mình cũng phải giả đò tử tế biết ơn may ra có gì hơn nữa chăng!

-Thôi đủ rồi. Hôm nay anh được hai chén, một chén như thường lệ và một chén vì lời cảm ơn...

o o o

Niềm vui khó tả tràn ngập lòng Thành khi đứng nhìn anh chị em ca đoàn và mấy người giúp ăn cơn trưa. Thy Loan lấy phần cơm cho chàng...

-Em đưa cho mấy người giúp ăn trước. Họ bỏ cả công việc mà giúp mình nên cần để ý đến họ nhiều hơn. Anh tự lấy cơm cũng được mà...

-Hôm nay anh chê?

-Anh có bao giờ dám chê em đâu, họ đang chờ cơm kìa...

Thy Loan bưng tô cơm quay đi với vẻ ngậm ngùi. Thành nhìn người nào người nấy mồ hôi nhễ nhãi dưới ánh nắng mặt trời buổi trưa. Vài người bưng cơm tới ngồi nơi bóng mát vừa ăn vừa nói chuyện. Bốn chị liên tục bới cơm chuyền cho những người đứng đợi; hai người khác chia thịt vịt hầm măng khô. Ai nấy tỏ vẻ phấn khởi vì đồ ăn ngon. Có lẽ đã lâu lắm rồi, từ ngày chạy loạn, giờ mới có lại được những giây phút tìm lại hương vị thuở nào... Người Việt mình, Thành nghĩ, tâm hồn rộng rãi. Dầu đang lúc đói khổ, phải chạy ăn từng bữa mà dám bỏ cả công việc đi đốn cây cho ca đoàn ăn tết... Có một ông đang đốn cây, chợt thấy ca đoàn lũ lượt trên đường đi ngang cười nói ồn ào, hỏi ra mới biết, ông cầm rựa đi theo giúp... Thế nhưng còn được bao nhiêu người nuôi dưỡng tâm tình tốt lành này? Ngoài kia, dân chúng đã bị đầu độc đến nỗi không ai dám tin ai. Chuyện trong nhà, lúc bực mình với cảnh khốn khó, than rủa vài câu uất ức với chế độ, mới sớm mai đã bị mời ra ấp, ra xã nghe tẩy não hoặc tệ hơn, đêm đến, công an du kích ập vào nhà còng đi... Mình cũng chỉ là người, phỏng ngày nào vô ý để rồi bị điệu đi như thế... Thành thấy lòng ray rức... Ôi, dân mình bị tàn phá tan nát hết rồi, tan nát từ tinh thần đến vật chất... Cuộc sống cực khổ đã đành, tâm tư không bao giờ được ngơi nghỉ bởi lo sợ ám ảnh thì sống làm sao...

-Anh Thành không ăn ư... hay còn đang dở mộng mơ.

-Có chứ... tôi đang nghĩ đến những món gì phải nấu cho bữa tiệc mừng Giáng Sinh...

-Để tụi em lo, có tiền rồi thiếu gì món.

Mới có bốn năm mà nước chanh đã trở thành trân quí đối với mọi người. Ăn uống thiếu thốn không đủ chất bổ dưỡng nên ai nấy thèm đường. Nhìn mọi người nâng niu những chén nước chanh hớp từng ngụm nhỏ mà lòng Thành đau xót. Dân chúng khổ quá... đã khổ lại còn luôn luôn nơm nớp lo sợ. Mà tội tình gì họ đã làm để bị đày đọa như thế này hay bởi vận số của cả dân tộc... Ngày nao mọi người mới thức sự có được niềm an bình vui hưởng cuộc đời... Ngày nao dân mình có được những bữa cơm ngon trở lại... Ngày nao nụ cười hồn nhiên mới có thể nở trên môi... Cơm ăn với thịt vị hầm măng mà chừng như muốn nghẹn nơi cổ. bốn năm qua, thi thoảng mới có bữa cơm vì gạo quá mắc mỏ. Thịt lại càng không có ngoại trừ đôi khi đánh bẫy được con chồn, con cù lần... Cá phải chờ đầu mùa mưa hấng lưới... Còn thì chỉ khoai lang, khoai mì bởi bắp dẫu trồng được nhưng lại cũng hiếm vì mỗi năm chỉ có một vụ.

o o o

Tối thứ bảy dưới ánh trăng hạ tuần mờ mờ, đoàn người vác cây nối đuôi nhau theo những con đường nhỏ quanh co tiến về phía lều bà Lan. 23 người lòng rộn niềm vui chia nhau từng cây cột, cây kèo, đòn tay, nẹp vách... vừa đủ một chuyến. Ai nấy đều cảm nhận được mình đang làm một việc đầy ý nghĩa của mùa Giáng Sinh; tặng bà Lan nghèo khó, đơn chiếc món quà bằng chính công sức của mình. Họ nhận ra rằng đối với nhóm ca đoàn 41 người thì việc họ đang làm là chuyện nhỏ nhưng với bà Lan thì cả là việc to lớn khó thực hiện. Khi chia nhau cây bỏ lên vai, ai nấy trầm ngâm như e rằng nói ra, niềm vui đang rộn ràng nơi lòng mình bay mất...

Bà Lan ngỡ ngàng nói không được khi cầm chiếc đèn bão mờ mờ ánh sáng nhìn thấy lố nhố một hàng dài người vác cây nối tiếp đứng đợi dưới ánh trăng. Bà không biết chỉ chỗ nào cho họ bỏ cây xuống! Trong khi họ đứng đợi cây trên vai thì bà đi quanh lều đến vòng thứ hai, cuống quít đến độ nói chẳng lên lời... và bật khóc... Thành bỏ cây cột xuống khoảng đất trống vừa được bới khoai rồi ra hiệu cho mọi người lần lượt xếp phần cây còn lại nơi đó. Mấy nàng ca đoàn theo bà Lan nước mắt chạy quanh vì xúc động mất hết vẻ liến thoắng thường ngày... Sau khi cây rời khỏi vai người cuối cùng, Thành nhẹ nhàng nói với bà Lan:

-Nhân dịp Giáng Sinh về, ca đoàn chúng con có món quà mọn biếu bà, hy vọng một phần nào nó có thể giúp bà có cái lều cao ráo hơn. Như thế, chỉ còn thiếu tranh và lạt mây, chúng con sẽ có một ngày sau lễ cắt đem về biếu bà cho đủ. Xin Chúa giáng trần chúc lành cho bà. Bây giờ chúng con xin phép về để chuẩn bị những việc cần thiết cho ngày mai.

-Mấy anh chị ở lại uống nước... Ồ, mà ly chén đâu có...

-Không sao đâu, chúng con mới ở nhà đến đây... thôi, chào bà.

Bà Lan còn nói thêm vài câu nữa nhưng đoàn người đã tiến ra tới đầu ngõ. Qua một lúc thinh lặng chừng như chia niềm vui của bà Lan, một số anh chị em rủ nhau đi phụ giúp những người đang chuẩn bị đồ ăn cho bữa tiệc ngày hôm sau.

Chiều đã tắt nắng mà nhóm ca đoàn vẫn còn mãi mê với tiệc mừng Giáng Sinh tại mảnh vườn tre bên bờ suối. Những khóm tre óng mượt được cắt tỉa sạch sẽ tạo một khung cảnh nên thơ. Ở giữa là một miếng đất trống nơi ca đoàn bày tiệc. Kể cả khách mời, tổng cộng số người lên tới gần sáu chục hoan hỉ chén chú chén anh đưa cay và thưởng thức tái vịt, tiết canh vịt, vịt nấu chao nhúng rau muống; hết rau muống bún mới được chiếu cố. Không hiểu Thy Loan kiếm đâu ra được mấy chiếc đèn củ chuối xanh xanh đỏ đỏ đặt vòng chung quanh cũng vừa được thắp sáng trông khá ngộ.

-Của chùa ở đâu ra mà coi hợp lý gớm!

-Nhà thờ chứ chùa gì! Công lao vất vả cả buổi chiều qua mà anh kêu của chùa.

-Ai đề xướng?

-Ngoài anh ra thì còn ai...

-Anh Quang lo kêu người vác cây cả buổi chiều qua mà...

-Tụi em đâu nói anh Quang.

-Vậy chứ ai?

-Chị Thy Loan... Anh chỉ giả đò ngây thơ cụ...

-Thế hả! Không ngờ mấy người khéo tay đến thế...

Thy Loan không hiểu bỏ đi từ lúc nào, khệ nệ bê về một ôm củi...

-Mọi người đang nói chi vậy?

-Anh Thành khen chị khéo tay...

-Em định rở trò gì nữa đây Thy Loan...

-Đốt lửa trại. Tuấn lấy đàn tới chưa?

-Thưa chị, em có mặt...

Lửa được nhóm lên khi trời bắt nhá nhem tối... "Ôi ngày xưa ấy đã qua, tôi nhìn thơ ấu ra đi..." Giọng Tuấn trầm ấm nhưng buồn rười rượi kéo lòng mọi người chùng xuống nhớ về dĩ vãng... Hộ Con tiếp nối với bản nhạc "Ôi Dàn Thiên Lý Đã Xa"... Ánh lửa lung linh theo từng cơn gió nhẹ gợi lòng mọi người hướng tâm tư chìm về quá khứ... Thành tựa người vô gốc tre lim dim cặp mắt... Những hình ảnh Giáng Sinh ngày xưa vô tư lần lượt ẩn hiện... Những tối rước kiệu Chúa Hài Đồng, những dãy đèn sao, đèn con cá... Những bữa ăn đêm sau khi dự Thánh Lễ...

-Anh Thành, mọi người hát hết rồi sao anh chưa tự nguyện...

-Trước hết, xin cảm ơn anh chị em đã thực hiện một việc rất có ý nghĩa và cũng tạo cho niềm vui Giáng Sinh của chúng ta thêm toàn vẹn hơn trong năm nay; đó là đã giúp bà Lan bộ sườn nhà. Chúng ta sẽ bỏ thêm một ngày đi cắt tranh và lấy mây chẻ lạt. Tôi cũng xin cảm ơn các anh các chị đã bỏ công sức nấu nướng và chuẩn bị để chúng ta có tiệc vui hôm nay. Bây giờ kể cũng muộn rồi, chúng ta chuẩn bị thu dọn rồi về nghỉ...

-Không được, anh ăn gian... anh chưa hát mà...

-Anh chưa nói xong! Anh sẽ ca bản "Hương Xưa". Sau đó chúng ta đồng ca bài "Đêm Thánh Vô Cùng" và dọn dẹp...

o o o

Dầu có tổ chức chu toàn cách mấy thì cuối cùng người chịu trách nhiệm vẫn là người về chót sau khi kiểm soát lại chiến trường. Tưới nước cho đống lửa tắt trước khi rời vườn tre, Thành thấy Thy Loan có vẻ lừng chừng như muốn đợi chàng.

-Sao em chưa về, Thy Loan?

-Em đợi anh.

Hai người song bước theo lối nhỏ dẫn ra đường lớn, Thy Loan có vẻ trầm ngâm điều gì.

-Em nghĩ gì vậy?

-Em thấy cảm động quá, không ngờ việc nhỏ mọn vậy mà đã đem lại cho em một niềm hạnh phúc vô biên.

-Chuyện gì?

-Bà Lan.

-Bà Lan thế nào?

-Bà ấy khóc vì mừng anh không thấy sao, thế rồi bà ấy lăng quăng đi hai vòng quanh nhà mà không tìm ra chỗ bỏ cây vì xúc động.

-Em nói đúng! Đôi khi chuyện nhỏ đối với mình nhưng có giá trị lớn lao đối với người không có khả năng. Không để ý điểm này, mình mất nhiều cơ hội đem lại niềm vui cho họ.

-Sau Giáng Sinh anh có định làm gì không?

-Dân mình lầm than quá mà mình sống trong hoàn cảnh này thì cũng chẳng có thể giúp nổi chính mình. Anh đang tính sau Giáng Sinh cỡ đôi ba bữa, đưa ca đoàn đi cắt tranh rồi anh sẽ nói với em ý nghĩ định nói từ lâu nhưng chưa đoán chắc được ý em thế nào nên cứ lừng khừng mãi...

Thy Loan chợt cảm thấy hơi ngượng, nàng lí nhí:

-Chuyện gì vậy anh?

-Nhưng em đồng ý không đã...

-Dĩ nhiên từ xưa tới nay em luôn luôn đồng ý chuyện anh làm... Mà anh định nói chuyện gì? Giọng nàng run run.

-Anh muốn mừng Giáng Sinh với em sang năm ở ngoại quốc, em dám không?

-Em có biết làm thế nào đâu?

-Đã có anh lo. Sau ngày ca đoàn cắt tranh, em chuẩn bị đi Minh Hải dạy học, anh có người bạn làm hiệu trưởng tại đó.

Không biết từ lúc nào, Thy Loan đã bám vào cánh tay Thành như muốn được che chở...

Trời đêm đã muộn, vầng trăng hạ tuần khuất tự bao giờ để lộ những ánh sao lấp lánh báo hiệu ngày mai gắt nắng...





_________________ TIẾNG HÁT LẶNG CÂM

Đưa tay khép chặt cánh cửa đoạn xoay chốt khóa, Như Thương buông nhẹ tiếng thở dài... Ánh sáng nhạt từ chụp đèn nơi góc phòng cho nàng cảm giác mộng mơ như được rũ sạch bụi trần. Theo thói quen, Như Thương mở tủ lạnh, lấy bình nước cam vắt rót ra ly, vừa uống vừa trở lại coi tin tức sớm nhất trong ngày hoặc coi qua băng nhạc video mới phát hành của mấy ca sĩ bạn đem tặng xem có gì mới... Vừa đưa tay bấm remote control, Như Thương ngập ngừng, tắt tivi ngay khi hình ảnh chưa kịp lên rồi ngả người vô dựa salon từ từ uống hết ly nước... mơ màng một hình bóng nào đó không rõ rệt, không dấu vết dù đã nhiều lần nàng cố lục lọi nơi trí nhớ thế mà đã bao lâu nay cứ mờ ảo cuốn hút tâm tư nàng dõi theo... Chàng là ai?... Như Thương không cách nào hình dung; hoặc tưởng tượng cá tính, thái độ người đó ra sao; ngược lại nó cứ như một cái gì bâu bứu không rõ rệt... Nàng chỉ cảm thấy thế... để rồi thi thoảng chút thắc mắc chợt đến, chợt đi tiếp nối theo ngày tháng...

Là một ca sĩ nổi tiếng, nàng quen khá nhiều; quen vì bị quen, bị quen với đủ thứ người... có một số người phải quen bởi ảnh hưởng nghề nghiệp, tên tuổi... Mặt trái của cuộc đời nhiều lần khiến nàng chán nản, muốn đổi nghề hầu mong khỏi phải bon chen, tính toán đôi khi đến độ lừa lọc. Cứ mỗi lần phải suy nghĩ làm sao để thăng tiến mình hơn, những bộ mặt giả tạo, những lời nói đãi bôi chứa đựng đầy mưu toan, những nụ cười hàm súc tính toán giành giựt... lại hiện rõ làm nàng thêm chán ghét... Thế mà, ghét của nào trời trao của đó... Như Thương đành phải lấy ý nghĩ tạm chấp nhận, cho rằng âu cũng là phận số để tránh những giây phút phải trực diện với tâm tư... Dĩ nhiên, ai cũng có những ngấm ngầm đau khổ không phương chia sẻ, khó ai thấu đáo... Người đứng ngoài mơ ước, ngưỡng mộ..., kẻ trong cuộc lại như nai bị săn đuổi... cho đến ngày nào đó con nai hết sức ngã quị, chết dần chết mòn làm phân bón cho những cây gai con buôn luôn rình rập... và rồi đi vào lãng quên... hoang tàn phận số...

4g15, chiếc đồng hồ điện tử hiện lên hàng số đỏ. Nhiều lần màu đỏ gây cho nàng cảm giác khó chịu... Đã bao phen tự nhủ mua cái khác có số màu xanh... mà màu đỏ vẫn còn đó... Như Thương ngại ngùng đứng dậy, ghé qua bếp bỏ chiếc ly vô bồn nước xà bông rửa chén đoạn lững thững từng bước lười lĩnh về phòng. Căn nhà tuyệt đối im lặng ở thời điểm mọi người mê mệt với giấc ngủ... vang lên tiếng đế giầy cao gót cạ vô mặt thảm... Những tiếng cạ gợi nơi nàng ý nghĩ lẻ loi... Cuộc sống bao gồm những thực trạng trái ngược của cuộc đời ca sĩ. Lời than của Julie trong phần giới thiệu băng nhạc cassette Mùa Thu Chết chợt như nhắc nhở Như Thương nhớ đến thân phận mình, "...Bước vào mùa thu của cuộc đời như những giọt nước mắt của một đời ca hát buồn tênh." Người ta càng đối diện với những cảnh phồn hoa đô hội, náo nhiệt đôi lúc đến thác loạn bao nhiêu, khi trở về với thực trạng nội tâm đơn lẻ, âm thầm nơi cảnh tịch mịch của màn đêm, mối khao khát niềm vui cuộc sống hiền hòa đơn giản biến thành thôi thúc bấy nhiêu... Đã nhiều lần, không thể đếm, Như Thương tự bảo mình cần nhiều giờ ngủ ban đêm cho có sự điều hòa âm dương mong giữ được sắc đẹp lâu dài, giọng ca sẽ bền bỉ hơn... mà rồi đâu vẫn hoàn đấy... Những chuỗi năm tháng lấy đêm làm ngày và ngày làm đêm vẫn thi nhau tiếp diễn... Ca hát, rồi bè bạn đi ăn... Lúc về tới nhà thường thì đã bốn, năm giờ sáng... Lắm lúc nàng đặt câu hỏi, nếu không hòa theo với mọi người trong ban nhạc... phỏng mình có bị bỏ rơi chăng? Dĩ nhiên, dẫu mình có khả năng nhưng nếu thiếu sự hòa đồng với họ, mình sẽ bị họ tách biệt. Hơn nữa, hòa đồng để được chú ý nhiều hơn, được nâng đỡ... đôi khi đến độ lừa lọc qua thái độ cố gắng chấp nhận phần nào giả hình cho người khác hài lòng... hoặc để chứng tỏ mình cùng băng lại phải uống rượu... lâu dần thành quen, rồi nghiện... rồi... có thể nghiện luôn cả những thứ không nên nghiện. Không chứng tỏ hòa đồng, họ cho rằng mình kênh kiệu... không tỏ ra thân thiện, người ta chẳng có gì để... hy vọng... nơi mình và mình sẽ bị xếp vào danh sách lãng quên... Thêm vào đó, nơi nào chẳng có cạnh tranh, biển nước nào sóng không đuổi theo sóng... sóng trước đi chậm hoặc gặp cản trở; sóng sau tràn lấp... Là đồng nghiệp, dù cho có tử tế cách mấy thì ai cũng đều chất chứa đầy ước mơ vượt cao hơn thực trạng hiện tại... Ca sĩ nào không muốn mình nổi tiếng hơn, đắt giá hơn... nhất là ca sĩ chuyên nghiệp như nàng... Không cạnh tranh, không thăng tiến... tăm tiếng sẽ mau phai... Vì vậy, dù muốn có nhiều giờ ngủ ban đêm... những đợt sóng tính toán, cân nhắc nghề nghiệp vẫn xô đẩy nàng gia nhập họ hàng nhà chuột... khi mọi người thức dậy thì mình đi ngủ và khi họ đi ngủ mình lại mò đi kiếm ăn.

Trước khi rơi vào giấc ngủ, Như Thương muốn nhìn lại hình mình nơi cuốn nhạc video mới thâu... Một năm trời đằng đẵng với bao nhiêu công sức... Thay vì nằm như mọi lần nhìn lên tivi để tận nóc tủ cao, nàng ngồi dựa thành giường kéo mền đắp ngang tới bụng... Tự nhiên Như Thương thấy muốn đọc kinh... Lâu rồi, mãi săn đuổi nghề nghiệp hát hỏng, sao cho nổi tiếng... đến khi đạt tới đài danh vọng như ngày nay, nàng lại sợ mất bởi e không giữ được... Cuộc đời xét ra cả là một sự tranh đấu liên lỉ từ ngày này qua ngày khác... Đã bao lâu nay, Như Thương không bước chân vô nhà thờ. Người ta cứ mở dạ vũ vào những đêm cuối tuần thì sao nàng có giờ đi lễ... và ngày thường... không quan trọng.

Đưa tay làm dấu, ngượng ngùng dâng lên tràn ngập.

-Chúa ơi, bao nhiêu lâu nay rồi con không đi lễ Chủ Nhật, vì bận đi hát cho miếng cơm manh áo...

Mới nghĩ tới đó, Như Thương bất động, cặp mắt khép hờ, đầu dựa vô tường... Tiếng nói vô hình nào đó bỗng nổi lên xoáy vô tâm não... Cả một buổi chiều thứ bẩy nơi các nhà thờ, lễ 4g30, 5g, 6g, 7g... rồi Chủ Nhật gần như cả ngày, không nhà thờ này thì nhà thờ khác... Có ai đi hát hai mươi bốn tiếng bao giờ đâu... sao có thể nói được bận đi hát...

-Nhưng còn phải di chuyển, ngủ, nghỉ mà lễ Việt Nam vào những giờ không đi được.

-Lễ Mỹ hay lễ Việt Nam cũng thế thôi, đâu phải chỉ lễ Việt Nam Chúa mới nghe. Ồ, mà mình có bao giờ đặt vấn đề đi lễ đâu!...

-Bao nhiêu người không đi lễ đâu có sao!

-Nhưng... sẽ bị giới hạn ảnh hưởng... bởi khác tôn giáo... bởi kỳ thị...

-Cũng chưa biết chừng sẽ có ảnh hưởng ngược lại... Cái gì càng hiếm thì càng quí... Một con người tốt lành, một con chiên ngoan đạo, một ca sĩ nổi tiếng... sẽ sáng giá hơn bình thường...

-Phiền quá... thôi bỏ qua...

Bỏ qua không được, tiếng vọng đâu đâu cứ trở về... Như Thương thấy mình mang lầm lỗi thật nặng nề... Chúa nghĩ gì khi cho mình tài năng để rồi ngay cả đến dù một tiếng cảm ơn Ngài cũng không có... Phải đi lễ để cảm tạ Ngài... Đi lễ hát trong ca đoàn càng có thêm người mộ mến, thêm người biết mình... Không đi lễ, sự thiếu sót này tạo cho mình mặc cảm tội lỗi, chẳng ra gì... đôi khi xô đẩy mình vào những chuyện không nên để trừng phạt chính mình... Chúa ơi! Con tệ quá; con cứ tưởng đó là tài năng tự mình tạo được... Bao nhiêu người hát hay hơn con, sao họ không được nổi tiếng; sao họ không thể dùng khả năng hát để làm kế sinh nhai... Họ không có cơ hội... Chúa ơi! Đúng, Chúa cho con cơ hội..., vừa có tiếng tăm lại vừa có kế sinh sống... Con... con tệ với Chúa quá...

Cảm giác khắc khoải tràn lan khắp châu thân Như Thương; nàng bất động, mặc cho niềm thống khổ ăn năn phủ lấp... Tiếng vọng nào đó thúc dục nàng cần phải có quyết định thực hiện một điều gì bù đắp, chuộc lại những lỗi lầm ngày tháng đã qua... Chúa ưu đãi con quá Chúa ơi! Chúa khuyến khích con thích hát để phát triển khả năng Chúa đã ban cho... Không ngờ, con tệ quá... Tệ đến nỗi không cần biết đến người đã ra ơn mà cứ cho rằng tự mình... Bao nhiêu kẻ có tài, bao nhiêu người có khả năng hát hay sao họ không nổi tiếng... Chúa ưu đãi con... Chúa thiên vị con, cho con hơn họ. Thế mà... Như Thương, hãy nghĩ lại, nghĩ lại... Bao nhiêu năm tháng rồi... Như Thương, mi nào đâu thiếu tiền mà vẫn cứ chạy theo... Tiền thì bao nhiêu cho vừa nhưng so với cuộc sống... mi đâu thiếu... Biết đâu, mi giảm bớt giờ hát, mi được trả giá cao hơn... Người ta mến mộ mi, không có mi, khách tới ít, người ta cần mi mà không biết đặt điều kiện... Thử, thử... sáu tháng hát ít xem tiền bạc ra sao. Coi chừng mi khá hơn... Lạy Chúa, con sẽ thử bằng cách để giờ đi dự lễ, Mỹ cũng được mà Việt cũng được...

Có được quyết định khiến lòng thảnh thơi hơn, Như Thương với tay lấy "remote control" bật máy xem cuộn video mới hoàn thành... Hình ảnh nàng hiện trên màn ảnh tivi. Một cô thiếu nữ hoang dã với tấm áo rách phủ hờ hững trên một thân thể hấp dẫn chứa chan những đường nét khêu gợi giữa cảnh rừng cây mùa thu lá vàng ngập đất... Chính nàng nhìn hình ảnh mình mà còn bị quyến rũ... Nàng hấp dẫn ngay cả loài muông thú... Màn ảnh được quay qua ống kính đặc biệt tạo nên nét huyền ảo của không gian hòa hợp bóng dáng mơ hồ của người con gái hoang sơ...

Bây giờ điềm tĩnh nhìn lại mình, Như Thương mới nhận thấy lời hát và hình ảnh không phù hợp... Sự hấp dẫn của hình ảnh đối nghịch với lời hát... Chết rồi, chính sự không hòa hợp này đã biến những hình ảnh hấp dẫn nặng phần khêu gợi trở thành những nét kích thích lòng ham muốn của người coi... Hình ảnh mình trở thành sự lạm dụng chạy theo ý thích khán giả một cách sàm sỡ... Chính sự thiếu hòa hợp biến mình thành một người cố tình phô trương thân xác... Được bao nhiêu người nhận ra nghệ thuật, nhận ra nét đẹp nghệ thuật của thân xác mình... Nhưng nghệ thuật phải phù hợp với ý diễn tả của lời hát... Cuốn phim đã vô tình quảng cáo nét đẹp cơ thể mình chứ không để ý gì về nghệ thuật diễn tả và phối hợp... Hơn nữa, những gì không có giá trị nghệ thuật sẽ bị tàn phai mau chóng... Hai thứ nghệ thuật được ráp nối không liên kết... lời ca một đàng, hình ảnh một nẻo... Mình sẽ đứng vững được bao lâu! Mình đang đốt cuộc đời, đang đốt tiếng tăm do sự không để ý nhận xét kỹ hơn... Không ngờ... ôi, một năm công sức!

Những cuốn trước cũng thế sao mình không nhận ra? Tại sao người ta khen ngợi, đua nhau mua... Tại sao không ai nói gì về sự hòa hợp hay không giữa lời ca và hình ảnh... Mình phải thế nào? Phải sửa đổi ra sao. Mà ai là người có đủ sáng kiến tạo dựng sự hòa hợp nghệ thuật này?... Tiền quay phim, tạo dựng cảnh sẽ lên cao... Mình phải chấp nhận đến mức độ nào...?

Nhớ lại những ngày xa xưa... năm năm trần thân lặn lội Như Thương mới được người ta chú ý... Nào những tối hát chùa và đã bao nhiêu lần không được dù chỉ một lời khuyến khích mà còn bị chê bai. Bao nhiêu công sức luyện giọng..., vô câu sao cho nhẹ, cho đúng nhịp. Suốt cả tháng trời học nhịp, đập đến sưng cả đùi..., rồi những băng cassette học hát theo ngày này qua ngày khác... Mới ba mươi mấy tuổi đầu, những năm tháng thiếu sự ăn ngủ hòa hợp làm Như Thương yếu ớt, mỏng manh... nên lại ăn khách... Mà có ngờ đâu... ai ở trong chăn mới biết chăn có rận... Đồng ý rằng tiền bạc mình có nhưng để có tiền lại cả một sự cố gắng trần thân. Chẳng biết còn được bao nhiêu ngày tháng nữa! Và rồi tương lai mình sẽ đi về đâu?...

Nghĩ đến tương lai, Như Thương thấy lòng se thắt... Hình ảnh mờ nhạt nào đó cứ vấn vương mà nàng không thể nhận ra. Chắc chắn nàng chưa bao giờ gặp... thế sao lại khắc khoải? Phỏng cuộc đời mình có bao giờ gặp được đối tượng mông lung này, nàng thầm nghĩ. Dĩ nhiên, điều kiện chưa chồng cũng đóng một vai trò thiết yếu trong tiến trình nổi danh vì dễ được người khác để ý, muốn gây thiện cảm mà giúp đỡ... Tuy vậy, phần thiệt thòi vẫn là chính mình, mà phải chấp nhận.

Muốn yêu và muốn được yêu một cách chân thành, Như Thương cảm thấy mối thiết tha tận đáy lòng mình vẫn còn hoang dại, hoang dại như hình ảnh nơi cuốn băng nhạc video. Nét mơ hồ của người yêu dấu vẫn chưa dù chỉ một vài đường nét hiển hiện ở bất cứ người đàn ông nào mà nàng quen biết. Những lần xong hát ra về, khán thính giả mộ mến xếp hàng, đôi khi chen lấn để gặp nàng... Như Thương cố gắng dõi mắt may ra bắt gặp nét thân thương đã bao năm trong mộng tưởng... Chàng, chàng vẫn xa diệu vợi, vẫn mờ mịt như ở mãi thế giới bên kia... Từ những thanh thiếu niên trẻ măng dạt dào sức sống cho tới những khách đứng tuổi ái mộ nghệ thuật... sao mình vẫn không cảm nhận được ai gần gũi... Chẳng lẽ... mình mãi mang phận số cô đơn lẻ bóng?

Ồ! Như Thương, tại sao mi chưa bao giờ có ý nghĩ làm gì cho khách ái mộ... Một phần nào đó mi được họ yêu chuộng tức là mi có thể có chút ảnh hưởng... Ảnh hưởng gì? Muốn gây ảnh hưởng phải có cuộc sống kiểu mẫu cho họ noi theo... Phiền quá Như Thương ơi... mi lo sống an phận là đủ... Nhưng mình có thể làm gì ngoài cái nghề ca hát này chứ... vì mình đã bao giờ thử xử dụng các tài năng khác đâu!... chỉ hát, chẳng lẽ... Có nên thử không... chưa thử không nên nói trước. Đã bao nhiêu người dám... sao mình không? Nhưng làm gì... mà nếu muốn gây ảnh hưởng, muốn khuyến khích người khác mình phải sống gương mẫu trước... gương mẫu chứ không phải chỉ biết sống cho mình... Như Thương, nếu không cầm cương được chính mình, khoan mơ ước... Ừ,mình có những sáu tháng để thử chính mình trước, rồi hậu xét...

Dẫu nhận thực mình đã bước vào mùa thu của cuộc đời mà vẫn còn lẻ bóng, Như Thương cứ chờ đợi... chờ đợi hình bóng mờ ảo nơi tâm tưởng sẽ một ngày được hạnh ngộ. Những thực trạng dối gian trong cuộc sống khiến nàng không thể đặt dù chỉ là niềm hy vọng nhỏ nhoi nơi những người đang theo đuổi thì sao có thể thương. Ba mươi mấy năm qua, nàng chỉ có được một thời gian quá ngắn sống trong tình yêu chỉ một lần chợt chớm để rồi nó vội vã xa rời bởi vô tình biết được mặt trái của chàng. Sáu tháng dệt mộng nơi lứa tuổi đôi mươi... Thế rồi từ đó những người nàng quen biết đã không ai được coi có tâm hồn hòa hợp khiến cho con tim nàng rung động... Trái lại hình ảnh mơ hồ man mác ẩn hiện bất thường nơi tâm tư hình như chất chứa một sức mạnh khuyến khích nàng kiên nhẫn đợi chờ... Nàng chỉ cần gặp người xứng đáng cho nàng yêu và được yêu... Thế sao vẫn cứ như diệu vợi... vẫn chưa bao giờ gặp... và thời gian đâu có chịu đợi chờ ai, cứ hờ hững trôi...

Có phải chuyện trăm năm được coi như một buổi gieo cầu lúc hai người quyết định thành hôn và rồi tỉnh ăn nhầm thua như ván bài đỏ đen, may ra hạnh phúc thì hưởng mà chẳng may thì bất hạnh cả cuộc đời? Nàng không thể chấp nhận dùng cả cuộc đời mình đánh bài vì nếu liều lĩnh như thế phần thua lỗ bao giờ người đàn bà cũng phải gánh chịu. Như Thương không chấp nhận bất cứ gì được gọi là may mắn mà hình như con người còn bị ảnh hưởng bởi một phần nào duyên số lồng trong khả năng lý trí, nhận xét để chọn lựa... Nhưng có thể, Như Thương, ngày nào mi gặp người ấy là ngày mi bỏ nghề ca hát...

o o o

Nàng chợt tỉnh, chiếc đồng hồ treo tường chỉ 11g30 trưa. Màn ảnh tivi nhốn nháo những chấm đen đen trắng trắng đang thi đua nhảy múa. "Mình đã ngủ ngồi những 6 tiếng rưỡi..." Như Thương thầm nghĩ trong lúc trườn người nằm dài xuống giường mơ màng tưởng nhớ.





_________________ HƯƠNG TÌNH

Cô bé trao cho mỗi người một tấm thực đơn, miệng bật lời chào bằng tiếng Mỹ, đặc giọng Mỹ, trái ngược với mái tóc đen huyền chảy dài bên trái nhẹ rối làn sóng uốn. Nàng vội là phải, nhanh tay đưa cho khách mới đến hết mớ thực đơn, đoạn thu dọn ly chén chuẩn bị bàn trống cho dãy khách đang đứng xếp hàng chờ chỗ ngồi vào buổi trưa... Nàng như con bướm, lượn qua bàn này chào hỏi và dọn sạch bàn kia khi thực khách đã ra đi... Hình như công việc đón khách, dọn bàn trong nhà hàng đòi hỏi sự di động liên tục đã vô tình trở thành những động tác thể dục thẩm mỹ tạo nên thân hình thon thon, lẳn nét diễm kiều đầy tràn nhựa sống nơi vóc dáng người Việt của cô bé. Tôi tin nàng là người Việt vì cảm thấy như vậy; cảm quan thứ sáu cho tôi biết... nàng không phải là Thái, Nhật, Tàu, Đài Loan, hay Phi Luật Tân... nhưng là người Việt. Làn da, nét mặt, sống mũi, ánh mắt, môi cười, suối tóc... của nàng mang mang tính chất Việt, nhưng nàng chào chúng tôi bằng tiếng Mỹ. Gặp ánh mắt nàng, luồng cảm giác mạnh mẽ nào đó bùng dậy nơi tôi trào khắp châu thân... Đôi mắt biết nói, êm mơ, quyến rũ tràn ngập tia nhìn bao bọc, cuốn hút người đối diện... như mô phỏng hình ảnh "nhà tôi." Lòng tôi chơi vơi nên thái độ ngỡ ngàng, ngẩn ngơ không muốn đón lấy tấm thực đơn nàng đưa tới bởi còn mãi mê với ánh mắt... How are you? Nàng nhẹ mỉm cười... Tôi đánh rơi tấm giấy... I'm sorry, nàng đưa tấm thực đơn khác đoạn vội cúi nhặt tấm giấy... Tôi bồi hồi dõi tâm tư về khoảnh trời bên ấy, khoảnh trời chứa đôi mắt...

Quen tay lật lật tấm thực đơn để lòng hướng về dĩ vãng; hai chữ Bảo Long càng gợi lòng nhớ nhà tôi... Có phải tại hình thức nhà hàng Bảo Long được xếp đặt vô tình trùng hợp với khung cảnh ngày nao tôi quen Thu Giang và đôi mắt biết nói đã gợi lại niềm yêu thương vợ chồng bắt đầu từ mối tình nảy sinh nơi một tiệm phở? Khoảnh trần nhà mây vương đẩy cao lên bởi ánh sáng néon kéo lòng người bồng bềnh thoát khỏi cảnh đụng chạm bàn ghế được phụ họa bởi những mầu sắc xám nhạt đối nghịch nơi vách tường trắng chung quanh tạo thành nét dìu dịu ru nhẹ ánh mắt khiến lòng khách cảm thấy như tránh thoát phần trần tục bon chen của thế giới bên ngoài... Mùi thịt nướng đâu đây vây bọc khiến tôi nhẹ nuốt nước bọt... Coi chừng trôi mất cả lưỡi, lòng thầm nghĩ muốn ngưng thói quen háu ăn thế mà nó cứ tiếp tục trào ra... Tôi lại phải nuốt... Chiếc mũi thúc giục gọi món thịt nướng, nhưng tình xúi lòng lưu luyến tô phở bốc hơi bởi mùi húng quế nhẹ vương ngang từ bàn bên cạnh... Tôi quyết định gọi tô phở tái nạm gầu gân sách... Món phở dạo đầu đời dẫn tôi bước vào tình yêu lứa đôi.

Bảo Long, cái tên nghe quen quen từ nơi nào vọng lại... âm vang triều đại vua cuối cùng nhà Nguyễn... Tên nhà hàng gợi tôi nhớ người bạn sau là anh rể. Anh nàng là Bảo Long, chúng tôi quen nhau vì chung ghế nơi giảng đường Đại Học Khoa Học. Trong những ngày giúp sinh viên mới điền đơn nhập trường... cô em của Bảo Long có đôi mắt biết nói, vừa rời ghế trung học ghi danh bên Văn Khoa, ghé qua chờ anh đưa đi ăn phở... Thằng anh chịu khó giúp tân sinh viên đến nỗi quên cả cô em gái đã cho tôi có cơ hội quen nàng.

-Cô đợi ai ở đây?

-Em chờ anh Bảo Long.

-Cô muốn nộp đơn Khoa Học phải không?

-Không đâu, anh cũng muốn em trở thành khô cằn như mấy anh hay sao mà đòi xúi em nộp đơn Khoa Học.

-Không đâu thì đây, có chi mà sợ... Cô thử nhìn kỹ lại coi, tôi nào phải là bộ xương cách trí biết đi mà nói là khô cằn... Thế cô định đợi Bảo Long có chuyện gì để tôi kiếm hắn...

-Anh ấy hẹn đưa em đi ăn phở; đứng đợi rã cả chân mà vẫn biệt tăm. Lúc mới đến, anh ấy chỉ nói hai tiếng đợi chút... thế là biến em thành trời trồng ở đây... cũng sắp trở thành bộ xương cách trí rồi...

-Cái thằng dốt như bò đực; có đào đợi mà quên được hèn chi chả bị gọi là khô cằn,

-Anh nói gì? Vậy em dốt như bò cái à?

-Nào tôi dám nói gì cô đâu; tôi chỉ bảo thằng bạn tôi dốt như bò đực chứ có nói chi bò cái.

-Anh còn chống đỡ... Anh nói anh Bảo Long bò đực tất nhiên ám chỉ em là bò cái... Anh ngoa vừa thôi; cái miệng cách trí mở ra là chỉ thấy xương nên lời nói cũng châm chọc...

-Tôi nói nó là bò đực thì nó là bò đực... Còn cô là nàng tiên cỡi con bò đực chứ cô không phải là bò cái... Khổ ơi là khổ!...

-Thằng tướng gàn, mày dám tán em tao. Bảo Long xồng xộc từ đâu trờ tới...

-Anh... nàng vừa lên tiếng; tôi đã vội cướp lời e bị hiểu lầm tán đào của bạn mình thì phiền.

-Dạ thưa anh Bảo Long khô cằn, tôi đang làm vú em cho đào của anh. Yêu cầu trả công trước khi nhận lại... Tôi cứ nghĩ hắn nói "em tao" có nghĩa là đào của hắn. Tiếng Việt nói lóng quá phong phú lắm khi bị hiểu lầm.

-Em gái tao đó, Thu Giang, đào kép gì. Quay qua Thu Giang, Bảo Long nói tiếp, nó là thằng tướng gàn Trần Hộ. Hôm nay trời xui đất khiến nó trở thành Trần Vú Em... Đoạn nghiêng về phía tôi nói nhỏ, Hộ à, tao đang bận quá, mày đưa em tao đi ăn phở dùm... Tao năn nỉ... Mày làm vú em thay tao một bữa nhưng nên nhớ, xớ rớ tao đánh bỏ mẹ...

-Anh...

-Thu Giang, anh đang bận quá, chiều anh đưa em đi ăn kem...

Không cần biết Thu Giang nghĩ gì, hắn tiếp tục ra lệnh cho tôi:

-Mày đưa em tao đi ăn phở, sau đó chở nó về nhà... cấm xớ rớ, cấm buông lời xàm xở, cấm dạy nó học đòi cái gàn của mày, cấm...

-Cấm ăn, cấm uống, cấm ngủ, cấm nhìn, cấm bẩm, cấm thưa, cấm thở... cho chết cha tao luôn chỉ để anh em mày sống chôn tao sâu dưới mồ...

Thu Giang không nhịn được cười vì lối ăn nói bạn bè tụi tôi đã tạo cho nàng cảm nghĩ thân cận... Thế là thằng tôi làm vú đưa em Bảo Long đi ăn phở, chở về nhà và sau này lúc nào cũng chở về nhà... nhà tôi.

Thu Giang thích phở nên chăm nấu phở do đó không lạ gì mũi tôi bảo ăn thịt nướng, lòng tôi bắt kêu tô phở...

-Thưa chú muốn dùng chi ạ? Giọng cô bé nhẹ nhàng, có phần nhí nhảnh gợi lại cảnh tôi làm vú ngày nao... nhất là đôi mắt...

-Con cho chú một tô dài lòng thòng này: Phở tái nạm gầu gân sách. Ối giời! Tôi nói như thở ra, đặt quách cho nó cái tên phở lòng thòng để dễ gọi...

-Vâng, từ nay chú tới gọi phở lòng thòng là con biết ngay.

-Lúc đầu con chào bằng tiếng Mỹ làm chú nghi con không phải người Việt.

-Con quen miệng thưa chú. Ở đây người Mỹ đến ăn đông lắm nên nói riết con quen...

-Con còn đi học không?

-Thưa chú, năm nay con vào đại học... nhưng phải đi làm thêm để có tiền mua sách vở và những đồ lặt vặt...

-Con giỏi đó...

-Có người đang tới, con phải đi đặt phở cho chú và chuẩn bị bàn mới...

o o o

Tô phở nghi ngút khói được bưng ra... Nước giùng sóng sánh pha ánh sáng phản chiếu lóng lánh nơi những bụi mỡ vàng... Hơn hai năm, nay tôi mới gặp lại mùi phở ngày xưa. Phở bò nhưng nước phở phải có xáo gà... Nấu phở theo kiểu của Thu Giang phải là một kỳ công... Xương bò được bỏ vô luộc cho sôi cỡ năm phút, đoạn rửa nước lạnh cho sạch mùi gây... Trong khi hầm xương phải chịu khó đứng canh vớt hết những bọt cho trong nước phở... Nấu xong, nước được để nguội, cho vô tủ lạnh chờ tới khi mỡ bò đông lại, vớt cho hết sau đó một nàng gà mái ghẹ làm sạch sẽ được bỏ vô ninh thêm ít nhất một tiếng. Mà đâu đã hết, tò ho, tảo quả... kèm theo mấy vị thuốc bắc được tán dập dạp bỏ trong một túi vải cột chặt nấu chung với xương để làm tăng thêm hương vị phở bắc. Có lần nàng nhờ tôi canh chừng nồi nước phở; vì mãi mê đọc truyện không vớt bọt... thật là khổ sở... mấy trái trứng bị nàng dùng lòng trắng làm chất keo vớt bọt.

-Em bỏ lắm thứ vô như thế thì còn gì mùi phở bò? Tôi thắc mắc.

-Những vị này đánh tan mùi gây của nước xương và làm cho phở có mùi vị riêng tùy theo ý muốn người nấu...

Cách thức ăn phở của Thu Giang mới trịnh trọng làm sao! Công việc đầu tiên phải nếm nước phở... hành, ngò, húng quế, rau giá ăn đến đâu bỏ vô tới đó.

-Sao em không bỏ tất cả chung vào một lúc đỡ tốn công...

-Mỗi miếng phở mình ăn với một thứ rau thơm để hưởng những mùi vị khác nhau chứ miếng nào cũng giống miếng nào thì làm sao thưởng thức đầy đủ mùi vị phở...

Yêu nàng, tôi mê luôn phở rồi học cách ăn phở... Có lần, mời mấy người bạn về nhà, một người, vừa thấy tô phở nóng hổi được bưng ra, vội vàng vớ lấy tương, ớt, chanh, mắm... một thôi một hồi đổ vô rồi dùng đũa nhào nháo cho đều... Trông thấy cảnh ấy, tôi cảm thấy hơi bực bội vì đã mời phải tên phàm phu tục tử... làm đục nước phở...

Tô phở Bảo Long, cô sinh viên có đôi mắt biết nói gợi lòng tôi nhớ vợ con da diếc... Con gái tôi năm nay mười bẩy tuổi có lẽ cũng xấp xỉ cô bé này, nhưng cuộc đời thay đổi, con tôi đâu còn cơ hội cắp sách tới Văn Khoa như nhà tôi ngày xưa mà đang phải bươn chải cùng mẹ lo cho miếng cơm manh áo của gia đình bốn người, một mẹ và ba chị em. Từ ngày tôi vượt biên, cháu đã phải phụ mẹ sáng sáng gánh bún ra chợ, trông nom hàng quà, và lau rửa chén bát khách hàng ăn xong để lại. Hai em trai nhờ công sức vất vả của mẹ và chị còn được may mắn ngồi ghế trung học nhưng cái học giật lùi... Mới hai năm, tấm hình vừa gửi sang tạo nỗi đau thương cảm... Vợ con tôi ốm yếu gầy guộc như những bộ xương cách trí phô bày nơi bảo tàng viện. Cô sinh viên Văn Khoa ngày nao tươi mát tựa danh hiệu đại học nay mang dáng dấp lầm than cơ cực, âm thầm chịu đựng cho qua tháng ngày chờ mong bảo lãnh. Vợ tôi đó, nàng mảnh khảnh chẳng khác gì tên gọi, mơ hồ như chỉ làn gió nhẹ của mùa thu cũng có thể làm lao đao đi đứng không vững nhưng lại tiềm ẩn ý chí sắt đá nuôi ước vọng một tương lai sáng lạn cho các con.

-Anh phải đi trước bởi lỡ nếu có chuyện gì xảy ra thì còn có mẹ con em thăm nuôi. Hơn nữa, gia đình mình không đủ khả năng để đi chung một chuyến; vả lại, đàn bà con gái vượt biên bây giờ nguy hiểm lắm, chẳng may gặp hải tặc chỉ còn nước trầm mình xuống biển. Anh phải đi trước rồi sau đó bảo lãnh mẹ con em.

-Nhưng rồi ai lo cho em và các con còn ở lại.

-Sau khi anh đi, con Sương Linh sẽ nghỉ học và phụ em bán bún tập nghề chừng sáu tháng hay một năm, và nếu cần, nó coi hàng bún này, em ra thêm một sạp nơi chợ Ông Tạ...

-Thế nhỡ khi trái gió trở trời lấy ai lo cho em?...

-Thôi ông ơi, nói chi nghe mệt quá, hãy lo khi sang tới nước thứ ba ông trở chứng thì có..., việc gì phải lo trái gió trái bão cho mẹ con em!

-Nhưng anh thấy khó bề xa em...

-Từ ngày cưới nhau, mãi bây giờ em mới nghe được anh nói một câu tình tứ... Đúng là dân Khoa Học khô như đá sỏi.

-Vậy mà có người mê mới lạ...

-Thoạt đầu em chỉ mê cái miệng của anh thôi, hơn nữa, cũng tại anh Bảo Long. Anh ấy khó tính lắm, ai cũng chê; có mấy tên thời đó mới gửi thư làm quen mà anh ấy đã dò la tông tích họ hàng từ ông tổ ông tiên nhà người ta rồi khuyên em này nọ nhức cả đầu, cứ như là thiên hạ sắp sửa gài bẫy được em gái của anh ấy đem về ăn tươi nuốt sống nên phải trừng trị em đề phòng trước. Không hiểu sao, chẳng bao giờ nhắc nhở tới anh nhưng đùng một cái nhờ anh đưa em đi ăn phở... và cái miệng của anh còn quá dân Văn Khoa... để rồi hại em một bữa ăn no gần chết.

-Ngày ấy anh đâu làm gì mà nói hại em?

-Vâng, anh không làm gì, chỉ mồm năm miệng mười láu cá khiến em chẳng biết đối đáp làm sao đành cứ ép mình tuân theo mệnh lệnh... rởm... Sau này em mới biết, anh kiếm cơ hội tỏ ra săn sóc lấy lòng để tán gái.

-Nào anh có ý tán em đâu!

-Xin thưa, anh không tán đâu nhưng tán đây. Em nhỏ con như thế mà kêu tô phở xe lửa; nói làm tô nhỏ thì đã vội vàng đế cái miệng vào: "Cô Thu Giang ơi, cô mà ăn ít, lỡ nhẹ cân gió thổi bay mất thì thằng Long nó đánh tôi bỏ mẹ." Còn gì nữa, "Thôi thôi, tôi năn nỉ mà, con gái ăn phở không có mập lên đâu; nó chỉ giúp cô đẹp ra nè, duyên dáng hơn nè, hấp dẫn hơn nè, có eo hơn nè, và dễ thương hơn nè...," cải lương chịu không nổi, thế mà ngày ấy em cứ như bị bùa mê thuốc lú chết mệt với cái miệng đò đưa dẻo quẹo... thiệt đúng là võ mồm, chưa kịp lên đài đã thắng.

-Em nói dân Khoa Học khô cằn sỏi đá...

-Đúng, khô cằn sỏi đá nhưng cái miệng tía lia trơn như bôi mỡ nên em mới mê. Anh có nhớ không, vừa mới gặp đã đá lia chia nào là bò đực, bò cái lại còn than khổ đánh động lòng từ tâm của kẻ khác.

-Văn Khoa dạy em chú giải trật vuột nên mê cái miệng anh là phải.

-Trật vuột gì, anh nói anh Long là dốt như bò đực thì có ý ám chỉ em cũng là thứ bò chứ chẳng lẽ thứ trâu. Có lẽ cái miệng của anh tán gái đã quen nên ăn nói tự nhiên mà lại đầy ẩn ý, cố tình gây tự ái vặt nơi em để kiếm cách bắt vào câu chuyện giằng co vô thưởng vô phạt khiến người đối diện có cảm tưởng an toàn đấu lý dần dần tiến đến sự thông cảm thân thiện. Thế rồi, người ta vừa vô tình bị bắt mồi nói qua nói lại chứng minh lý của họ là đúng, anh đã ma giáo tỏ vẻ ăn năn vì lỡ lời và than khổ do bị hiểu lầm. Thật là mánh mung quá quắt mà em đâu có ngờ, thế nên với lòng mẫn cảm, thấy người khác khổ sở là đã vội thương do đó bị lọt vô tròng.

-Tròng đâu mà lọt nếu em không thương!

-Ừ mà cũng lạ, chẳng hiểu sao chỉ mới đi ăn phở với anh một lần mà em thấy như mình đã thân nhau tự kiếp nào. Có bao giờ anh Bảo Long để cho bất cứ ai chở em đâu... hay anh có số mèo mù vớ cá rán.

-Anh cũng đâu biết anh Long có em gái, do đó lần đầu tiên gặp, anh ngỡ em là đào của anh ấy nên nghĩ chẳng còn xơ múi gì, chẳng cần lo giữ miệng lưỡi mà chỉ cảm thấy vận mình không hên. May mắn được làm vú em, âu cũng là tốt số...

-Vậy thì anh phải vững tâm ra đi để bảo lãnh mẹ con em chia phần tốt số sau này...

Và thế là tôi ra đi nhờ lòng quyết tâm của vợ, để lại ba con một mình nàng chăm sóc. Cũng may, Sương Linh đã có thể giúp mẹ buôn bán kiếm sống qua ngày. Lúc ra đi, con tôi còn ngây thơ mà mới chỉ hai năm lăn lộn với cuộc đời đòi hỏi sức phấn đấu tranh sống, nay nét lanh lợi lộ rõ nơi khuôn mặt. Mới đầu, cố gắng ép mình đến trường kiếm chút Anh Văn trong thời gian đợi chờ vợ con sang, đồng thời kiếm giờ làm bất cứ việc gì có thể mà những người sống chung quanh thuê mướn để có tiền gửi về cho Sương Linh đi học lại, thế nhưng, quan niệm của cháu khác hẳn, hiện giờ, cố gắng giúp mẹ qua cơn bĩ cực và mong sao sớm đoàn tụ đi học bên đây. Bước vào đời sống bon chen, con bé trưởng thành nhanh hơn tôi tưởng.

Mơ ước của con tôi phải được thực hiện, nhưng bằng cách nào? Khi vợ con sang, ít nhất tôi phải có phần nào vốn liếng... Bao nhiêu người đã bảo lãnh vợ con, đến khi người thân xum họp, đối diện với thực tại khó khăn lo kiếm miếng cơm manh áo sống qua ngày đã gây nên sự chán nản vì mộng ước tan tành... Dĩ nhiên, nhìn thấy những gia đình chung quanh kẻ nhà cao cửa rộng, người xe mới, đầy đủ tiện nghi, bóng láng... trong khi vợ chồng con cái mình ở nhà chính phủ hoặc giỏi lắm bớt xén ăn mặc trả tiền thuê căn nhà chật hẹp, nào ai chịu chấp nhận giới hạn của con dân di tản, mà thường thì những ước mơ sao cho mau có lắm tiền nhiều của là nguyên nhân phát sinh sự so sánh, gấu ó trong gia đình. Làm thuê hoặc làm sở mà vốn liếng chuyên môn không có thì dù cố gắng nhịn ăn nhịn mặc, keo xén đến cách mấy cũng chẳng được bao nhiêu; hơn nữa, kiếm được chút nào lại phải gửi về giúp gia đình cho dễ sống hơn; thế nên, có chắt bóp được bao nhiêu cũng chỉ là con số không... chỉ còn nước vừa cày vừa học, tôi đã trắng đêm tính toán. Người ta nói, nhanh lắm cũng phải hơn hai năm nữa vợ con tôi mới có thể đi diện bảo lãnh. Hai năm sang tới đất này, tôi đã xong một năm rưỡi đại học; thôi thì ráng theo đuổi để lấy cái BS... Ráng cho đủ bốn năm, sau này một năm đi làm với lương kỹ sư gấp mấy lần làm thuê mướn, lại không phải lo thất nghiệp...; vợ khỏi bon chen sở mỏ; con cái an tâm sách đèn... Một số người Việt làm thương mại giầu có nhưng đã phải bao nhiêu năm họ gầy dựng vốn liếng hoặc ít nhất cũng cần của cải mang đi từ trước hay thân nhân hoặc bạn bè giúp đỡ cho vay mướn. Mình tứ cố vô thân, không nơi nhờ vả thì lấy bột đâu mà gột nên hồ. Tuy nhiên, xét kỹ hơn theo như mấy người trong nghề kể, buôn bán thì vợ con lại phải phụ giúp đầu tắt mặt tối, sáng dậy sớm, chiều về muộn mà tính ra công xá chẳng được bao nhiêu... nhất là thuở ban đầu thì sao con tôi có thể an tâm học hành...

-Anh nghĩ gì mà còn chưa ăn? Người bạn lên tiếng hỏi cắt đứt ý nghĩ.

Tôi đưa tay làm dấu Thánh Giá, cảm tạ hồng ân Thiên Chúa trước khi ngắt rau thơm bỏ vào tô phở trong niềm nhung nhớ vợ con... lòng dặn lòng chịu khó cày với hơn hai năm sinh viên còn lại...





_____________ AI NGƯỜI TRI ÂM

Trước hết, tôi muốn minh xác vị thế của mình. Tôi là một thanh niên thuộc thành phần nam giới đúng nghĩa, không phải chỉ có hình thức nam giới mà bao gồm luôn cả một tâm hồn con trai, không lại cái, không "gay" nhưng đứng hẳn về một phía, chẳng nửa vời; còn vấn đề tri chí hay không để lần hồi bạn sẽ phân định. Tất nhiên, cũng như mọi người, tôi có con tim thường lỡ làng, quên chủ chứa, luôn dõi theo hoặc ngóng trông một bóng hồng. Dĩ nhiên, vì không có mới ngóng trông nên tôi cũng thường cảm thấy mình thuộc loại thiếu may mắn, không có số đào hoa nếu xét riêng về mặt tình cảm. Đã thế, dường như chính những gì mình không có lại trở thành mối hấp dẫn tột bực tạo thành năng lực thúc đẩy sự theo đuổi. Hơn nữa, thà rằng nếu con tim không thèm đếm xỉa gì đến nhưng đừng phá đám và hãy để tôi yên thì chẳng có chuyện chi đáng nói; đàng này, nó kéo bè đảng với bộ phận bên trong cái đầu, ảnh hưởng tai mắt mũi họng, cứ nói hơi quá cho có vẻ quan trọng mong được người khác để ý, chơi tôi những vố xất bất xang bang, ăn không ngon, ngủ không yên... cũng chỉ vì mấy o giống cái với những bộ điệu thướt tha, dễ thương nhưng chỉ cái cười mỉm chi hoặc liếc mắt vô tình trông đi đâu mà hữu ý quét trúng tôi thì dù mới ngần ấy nét nhẹ nhàng dễ cảm mến đã trở thành cơn cuồng phong ác liệt cuốn mất tâm hồn, biến tôi thành kẻ ngẩn ngơ giống một trong những tên bị quỉ ám, ma đùa trong những truyện liêu trai chí dị.

Con tim tôi nó mềm, mềm từ hồi ấu thơ. Lúc thơ ấu, bạn cũng như tôi, chúng ta yêu mẹ. Bạn yêu mẹ bạn nhất; tôi không yêu ai bằng mẹ khi còn bé. Vì tôi là con trai, con trai yêu mẹ, ngược lại, con gái yêu bố; đó cũng là bản năng tự nhiên. Trong thời kỳ ở bậc tiểu học, thầy giáo dạy lớp hai có khuôn mặt hao hao giống khuôn mặt mẹ do đó tôi có cảm tình với ông ấy hơn các thày giáo khác mặc dầu mỗi năm tôi lên lớp học với các thày giáo khác nhau. Tôi yêu mẹ nên không muốn làm bất cứ gì để mẹ buồn, để mẹ phải la. Khi lớn thêm chút nữa, tôi vẫn yêu mẹ nhưng thích đi chơi vì trò chơi, nghịch ngợm hấp dẫn hơn ở nhà. Dần dần tôi trở thành chai đá và đồng thời cũng nhận ra mẹ thương tôi nhiều lắm. Mẹ đánh đòn vì tôi ba gai, phá phách chứ không phải vì ghét. Nhiều lần tôi muốn khóc vì thương mẹ; những khi tôi bị cảm, cúm, mẹ thức khuya để chăm sóc, nhưng không bao giờ tôi nói với mẹ dù chỉ một câu "con yêu mẹ" hay "con thương mẹ". Tôi im lặng giữ mối tình yêu mẹ trong lòng, chẳng bao giờ nói ra.

Lớn lên, cho tới năm đệ ngũ (lớp tám), tôi nhận ra tình yêu mẹ không "phê" như tình cảm dành cho một đứa con gái. Tôi cảm thấy nàng có một hấp lực, mãnh liệt cuốn hút, thành ra muốn được đứng gần. Thích nàng nhưng cũng chẳng hiểu tại sao thích, chỉ biết mình thích mà thôi. Giờ nghĩ lại, ngày ấy tôi đã không để ý tại sao mình không thích những người con gái khác. Đối với những người con gái khác, tôi coi thường, bất cần; còn đối với nàng, tôi dành tất cả cảm tình của mình dù chỉ trong ý nghĩ rằng nàng dễ thương, dễ mến. Cái áo dài nàng mặc đi học bị rách gấu, tôi cũng thấy dễ thương. Giọng nói, kiểu mỉm cười, nét mặt của nàng, tất cả đều có duyên đối với tôi. Nhưng chỉ im lặng, tôi im lặng giữ kín mối cảm tình đơn phương, nỗi lòng thầm kín một chiều.

Nhà tôi, năm thằng con trai liên tiếp, tôi là đứa thứ hai của bộ ngũ quỉ, thế là bao nhiêu công việc của người nội trợ được san sẻ cho hai đứa lớn chúng tôi. Mẹ tôi thường bao quát hết nhưng cũng nhiều khi mấy em tôi đau hoặc phải săn sóc chúng nhiều hơn, anh tôi và tôi chia nhau làm những công việc như đi chợ mua thực phẩm, nấu ăn, giặt giũ, quét nhà, rửa chén, nấu cám heo, tắm heo... Bố mẹ tôi ăn trầu, tôi lại thường phải têm trầu để bố mang theo vì ông đi buôn cá, gánh bộ cả bẩy cây số đường rừng từ những nơi dân câu bắt cá không có giờ nghỉ.

Con trai, chẳng hiểu tại sao đã trai lại còn gọi là con, phải làm những việc của con gái nên tôi ước ao có được cô chị hay em gái để làm thế cho mình, để rửa chén, để quét nhà, để nấu cơm, để bồng em ru nó ngủ... Bởi thế ước mơ thèm con gái được sinh ra nơi lòng. Tôi thấy bạn bè của mình may mắn và sung sướng; chúng có chị hay em gái, ăn xong chạy nhởn nhơ với bè bạn, tha hồ đi chơi, quần áo quăng ra có chị giặt, ăn xong có chị rửa chén; chúng nó là những ông hoàng, tôi thường tự bảo.

Càng lớn, tôi càng thèm con gái hơn. Tôi là đứa chúa lười ủi đồ nhưng thích ăn mặc đẹp. Quần áo phẳng phiu mới oai, mới ăn khách, mới câu được sự chú ý của kẻ khác, nhất là con gái. Nhà tôi không có bàn ủi nên mỗi lần ủi đồ phải đi mượn. Mượn ở đâu? Ở nhà có con gái, vì con gái ưa mặc đẹp, chịu khó ủi đồ. Bạn bè tôi có chị gái, có em gái nên quần áo chúng được ủi thẳng nếp, "pli" sắc có thể cắt đứt tay, nhưng chúng coi thường; chúng bất cần để ý khi đứng, khi ngồi có thể làm nhầu quần áo. Chúng có chị ủi đồ nên đồ nhầu không thèm mặc và có quyền la hét chị hoặc em ủi đồ. Tôi, mặc dầu quần áo không thẳng nếp gì nhưng phải giữ gìn, ai ủi cho nếu nó nhầu nát ngoại trừ chính cái thẳng lười như hủi là tôi nhưng thích mặc đẹp. Tôi phải cẩn thận từng chút; sau khi giặt, quần áo đem phơi phải được kẹp căng ra trên dây cho phẳng nên khi vận lại phải cố gắng sao cho quần áo khỏi bị nhăn, phải để ý từng cử động, từng thế ngồi. Ngồi không dám dựa, dựa nhăn lưng áo, chính vì thế tôi càng ước ao có được cô chị hay đứa em gái hơn, và cũng chính vì thế tôi càng thích, càng cảm thấy cần con gái hơn.

Thời gian sau này tôi đã cứ tưởng rằng mình có thể yêu bất cứ người con gái nào. Nàng nào tôi cũng thấy họ dễ thương, dễ mến. Tôi thích được làm quen với con gái nữa. Làm quen để làm gì, để thỏa mãn ý thích, để con tim hồi hộp khi nói chuyện với họ. Mỗi khi muốn gặp nàng nào, tôi phải sắp đặt câu chuyện sẵn sàng, câu nào nói trước, câu nào nói sau, nói như thế nào, điệu bộ phải ra sao. Đã thế, nhiều lần tôi vẫn còn bị quê chết người. Lắm nàng nghịch ngợm cố ý làm tôi chết sửng. Tôi nghĩ, mình phải chiến thắng, chiến thắng bất cứ giá nào hoặc trường hợp nào. Nhưng đó chỉ là câu chuyện, hình thức bên ngoài để giải quyết sự thiếu thốn nơi tâm tư do ảnh hưởng thực trạng không có con gái trong nhà.

Năm đệ nhị (lớp mười một), tôi trọ học tại nhà người chú ở Sàigòn cùng với một nàng họ xa đàng thím tôi. Tôi thích nàng, nhưng lại cũng chỉ thích đơn phương không dám tỏ nỗi lòng vì còn phải học. Bố mẹ gửi tôi đi học chứ không phải để o gái, thế mà tôi đã tiêu xài quá nhiều thời giờ vì con gái, vì nàng. Và tôi sinh tật thích làm thơ, thơ thơ thẩn, có khi đêm học muộn, giả đò chép lên bảng với hy vọng rằng nàng chưa ngủ ghé mắt nhìn chăng. Rõ khổ, ở chung một nhà, thích nàng nhưng lại ít có dịp nói chuyện nên ấm ức vì còn chú thím tôi. Lỡ có chuyện gì, tin đồn về đến tai bố mẹ, tôi sẽ bị mang tiếng trát tro, bôi trấu, bêu xấu cha mẹ. May mắn, gánh nặng được trút khỏi khi kinh tế gia đình kiệt quệ; tôi phải ngừng năm học về nhà đi làm rẫy.

Năm kế tiếp tôi đã có thể tiếp tục tới trường bởi nền kinh tế gia đình tương đối khá hơn, vả lại trường trung học gần nhà có mở chương trình đệ nhị cấp. Có cách nào để làm nữ sinh chú ý hơn ngoài sự học giỏi? Tôi con nhà nghèo, không đua đòi được nên đành phải học giỏi, dẫu không giỏi được thì cũng phải cố gắng cày cho giỏi. Khổ nỗi, nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò..., mang tiếng đi học nhưng chỉ thích những chuyện cúp cua, đàn đúm, nhất là ở lứa tuổi nhầng nhầng nên thích được con gái chú ý. Tuy nhiên, học có giỏi mới được sự để ý của con gái; học giỏi mà phá phách, các thầy và ban điều hành nhà trường vẫn cưng; học giỏi có quyền lên mặt với những đứa nào dám đụng đến mình; học giỏi để bù đắp lại những thua sút tụi con nhà giầu, may ra dùng cái tiếng đánh át được phần nào cái miếng và mong gỡ gạc sự chú ý của con gái. Hơn nữa, học giỏi bố mẹ được hãnh diện, làng xóm cũng khen, muốn xin gì cũng dễ và nhất là tỏ ra bõ công các thày giáo dạy tôi ngày xưa ở bậc tiểu học. Chính những lý do ấy đã là động lực thúc đẩy tên học trò không mấy thông minh nhưng thích con gái ra công ra sức vật lộn với bài vở.

Trong thời gian này, tôi thích một nàng bán nước đá, tôi nghĩ, nàng cũng ưng tôi... Chúng tôi thường gặp nhau nơi xe nước đá của nàng. Nhưng đau đớn thay, gần cuối niên học, sắp tới ngày thi, nàng bỏ tôi, bắt cặp với một người cùng làng học trên tôi một lớp, có tú tài một trong khi tôi vẫn còn là một anh học trò trơn vì những mấy tháng nữa mới tới kỳ thi. Tôi ôm hận, cố gắng tỏ ra như không có chuyện gì xảy đến. Mấy người bạn cùng lớp biết rõ nhưng vì thái độ tảng lờ của tôi, không ai nghĩ rằng tôi đang nức nở với trái tim rướm máu về cô hàng nước. Bởi ý thức được tính chất gái ham tài, cho dù tài được hiểu theo nghĩa nào chăng nữa, nên tôi không dám trách móc nàng hoặc muốn cạnh tranh với anh chàng kia bởi vì tôi biết sẽ bị thua. Tuy nhiên, từ khi biết nàng bỏ theo người khác, tôi không học được, ngồi ở bàn học nhưng tâm trí mãi đâu đâu. Trong lớp, ngồi chình ình ra đấy nhưng chỉ là một chiếc xác không hồn vì tôi nhớ nàng, nhớ những giây phút êm đềm kề cận cô hàng nước đá với niềm đau triền miên gặm nhấm. Con tim khốn khổ hành hạ tôi đủ thứ; nó lôi kéo ngũ quan, gợi sự liên tưởng của trí óc khiến cho bất cứ sự vật, hình ảnh thực tại nào cũng trở thành nguyên nhân gợi về nét thân thương luyến ái với người tình cũ đang chạy theo miếng mồi mới ngon hơn, hấp dẫn hơn. Chả gì thì anh chàng bồ mới của nàng cũng sắp sửa là sinh viên trường Luật, lại rủng rỉnh có tiền vì mới kiếm được chân dạy học tại một trường trung học đệ nhất cấp trong khi tôi "trống lổn" lẽo đẽo với bài vở cho kỳ thi tú tài I sắp tới. Chưa thi, nào ai đã biết chắc đậu hay đạp vỏ chuối... Một đàng là "giáo sư" dù cho có bị dùng sai danh từ, ít nhất có những một năm hoãn dịch vì lý do học vấn và lỡ ra sang năm không thể được hoãn dịch, cũng nắm chắc trong tay cặp bông mai vàng chóe, lương cao, sẵn có kinh nghiệm dạy học nên dễ xin biệt phái sang ngành nhà giáo. Còn tôi, lỡ rớt kỳ thi, chưa kịp coi điểm thì đã phải vội xếp hành trang nhập quân trường để rồi mang lon bằng miếng vải khiêm nhượng tối mò.

Ngày ngày đạp xe trên đoạn đường ba cây số tới trường dưới ánh nắng đổ lửa, cổ họng khát khô thèm miếng nước lạnh, gợi lòng tôi nhung nhớ người tình. Con đường nhựa vô tri muôn đời không thay đổi lại cũng nhắc nhở lòng tôi nhớ đến cô hàng nước. Những tà áo nữ sinh thướt tha nơi trường lớp càng thúc đẩy cảm quan tôi hướng về ngày cũ cận kề bên em, giờ đây ngăn cách cũng chỉ vì những mảnh giấy, mảnh giấy in văn bằng và mảnh giấy in thành tiền bảo đảm tương lai. Gái ham tài là thế, tôi tự nhủ. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng tôi đã phải chiến đấu hết sức với bản thân để cố quên, dùng tương lai, cái tương lai mịt mù đe dọa của sự thi trượt phải đi lính làm trung sĩ, đeo cái lon chữ vê úp ngược, xỏ xiên chụp lên vận mạng, giới hạn nét kiêu hùng đời trai. Tuy nhiên, niềm đau cứ thường xuyên ray rứt tâm hồn, nhắc nhở từng tiếng nói, từng âm vang giọng cười, từng cử điệu thân ái nàng đã dành cho tôi nay đang trao về người khác. Ôi đàn bà, ôi con gái!

Ngoài tính chất mê gái, tôi còn mê sách đồng thời quan niệm rằng cuốn sách, câu truyện, tự chúng không xấu, không tốt; xấu hay tốt tùy người đọc có chủ đích tìm kiếm gì trong nó. Bất cứ vấn đề gì nghe tới, tôi thường đặt câu hỏi tại sao và phải làm thế nào. Khỉ một điều, trong đầu tôi lúc nào cũng có sẵn một vài vấn đề, một số câu hỏi còn đang trong vòng thắc mắc muốn tìm hiểu. Tôi đọc sách trước hết vì thích thú, sau nữa, nhiều vấn đề thắc mắc được trả lời một cách không ngờ trong những cuốn truyện đôi khi cái tên chẳng liên quan gì đến câu trả lời tôi gặt hái được. Chẳng hạn những lý do gì đã làm người đàn ông sợ vợ; bà vợ cũng có thể là một yếu tố để người chồng nghiện thuốc phiện; hoặc vấn đề sinh lý của con người đã được giải quyết như thế nào, cách nào và từ bao giờ. Sách là một kho tàng đem lại niềm vui thích vô biên giới, nhưng nó cũng tạo cho tôi nhiều mơ mộng. Cũng nhờ sách, tôi tìm hiểu cơ cấu viết văn. Tôi tự hỏi tại sao các tác giả có thể viết dài, văn hay để rồi tìm ra cách kết cấu, dàn xếp tư tưởng và trình bày câu truyện của tác giả. Tôi thích đọc truyện nhưng văn phải hay vì văn chương bổ túc cho câu chuyện mặc dầu tư tưởng là phần chính yếu. Những tiểu thuyết mà văn không hay, tôi không muốn đọc trừ khi không có cuốn nào khác.

Từ đó, tôi suy nghĩ nhiều về cuộc sống trong tương lai. Tôi muốn biết những vấn đề chẳng hạn làm thế nào để trở thành một người chồng tốt khi lập gia đình; đặc tính cũng như cá tính của tôi ra sao; làm sao cho vợ coi mình như mục tiêu chính của nàng; những nguyên nhân thúc đẩy người đàn bà ngoại tình; thế nào là một người đàn bà vượng phu ích tử theo tướng học. Nhưng vấn đề ảnh hưởng tôi nhiều nhất là giá trị cuộc sống, và đâu là giá trị cuộc sống của tôi?

Một lần đứng nói chuyện với mấy người quen nơi một đám cưới, ngay phía trước tôi, một ông cỡ chừng bốn mươi lăm đến năm chục tuổi đang nói chuyện với vài người khác. Ông thấp hơn tôi; tôi đã lùn mà ông lại lùn và thân hình nhỏ hơn. Tôi chỉ nhận ra ông già hơn vì mái tóc hoa râm, vì nước da cháy nắng bởi làm việc cực nhọc ngoài trời. Tôi nghĩ, với một thân xác nhỏ bé như thế, tuổi đời chồng chất theo năm tháng làm ăn cực nhọc để nuôi dưỡng bầy con sáu đứa, cuộc sống còn gì khi xuôi tay nhắm mắt. Phải chăng con người được sinh ra, lớn lên, lập gia đình, rồi có một đàn con, vất vả cực khổ nuôi nấng chúng, rồi tiếp theo, đàn con cũng thế, cũng lấy vợ, lấy chồng... rồi chết đi... và rồi còn gì? Giá trị của cuộc sống ở đâu và nếu cũng một nhịp điệu như thế với cuộc đời tôi, phỏng tôi có dễ dàng chấp nhận không?

Nếu đem so sánh cuộc đời một con người trong phạm vi sinh tồn, bảo toàn giống nòi với một con thú, con thú sung sướng hơn con người. Chúng không phải lo lắng cho ngày mai như con người, và nếu chỉ xét riêng về sự sống thì con người cũng chỉ được sinh ra, kiếm của ăn cho qua ngày, già rồi chết như con thú. Phải còn gì nữa, giá trị của cuộc sống con người khác và hơn con thú ở những điểm nào? Chẳng lẽ cuộc đời một con người chỉ là lo sao cho có miếng ăn để sống, nghĩa là đi làm, ăn, ngủ, rồi lại đi làm, ăn ngủ tiếp tục một cách buồn tẻ và chờ ngày chết?

Phải còn một cái gì nữa, cái gì mà tôi không biết đặt tên cho nó ra sao. Tôi chỉ nghĩ và tin rằng giá trị cuộc sống của con người chắc chắn phải hơn con thú, nhưng sao thấy nó bình thường quá, buồn tẻ quá. Tôi khinh thường cuộc đời lặp đi lặp lại như lời hát nào đó: "một ngày như mọi ngày" không chi thay đổi. Tôi muốn mình phải là cái gì, một cái gì trong mơ hồ, trong mộng ước mà chưa biết là gì. Tôi không định nghĩa hoặc xác định được vì tôi chưa biết nó, chỉ biết rằng tôi không muốn có cuộc sống bình thường như những người chung quanh.

Giá trị của cuộc sống lứa đôi cũng nhiều khi làm tôi khinh tởm trong trường hợp chén bát đụng nhau. Hai vợ chồng, mới hồi chiều thượng cẳng chân, hạ cẳng tay để tận lực đấm đá nhau, dùng những lời nói thô bỉ hạ nhục nhau tới mức độ đê hèn nhất, buổi tối lại đã cùng nhau chăn gối; hai con thú, tôi nghĩ thế, để rồi tự hỏi tôi có thể chấp nhận được như vậy không? Tôi nghĩ về nhiều giả thuyết, rằng thế nọ, rằng thế kia cho những cặp trai gái trước khi cưới nhau nên xác định rõ ràng danh phận, điều kiện, và giới hạn cho cuộc sống chung. Nhưng thực tế trả lời cho thấy vấn đề sống chung của vợ chồng không phải đơn giản và máy móc như thế đến nỗi tôi không thể chấp nhận được những giả thuyết của tôi. Câu kết luận chỉ còn là thương nhau lắm nên cắn nhau đau?

Nhưng tôi vẫn thích con gái, con gái vẫn là mãnh lực thu hút tôi nhào tới; nhào tới như con thiêu thân cho chết điếng cõi lòng, tan bao mơ mộng, và đôi khi cuộc đời tôi gần như bị sụp đổ hoàn toàn bởi nét yêu kiều, dễ thương, hấp dẫn, khuyến khích và có tính chất mời mọc của thứ người giống cái. Các cụ thường bảo, lửa thử vàng, vàng thử đàn bà, đàn bà thử đàn ông. Nhờ câu này, tôi biết rõ mình thế nào; con tim tôi mềm như chì. Con gái được sinh ra hình như để chia nhau phá nát con tim tôi từng giai đoạn, hết đứa nọ rồi đến đứa kia. Tôi yêu lung tung, khi thì đơn phương một chiều, chưa kịp ngỏ lời đã thấy nàng cặp kè thân mật với chàng trai khác; lúc mới được dăm ba lần hẹn hò xây viễn ảnh, nàng đã cho tôi leo cây, đá cái vù không chút xót thương. Cứ mỗi lần như thế, con tim tôi lại quặn thắt, rên rỉ với nỗi lòng tan nát.

Một điều tôi nhận rõ nơi lòng mình là dù yêu thì yêu, thương thì thương, không bao giờ tôi có ý nghĩ để quyết định lập gia đình với bất cứ một nàng nào dẫu lắm nàng tôi yêu điên đảo. Ngày nào không gặp thì nhớ, mới một ngày không nhìn thấy mặt, trắng đêm tôi không thể ngủ, rồi cắm cúi viết thư, hết trang nọ đến trang kia. Đôi khi tôi viết nhưng không gửi, không gửi để hưởng cái thú nhớ nhung và ray rứt vì xa cách. Tôi đắm chìm trong bể tương tư, nhung nhớ ngày này qua ngày khác, và phục Xuân Diệu qua câu thơ "Yêu là chết trong lòng đi một ít." Từ đó tự hỏi, tôi yêu để mà yêu hay để thỏa mãn đặc tính muốn yêu và muốn được yêu bình thường của con người, hay chỉ vì muốn chiều theo bản chất mơ mộng trong mình? Tại sao tôi e ngại khi nói đến lập gia đình, sống chung thân với một nàng con gái sẽ trở thành người vợ? Nhiều câu hỏi được đặt ra nhưng chỉ mường tưởng rằng có câu trả lời chứ thực tình tôi không dám đối diện với những câu trả lời bởi câu trả lời nào cũng nói lên cái xấu của tôi. Nói lên cái xấu của mình, tôi chạy trốn dù chỉ trong tư tưởng.

Nhưng cũng bởi vì yêu miên man, tôi tập làm thơ, học văn để viết thư cho mùi, cho mặn nồng tình ái, cho thỏa mãn sự giải bày khát vọng muốn yêu. Đọc được câu văn nào hay, ghi vô tập vở, biết được tiếng nào bóng bẩy, tôi chép để tập dần. Vài ngày tôi đọc lại những nốt ghi một lần rồi dùng nó trong những bài thơ, những lá thư tràng giang... Xin cảm ơn những nàng con gái đã giúp tôi thêm vốn liếng văn chương, đã khiến tôi làm những bài thơ Đường đúng vần luật, và làm cho tôi đôi khi trở thành cái máy làm thơ. Nhưng làm thơ không gửi, thích làm thơ nhưng cũng biết thơ chẳng hay nên giữ lại rồi quên hết và cũng mất hết theo những khúc tình đã bay.

Một vài người bảo tôi chỉ được cái miệng. Tự nhiên được cái miệng chăng đã khá; họ đâu có biết tôi đã bao phen nhục nhã vì yêu thương, tiêu phí bao thời giờ bởi thơ với thẩn và tốn bao công lao ghi chép để viết thư. Viết thư, lúc được hồi âm còn đỡ, chẳng biết bao lần thư có đi mà không tin lại; dẫu tin không lại tôi vẫn viết thư đi, vẫn chết mệt vì những mối tình vớ vẩn, không xơ múi nhưng ngơ ngẩn cả con tim. Cái miệng tôi đánh đổi bằng những chặng thập hình của cả thể xác lẫn tâm can, thiêu hủy, làm hao mòn con tim theo ngày tháng. Mặc dầu tuổi chưa kịp lớn, con tim đã bị hao mòn, bị bóp mềm bởi những cái yêu tan nhanh như mây gặp gió.

Năm học lớp đệ nhất (lớp mười hai), tôi thấy thương hại cho những nàng con gái trời bắt tội kém nhan sắc. Thế rồi tôi muốn yêu tất cả những nàng con gái này. Yêu tất cả thì lại chẳng yêu ai, chỉ cảm thấy thương hại mỗi khi tôi gặp những nàng không được đẹp. Điều thật tương phản là những nàng con gái Trời chỉ ban cho nhan sắc tầm thường ấy được chia làm hai loại đối nghịch rõ ràng, chanh chua và dịu hiền. Thì chanh nào mà chẳng chua! Nhưng đúng thật, họ đã chanh chua thì chớ có xớ rớ vô kẻo mang hận. Còn những nàng dịu hiền chẳng nói ai cũng hiểu, cũng dễ cảm thông được với họ. Nhưng tôi vẫn không thể yêu riêng được một trong hai, chanh chua hoặc dịu hiền, của giới nhan sắc trời bắt tội này. Tôi lại cứ yêu chung chung. Cái yêu chung chung ấy mới thật sự hợp với câu "lắm mối, tối nằm không."

Tuy nhiên, tình yêu chung chung đó đến với tôi đâu phải đã hết, đâu phải đã giải thoát cho tôi nỗi khắc khoải muốn được yêu; tôi lại bị "khớp con ngựa ô" thêm một lần nữa. Lần yêu này thật trối già và cũng là lần mà con tim tôi được hưởng thực sự thú đau thương. Tôi không nhớ rõ nhà văn Việt Nam nào đã dùng danh từ này đầu tiên nhưng thấy nó rất đúng với cái thú bởi sự yêu của tôi nên chỉ nhớ mà không cần biết hoặc quên cả tên tác giả để cứ tưởng rằng của mình. Cũng chẳng lạ gì, khi hai tâm hồn đồng cảnh ngộ gặp nhau thì họ tưởng đã quen nhau từ kiếp xa xôi nào đó và nghĩ rằng có duyên hạnh ngộ. Mà thực sự, chỉ có ba chữ "thú đau thương" mới có thể diễn tả đúng đắn tình yêu là gì mặc dầu tôi chưa thấy ai định nghĩa tình yêu của họ là thú đau thương.

Lần đó tôi về Sàigòn ghi danh năm thứ hai Văn Khoa, chỉ vì Văn Khoa và Luật Khoa mới chấp nhận ghi học theo chương trình hàm thụ mà thôi. Vào những ngày nộp đơn đại học, tôi phải về Sàigòn để chen chúc nơi một hành lang nhỏ bé đông nghẹt những sinh viên trong cái nóng bức của thời tiết khiến mồ hôi một người có thể chuyền qua lớp áo người kế bên cũng đang cố gắng chen vô nơi cánh cửa sổ nộp đơn. Ai đã qua một lần nộp đơn nơi các đại học công tại Sàigòn sẽ không bao giờ có thể quên được cảnh lớp người chuẩn trí thức dành nhau ấy, không khác gì đi xe buýt sau ngày giải phóng nơi thành phố mới bị đổi tên từ năm 1975. Trong ngày thứ nhất, tôi đã bon chen làm xong hầu hết mọi thủ tục giấy tờ gồm có: xin đơn, đóng lệ phí, ghi danh, xin phiếu khám sức khỏe, lập thẻ sinh viên, chỉ còn ký một thẻ cuối cùng về lý lịch, khám sức khỏe và ghi số hồ sơ lưu trữ nữa là hoàn tất.

Quãng tám giờ, trời đã tối đậm nơi thành phố Hòn Ngọc Viễn Đông; tôi đứng nơi đầu con ngõ lối vào chợ Phú Nhuận, trên đoạn đầu đường Cách Mạng 1 - 11 gần cầu Công Lý nồng nặc mùi thành phố hoa lệ này đón một chiếc xe ôm (xe Honda nhận chở người trong thành phố) về khu Ông Tạ để ngủ nhờ nơi nhà một người bạn dạy cùng trường. Giàn đèn hai bên đường, nơi các cửa hiệu dọc theo đã được bật lên soi sáng cho khách bộ hành và các loại xe qua lại. Tôi đưa tay vẫy theo thói quen khi nhìn thấy đèn của một chiếc Honda, chẳng cần biết có phải xe ôm hay không. Cũng là một sự không ngờ, chiếc xe dừng lại và chủ xe nhận chở thuê. Sau khi định đoạt giá cả, tôi leo lên phía sau và bắt đầu gợi chuyện cùng bác tài cho qua thời giờ chờ xuống vùng Bắc Hải, khu gần Ông Tạ, nơi nhà một người bạn.

Đường từ chợ Phú Nhuận, dọc theo đại lộ Cách Mạng một đoạn ngắn rồi rẽ sang một đường nhỏ nào đó để vượt qua Thoại Ngọc Hầu tới Phạm Hồng Thái và đi ngược về phía Ngã Sáu là lối ngắn nhất; bác tài xe ôm không đi vì nguy hiểm bởi phải qua hãng xe Lambro, khu hay có cướp giựt xe Honda và thường thì những kẻ xấu số bị đánh thập tử nhất sinh.Ông chở tôi dọc theo đường Cách Mạng tới Lăng Cha Cả và ngược Phạm Hồng Thái đi lên. Đại lộ Cách Mạng vào buổi tối thưa xe, đường rộng và phẳng nên cũng đem lại cho tôi chút thoải mái khi nghĩ tới sự khó khăn bởi chen lấn lúc nộp đơn đại học trong ngày.

-Bác làm nghề này có khá không? Không biết tên ông là gì, mà tôi cũng chẳng cần biết tên; tôi chỉ muốn nói chuyện cho qua thì giờ nên dùng tiếng bác.

-Tôi đâu có làm nghề xe ôm. Dạo này thất nghiệp, mỗi tháng tôi chỉ chạy vài cuốc đủ tiền mua bánh thuốc lào sáu trăm. Vì tiện có cái xe nên tôi chạy, hơn nữa, bánh thuốc lào lại gần hết, tôi vừa mang xe ra chạy một cuốc từ chợ Phú Nhuận đến đầu đường Công Lý, đang định về nhà thì gặp anh chứ chạy xe ôm có phải là nghề của tôi đâu nên nào biết... Chả nói giấu gì, bà xã tôi đi làm cũng đủ ăn, nên tôi không cần phải chạy xe... Ngày hôm nay đưa con cháu đi nộp đơn đại học Luật Khoa chen lấn mệt quá, mai lại phải tới nữa để nộp đơn ở Văn Khoa cho nó. Tôi đang định kiếm việc cho nó đi làm vì học hành với con gái cũng chẳng ăn thua gì. Bác tài có vẻ đang cần người nói chuyện nên gặp tôi, xổ một hơi cho đã thèm.

-Gia đình bác được mấy anh mấy chị mà đã phải lo kiếm việc cho cô ta trong khi còn đang đi học?

-Tôi được có mỗi đứa con gái, vừa đậu xong tú tài hai, đâu còn đứa nào khác.

Vừa nghe câu trả lời, tôi đã thấy nao nao trong dạ nhưng không biết cách nào để kiếm cớ làm quen con ông. Kéo dài thời giờ suy nghĩ, tôi chêm vào câu nói cầm chừng, vô thưởng, vô phạt:

-Nhà con một mà phải lo kiếm việc cho đi làm trong khi hai ông bà còn có thể xoay chạy được.

-Nhưng nộp đơn cực quá, hơn nữa, con gái học hành rồi cũng chẳng ra cái gì.

Ông đã nói thế thì còn lý do gì mà xớ rớ vuốt đuôi nên tôi đành đổi đề tài nối tiếp với những vấn đề liên quan đến trời mưa, trời nắng, cuộc sống hằng ngày thêm chút chính trị, và phê bình lang thang về văn hóa xã hội cùng với lối giáo dục hiện đại theo đường lối văn hóa của chính phủ trong sự so sánh giá trị liên hệ giữa thày trò nơi học đường. Ngay khi biết tôi đang dạy học, ông kêu tôi bằng thày giáo.

-Thày bà với giáo mác gì, bác đừng gọi thế, hãy coi tôi là khách đi xe và may mắn có dịp được nói chuyện với bác.

Nghĩ cũng cay cho cái miệng kém cỏi, suốt lộ trình mà tôi không cách nào gợi chuyện về cô con gái của bác tài. Hừm! Tôi nghĩ, dốt đành ráng chịu, nhưng vẫn cảm thấy tiếc nuối vì đã lỡ cơ hội.

Tới đầu đường Bắc Hải bên cạnh nghĩa trang, tôi rời xe vì muốn đi bộ một quãng trước khi tới nhà người bạn cho đỡ chồn chân. Bác tài lên tiếng mời tôi nếu có giờ rảnh ghé qua nhà ông nói chuyện... Ông cho địa chỉ và nói cách hỏi thăm vì nhà hơi khó kiếm. Lòng mừng khấp khởi bởi cảm thấy may mắn có cơ hội làm quen với con ông, tôi vội nhận lời và hứa sẽ tới khi nào nộp đơn đại học xong. Chắc chắn tôi sẽ tới, phải tới; lúc ấy giả sử bác tài chỉ có ý "chào giơi" để rồi nhận ra lòng tà "tham bô" của tôi mà kiếm lời thoái thác thì có lẽ tôi đã phải mồm năm miệng mười viện đủ mọi lý lẽ dễ thương dồn ông vào thế bí biến sự vô tình thành lời mời ngay thật.

Ngày hôm sau tôi phải tới khu y khoa khám sức khỏe và thử máu bổ túc hồ sơ; gần trưa thì đã hoàn tất những công việc gồm có: xin phiếu, nhận số thứ tự, gặp bác sĩ khám tổng quát, chụp hình phổi, lấy máu, lập hồ sơ và làm thẻ sinh viên. Ngay sau đó, tôi mượn xe một người bạn ghé qua địa chỉ bác tài xe ôm tối qua. Sỡ dĩ tôi sốt sắng làm chuyện này chỉ vì ông có cô con gái mới xong trung học, lại con một. Cứ nghĩ đến ông ta có con gái là tôi hăng say dù phải tốn tiền đổ đầy bình xăng của chiếc Honda trước khi trả lại cho chủ. Tôi chẳng hiểu tại sao mình có cái tật hào hoa tính này vì thực ra tôi rất keo kiệt. Tiền bạc đâu ra mà chẳng keo... Có lẽ bởi nghĩ rằng người có xe tin tưởng mà cho mình mượn, họ quí mình như thế nên, dù sao chăng nữa, không thể tiếc với họ bình xăng mặc dầu nhiều khi tôi chỉ dùng chút xíu. Đây cũng là mánh lới lấy cảm tình để lần sau họ dễ dàng cho mượn xe khi tôi hỏi. Cho dẫu tiếc xót thế nào, tôi vẫn nghĩ rằng những người dám cho mượn xe đã rất tốt đối với mình. Tốt vì dám cho tôi mượn xe, và tốt vì tôi chẳng dại gì phí tiền đổ xăng mà không đem lại ích lợi chi khi phải nhịn đàng này, xén đàng kia cho giá trị bình xăng tương đương với cả ngày dạy học. Nhưng lần này, cái keo kiệt của tôi trở thành sự hài lòng rộng rãi, vui vẻ chấp nhận bỏ tiền đổ xăng để được làm quen với gia đình có cô con gái độc nhất, dù chẳng biết cô nàng đẹp, xấu thế nào. Cứ làm quen được là đã thích. Thích chứ, thanh niên mà làm quen được với thiếu nữ ai mà không sướng rên... nhất là thứ không đẹp trai, không chai mặt, lại mê con gái như thân phận của tôi.

Nhưng bình xăng đã đem lại giá trị rẻ hơn nước lã khi tôi tới địa chỉ được bác tài xe ôm đưa cho tối qua. Kín cổng, cao tường, cửa nhà đóng im ỉm và hàng xóm cho tôi biết mọi người đi vắng hết, muốn gặp phải tới buổi tối. Thôi thì biết sao hơn, lại thêm một bình xăng nữa vì phải mượn xe của người khác. Mượn xe của một người hai lần trong ngày, có thể họ nghĩ mình lạm dụng, điều mà tôi cố tránh có thể bắt nguồn từ bản chất hay có tự ái rởm trong liên hệ giao tiếp với bạn bè hoặc những người quen biết. Chẳng thà chấp nhận thua lỗ còn hơn bị coi khinh vì họ nghĩ mình lạm dụng... Thế nên, dầu không có xe đành phải mượn nhưng tôi muốn chứng tỏ cho chủ xe biết rằng tôi chỉ mượn xe trong những lúc cần kíp... Tiếc tiền đổ xăng mà lòng vẫn hồ hởi chấp nhận bởi sự thích con gái vẫn bừng bừng trong tôi và cái ham muốn được làm quen với cô nàng con một khuyến khích tôi nên hào hoa thêm lần nữa mặc dầu chưa biết mặt mũi nàng ra sao, dễ thương, yêu kiều hay chanh chua thế nào. Tôi chỉ nghĩ mình nên và phải tới thăm bác tài như một cớ làm quen với con ông ta; con ông là con gái; con gái là tôi ham, dù thế nào chăng nữa!

Nhìn chiếc cổng làm bằng lưới đan vuông, tôi thấy sao nó yêu kiều thế; căn nhà xinh xinh với viền xanh nhạt của khung cửa bao bọc hai cánh banô màu trắng, tường vôi cũng trắng và được kẻ thêm vài hàng chỉ đậm màu nâu mặc dầu ở đầu một dãy nhà lô, bên cạnh một con hẽm vừa đủ một người đi lọt... Dứt khoát tôi phải tới, phải biết chụp cơ hội vì ngoài cơ hội này sẽ không còn cơ hội nào khác để biết nàng. Không biết chụp thời cơ, lúc hối tiếc thì đã muộn bởi "phúc bất trùng lai"... Rở tập hồ sơ lấy miếng giấy, tôi ghi đại khái tới thăm mà không gặp và hẹn bẩy giờ tối sẽ trở lại.

Chẳng biết phúc hay họa mà cả buổi chiều hôm đó tôi không thể nào ngồi đứng cho yên. Con tim hồi hộp, bứt rứt thúc dục tôi tới nhà bác tài ngồi lỳ trước cửa đợi chờ. Lục lọi, hỏi đủ mọi người nơi một nội trú để mượn lấy bất cứ cuốn tiểu thuyết kiếm hiệp nào đó đọc cho quên nỗi xốn xang của sự đợi chờ thời gian qua mau tới giờ hẹn, tôi nghĩ sao mình quá ngu hẹn bẩy giờ tối, đáng lẽ phải lúc năm hoặc bốn hay ba giờ chiều có phải sung sướng hơn không. Truyện kiếm hiệp dễ thu hút nên tôi có thể đọc nó quên ăn, quên ngủ; khi đang đọc, dù cho có ai đó tới gần mạt sát, tôi cũng không biết đến; thế mà buổi chiều ấy nó cũng chẳng làm sao hấp dẫn nổi tôi. Rồi bữa cơm tối của nội trú lúc năm giờ chiều tôi nuốt không vô, không vô vì đang ao ước được nuốt cái hình ảnh mường tượng chỉ mới được nghe bằng hai chữ con gái dẫu chưa biết ngay cả vóc dáng hoặc tên tuổi của nàng. Mới chỉ có thế mà đã mệt bởi con tim mềm yếu với không biết bao nhiêu dằn vặt của những loại tình cảm ham hố ngu dại này. Chẳng xơ múi gì mà cứ ham, cứ bị đày đọa, lại thích bị đày đọa... Tôi đày đọa con tim mình, cái tôi ngốc nghếch của một thằng khờ, khờ vì con gái!

Bẩy giờ, hình như sớm hơn mấy phút, chỉ biết rằng tôi đã tỏ ra rất đúng hẹn. Dựng xong chiếc Honda mượn của một người khác trước hàng rào thép lưới vuông cao ngang thắt lưng, tôi đã như quen thuộc bước vào nhà sau khi tự mở cổng và xuyên qua hai cánh cửa khép hờ. Cái ham hố thúc đẩy lòng tôi háo hức quên cả lịch sự gõ cửa nhưng may mắn không ai trách móc. Bên trong, ánh sáng bởi ngọn đèn tròn được che bớt trên trần tỏa xuống làm cho căn phòng có vẻ hơi mờ ảo đối với cặp mắt đang quen nhìn dưới ánh đèn đường, lớp tường vôi trắng đứng chắn ngang phòng khách với phòng bên trong chừa một khung cửa treo hàng sáo nilon giáp tường bên phải, và một chiếc cửa sổ hình bán nguyệt trên vách ngăn được khoét ở giữa phần còn lại ngay phía trên chiếc tủ buffet khung sườn bằng gỗ cẩm màu nâu pha lẫn phần rác gỗ vàng ngà. Trên tủ, một vài cuốn sách xếp ngăn nắp bên mé phải làm nổi bật phần trắng tường vôi còn lại với chiếc đồng hồ quả lắc treo lơ lửng nơi tường góc trái.

Một bộ salon cũng bằng cẩm đặt xung quanh chiếc bàn nhỏ mặt kiếng, trên đó bình điếu thuốc lào với chiếc cần hút bằng nilon đen được đúc thành hình thanh trúc vươn cao. Chiếc băng dài xếp dọc theo tường phía tay trái sát góc vách ngăn hòa hợp bởi màu nâu sườn cẩm với màu đỏ của nệm và lưng dựa, nơi đó người thiếu nữ đang ngồi đưa mắt nhìn tôi lộ vẻ lạ lùng vì sự xuất hiện đột ngột không cần ý kiến cho phép của chủ nhà. Nối tiếp với băng dài đầu này, chiếc quạt điện quay vù vù trên một chiếc ghế đẩu nhỏ thổi gió chia đều cho người thiếu nữ và thiếu phụ (mẹ nàng) đang ngồi trên chiếc divan màu nâu nhạt kê sát ghế để quạt và choán hết phần lồi ra bên cánh trái của căn nhà xây gấp thước thợ nên dành lại phần hè nhỏ xíu chỉ rộng gấp rưỡi khung cửa ra vào. Thiếu phụ cũng đang chăm chăm nhìn tôi chừng như để ý xem có chuyện gì khác lạ.

Như người đã quá quen thuộc, tôi lên tiếng nói "chào bác" và thêm rằng trưa nay tôi tới nhưng không có ai ở nhà, đoạn hỏi về bác trai rồi tiến tới ghế salon một cách tự nhiên như nơi nhà của mình trong khi thiếu nữ đứng dậy đi xuyên qua khung cửa của vách ngăn bật đèn cho căn phòng thêm sáng cùng lúc thiếu phụ nói nàng rót nước tiếp anh chàng khách lạ lùng không thèm gõ cửa dường như có tính cách bắt buộc chủ nhà phải tiếp dù muốn hay không này. Bà vừa ngỡ ngàng trả lời rằng ông ấy mới đi có chút chuyện và có thể về ngay bây giờ thì bác tài xe ôm cũng đã dựng chiếc xe đạp trước cổng để mở cửa dắt vô.

Ông than thở tự nhiên cũng như tôi về ngày hôm ấy ông đưa con đi nộp đơn ở Văn Khoa quá mệt mà chỉ mới xin được đơn nhập học và không ngờ nộp đơn đại học lại khó như thế. Tôi chưa kịp nói gì thì đồng thời những tiếng nổ rầm rộ của hai chiến Honda dừng lại trước cửa, bốn người bạn cùng dạy một trường với tôi cũng về Sàigòn ghi danh đại học đang xuống xe và mở cổng bước vào trong lúc tôi ngỡ ngàng hơn cả chủ nhà vì thắc mắc tại sao tụi này lại biết tôi ở đây mà mò tới. Tôi chợt tự hỏi họ có chuyện gì hay đã quen trước hoặc cũng có hẹn, mối của họ được đặt sẵn trước tôi? Dầu thế, tôi cố tỏ ra vui vẻ hỏi họ tại sao cũng tới đây.

-Tụi tao đang lang thang dạo phố bởi chẳng biết đi đâu, chợt thấy mày cắm đầu cắm cổ chạy vượt qua. Tụi tao hò la phía sau nhưng mày không quay lại nên cố gắng chạy theo. Khổ nỗi, xe tụi tao chở đôi, mày chạy lại quá lẹ nên khi thấy mày quẹo vô ngõ từ đàng xa, đành nhào đại vô may ra gặp kiếm chỗ giết thời giờ vì chẳng có gì tiêu khiển. Chạy vòng vòng gần hết những ngõ ngách thì gặp chiếc Honda đậu ở đây; tụi tao nhào đại vô.

Câu trả lời làm tôi bật ngửa bởi không ngờ sự vô ý đã đem đến hậu quả tại hại; lỡ ra mèo cậy chó xơi thì uổng biết bao công phu, hao tổn đã hai bình xăng mà vẫn chưa bắt đầu dẫu chỉ là câu chuyện trời mưa trời nắng. Bốn tên bạn dạy học, đứa nào cũng ngon con, cao cơ hơn tôi. Thằng thì kè kè cặp kiếng ra dáng chăm chuyên học hành, vì đọc sách nhiều nên cận, lại cao ráo, rõ bộ con dân mô phạm; đâu ai biết nó cố tình đeo hai mảnh đít chai cho có vẻ đầy mình trí thức. Đứa thì trắng trẻo đẹp trai, quần áo bảnh bao, cái đầu chải tém và miệng ăn nói lại có duyên; nó con nhà giầu, quen lớn nên phong cách tự nhiên, hào phóng, coi tiền của như giấy lộn; tôi ngại nhất tên này. Hai thằng khác, đứa nào đứa nấy cũng nghiêm chỉnh đạo mạo gấp mấy tôi. Thế nên, mặc dầu tụi nó vô tình kiếm chỗ tìm vui nhưng đã trở thành mối đe dọa nặng nề cho cái dã tâm của mình. Dẫu thế, tôi vẫn cố bám víu vào niềm hy vọng mỏng manh vì quen với bác tài trước cộng thêm sự tự nhủ âu cũng là cơ hội thử thời vận bởi cớ sự đã xảy ra thế này thì dù có ước muốn thế nào cũng đành chờ vận số.

Chẳng hiểu vì thói quen quá tự nhiên một cách chân thành hay vì nàng con gái, mà chúng tôi, năm người, sau khi các bạn tôi chào hỏi chủ nhà và phân ngôi vị quanh chiếc bàn nhỏ, tới tấp hỏi han ông một cách thân mật về vấn đề nộp đơn tại Đại Học Văn Khoa của con gái ông. Một người bạn nói rằng quen với anh chàng đại diện Văn Khoa (không biết thật hay nổ) nhận sẽ làm hướng đạo viên hy vọng lợi dụng sự quen biết để "giúp đỡ" cô nàng nộp đơn cùng làm thủ tục ghi danh đại học ngày hôm sau. Nhân tiện trong túi có được một số thứ tự thặng dư của phiếu lãnh thẻ làm lý lịch sinh viên giữ phòng hờ, theo thói quen vẫn thường cẩn thận cầu may có dịp..., tôi đem tặng nàng làm món quà tiên khởi cho sự quen biết, nhưng cũng xót dạ vì ngày mai tôi phải đi làm phiếu lý lịch sinh viên, chặng chót của hành trình nộp đơn đại học trong khi bạn tôi có cơ hội dung dăng dung dẻ dễ gây cảm tình... Lỡ rồi, nhưng tôi vẫn tiếc!

Người ta quan niệm "Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ," chẳng biết thật sự có phải thế không mà hình như Trời cũng cố tình nhúng bàn tay vào bằng cách xếp đặt cho tôi trở thành kẻ hữu duyên trong vấn đề dẫn cô nàng nộp đơn Văn Khoa qua các hành trình lẩm cẩm nhưng khó khăn gồm có nộp đơn, chờ gọi tên lấy phiếu ghi danh, đóng lệ phí, làm thẻ sinh viên, và làm phiếu lý lịch như cố dành cho tôi cơ hội hưởng đau thương lần nữa.

Vừa làm phiếu lý lịch sinh viên xong, tôi lang thang tiến về câu lạc bộ để kiếm chút gì uống bù lại số mồ hôi đã đổ ra vì chen lấn và cũng để thỏa mãn cái cổ họng khát khô. Khi vừa ngang qua dãy nhà chính, hai lầu của Đại Học Văn Khoa, tiếng gọi làm tôi giật mình kèm thêm cảm giác thật ngỡ ngàng.

-Anh M. ơi!

Tôi quay lại xem ai thì ra bác tài xe ôm.

-Anh gì đâu mà tôi đợi từ bẩy giờ rưỡi sáng tới giờ nơi chờ hẹn chẳng thấy?

-Thế bác cứ đợi và không làm gì à?

-Đã hẹn nên tôi phải đợi chứ bỏ đi sao được.

Lúc ấy vào khoảng hơn mười giờ, gần ba tiếng đứng đợi, cũng siêu thật, tôi nghĩ.

-Cô gì đâu? Suốt cả buổi tối nói chuyện mà tôi vẫn chưa biết tên...

-Nó đang nộp đơn trong kia. Ông chỉ tay về phía dãy nhà nơi đó các sinh viên đang xếp hàng đôi để đóng tiền đại học đoạn cùng với tôi tiến về cửa sổ nộp đơn phía cuối hành lang bên trong.

-Lan ơi! Ông gọi lớn tiếng.

Không ai trả lời. Tôi nói "Bác đừng gọi to tiếng, quê chết," nhưng ông không để ý, cứ dáo dác đưa mắt kiếm con gái và gọi thêm lần nữa. Vẫn không ai trả lời nên chúng tôi vòng lại phía cửa nơi hành lang đóng lệ phí. Trước khi bước qua cửa, ông vớt vát gọi lớn tên con. Một cô gái đang xếp hàng gần tới phiên đóng tiền, vội bỏ hàng đi ra gặp ông miệng thưa tiếng dạ. Nhân dịp này tôi có cơ hội nhìn kỹ vóc dáng cô nàng để bù vào sự cố tình giả đò tảng lờ như không chú ý của mình tối hôm trước và cũng để thỏa mãn cái khao khát bùng cháy trong tôi suốt buổi chiều qua cộng với cả một đêm mơ màng tưởng nhớ lẫn tiếc xót vì không có cơ hội dẫn nàng lang thang nộp đơn. Nàng có đôi mắt mơ mộng, hai hàng mi cong cong chạy dài khiến kẻ nhìn có cảm tưởng nàng còn ngây thơ, mông lung; chết tôi rồi, lòng thầm nghĩ! Nàng nhìn tôi coi chừng như xem kỹ lại để đánh giá anh chàng khách lỳ lợm tối qua cho rõ mặt mày như thế nào. Đôi mắt tôi dán vào gương mặt nàng quên cả để ý đến ông bố đứng bên cạnh. Cặp mắt giai nhân chớp chớp trong khi đầu hơi cúi xuống... lòng tôi rộn ràng...

Tiếc rẻ công lao đứng đợi nộp tiền đến khi gần tới phiên lại mất phần bởi bước ra đâu ai cho trở lại hàng nơi chen lấn từng phân đất dần tới cửa sổ nộp tiền, mà đứng xếp hàng lại từ đàng cuối thì biết khi nao mới có thể làm xong thủ tục, hơn nữa, chốn dành nhau từng chút thời giờ lại kèm thêm sự khó khăn, đòi hỏi và hoạch họe từng chi tiết của các cô nàng sinh viên cũ, nhân viên trong ban đại diện cái đại học đầy dẫy những nữ sinh viên thơ mộng này, không đẹp trai, chẳng chai mặt lỳ lợm, bon chen, chỉ tổn công đứng đợi, tôi vội lên tiếng:

-Sao lại chạy ra khỏi hàng, đứng đó thưa cũng được, chứ giờ lại phải xếp hàng chót thì hết ngày cũng chưa đóng được tiền!

-Tại bố em gọi, em đâu biết!

Ôi giọng nói, dường như nó kéo tôi lại gần nàng hơn để rồi tính chất hào hùng rởm bùng dậy mãnh liệt trong lòng, hào hùng để làm liều vì cô tân sinh viên khiến con tim mềm yếu đến độ ngu đần bị khớp.

-Thế cô đã làm xong được những gì rồi?

-Dạ, em mới có mẫu đơn xin hôm qua và còn đang chờ đóng tiền từ sáng tới giờ.

Ý nghĩ liều chợt đến với tôi. Cứ điệu này, chờ tới tối cũng không đóng được tiền. Không có phiếu đóng tiền, không thể nộp đơn, rồi còn thẻ sinh viên, phiếu lý lịch v.v... bao giờ mới xong. Tôi cầm đơn của nàng và phiếu đóng tiền định chen qua hai dãy sinh viên xếp hàng thật khít khao đang chờ tới lượt nhưng không ai chịu nhường chỗ. Hơn nữa, đa số là nữ sinh viên, nhường một kẽ hở cho tôi bước vô, lỡ tôi đứng lỳ đó thì sao! Năn nỉ, đoan hứa nếu đứng lỳ tại hàng, họ cứ việc đẩy tôi ra, và cuối cùng họ đồng ý chừa kẽ hở vừa đủ cho tôi chen qua bên kia hai hàng người để rồi dọc theo khoảng trống giữa bức tường và hàng người phía trong, tôi tiến tới bàn thâu ngân. Đã có động lực thúc đẩy liều mạng, tôi nói hơi lớn tiếng với chị thâu ngân nhưng cốt ý cho mọi người gần đó đang đứng xếp hàng nghe thấy mà thông cảm,

-Chị làm ơn cho tôi đóng tiền sớm vì đã bốn ngày rồi mà tôi chỉ mới xin được đơn nhập học. Hơn nữa, tôi dạy học ở xa, cứ mỗi ngày nghỉ không dạy bị trừ tiền lương.

Chị thâu ngân nghe lời giãi bày mỉm cười dễ dãi. Nơi mọi người ngoan ngoãn tỏ ra đầy vẻ lịch sự xếp hàng cho dù không khí đổ lửa từ mái tôn hấp xuống, bỗng có một anh chàng thơ ngây đến độ ngờ nghệch lên tiếng xin xỏ ân huệ bất thường. Ai không cảm thấy thái độ không cần biết gì đến phép tắc lịch sự tối thiểu mang đầy tính chất trẻ con của tôi. Có lẽ tôi vừa dốt vừa ẩu khiến chị thâu ngân không thèm chấp mà mỉm cười. Cũng may, mèo mù vớ cá rán! Qua mấy lần đóng tiền đại học, đây là lần đầu tiên tôi thấy chị sinh viên văn phòng cười dễ thương như thế... Có lẽ cũng là dịp may...

-Anh hỏi các anh các chị đang xếp hàng đây, nếu họ đồng ý, tôi nhận tiền của anh.

Còn gì sung sướng bằng, chị thâu ngân đã nói vậy có nghĩa bước đường khó khăn nhất tôi đã vượt qua; thế nên, mồm năm miệng mười, tôi chụp cơ hội quay sang giải thích sự khốn khó giả tạo của mình với những người đang đứng đợi.

-Các anh các chị làm ơn thông cảm, tôi từ miền đèo heo gió hú về bốn ngày nay rồi, nếu ở thêm vài ngày nữa chỉ còn nước nhịn đói và không tiền về xe. Các anh các chị ở gần đây, sớm muộn một vài phút cũng không đến nỗi nào. Tôi chỉ biết nói đến thế, còn thì tùy thuộc lòng thông cảm của quí anh quí chị. Nói ra cũng khổ, không nói ra lại càng khổ, nhưng không làm cách này, có lẽ chẳng còn cách nào hơn.

-Sao anh không chịu khó đến sớm sắp hàng trước?

-Chả nói giấu gì, tôi không có nhà quen ở gần đây nên phải đi xe buýt; mà chuyến xe buýt sớm nhất tới nơi thì người đã đông nghẹt để rồi hai ngày đầu mới xin được đơn, hôm qua đứng đợi cả ngày khi gần đến lượt đóng tiền thì chị thâu ngân đóng cửa, ấy là tôi đã phải nhịn bữa trưa để xếp hàng không dám xê dịch ra vô một bước... Kể lể nhiều quá mất giờ của quí anh quí chị, thôi thì để tôi nộp tiền mau cho xong. Miệng còn đang lảm nhảm phân bua, tay tôi đã nhịp nhàng lùa phiếu đóng tiền cho chị thâu ngân...

Tạ ơn trời, tôi ma giáo cũng không đến nỗi tệ. Dẫu ngay lúc bị dồn vào ngõ bí mà cái miệng chưa kịp bôi mỡ cũng đã biết đổi từ kiểu nói "các anh các chị" sang "quí anh quí chị" đồng thời giọng kể lể ra bộ thảm sầu khuyến khích lòng xót thương của mọi người... Đang quay mặt nghiêng về phía hai dãy người xếp hàng đóng kịch, tôi cũng vội liếc ngang về phía chị thâu ngân; nàng cầm phiếu, đếm tiền và đặt bút viết...

-Vậy nếu anh ở gần đây thì anh làm sao? Một anh trong hàng vui vẻ hỏi tôi cho qua chuyện.

-Tất nhiên tôi phải xếp hàng như quí anh quí chị, và bằng chứng là tôi đã xếp hàng suốt một ngày hôm qua nhưng công khống.

-Xong rồi anh. Chị thâu ngân nhắc, chộp vội tờ biên lai và tờ đơn ghi danh, tôi vui mừng hô lớn:

-Cảm ơn quí anh chị; hôm nay tôi gặp được chị thâu ngân dễ thương nhất đời... Hòa trong tiếng cười của mọi người, tôi lủi ra phía cửa lòng thầm nghĩ Trời giúp mình để rồi dẫn Lan đi bổ túc những hồ sơ cần thiết bởi đã có hồ sơ chính bên Đại Học Luật Khoa.

Được dịp, tôi dẫn nàng đi loanh quanh kéo dài thời giờ cặp kè bên cạnh. Kể ra thì cuộc đời tôi đau khổ không ít vì những mối thương thầm nhớ trộm nên có lẽ Trời cũng ăn năn bởi đã quá tay đày đọa mà tạo cơ hội để ban cho tôi em Lan bù đắp chăng. Tôi nghĩ và tin như thế do đó thầm cảm ơn và thấy đấng linh thiêng cũng dễ thương lắm lắm, dễ thương như em Lan đang đi bên cạnh. Tuy nhiên, dù cố tình giả vờ chỉ đây chỉ đó mãi thì rồi cũng chẳng còn xó xỉnh, ngong ngách nào mà chỉ, tôi rủ nàng vô câu lạc bộ sinh viên uống nước.

-Thôi anh, bố em đang đợi...

Nàng quan tâm về việc ông bố đang đợi hơn đi cặp kè với tôi... Mình hữu tình mà người ta vô tình, lòng tôi chùng xuống... Vừa mới thấy may mắn đó, hy vọng đã trở thành mong manh; tôi bấm bụng đi với nàng ra phía cổng Văn Khoa; lòng tiếc nuối giây phút kèm em chóng qua khiến chân lừng chừng không muốn đếm nhịp trong khi nàng chẳng thèm để ý dù chỉ chút tình cảm ơn tạm bợ mà vội bước...

-Sao, có nộp đơn được không mà lâu vậy? Bác tài hỏi trống không khi tôi và nàng tới gần.

-Kể như đã xong hết mọi thủ tục, chỉ còn chờ ngày nhập học hoặc đóng tiền lãnh bài về nhà học.

-Cảm ơn anh, nếu có rảnh, chiều nay anh ghé lại chơi...

Lại cơ hội, tôi thầm nghĩ với lòng rộn ràng, sao tôi may mắn thế! Tôi chỉ nghĩ mình có cơ hội may mắn để hy vọng chụp thời cơ chứ nào có thèm nhớ tới những đắng cay đau xót của con tim trong thời đã qua; chẳng nói đâu xa, ngay những bước vội vàng vô tình của nàng vừa rồi... và thế là vui sướng tiến tới, tiến tới để được đày đọa bởi thú đau thương.

o o o

Những ngày ở Sàigòn hoặc những khi có dịp trở lại, không ngày nào tôi không có mặt nơi nhà nàng, và thường thì với cả vài người bạn của tôi nữa. Chuyện gì mà gặp gỡ lắm thế? Thì có chuyện gì nữa, chỉ những chuyện trời mây trăng nước, những chuyện vu vơ qua những vấn đề hiện đại. Tôi mê gái nhưng mang trong mình cả mớ tự ái rởm, lại e ngại người khác biết mình mê gái. Thế nên, những dịp đến nhà nàng, mặc dầu muốn nói chuyện với cô ả nhưng cứ giả vờ tỏ ra vô tình thích nói chuyện với bố hoặc mẹ nàng nhiều hơn, chỉ thi thoảng nói với nàng vài câu như trong trường hợp nhờ nàng lấy bài văn khoa; thế nên, thường thì bạn bè tôi chụm lại nói chuyện với nàng.

Xét như thế, tôi nhận ra mình có những cá tính rất khỉ hoặc quan niệm ngang như cua nhưng cố chấp và bo bo giữ lấy. Nó không giống cá tính bất cứ ai nhưng nó là của tôi mặc dầu chỉ là quan niệm. Bất cứ khi nào đi chung với bạn bè gặp thanh thiếu nữ nói chuyện, cho dù tôi muốn lắm, nhưng lại rất ít nói với các nàng mà dành phần cho các bạn nói, hoặc đang nói chuyện với nàng nào, nếu có một thanh niên chen vào là tự động tôi rút dù, kiếm cớ bỏ đi chỗ khác bởi cảm thấy hai người thanh niên đua nhau nói với một thiếu nữ có vẻ tranh giành làm sao ấy để rồi tôi chấp nhận chịu thua. Thua để không bị mặc cảm tranh giành, thua còn hơn bị tự xỉ nhục vì tranh nhau một thiếu nữ giúp cơ hội cho nàng lên nước. Thà rằng người khác làm nhục thì tôi còn chịu được mặc dầu cố gắng ăn miếng trảmiếng, nhưng chính tôi cảm thấy điều gì là một sự nhục nhã, dứt khoát không chịu làm. Tôi không muốn bị nhục với chính mình. Không hiểu tại sao tôi có cái tự ái rởm này mà lại cứ khư khư giữ lấy đến nỗi đã biết bao lần bỏ lỡ cơ hội?

Chính vì vậy, tôi hơi ngạc nhiên và trong lòng mừng rơn khi mấy người bạn nói Lan để ý mình. Tất nhiên, họ nói chuyện nhiều với nàng nên biết; còn tôi, thích nàng là lẽ đương nhiên nhưng vì cố tình đóng kịch nói chuyện với bố mẹ nàng nên không biết. Thật ra, nói chuyện với bố mẹ nàng nhưng tôi phải khổ sở, lén lút liếc trộm trong khi các bạn tôi thanh thản, diện đối diện tán hươu tán vượn. Liếc trộm nghĩ cũng khổ, miệng nói lang thang, bộ mặt ra điệu không để ý nhưng mắt phải cố tình nhìn xéo một độ xiên giới hạn nào đó và cặp tai lại cũng phải cố ráng hết sức theo dõi động tĩnh về câu chuyện nơi bàn bên kia cùng thời với câu chuyện người lớn bên này. Cũng nên nói rõ, tôi âm thầm cảm ơn mấy người bạn đã nói cho biết nàng để ý đến mình, kể từ một buổi chiều sau khi nói chuyện tại nhà nàng ra về.

-Tụi bay nói chuyện với nàng như pháo rang trong khi tao bận nói chuyện với ông bô bà bô mà nói rằng nàng để ý tao là thế nào? Tôi giãi bày bằng cách đặt câu dò hỏi và chứng tỏ vô tư nhưng lòng khấp khởi mừng thầm.

-Tổ sư cha thằng này ngu quá mức đến nỗi được lọt vào mắt xanh người đẹp cũng không biết... Một thằng bạn lên tiếng; thằng này thường ít nói nhưng ngồi bàn chung với "ghế" là miệng nó chẳng khác gì tổng đài phát thanh duyên dáng xổ liên tu bất tận, càng nói càng hăng say, và người nghe càng thích.

-Vậy mà nó hên, chẳng bù cho tụi mình tán khô cả cổ họng, tốn dăm thùng nước miếng không được dù chỉ cái liếc mắt đưa tình... Đúng là mèo cậy chó xơi! Thằng đẹp trai, cao ráo đeo kiếng tỏ bộ trí thức, thường chê tôi ngu đần, chậm chạp nói với giọng tiếc rẻ.

-Chúng mày tiếc xót chi, đứa nào đứa nấy dăm ba con bồ chưa đủ sao mà còn ganh tị với nó. Cuộc đời này đâu phải thiếu những cảnh chó ngáp thịt quay và mèo mù vớ cá rán... Không nói vun vào thì hãy lờ đi cho nó lên hương một chút. Tao đề nghị, từ nay tụi bay chấm dứt, chừa cái tật coi rẻ nó... Thằng nào còn nói đụng đến nó, sẽ mang cái nhục của thân nam nhi đứng trong trời đất... Thằng con nhà giầu, đẹp trai luôn luôn ăn diện bảnh bao lên giọng giúp tôi. Đào của nó là những nàng tiên con cháu dân thương mại, đông tiền, nhiều của, kèm thêm những kiểu ăn bận hợp thời trang hở ngực, xẻ mông nên không thèm tỏ ra tranh chấp với tôi. Cũng may, đỡ được đối thủ nào, lòng này khấp khởi chừng đó.

Nghe ba đứa bảnh bao lên giọng thày đời, người răn đe, kẻ bênh vực tôi, thằng bạn tự nãy giờ im hơi lặng tiếng mới chậm rãi châm chọc:

-Tiền nhân dân ta có câu, tốt số hơn bố giầu. Chúng mày đẹp trai, hào hoa phong đòn gánh, đứa thì cái mã đi tới đâu sáng lòa tới đó làm ai nấy muốn mù mắt, đứa con nhà giầu ăn bận sang trọng, đứa nào coi bộ cũng trổi vượt hơn tao với nó, hơn nữa, đã là chỗ bạn bè vẫn không biết nhân nhượng lại còn tỏ vẻ ghen tị. Làm bạn với tụi mày coi chừng mang tiếng điếm nhục tông môn... Còn mày, nó quay qua tôi lên giọng kẻ cả chừng như bố dạy con, từ nay mày phải mở trí khôn ra một chút, kiếm giờ đến bầu bạn với cô ả hoặc ráng để dành tiền đưa em đi dạo phố, ăn kem. Mày mà cứ kè kè đi với ba cái loa phóng thanh kia thì cứ tiếp tục hầu chuyện ông bà bô nàng tới mãn đời để rồi xôi hỏng bỏng sẩy con ạ.

Thằng khỉ này rất ít khi lên tiếng trong những cuộc lý luận hơn thua nhưng động mở miệng chẳng khác gì họ hàng nhà cóc nghiến răng, tiếng kêu thấu tới trời do đó thằng nào thằng nấy đành chịu phục. Đã không nói thì thôi, nhưng khi cần phải nói, nó lý luận, rào trước đón sau, dùng đủ mọi chứng cớ khóa miệng đối thủ. Bọn tôi năm người mỗi đứa một tính một nết gần như tương phản mà lại họp thành một băng đạo mạo trong đó tôi có số phận hẩm hiu nhất. Chỉ một điều tốt lành của nhóm là không bao giờ chúng tôi đấu nhau trước mặt thiên hạ, nhưng khi chỉ có bộ năm với nhau, thằng nào thằng nấy cũng hay cũng giỏi, chẳng đứa nào nhường đứa nào ngoại trừ thằng tôi, cái miệng không vừa gì nhưng cố tránh hơn thua thành ra nhiều lúc con nhà cóc nghiến răng thường phải góp lời bênh vực. Cầu trời phù nó, cũng nhờ vài câu chỉ giáo hàm chứa tu vi thâm hậu ấy mà tôi có gân sức mò mẫm đến chầu chực riêng tư nơi nhà nàng; ít ra cũng vài lần nên thành thói quen dễ thương khó chừa.

Cho đến một hôm, vẫn với thói quen theo đuổi, rình mò vào thời gian hai ông bà bác tài đi vắng như một số lần trước, tôi tới nhà nàng. Sự thật mà nói, dạo này vì mê nàng quá độ tôi đâm khôn ra, không chịu đi chung cùng mấy người bạn nữa để tránh bớt sự xốn xang khó chịu khi bạn bè nói cười tự nhiên với nàng trong lúc mình ngậm đắng nuốt cay tỏ bộ không để ý do cá tính anh hùng rởm. Tôi lại còn ma mãnh đủ để có dịp hỏi dò nàng về giờ giấc sinh hoạt trong ngày, bố mẹ nàng vắng nhà vào những thời điểm nào, khi nào đi, lúc nào về.

Như những lần trước, tôi lấy rượu uống, rượu ngâm sâm pha với nước cốt rượu nếp (rượu cái). Rượu ngọt mềm môi nên nói chuyện tầm phào cũng cảm thấy ấm lòng, ấm lòng vì được ngồi nói chuyện với người mình thích. Hai đứa thường ngồi nơi bàn học, nàng bên này, tôi bên kia hết giờ này qua giờ khác; mê chuyện thì ít mà mê nàng thì nhiều, tôi ngồi lỳ tới lúc bố mẹ nàng đi làm về mới chịu để cho cô nàng nấu cơm. Không hiểu hứng chí thế nào tôi rót rượu mời nàng uống trước.

-Em không uống được đâu!

-Không được đâu thì được đây, một ngụm nhỏ thôi, may ra có thể thông cảm cho dân rượu chè bao lâu nay đã chấp nhận ngậm đắng nuốt cay. Tôi trổ tài ăn nói lang thang theo kiểu cách học lóm khi nghe mấy thằng bạn phét lác khoe dấm khoe mẻ.

-Thì họ nghiện chứ nào ai bắt uống mà ngậm đắng nuốt cay.

-Em thử cho biết xem có dễ nghiện không.

-Anh uống đi, em chưa bao giờ thử nên không uống được...

-Chưa thử đã nói không uống được, nào, một ngụm nhỏ thôi.

Kể ra tôi cũng ngu thật, đưa ly rượu mời nàng uống và bị từ chối, thế mà lại không dám liều lĩnh đụng chạm đến tay giả đò ép nàng cầm lấy ly. Thế nhưng, chẳng hiểu nghĩ thế nào, nàng đón lấy ly rượu, hớp một ngụm nhỏ rồi trao lại cho tôi, nhắm mắt, nhăn mặt cố nuốt coi bộ khổ sở lắm. Đưa ly lên môi nhấp nhấp trong khi say đắm chiêm ngưỡng nàng, lòng tôi rộn lên niềm hạnh phúc khó diễn tả. Thiếu nữ đang xuân uống rượu trông tình ghê nơi! Má nàng hồng lên, cặp mắt lim dim tràn ngập nét quyến rũ... đôi môi mọng bóng như bị áp xuất quá cao dồn nén muốn rịn máu ra khỏi làn da, phô bày thể chất mềm mại đầy hấp lực. Men rượu hòa men tình đẩy lòng lâng lâng, mắt chăm chăm dán chặt nơi khuôn mặt giai nhân..., tôi thèm được hôn nàng... Tôi muốn nhai ngấu nghiến thân hình đang toát ra sức thu hút mãnh liệt bên kia hông bàn... Tôi muốn nhảy chồm qua... Mãnh lực cuốn hút của giống cái quả thật kinh khủng... Mới ngồi đối diện mà nó đã khiến máu trong người tôi chạy rầng rầng, vang dội chừng như có những chiếc vồ đang hùng hục đập nơi hai màng tang. Con tim cảm ứng sức hấp dẫn ấy quá bạo; nó vùng lên dồn hết năng lực cũng đập cú nào cú nấy tựa ngàn cân chừng như muốn vùng vẫy, dứt bỏ mọi liên hệ để bay ra khỏi lồng ngực, tăng áp lực máu lên cao khiến tôi tối tăm mắt mũi. Hình như tôi bị nghẹt thở. Đúng, khí quản coi bộ khép nhỏ lại ngăn chận con tim vọt ra làm tôi khó thở, thúc đẩy cần cổ xốn xang đưa lên đưa xuống nuốt nước bọt liên hồi do cố gắng mượn bất cứ động tác nào đó nhắc nhở bộ phận lòng ruột trong tôi tỉnh thức giữ đều hòa cơ thể kẻo mê đi, ngưng làm việc thì chỉ có nước hai năm mươi. Cả một hệ thống dây chuyền nơi cơ thể bị sức cuốn hút tỏa ra từ bờ môi, nét mặt dường như mơ mộng đối diện làm rối loạn khiến toàn bộ thân xác tôi bị dồn nén tựa trái banh bơm cứng tạo thành năng lực thúc đẩy muốn nhẩy bay lên. Vâng, thân xác tôi muốn vượt qua khỏi chiếc bàn học chướng ngại vật để hòa nhập vào thân xác bên kia... thế mà tôi vẫn phải cố gắng kềm hãm, gồng mình lấy tấn dán mông nơi mặt ghế, hai cùi chõ tựa cạnh bàn ép đôi tay nắm chặt ly rượu mê đắm nhìn nàng... Không hiểu từ đâu phát sinh sức kháng cự coi bộ quá thụ động này bọc cứng mọi ham muốn tác động nơi tôi khiến cảm giác chống trả tạo thành sự khổ ải chịu đựng dồn dập từng cơn chiến đấu quay cuồng càng khiến tôi lúc say lúc tỉnh, giác quan cảm nhận mờ mờ ảo ảo. Hình như tôi đang ở trong trạng thái bấp bênh, bềnh bồng chìm đắm giữa áp xuất của những lực đối kháng đang thục mạng quần thảo...

Trong trạng thái diễm ảo, tôi mê đắm muốn ăn tươi nuốt sống hình bóng trước mặt nhưng vẫn cố gắng vượt thắng ham muốn bình thường trong nỗ lực chịu trận với cơn bão lòng. Ngước lên nhìn, bỗng chạm ánh mắt đờ đẫn của tôi, nàng vội tránh trong thế đầu hơi cúi; đôi mắt chớp chớp đoạn khép hờ tựa hai vệt dài phụ họa thêm nét mỉm cười pha lẫn e thẹn khiến gương mặt trở thành tâm điểm phát xuất muôn vẻ mời mọc, khuyến khích. Thêm vào đó, kiểu áo thời trang một nút cổ không cài phô bày khoảng da mơn mởn dẫn dụ, kích thích tia nhìn bám chặt từ đó bò xuống sâu hơn tạo thêm tưởng tượng đã chẳng những giúp người mặc thêm phần khêu gợi mà còn như mang ẩn ý tạo dịp cho kẻ đối diện có cảm nghĩ đang được bật đèn xanh, an tâm tiến tới.

Dẫu cảm nhận được những dấu hiệu an toàn tạo dịp thuận lợi đưa đến liên hệ tình cảm thân mật hơn, tôi vẫn chưa dám đốt giai đoạn bởi kinh nghiệm đam mê quá khứ đã bao lần dập vùi, gây lắm vết thương yêu đương sâu đậm, nhắc nhở chớ nên vội vã, chận con lợn lòng trong tôi đang hùng hục xông phá muốn xổ ra táp miếng mồi quyến rũ trước mặt... Tôi chẳng khác gì kẻ bị lọt giữa hai lằn tên nhắm tới dù tránh lối nào cũng mang thương tích. Một đàng bao gồm hai mãnh lực hối thúc; trạng thái ăn đèn chấp nhận đến độ thách đố, mời mọc của giai nhân hòa cùng khung cảnh tạo cơ hội ngàn năm một thuở... lại được xúi bẩy từ sự khao khát đã trở thành cá tính thèm con gái và thúc đẩy của men rượu, men tình. Đàng khác, năng lực đối kháng được tạo nên tự niềm đau ngây dại kết quả những mối tình đã qua do đó e sợ như con chim đói khát nơi sa mạc một lần đã bị bắn, thấy cành cây cong cũng nghĩ là cánh cung đang giương nên dù trông thấy con sâu béo bở no tròn, hấp dẫn ngờ nghệch bò trên đó, cũng chỉ dám bay vòng xa xa thèm thuồng đưa mắt tiếc nuối...

Bay chán và dẫu e sợ đến mấy mặc lòng, chim cũng mỏi cánh và chính sự mỏi mệt vì đói khát cộng thêm sức hấp dẫn của con mồi đã khiến nó quên tầm nguy hiểm của cánh cung để rồi sà xuống... mổ. Con chim đói khát thiếu kinh nghiệm bị lừa! Loại sâu sống bằng nhựa xương rồng nơi sa mạc mọng bóng trông tựa miếng mồi ngon đã không phải là chất béo bổ cho chim mà là thuốc độc tê liệt khiến con chim vừa nuốt vào đã bị rã cánh. Tương tự, tôi cũng rơi vào trường hợp bị phận số lừa giống con chim... Dẫu cảm quan, kinh nghiệm gào thét chận lại ham muốn của bản ngã, nhưng cái đói khát thèm con gái cứ dâng lên, dâng ngút trời thúc đẩy hai tay tôi dang ra vồ miếng mồi ngon lành, mơn mởn... và kết quả cũng chỉ là cảm nghiệm thế nào là hạnh phúc của thời gian ấy kèm thêm thú đau thương.

Một tay vẫn giữ khư khư ly rượu, tay kia kéo ghế vòng qua chiếc bàn, xích lại bên cánh trái người đẹp đoạn từ từ ngồi xuống, tôi dùng tay trái đưa ly mời nàng uống thêm chút nữa. Nói không giấu giếm, ngồi bên cánh trái của nàng, xoay người đưa tay trái cầm ly mời rượu, tôi có cơ hội ép sát gần nàng hơn. Phải công nhận, thiếu nữ họ toát ra hương tình hấp dẫn cho dầu nhiều khi chỉ là giả tạo nhưng dẫy đầy cuốn hút. Men rượu sừng sừng và hương con gái, cả hai hòa nhập nâng bổng tôi lên, ngất ngây sà tới.

-Thôi, em không uống nữa đâu, uống vào mệt quá. Nàng khoanh tay trên bàn, nghiêng đầu tựa xuống, mặt hướng về phía tôi, đôi mắt chăm chăm nhìn, biểu lộ muôn vẻ đợi chờ...

Dầu có quen được cả ngàn vạn thiếu nữ suốt quãng thời gian dai dẳng mà không tiến tới nổi sự thân mật thì cũng chỉ như hút gió và đưa đến kết quả xót xa giương mắt hau háu nhìn em lên xe hoa, san sẻ cuộc uyên ương với người khác trong khi miệng mình nuốt nước bọt kèm thêm nỗi đau mất mát cắt dạ, mèo cậy chó xơi, chăm chút nuôi em khôn lớn rồi đem dâng cho người khác hưởng. Nhưng tôi phải dùng mánh khóe nào để đụng chạm được nàng trong hoàn cảnh thuận lợi này khiến nàng không thể trách tôi là lạm dụng. Ôm đại nàng, tôi không đủ can đảm làm thế. Theo kinh nghiệm một số bạn bè truyền cho và luôn nhắc nhở phải liều, nếu không đẹp trai tất nhiên phải chai mặt; sau đó, lỡ nàng lên tiếng chỉ trích thì sự cũng đã rồi và chỉ cần giả đò ăn năn xin lỗi là đã tạo xong cơ hội ngựa quen đường cũ... để lấn dần nay một chút, mai xa hơn. Khổ nỗi, tự ái rởm khuyến dụ rằng nếu liều như vậy tức là đã tự khinh khi.

Tôi thèm đưa tay vuốt mái tóc, rờ cái lưng, hoặc ôm chiếc eo cơ thể uốn cong vòng từ trên bàn xuống mặt ghế nhưng vẫn ngại ngùng do dự, nhút nhát với lòng xốn xang thầm nghĩ, cứ đụng tưới vô nàng nào đã chết ai đâu! Sỗ sàng quá nếu nàng khinh khi, có phải vuột mất con mồi và uổng bao công lao theo đuổi, tôi lại tự bào chữa cho nỗi lòng bối rối khó bề tính toán của mình. Bứt rứt trù tính, tôi phục mấy thằng bạn ba trợn... Chúng nó chai mặt nhưng có miếng; mình cố thủ với cá tính tự ái rởm nên trứng đã để kề miệng ác rồi mà con ác phải đóng kịch giả đò như mù. Mở mắt ra, hỡi con ác ngu dại; không muốn nhìn thấy cái mặt mình chai thì từ nay đừng soi gương nữa là huề... Nhưng phải có lý do bào chữa lỡ nàng phản kháng, tự ái trong tôi lại lên tiếng tính toán bày mưu chước, vì nếu cần xin lỗi thì phải là chuyện lầm lỡ không chủ đích; mình có thể lừa dối người khác được nhưng không thể thực hiện việc mình cho là hèn... Sao không nói cho nàng biết mình muốn rờ cái lưng, muốn ôm cái eo, muốn vuốt mái tóc, nếu nàng không chấp thuận đâu thiệt thòi chi... Nghĩ thì dễ nhưng nói sợ quê, tôi phải kiếm cách khác sao cho có thể đo lòng nàng... Tuy nhiên, con mèo thèm thuồng liếm môi nhìn miếng mỡ óng ánh kề cận quả là quá sức chịu đựng. Cho dù những trận đòn kinh hồn, thừa sống thiếu chết được nhắc nhở bởi cái roi đang nhăm nhe chờ chực dấu hiệu của cử động tiến gần tới miếng mỡ là đã vội vàng quất xuống thì cũng chỉ làm nó sợ thời gian ngắn lúc đầu để rồi chẳng bao lâu sau liều mình chịu đòn chụp giựt miếng mỡ. Miếng mỡ chỉ hấp dẫn gây sự thèm thuồng đối với con mèo chứ chắc chắn không quyến rũ bằng Lan đối với tôi... Và thế là tôi quên hết bao nhức nhối của những mối tình cũ, chỉ tìm cách sao cho nắm lấy bàn tay, hoặc ôm được đôi vai nàng làm ngưỡng cửa tiến vào cảnh thiên thai tràn đầy thơ mộng...

Đưa cánh tay phải đặt trên thành dựa chiếc ghế nàng ngồi, tôi trổ tài đánh đáo lưỡi:

-Uống chút rượu, đôi mắt em trở nên long lanh thơ mộng ghê nơi.

Nghe tôi phỉnh, má nàng thoáng hồng.

-Chẳng hiểu có thơ mộng không nhưng biết chắc chắn nó đang mơ huyền mờ.

-Em uống thêm chút nữa cho nó mờ luôn.

-Sao anh muốn mắt em mờ luôn?

-Mới một chút rượu đã thấy thơ mộng như thế, uống thêm chút nữa nó sẽ tình hơn.

-Anh tán khá quá, nhưng em đang muốn được nôn ra cho nó hết hơi rượu; em mệt quá!

Nói đoạn, nàng ngồi lên, dựa vào thành ghế, đụng cánh tay tôi liền ngửa cổ đặt cả sức nặng cái đầu dồn xuống, đôi môi nhẹ mỉm cười ra chiều ưng ý. Thêm một phen tim tôi đập loạn xà ngầu, đập như sấm sét, muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Tôi tê mê cảm khoái bởi ước vọng đã thành thì ít mà vì cảm nhận hương tình nàng trao tặng tràn lấp thân xác lẫn tâm hồn đang bừng bừng trỗi dậy. Tạ ơn Trời, nàng đã chấp nhận tôi, nàng đã ăn đèn, đã mở màn cho hai thân xác nối liền bằng cái đầu xinh xinh tựa trên cánh tay thằng khờ, đã mở toang cánh cửa của những ngày thơ mộng cho tôi bước tới... Tôi muốn hét lên cho mọi người biết mình đang sung sướng, cho niềm hạnh phúc đầy ắp trong lòng vỡ toang ra chia sẻ cùng cả thế giới. Tôi là người may mắn hơn hết mọi người vì Trời cho tôi có nàng; tôi đã có nàng.

Độ vài phút, nàng ngẩng đầu dợm đứng dậy; bàn tay tôi vội chận bên vai giữ lại.

-Em định đi đâu?

-Uống rượu mệt quá, em phải vô trong bếp chút.

-Em ngồi thêm chút nữa rồi hãy đi.

-Em vô bếp và ra ngay, không ai bắt cóc được em đâu mà sợ! Giọng nàng ngọt ngào được phụ họa thêm ánh mắt tình tứ khiến lòng tôi muốn lịm ngất...

Nâng ly nhấp môi, rượu ngọt bỗng trở thành lợm giọng, tôi cũng đứng lên lấy chai rượu ngâm thuốc của bác tài rót ra một ly khác mong rằng men cay và thuốc đắng đè nén được phần nào nồng độ chén tình đang sôi sục đầy ắp trong lòng tưởng muốn trào ra lênh láng. Chất ngất bởi say tình, rượu nếp ngâm thuốc phong cay xé cần cổ đã có lần tôi uống thử thế mà giờ đây nuốt vào lại êm êm đằm thắm. Tình nàng biến cổ họng thành chai đá nên rượu mạnh bị phá tan ảnh hưởng, và cũng từ đó tôi nhận ra rằng bất cứ gì quá độ đều làm cho người ta trở nên bất thường... Xếp hai chiếc ghế sát nhau với chủ đích thêm phần kề cận và nhấp rượu ngồi chờ, đang định nâng ly lần thứ nhì thì cũng vừa lúc nàng trở lại. Mối "tình trong như đã" tự nó đẩy đưa hai chúng tôi sát vào với nhau, thân kề thân; tấm màn e ngại không còn là bức ngăn cách, tôi đưa tay ôm trọn tấm thân mềm mại của nàng kéo vào mình, đầu tựa vai. Tình dâng chất ngất khiến lòng muốn nói muôn lời mà không biết nói gì đành nhường cho cử điệu hai cánh tay như đôi chão thừng quấn khít lấy nàng; tôi mơ màng tận hưởng niềm hạnh phúc bởi được tình yêu chiếu cố. Đất trời như ngừng quay; mọi đề tài nói chuyện tuồng bay bổng lên mây; cả thế giới của hai đứa gom lại chỉ còn đôi tim cùng rộn ràng nhịp đập đẩy những rung động đại diện ngôn ngữ tuyệt hảo nhất của loài người chuyển giao qua tần số yêu thương. Chính lúc này tôi nhận thấy khi hai người còn theo đuổi nhau, họ còn cần ngôn ngữ tán tỉnh, mồi chài, bất cứ gì cũng có thể trở thành đề tài để bằng cách nào đó diễn tả hoặc tìm kiếm tần số hòa hợp con tim. Ngược lại, khi con tim lên tiếng trao đổi, mọi ngôn ngữ trở thành khiếm khuyết đến độ thừa thãi. Lan có lẽ cũng cảm thấy thế... Nàng bám cứng lấy cánh tay tôi đang vòng qua ngang ngực và như không còn hơi sức, tựa hẳn vào người tôi để dành năng lực cho con tim thổn thức. Thời gian lặng trôi... và độ hơn mười lăm phút sau, nàng nhẹ chuyển người cựa quậy trong khi lên tiếng:

-Anh ôm gì chặt cứng, thở không được.

-Em nói hơi sớm? Tôi nhẹ nới lỏng vòng tay.

-Nhưng lúc mới đầu lại thích...

-Hồi nãy em xuống bếp làm chi vậy?

-Em cào nơi cổ cho rượu nó ra mà chẳng thấy rượu đâu. Em chưa bao giờ biết rượu là gì và sợ nó. Uống rượu mệt quá.

-Sao em uống?

-Thì anh bảo em uống!

Một cảm giác mới lan dần trong cơ thể, vì tôi nói, nàng làm điều chẳng những đã không muốn mà còn sợ. Vì tôi muốn nên nàng làm theo... Thế rồi từ đó cảm tình của tôi đối với nàng ngày một lớn mạnh xiềng đôi chân tôi dừng lại nhà nàng thường hơn mỗi khi có dịp. Chúng tôi thường trao đổi quan niệm riêng về những giá trị và lối nhìn đến những vấn đề đang sôi động nơi thực tại cuộc sống. Tôi kể nàng nghe những cá tính gàn bướng của mình; nàng kể về sự giao thiệp cũng như những điều suy nghĩ hoặc nhận xét. Cả hai không bao giờ nói lên tiếng yêu nhưng qua thái độ xác nhận rằng chúng tôi yêu nhau. Tôi yêu nàng và nàng yêu tôi.

Bởi yêu nàng và bởi tình yêu của nàng, tôi có dịp tìm hiểu thêm về con tim của mình. Phải chăng tôi chỉ muốn yêu, muốn được yêu theo bản tính bình thường con người? Tình yêu sẽ dẫn tôi đi tới đâu? Hôn nhân là gì với tình yêu? Tại sao bao nhiêu người quan niệm yêu nhau là phải sống chung với nhau trong khi tôi không cảm thấy như thế? Phải chăng nguồn gốc của yêu đương bắt nguồn từ bản năng sinh tồn của con người? Yêu có những mực độ và những loại như thế nào? Hình như có sự khác biệt giữa những quan niệm yêu đương và hình như nó cũng có thể bị hiểu khác nghĩa tùy theo quan niệm của từng người. Yêu là thế nào khi so sánh với liên hệ sinh lý? Đã bao nhiêu người, rồi trong văn chương, tiểu thuyết nói về yêu, sao tôi thấy những nhận định cũng như quan niệm về tình yêu không giống nơi tôi chút nào. Sinh lý là sinh ý, yêu là yêu; tôi không thể dùng lối diễn tả hai con chó yêu nhau vì đó là bản năng sinh tồn. Yêu đâu phải là vấn đề thỏa mãn nhục dục. Nhiều vấn đề quay cuồng trong tôi. Tôi tự hỏi thêm tại sao xa nàng thì nhớ, gần nàng lòng tôi lại có một thứ cảm nghĩ, cảm tình nào đó không thể diễn tả được; tôi gọi đại nó là yêu nhưng sao tôi thấy tình yêu này không đòi hỏi phải làm chuyện vợ chồng với nhau dầu đó là một bản năng nhưng đâu cần. Đồng thời tôi cũng cảm thấy không cần phải ăn ở với nhau thành vợ chồng vì tôi không có một chút ý nghĩ gì về sự sống chung. Tôi và nàng đã chẳng bao giờ xây đắp ước mộng tương lai của đôi lứa.

Những câu giải đáp dần dần hiện ra một cách sáng tỏ nơi tôi. Con tim có lý lẽ riêng của nó và chỉ nó mới có thể trả lời được. Con tim nói với tôi không giống con tim người khác nói với họ, do đó câu trả lời cho tình yêu của tôi không giống câu trả lời cho người khác vì họ là họ; họ có tiếng nói con tim của họ. Vấn đề là tôi có chịu tìm hiểu xem con tim tôi muốn gì hay không, hoặc là tôi cứ tưởng thế này, tưởng thế kia, dùng những công thức người khác kiếm ra cho họ để rồi vay mượn đắp vá cầu mong làm của mình một cách méo mó, gò ép.

Một hôm nàng kể, "Có một anh chàng tỏ tình với em; em không trả lời mà chỉ ậm ừ. Thế rồi anh ta muốn em thế nọ, muốn em thế kia làm em bực mình. Khi người ta yêu thì tự người ta muốn làm hài lòng người yêu chứ đâu muốn bắt ép người mình yêu phải trở thành kẻ rập khuôn mẫu mình chọn. Anh ta cứ đòi cưới em, không muốn em giao thiệp với bất cứ người con trai nào."

Tôi đồng ý với nàng về vấn đề khi mình yêu ai thì mình muốn làm hài lòng người ấy. Nhưng làm hài lòng với mục đích gì? Làm hài lòng để lấy lòng? Làm hài lòng tìm cơ hội cũng như mua chuộc để chờ thời cơ thỏa mãn sự đòi hỏi của mình, nghĩa là đổi cái nọ lấy cái kia, để vụ lợi. Đôi khi mình nghĩ rằng yêu, nhưng thực ra nó chỉ là sự ham muốn thỏa mãn sinh lý. Cái yêu này tôi gọi là yêu ích kỷ, yêu vì chính mình, bởi cái lợi lộc, có thể gọi được như thế, mình nhắm tới. Xa hơn chút nữa, muốn yêu để được người ta yêu lại, cảm thấy sung sướng vì được người khác yêu, hoặc có cảm nghĩ mình là người đáng yêu cũng vẫn là ích kỷ; và bao lâu rồi, tôi chỉ có tình yêu ích kỷ, yêu vì thèm được yêu, vì muốn quen thiếu nữ đề bù đắp sự thiếu thốn bàn tay con gái trong nhà lúc còn nhỏ...

Nàng không thể đồng ý về điểm được gọi là ích kỷ của tôi vì nàng cũng như tôi, cũng cảm thấy sung sướng vì được tôi yêu, vì được người nàng yêu yêu lại. Tôi vẫn cố chấp với ý nghĩ của mình nhưng không thể giải thích cho nàng hiểu bởi nàng cũng cố tình không thèm hiểu vì nếu hiểu, nàng cũng trở nên ích kỷ. Nàng cũng chạy trốn dù chỉ trong tư tưởng, và cũng chính vì thế mà tôi bị ray rứt vì yêu nàng; nói cho đúng, được nàng yêu.

Nỗi đau khổ nơi con tim tôi biến chuyển qua giai đoạn mới. Thoạt đầu, muốn yêu và muốn được yêu, yêu mà không được yêu lại, bị đá đã làm tôi đau khổ. Yêu rồi được yêu lại, tôi cũng bị dằn vặt; dằn vặt bởi yêu tôi, nàng sẽ bị đau khổ do tôi không muốn sống theo những cảnh đời bình thường. Niềm đau này mới thấm thía, mới không thể dứt bỏ và quên được, yêu, lo sợ mất người yêu đã đau khổ, nhưng yêu mà biết người yêu đau khổ vì tình yêu lại càng ray rứt hơn. Cái thú của yêu đương trộn lẫn với nỗi ray rứt thấm thía này tạo thành thú đau thương.

Con tim tôi vẫn còn mơ ước một trạng thái tiềm ẩn nào đó được tỏ lộ bằng những khao khát tìm kiếm từ những thực tại gần tầm tay với để rồi tưởng rằng đó là điểm tới, nhưng khi đã với được mới nhận ra không phải; tôi tạm gọi là niềm hạnh phúc. Lẽ đương nhiên, tìm hạnh phúc trước tiên là phải đối đầu với những trăn trở kèm theo niềm vui theo đuổi hấp lực tìm kiếm giống như trạng thái qua câu Ca Dao, "Cố đấm ăn xôi, đấm thì vô hồi xôi chẳng được ăn." Từ khi có được người thật lòng yêu mình, tôi nhận ra mình đáng yêu và đáng được yêu, nhưng cũng từ đó, con tim bắt đầu tỏ nỗi thao thức. Nói cho đúng, tôi không biết dùng ngôn từ nào để diễn tả trạng thái này nên gọi là sự thao thức của con tim. Tôi chỉ cảm nghiệm rõ là nỗi thao thức mới xét ra thật vô lý và không hợp tình chút nào, tuy nhiên, nó ảnh hưởng toàn bộ tâm tư. Đâu ai lạ gì, con tim không thèm nghe theo lý trí, mà khi con tim lên tiếng thì lý trí, bản năng, tình cảm, mọi kiến thức hùa nhau vâng lệnh.

Những khi nghĩ về Lan, cảm nhận tình yêu của nàng dành cho tôi cũng như tình tôi yêu nàng, nét đau lòng mờ mờ ẩn hiện khiến tôi phần bứt rứt, phần ăn năn vì sự ham muốn làm quen, cố chiếm cho được cảm tình rồi lậm vào vẻ đam mê, dan díu tình cảm dường như chỉ là để thỏa mãn sự thèm khát phiếm diện nào đó. Tại sao tôi không có ý nghĩ sống chung một đời đối với nàng hoặc bất cứ người con gái nào khác? Có phải tại tôi sợ mình không đủ khả năng, tài lực xây dựng mái ấm gia đình như biết bao nhiêu người chung quanh? Tại bản chất bấp bênh, hay thay đổi không muốn hoặc nhận thấy mình không có khả năng chung thủy cả đời do đó tôi không muốn lập gia đình? Có phải thực tại minh chứng cho tôi thấy dẫu yêu nhau cách mấy, quyết định tiến tới hôn nhân vẫn là một sự thiếu sót nào đó... bởi nếu có những cặp vợ chồng hoàn hảo như ý muốn, sao không thấy ai nói lên mà chỉ những phiền hà do cuộc sống lứa đôi chung đụng, những trách nhiệm không hoàn thành để rồi chồng đổ lỗi cho vợ hay ngược lại, được rao rêu?

"Cô khuyên cháu đừng nên lập gia đình, cứ trông vào gia đình cô đấy, lập gia đình khổ lắm;" nhiều lần cô tôi nhắc nhở mỗi khi gặp... Tất nhiên, không phải vô lý mà có người khuyên mình những câu như thế... Thằng cháu đang yêu rối lên mặc dầu vẫn bị trạng thái mông lung dằng co dằn vặt trong khi bà cô lại cứ đem những đau khổ cuộc sống gia đình ra hù. Tôi thầm nghĩ, cô chán là phải bởi ăn no quá tất nhiên bội thực; bất cứ gì quá độ cũng khiến người ta đau. Thế sao cô không kể ra sự tốt đẹp, hài lòng thỏa mãn của những khi sướng sướng lại cứ lôi cái khổ ra mà than! Gia đình cô chín đứa con, những chín đứa thì đã bao nhiêu lần hạnh phúc thế sao cô không khoe ra? Tôi chỉ giữ trong lòng không bao giờ nói lên ý nghĩ về lời khuyên. Lẽ thường, ở lứa tuổi thanh niên sung sức, khi nghĩ hay nói về hạnh phúc lứa đôi ai mà không liên tưởng đến cái chuyện ấy. Chẳng thế mà những thanh niên, thanh nữ, ngay cả những người đã đứng tuổi, khi có cơ hội gặp nhau thành từng nhóm cùng phái hay nói nhăng nói cuội, nói về cái chuyện chẳng nên nói chốn công cộng nhưng lại thực hành đắc lực lúc riêng tư... chuyện bù khú, chuyện nói bé cười to... Ấy, mới chỉ nói tới đã khiến người nghe vui vẻ tham gia đấu láo thì sự thực còn hấp dẫn biết chừng nào? Đặt vấn đề như vậy, tôi tự hỏi, có phải mình đã bao lâu nay cố gắng theo đuổi một hình thức đạo đức giả để nghĩ rằng mình là con người tốt lành. Bạn bè vô xóm "yêu hoa" kể lại những màn trời long đất lở cũng như những điều ngớ ngẩn của họ khi đụng chuyện... Nghe riết về những kinh nghiệm khác nhau, nhiều khi tôi trổ tài phét lác chứng tỏ ta đây cũng dân làng chơi cho khỏi bị coi thường vì không biết của ấy là gì... Đúng là thứ võ miệng, tôi nhiều lần thầm nghĩ. Tuy thế, tự thâm tâm, tôi cảm thấy hình như có phần nào bất ổn. Cuộc đời và mục đích của con người đâu phải chỉ là những cảm giác mà bạn bè tôi cho là điểm tột cùng sung sướng tạm gọi là hạnh phúc ấy. Nếu cảm giác của sự liên hệ xác thân giữa hai người đã là điểm tột cùng thế sao người ta vẫn còn phải lập đi lập lại hoặc chạy theo những đối tượng khác phái nào đó? Tại sao cô tôi than thở và đem cả cảnh khổ cuộc sống gia đình ra chứng minh mà không kể lại những niềm vui gia đình? Phải chăng hạnh phúc chỉ là những giây phút cảm giác chóng qua để con người muôn đời chạy theo đuổi bắt? Có thứ hạnh phúc nào không tùy thuộc cảm quan của con người?

Thật ra, tôi nghĩ, hai chữ hạnh phúc mang nghĩa rất mơ hồ đối với tất cả mọi người bởi ai cũng kiếm tìm nó. Người nghèo cho rằng nhà có của ăn của để, muốn gì được nấy là hạnh phúc trong khi những người giầu có, tiền dư thóc đống hoặc cơ sở này, nhà máy kia lại cho rằng những người nghèo khó, cày sâu cuốc bẫm có niềm hạnh phúc hơn bởi không phải lo lắng, tính toán. Ai cũng đeo đuổi, tìm kiếm cái được gọi là hạnh phúc mà hình như không ai hiểu nó giống ai, chỉ biết mơ ước những gì mình không nắm giữ, đặt cho nó một cái tên chung và biến nó thành mối nhức nhối, thèm khát. Nhìn lại chính mình, tôi đang yêu, được yêu mà vẫn thèm khát cái hạnh phúc mơ hồ nào đó, thế nên vẫn khắc khoải, vẫn không hài lòng với những gì đang có. Bởi đó, nhiều lần tôi lấy quan niệm "Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc" của Nguyễn Công Trứ dùng làm tiêu chuẩn an ủi chính mình... nhưng vẫn không sao "hà thời hạnh phúc." Phỏng khi đói có thể ngồi đó suy tưởng tri no, tiện no, đãi no là sẽ có hà thời không đói được chăng? Chính kinh nghiệm đơn giản đó giúp tôi đặt vấn đề về nỗi ước mơ tưởng như ảo ảnh vẫn từng chập khiến lòng mình khắc khoải. Tôi nghĩ, giàu có, vợ đẹp con khôn, danh vọng, chức quyền v.v... dù ai đó có tất cả những gì họ mong muốn, họ vẫn còn khát khao niềm hạnh phúc... Bằng chứng là không ít tài tử màn bạc, tiền của như nước, được nhiều người trọng vọng, ca tụng nhưng lại tự tử. Họ kiếm cái chết bởi có lẽ cái chết mang lại điều họ mong muốn khác với những gì họ đang có trong cuộc sống, dẫu ai cũng sợ chết.

Thế niềm hạnh phúc đang làm lòng tôi ray rứt và hạnh phúc mọi người tìm kiếm phỏng có điểm gì chung? Đọc cuộc đời Đức Phật Thích Ca, dầu không cho rằng đúng sự thực nhưng được nhiều người ngưỡng mộ, tôi tự hỏi lý do gì thúc đẩy Đức Phật bỏ ngai vàng, vợ con... bước vào thế giới thiền niệm? Cứ những gì tôi biết do đọc hoặc nghe, Đức Phật bỏ tất cả vì cám cảnh những đau khổ kiếp người bao gồm sinh, bệnh, lão, tử nên tìm đường giúp con người giải thoát. Thật là phi lý, trước khi kiếm được đường giải thoát, tôi nghĩ, Đức Phật cũng đã rơi vào vòng oan khiên kiếp người bắt đầu bằng thời điểm sinh và cuối cùng được kết thúc bởi tử. Chưa giải thoát được mình, nói chi đến kiếm đường giải thoát người khác? Mình không có, lấy gì cho ai? Suy nghĩ như thế, Đức Phật chắc chắn phải tìm kiếm cho ngài trước và có thể vì ngai vàng, vợ con, cung tần, mỹ nữ, tiền của, oai quyền... không gì có thể làm Đức Phật cảm thấy thỏa mãn với lòng khao khát hạnh phúc mà ai cũng ước mơ nên bỏ tất cả đi tìm. Tìm cho chán nơi Phật học, câu kết luận chỉ là diệt dục, dẹp bỏ tất cả những ham muốn mới có thể hết khổ, hết bị ảnh hưởng bởi thực trạng cuộc đời, thoát khỏi lo âu của sinh, bệnh, lão, tử. Dĩ nhiên, mọi người cùng kiếm tìm hạnh phúc thì chắc chắn nó phải là điều đáng quí, đáng ước mong mà bây giờ đem diệt sự ham muốn nó đi thì còn gì để nói, để tiến tới... Nghĩ như vậy, đem so sánh sự diệt dục với lời khuyên của cô tôi thì nào có gì khác biệt; đừng lập gia đình cháu ạ, nghĩa là đừng yêu ai thì sẽ không tạo nên cảnh khổ gia đình, đừng ham muốn hạnh phúc nữa thì không khổ với hạnh phúc, nhưng kết quả thực tế nói lên ai cũng mơ ước có một gia đình đầm ấm, ai cũng ước ao nắm được hạnh phúc trong tay. Có lao đầu vào rồi mới thấy ước mơ tạo dựng một gia đình hạnh phúc khi chưa cưới đã trở thành nỗi đau khổ muốn hủy bỏ lúc đã thành thân...; phỏng ước mơ hạnh phúc vĩnh hằng của tôi có giống như ước mơ hạnh phúc gia đình của mọi người? Họ đã đạt được mơ ước sống chung, đã nếm những hạnh phúc đôi lứa mà còn than thở vậy điều gì khiến họ không nhận ra hạnh phúc cuộc đời đến nỗi tạo thành khuynh hướng chỉ nhìn thấy những đau khổ, hoặc điều gì họ đang muốn mà vẫn chưa có?

Phỏng trên cuộc đời này đã ai đạt được niềm hạnh phúc vĩnh cửu? Tôi có mơ ước hão huyền không? Hai câu hỏi thường xuyên dằn vặt nơi tâm tư khiến nhiều lúc tôi muốn buông xuôi, chấp nhận nỗi khắc khoải chung của mọi người để rồi lê lết theo tháng năm dài buồn tẻ; có được giây phút vui tạm bợ nào thì ngay sau đó lại phải đương đầu với khoảnh cô độc giữa những chốn náo động của cuộc đời. Chẳng lẽ con người được sinh ra để triền miên chịu cảnh khổ ải này, muốn tìm cách trốn chạy cũng không được? Chẳng lẽ lại có một Thượng Đế độc ác đến nỗi bắt mọi người chia chung một tâm thức khắc khoải...? Con người nghĩ gì về hạnh phúc? Hạnh phúc thật mang những tính chất nào? Đâu là sự thật của niềm ước mơ hạnh phúc vĩnh cửu? Phỏng có được điều gọi là hạnh phúc vĩnh hằng? Tại sao có những người chối bỏ những phút giây hạnh phúc nhất thời mà mọi người đang gồng mình đeo đuổi lắm khi gây ra cảnh tan nát gia đình, đi hoang một kiếp người? Tại sao một số nhà truyền giáo Tây Phương đã không thể chấp nhận sống cuộc đời tiện nghi thoải mái, thiên đàng mơ ước của những dân tộc nghèo khổ mà lại coi đó là lối sống tội lỗi để trở lại chung sống với những người kém may mắn, nghèo hèn? Tội lỗi đâu ra nơi cuộc sống tiện nghi và lý do gì thúc đẩy họ không thể chấp nhận sự xa hoa, thoải mái trong khi cảm thấy sung sướng với cảnh sống khó nghèo theo con mắt thế gian làm niềm vui cuộc đời? Tại sao những người lên rừng sống cô đơn làm bạn với cỏ cây lại được cho rằng hạnh phúc hơn những người đầm mình bon chen với cuộc sống, với phiền hà vợ nọ con kia, tiền tài danh vọng? Có phải hạnh phúc chỉ là một sự đuổi bắt giống như hành trình đạt tới lý tưởng, chưa đạt được thì còn hăm hở nhưng khi có rồi lại cảm thấy chán ngấy để cố gắng chinh phục những đối tượng còn ngoài tầm tay với? Có phải sự kiếm tìm hạnh phúc cũng chỉ giống như cuộc leo núi và khi lên tới đỉnh sẽ bắt đầu xuống dốc để rồi kết cục chán ngán cảnh bon chen tìm lãng quên nơi cảnh u tịch?

Lục lọi nơi kho tàng Ca Dao để tìm xem tiền nhân quan niệm hạnh phúc như thế nào, tôi càng bị dồn vào ngõ bí không lối thoát vì Ca Dao chỉ đưa ra mẫu sống luân lý, cận nhân tình có thể được gom tóm lại bằng câu: "Ở cho phải phải phân phân, cây đa cậy thần, thần cậy cây đa," hoặc cũng đồng điệu như thế với câu khác: "Đất có chỗ lồi chỗ lở, ngựa có con dở con hay; coi thì mà ở, chọn theo cỡ mà xài" sao cho khi chết để lại tiếng thơm. Thế rồi tìm đọc những quan điểm của một số tư tưởng gia Tây Phương xem người ta nghĩ gì hoặc kinh nghiệm ra sao về nỗi khát khao của mình, tôi cũng đã chẳng kiếm được gì tạm gọi là thỏa mãn. Ông tổ luận lý Aristote cho rằng hạnh phúc tùy thuộc mỗi người và nó là sự biểu lộ của tâm hồn liên kết với hành động; Dostoevsky nhận ra hạnh phúc không phải tự nó nhưng trong tiến trình đạt tới nó, và Sigmund Freud, cha đẻ môn tâm lý xét theo tính chất ảnh hưởng của sự thỏa mãn đòi hỏi cần thiết của con người chỉ nhìn nhận điều chúng ta gọi là hạnh phúc đúng nghĩa sinh bởi sự thỏa mãn những nhu cầu trong điều kiện khó khăn nhất. Lẽ đương nhiên, cuộc sống có những liên đới, do đó Ambrose Bierce, khi đặt vấn đề so sánh tâm tư của con người lại đưa ra thêm một khía cạnh: hạnh phúc là một cảm ứng từ sự nhận ra điều khổ ải của người khác.

Tính chất của hạnh phúc được ghi nhận bởi con người qua cảm nghiệm lại càng khác biệt. Đối với Augustine, thật ra, con người ước mơ được hạnh phúc và sống với niềm vui ấy ngay cả khi theo đuổi một hạnh phúc mộng tưởng, và vì thế Henry W. Beecher nhìn vào thực tại cuộc đời đã viết đại khái: thường thì niềm vui của con người chỉ là bóng mờ che đậy những đau khổ. Thomas Campbell tuyên bố: một phút giây hạnh phúc là sự trả giá của khoảng thời gian đau khổ không thể đo lường; trong khi Eric Hopper vạch rõ mặt trái nỗi khát khao nơi mọi người: sự kiếm tìm hạnh phúc là một trong những nguyên nhân của bất hạnh. Dĩ nhiên, nếu không cảm thấy bất hạnh, ai ngu dại mơ ước hạnh phúc. Càng tìm hiểu, tôi càng thấy nhiều khía cạnh luẩn quẩn của cùng một vấn đề từ định nghĩa đến tính chất. Samuel Johnson nhận rõ một nông dân và một triết gia có thể cảm thấy hài lòng tương đương nhưng không có được hạnh phúc giống nhau vì hạnh phúc bao gồm nhiều thành phần ý thức tương đồng; ngược lại, Artur Rubinstein đưa ra nhận xét, hầu hết người ta đòi hỏi hạnh phúc có điều kiện trong khi hạnh phúc chỉ có thể được cảm nhận khi không có điều kiện lệ thuộc. Với tính chất này, Thomas Jefferson đã nói lên quan điểm ai cũng có thể đạt được: Không phải giầu có hay quí phái nhưng chính là an bình và mục đích đem lại hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên, điều kiện nào để có trạng thái an bình, và mục đích của con người phải ra sao đã trở thành nguyên nhân rắc rối của mơ ước đơn giản hạnh phúc. Có lẽ chính vì lẽ đó, George Santayna đã quan niệm: Hạnh phúc không phải là cảm xúc tạo thành bởi chuỗi vui thích kích động thoáng qua mà tiềm ẩn nơi sự suy tưởng, phán đoán về thực trạng cuộc đời con người hài lòng hoặc chấp nhận ước mơ của mình.

Tưởng rằng tìm hiểu sẽ giúp tôi có được đường hướng và phương pháp rõ ràng thỏa mãn nỗi khát khao bằng cách rờ được phần nào ước mơ hạnh phúc; ai ngờ, càng kiếm lại càng thấy chẳng có lấy dù chỉ là con đường mờ ảo như Aristote đã nói lên bao nhiêu năm về trước: người ta tìm kiếm hạnh phúc bằng những đường lối và phương tiện khác nhau đồng thời kiến tạo cho họ những thái độ khác nhau. John Berry lại còn mơ hồ hơn với nhận định hạnh phúc "con chim của thiên đàng" chỉ đậu trên những bàn tay không chụp giựt nó. Đến ngay định nghĩa hạnh phúc là gì đã không có thì làm sao mà chụp, mà bắt; cũng thế, đặt vấn đề tìm kiếm và phương thức hoặc đường lối tìm kiếm lại chỉ như chó sủa lỗ không. Có phải đây là sự thật đáng buồn cho kiếp nhân sinh vì đã bao lâu rồi, người ta định nghĩa, tìm kiếm nỗi khát khao mộng tưởng với cái tên hạnh phúc. Vậy niềm mơ ước hạnh phúc của tôi là gì? Phỏng nó cũng chỉ là mộng tưởng? Chỉ có hai chữ hạnh phúc mà càng nói càng rối, càng nghĩ càng tối!

Con người phỏng chỉ là giới hạn nơi trạng thái hiện hữu của thể xác? Hiện hữu để chấp nhận cuộc đời khổ ải thì chẳng thà đừng được sinh ra. Bởi tự chấp nhận, như Nguyễn Công Trứ đã nhìn theo Đức Phật, cuộc đời là bể khổ, "Thoạt sinh ra thì đà khóc chóe, Trần có vui sao chẳng cười khì...," và cũng âm thầm không chống đối để chấp nhận như thế nên người ta chạy theo những niềm vui cảm giác chóng qua mong phần nào phủ lấp ước mơ hạnh phúc vĩnh cửu hầu tránh khỏi đương đầu với nỗi khắc khoải sâu kín của tâm hồn. Thế nhưng, đã có sự hiện hữu tất nhiên có sự thay đổi, biến đổi hoặc trong diễn trình tiến hóa. Đâu ai vừa sinh ra đã biết nói, biết đi, biết hết mọi sự; cho nên phải được hun đúc tùy thuộc môi trường xã hội, con người còn có những ước mơ, đồng thời tìm kiếm phương cách thực hiện điều mơ ước. Nhưng những bậc hiền nhân, đức cao trọng vọng đã và đang được biết bao nhiêu người kính ngưỡng từ xưa tới nay như Lão Tử, Khổng Tử, Đức Phật, Đức Chúa... có thể đã chán ngấy loại hạnh phúc tạm bợ đời này nên chỉ nói đến hạnh phúc đời sau v.v... trong khi tôi kiếm tìm hạnh phúc không giai đoạn ngay tại cuộc đời này; phỏng tôi nên an phận thủ thường, chấp nhận cuộc đời buồn tênh cùng với một người vợ để khi nào chịu đựng không nổi niềm khắc khoải hạnh phúc bất tận cắn xé, hai vợ chồng kiếm cách gấu ó nhau như một cách khỏa lấp lòng khát khao triền miên ám ảnh...?

Thật ra, tôi muốn chấp nhận cuộc sống bình thường cũng không được vì con tim tôi có lý lẽ riêng của nó khi đương đầu với cuộc sống hiện tại, thế nên đặt vấn đề và tìm hiểu để sao cho cách sống giúp tôi có được niềm hạnh phúc thực sự không phải là vô lý. Tôi nghĩ, mình đã có cuộc sống thì hãy lo sao sống cho tốt lành nhất, hãy tìm niềm vui hạnh phúc bây giờ, tuy không phải dễ, vì xét về kiếp sau, hãy để kiếp sau lo. Hơn nữa, nếu bây giờ sống chẳng ra gì, đam mê và chấp nhận như loài giòi bọ thì kiếp sau làm sao thoát khỏi cảnh bùn lầy bẩn thỉu? Tuy nhiên thực tế mà nói, khi đói, không ăn sao no bụng; hạnh phúc đâu thể nào đến với kẻ chẳng bao giờ kiếm tìm. Nếu đã chấp nhận cuộc đời để sống cho qua không cần suy tính, không đặt vấn đề, có lẽ chẳng ai nên than khổ vì khổ bởi mình đã không muốn kiếm tìm, không muốn tạo dựng điều tốt lành hơn, khổ bởi đã tự ỷ lại, tự chấp nhận cuộc sống thừa cho qua. Hơn nữa, kinh nghiệm cho biết, dẫu chưa đạt được hạnh phúc mơ ước, chính hành trình kiến tạo nó đã tự mang niềm vui cho người cố gắng kiếm tìm dẫu ngay cả hạnh phúc ấy chỉ là một ảo tưởng.

Tìm nơi Đạo Giáo, "Theo Lão Tử thì phải để cho con người trở về với cái sống tự nhiên giản dị của họ..." (Lão Tử Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Sống Mới, Fort Smith, AR. USA; tr. 200), không phải là không làm gì cả mà đừng làm cái gì thái quá vì "vật cùng tắc biến, vật cực tắc phản" thì làm sao tôi có thể đạt được ước mơ hạnh phúc của mình. Đã bao nhiêu người, đã bao nhiêu niên kỷ nào đâu nghe thấy ai đạt được mơ ước có tên chung là hạnh phúc mà chỉ thấy những lý thuyết mơ hồ không thể rờ đến được. Nói rằng sống tự nhiên giản dị, "Càng làm ít càng hay, và không làm gì cả lại là tốt hơn" (Lão Tử Tinh Hoa; tr. 63) thì tôi đã sống bao nhiêu ngày tháng chẳng nên cơm cháo gì, đến nỗi hai tay vày lỗ miệng vẫn chưa đủ còn nói gì đến càng không làm gì cả lại càng tốt hơn! Tôi muốn tìm một phương cách thực hành trong khi chỉ thấy lý thuyết cao siêu được dẫn giải và không ai nói lên được ít nhất phần nhỏ nào cảm nghiệm thực dụng. Chẳng hạn trở về với con người tự nhiên, giản dị là cách sống thế nào? Thoạt sinh ra, đâu ai chui khỏi lòng mẹ với áo, quần, bông tai, son phấn thì cái sống tự nhiên đơn giản nhất đã thấy chẳng giống gì người chung quanh. Đồ ăn thức uống tự nhiên loài khỉ đã muôn đời áp dụng nào có làm cho họ hàng loại có hai chân hai tay này rụng lông hoặc cụt đuôi, thay đổi được chút nào; ấy là chỉ nói về hình thức cơ thể mà chưa nói tới tư tưởng, ước muốn... Hơn nữa, đã là con người thì tất nhiên còn có đời sống khác cao hơn đó là khát vọng của tinh thần và tư tưởng. Như vậy, để cho con người trở về với cái sống tự nhiên, hoặc không làm gì cả mang ý nghĩa gì và áp dụng ra sao?

Khổng Giáo, ngược hẳn lại với quan niệm vô vi và rõ ràng với "Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ." Khổng học nhắm vào sự uốn nắn con người được chia theo những thể chế của xã hội, để rồi nhập thế hành động... Có thể nói theo Nguyễn Công Trứ: "Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái, Cái công danh là cái nợ nần;" và cuối cùng mới nhận ra, "Chen chúc lợi danh đà chán ngắt, Cúc tùng phong nguyệt mới vui sao." Nghĩ như thế, cho dù có bon chen cách mấy, lập được nhiều tiếng tăm, công trạng thì hạnh phúc vẫn ngoài tầm tay với, vẫn trống lổn như tôi, thấm thoát một quãng đời tiêu phí vì chọn lầm cách sống, bởi dù cho "Bao nhiêu năm hưởng thụ biết chừng nào" thì cũng "Chợt tỉnh giấc nồi kê chưa chín." Xét thế, những hưởng thụ cũng không phải là hạnh phúc mà tôi mong muốn bởi chúng chỉ là thứ chóng qua trong khi tôi mơ một hạnh phúc không tàn phai theo năm tháng. Phỏng trên đời có loại hạnh phúc này không? Và nếu nó chỉ là mộng tưởng, tại sao ai cũng ước mơ? Đồng ý rằng muốn bình thiên hạ thì quốc gia phải thịnh trị, gia đình cần được tề, và trước tiên người muốn tề gia lại phải tu thân. Tuy nhiên, người ta tu thân với mộng làm lớn cho danh vọng cao, cho uy quyền trải rộng nên cần sống khắt khe, phải kiêng cữ điều này, phải tuân theo luật kia. Tôi không mơ ước ăn trên ngồi trốc, đè đầu đè cổ thiên hạ mà chỉ kiếm tìm niềm vui hạnh phúc không bị lệ thuộc vào tiền tài, danh vọng hoặc bất cứ gì chóng qua thì mõi mắt kiếm tìm cũng không ra phương pháp thực hiện... mà chỉ gặp những lý thuyết mơ hồ không rờ tới được. Tôi không muốn nói về hạnh phúc mà muốn thực hiện, có, để sống hạnh phúc.

Kiếm tìm trong Kinh Thánh, một chân trời mới mở rộng cho thấy sự liên kết mật thiết giữa cuộc sống tâm linh với thực tại của con người khiến tôi muốn cảm nghiệm những điều Kinh Thánh đưa ra, một Thượng Đế yêu thương, một Đức Giêsu hiện thực được liên lạc không chỉ đơn giản bằng đức tin, qua phép rửa mà còn nơi những biến cố kẻ tin gặp được nơi cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, tôi lại phải đối diện ngay một thực tại mông lung không khác gì hạnh phúc mà tôi đang kiếm tìm. Chẳng hạn, đức tin được hiểu là lòng tin tưởng chắc chắn rằng có một Thượng Đế, Kitô hữu gọi là Thiên Chúa, hiện hữu, có thật, Ngài quyền năng, nghe lời và giúp đỡ những người kêu cầu; đồng thời cũng tin thật rằng Đức Giêsu Kitô là Ngôi Hai, Con Một Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại khỏi ách tội lỗi. Đức tin đơn sơ ấy chứa đựng cả một sức mạnh chữa lành các bệnh tật, thực hiện những chuyện cả thể, rời non lấp biển như trong Tin Mừng Mathêu (17:20, 21:21), "Quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó! Nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì," nhưng phương pháp nào phải theo để có được đức tin như thế? Đọc Kinh Thánh, đọc các sách giải thích coi bộ ngon lành lắm... Con người thật quyền năng vì được Thượng Đế ban cho sức mạnh nhờ ở lòng tin nên muốn thế nào được thế ấy. Tuy nhiên, nhìn vào thực tại, chuyện đơn giản và dễ thực hiện nhất, lúc đau khổ, dùng đức tin để kêu cầu, đau khổ vẫn còn đó, đồng ý rằng có phần nào nhẹ bớt nhưng không cách nào dời nó đi được. Tại đức tin yếu kém hay tại không biết cách cầu, không biết cách xử dụng đức tin mà chính những người hô hào, cổ võ đức tin, sống đức tin, rao giảng đức tin đã không có thể thực hiện được chuyện đơn giản như thế trong khi lại nghĩ đến những việc cả thể hơn? Mang ý nghĩ như thế, tôi nhận ra rằng, thay vì nói đúng nghĩa trên giấy trắng, mực đen nơi Kinh Thánh, người ta lại viết sách giải thích thành những ý tưởng khác nhau... Chỉ một cuốn Kinh Thánh, cả muôn ngàn cuốn sách khác giải thích chất chứa đầy lý luận tương tự như người ta đã viết về định nghĩa, tính chất tưởng tượng của hạnh phúc.

Đọc Cựu Ước, tôi thấy một Thiên Chúa rất gần với loài người nhưng sao vẫn còn phải qua trung gian những tiên tri, đặc biệt như Môi Sen. Vậy những tiên tri đã nghe được tiếng của Thượng Đế bằng cách nào...? Họ được Thượng Đế chọn làm sứ giả; phỏng đó chỉ là một lối diễn tả về những người đã biết cách liên lạc trực tiếp với Ngài hay thực sự chỉ những ai được ưu đãi hoặc bị chọn mới có thể liên lạc như thế. Nếu sự liên lạc này chỉ dành cho một số người may mắn nào đó thì chẳng có phương cách nào cho tôi ứng dụng để kiếm tìm hạnh phúc. Những câu chuyện Hòm Bia, chiếm thành không cần chiến đấu, chỉ nhân danh Chúa của đám dân lang bạt nơi sa mạc mà chuyện xảy ra... Những sự kiện được ghi chép lại này thật hay giả...? Vậy câu chuyện Đavít ngủ với Bathsheba vợ của Uriah (2Sm 11:3) khiến bà ta có bầu rồi tìm cách giết Uriah phỏng có phải là chuyện hoang đường? Nếu hoang đường thì ghi chép lại làm gì? Đức Kitô đã cầu nguyện thế nào mà có được quyền năng lạ lùng ấy đến nỗi bị những người đương thời ghen tương cho rằng dùng tướng quỉ để trừ quỉ (MK 3:23-24)? Các tông đồ của Ngài chỉ là những dân chài đơn sơ chất phác, theo Ngài và cũng thực hiện được những việc lạ lùng như vậy (MK 3:13-14). Đọc Tông Đồ Công Vụ, Phaolô bị quật rơi khỏi ngựa trên đường đi Damascus, nghe tiếng Đức Kitô quở trách về hành động bách hại Kitô hữu và về sau trở thành người rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại. Một Phêrô nhút nhát, ba lần chối không biết Đức Kitô... thế mà sau khi Thánh Thần hiện xuống trên ông cũng như các tông đồ, ông đã trở thành một người can đảm, có năng quyền lạ lùng như chữa lành người què bẩm sinh (Acts 3:1-9) do nhân danh Đức Kitô; Ananya và Saphira nói dối Phêrô bị trừng phạt chết đổng tử (Atcs 5:1-11); ông chữa người bất toại Aeneas ở Lydda (Atcs 9:33-35), chỉ dùng lời cầu nguyện mà bà Tabitha ở Joppa đã chết, được tẩm liệm vào áo quan sống lại (Atcs 9:36-43). Nào phải riêng một mình Phêrô, các tông đồ khác của Đức Kitô cũng nhờ cầu nguyện mà làm được lắm sự lạ (Atcs 5:12-16).

Điều làm tôi thắc mắc đặt câu hỏi là sự khác biệt giữa kết quả của cầu nguyện và đường lối thực hành đạo của những Kitô hữu. Thực tế cho thấy có những tổ chức Kitô hữu khác nhau như Công Giáo, Tin Lành, Anh Giáo, Baptít, United v.v... mà những phương cách thực hiện đức tin của họ chỉ là tới nhà thờ nghe giảng giải cùng làm những việc đạo đức, sống luân lý... Nói chung, họ tìm cách sống một cuộc sống tốt lành chứ không kiếm đường lối thực nghiệm đức tin hoặc phương pháp nào cho có đức tin bằng hạt cải. Điều kiện Đức Kitô nói lên chỉ là đức tin vào Thượng Đế bằng hạt cải đã không được mổ xẻ mà chỉ thấy những định nghĩa đức tin, những áp dụng sao cho có đời sống luân lý và đạo đức tốt lành... Chả lẽ không ai tốt lành đủ? Và nếu sống tốt lành đủ theo Kinh Thánh là có đức tin thì tại sao chưa ai có đức tin bằng hạt cải? Vậy phương pháp nào cho tôi theo để có được đức tin như thế? Đức Kitô cầu nguyện, các tông đồ cầu nguyện và những việc cả thể xảy ra chả lẽ trên thực tế, không Kitô hữu nào có thể cầu nguyện giống như Đức Kitô và các tông đồ được sao?

Nơi Gioan 4: 23-24, "Nhưng giờ sẽ đến - và ngay bây giờ - những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật" (bản dịch N.T. Thuấn) mang nghĩa gì? Thần khí là gì và tôn thờ trong Thần khí là thế nào? Cách nào để biết là có Thần khí hay không? Thế Công Vụ Các Tông Đồ 2:17, "Ta sẽ đổ Thần khí Ta trên mọi xác phàm. Và con trai, con gái các ngươi sẽ tuyên sấm, thanh niên của các ngươi sẽ thấy thị kiến, kẻ già lão trong các ngươi sẽ chiêm điềm mộng. Và cả trên các tôi trai, tớ gái của Ta, trong những ngày ấy, Ta sẽ đổ Thần khí Ta xuống, và chúng sẽ nói tiên tri" muốn nói về điều gì? Lý do gì thúc đẩy Phêrô nói những lời này và ông đã muốn chứng minh chuyện chi? Theo Kinh Thánh, sau khi lên trời, Đức Kitô sai Thánh Thần xuống trên các tông đồ nên các ông có đức tin mạnh mẽ và cũng chính đức tin ấy đã kiến tạo nhiều chuyện lạ lùng. Tuy nhiên, nơi đoạn Thánh Kinh khác, Đức Kitô lại nói các con có thể làm nhiều việc cả thể hơn nếu có đức tin (Gioan 14:12), nhưng tại sao Đức Kitô lại đã phải đặt vấn đề: "Tuy vậy, khi Con Người đến phỏng sẽ còn gặp được lòng tin trên trái đất này nữa không?" (Lc. 18:8).

Xét như vậy, những hành động đạo đức không phải là phương cách để tăng thêm đức tin mà chỉ là những sự việc diễn tả một phần nào đức tin có nơi mình. Đức tin, theo nghĩa này, khác với sự tin tưởng hay niềm tin. Đức tin và sự tin tưởng hay niềm tin có thể có cùng lối diễn tả nhưng nếu cứ xét theo câu Phúc Âm (Mt. 21:21) "Quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này: 'Xê đi mà nhào xuống biển' thì sự đó cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" chứng tỏ đức tin tự mang năng lực hoạt động trong khi niềm tin hay sự tin tưởng chỉ giúp con người ta thêm phần nào năng lực chấp nhận thực tại. Đức tin của một người như thế không tùy thuộc thể chất hay cá tính nhưng niềm tin và sự tin tưởng lệ thuộc tính chất con người. Suy như vậy, đức tin bao gồm niềm tin hay sự tin tưởng; nói cách khác, một người có niềm tin, có sự tin tưởng vào Thượng Đế chưa chắc đã có đức tin.

Vì đức tin mà các tông đồ bỏ hết mọi sự đi rao giảng tất nhiên đức tin này không đơn giản như tôi thường nghĩ, thường được nghe nơi các nhà truyền giáo, các cố đạo giảng dạy. Đức tin khiến Phaolô thay đổi hẳn lối sống, đang lùng bắt Kitô hữu mà quay ngược trở lại rao giảng và tuyên xưng ông tổ của Kitô hữu là chúa tể của mình tất nhiên không phải là chuyện tin tưởng mù mờ rằng có một Thượng Đế không ai rờ thấy được, khó cảm nghiệm, có thể thay đổi đượccon người quyền quí và có học thức như thế. Đức Kitô quật Phaolô ngã ngựa như thế nào? Công Vụ Các Tông Đồ kể lại đúng sự thực hay dùng lối ám chỉ? Điều kiện hoặc phương pháp nào để có được đức tin bất chấp tất cả những quyền hành, danh vọng và chấp nhận cả một đời theo đuổi? Như vậy, đức tin đã mang lại cho người đạt được nó một sự say mê, một tâm tình hạnh phúc tuyệt vời đến độ tất cả những gì cao sang quyền quí trên đời này nếu đem so sánh trở thành vô giá trị.

Thuở ban đầu, Đức Phật từ bỏ quyền hành, địa vị, cuộc đời sang giàu, bỏ cả vợ con để đi vào cuộc đời thiền niệm chắc chắn phải có điều gì hấp dẫn hơn, chắc chắn phải đạt được niềm hạnh phúc hơn. Nếu nói rằng vì thương người khác, thấy người khác đau khổ mà có thể bỏ vợ con, chức quyền, vậy sự ra đi này không làm cho vợ con đau khổ sao? Quyền hành nắm trong tay, của cải không thiếu, lại làm vua một nước thì đưa ra một đường lối giúp dân chúng có cuộc đời thoải mái hơn nào khó gì? Đặt vấn đề như thế, Đức Phật từ bỏ mọi sự tất ngài sau khi đã ngộ ra sự bất lực của quyền bính và của cải nên gặp được sức mạnh nào đó lôi cuốn đến độ dù cho những điều tuyệt vời mà người đời thường mơ ước cũng không thể nào kéo ngài trở về. Đem ý nghĩ này so sánh với cuộc đời của Phaolô, các tông đồ Đức Kitô, họ cũng đã bỏ tất cả để bước vào con đường rao giảng... Chỉ có thế giới thần linh mới lấn át được những sự ham muốn bình thường thế tục mà cần phải có một phương pháp nào đó là nhịp cầu. Đức tin, Kitô hữu gọi thế, đưa dẫn kẻ tìm kiếm đạt được hạnh phúc khác với những gì chóng qua của thế giới trần tục mọi người thường theo đuổi như danh vọng, chức quyền, tiền bạc, tình ái v.v...

Nhiều người bàn luận, phân tích về ngón tay Đức Phật chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ngài không phải là mặt trăng. Theo sự suy luận này, tất nhiên cuộc đời thiền niệm không phải là điểm cho những người theo ngài nương bóng mà điều Đức Phật đã đạt được mới là cùng đích ngài muốn người khác kiếm tìm. Đức Kitô rao giảng về nước trời đồng thời cũng dạy rằng nước trời ở giữa mọi người, ngay tại trần thế này nhưng người ta không nhận biết (Luca 17:21) "Người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay 'ở đó' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông." Và điều kiện để nhận ra nước trời cần có nhãn quan như con trẻ (Mt. 18:3; Mc. 10:15; Lc. 18:17) "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời." Nước Trời tất nhiên có thể là hạnh phúc nhưng phỏng niềm hạnh phúc mà tôi tìm kiếm có phải là những việc lành để tôn vinh Thượng Đế và nên như trẻ nhỏ là không bị những quan niệm, kinh nghiệm thèm muốn danh vọng, tiền tài, chức quyền ảnh hưởng? Ngược lại, làm sao cái nhìn của trẻ nhỏ có thể đặt vấn đề kiếm tìm hạnh phúc?

Lão thì vô vi, chẳng nên làm gì hoặc càng làm ít càng tốt. Phật lại tất cả chỉ là không không, nên phải nhận thức như thế nào cho mình thành vô ngã. Công Giáo rằng mình đang đối diện với nước trời mà không nhận biết, muốn biết phải trở nên như trẻ nhỏ... Chẳng lẽ những lời nghịch thường này không mang nghĩa lý gì, là vô vi, là vô ngã, là sự thật con người đang đối diện bởi đã vô vi, vô ngã thì cần gì phải kiếm tìm vì còn kiếm vô vi, vô ngã thì vẫn còn sắc sắc... Thế nhưng chẳng lẽ những lời lẽ này vô giá trị hoặc đã bị cố tình tạo nên hỏa mù khiến không ai hiểu được làm cho Đại Ngã, Thượng Đế, có vẻ thần bí, xa cách con người? Phỏng những đạo giáo, tôn giáo lớn lao như vậy chỉ là lý thuyết rỗng không? Phải có nguyên lý bất biến nào đó mà người ta chỉ có thể cảm nghiệm nhưng cứ nói quanh quẩn, vẽ rắn thêm chân cho có vẻ học thức, học giả, thức giả... coi chừng nói giả nữa thì chỉ là tên câm. Đã vô vi, không không, đã trở nên như trẻ nhỏ thì luật lệ, phương pháp áp dụng, những kiến thức cũng trở thành hư vô. Thế sao muốn đạt tới vô vi lại lắm thứ phải theo...? Muốn không không lại còn phải ngồi kiết già, kiết non? Muốn trở nên như trẻ lại phải giữ giới răn vì trẻ nào biết tạo ra luật mà giữ? Vô vi, vô ngã đâu cần hình thức, đâu cần luật lệ!

Hơn nữa, đồng ý rằng, thực hiện những điều tốt lành đem lại niềm vui thanh thản và giúp con người nhận ra giá trị đáng sống của cuộc đời mình nhưng làm thế nào để có được niềm hạnh phúc này bất tận... Phỏng muốn có được niềm hạnh phúc này kéo dài mãi mãi thì phải suốt đời chạy theo những việc lành mà thực hiện? Hơn nữa, mề đay nào không có mặt trái và điều tốt lành mình làm đã chắc gì tốt lành đối với kẻ khác hay có thể trở nên nguy hại cho họ. Dĩ nhiên, khi quen làm bất cứ việc gì cũng đều sinh ra thói đam mê... nhưng sức người hạn hẹp mà cuộc đời thường ngược lại, nhận ra được một điều tốt lành nên làm tùy thuộc thời điểm và hoàn cảnh thì cả ngàn điều khổ ải chưa kịp để ý đã vội trờ tới cần giải quyết... Làm sao con người có thể cảm nhận được hạnh phúc khi còn đang phải đối diện với thực tại lắm bất công trong cuộc đời? Hạnh phúc nào không bị cuộc đời làm phiền toái? Phúc Âm nói "Nước Thiên Chúa ở giữa các ông" mang nghĩa gì?

Theo Lão Tử, "Đạo mà nói ra được không còn phải là đạo 'thường' nữa" (Lão Tử Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Sống Mới; Arkansas; tr.41), và "Ngôn giả bất tri" thì sao có thể truyền đạt cho ai. Đàng khác, vô vi (vô dục) mà "Vi đạo nhật tốn, tốn chi hựu tốn, dĩ chí ư vô vi" (LTTH. tr.54) thì làm sao vô vi vì còn ý muốn bớt thì vẫn còn dục. Thế nên, nếu đã vô vi thì đâu cần nói đến vô vi hoặc hữu vi.

Đam mê tìm kiếm niềm hạnh phúc bất diệt dẫu vẫn chưa đụng được đến chiếc bóng của nó đã khiến tôi thờ ơ với Lan; thế rồi một hôm tôi nhận được lá thư.

Ngày... tháng... năm...

T.M. thân mến,

Có thể lá thư này thừa thãi đối với T.M. vì dù gì hơn bốn năm quen nhau T.M. đã thừa biết tính của Lan. Khi yêu, mọi tội lỗi giận hờn Lan xóa bỏ hết nhưng khi cảm thấy tình mình chỉ một chiều thì Lan đếm, tính toán cả những tiếng thở dài. Nói như thế không có nghĩa là Lan kể lể hoặc van xin rồi lại cũng chứng nào tật đấy và cứ tái diễn, tái diễn mãi không thay đổi. Con người ta say riết rồi cũng phải có lúc tỉnh, cũng như Lan yêu là chấp nhận tha thứ nhưng khi thấy sự tha thứ của mình là một danh từ hão tự đặt ra rồi lại tự diệt nó để làm trò cười cho T.M. thì có lẽ từ bây giờ... Lan chấm dứt không còn xài nó nữa.

T.M., sau hai tháng suy ngẫm và nghiệm chứng Lan thấy rõ chúng mình cùng là bạn đồng hành, càng hiểu, càng yêu nhau nhưng hai mục đích khác nhau. Lan không có lý tưởng cao siêu hơn tình yêu nên khi gặp T.M. đã muốn dừng chân. Lan không coi T.M. là một trạm đường trong khi với riêng T.M., đường còn xa, cần dừng chân nghỉ ngơi, ăn uống và tiếp tục đi. T.M. có những nhu cầu cần phải có trên chuyến đường dài mà Lan thì lại lầm lẫn giữa nhu cầu và tình yêu. Như vậy câu trả lời của T.M. đã thật rõ ràng, ngay từ lúc đầu mà Lan vẫn mập mờ đánh lận con đen không muốn hiểu.

T.M. không coi Lan là của riêng mình thì đâu sợ mất. Không là của riêng thì là của chung, như một máy nước ai vào uống, đập phá cũng được vì đâu phải của mình mà mình đau, mình xót. Không coi là của riêng thì đâu mất công theo đuổi, tán tỉnh, chiếm giữ. Một căn nhà đẹp, giá trị và hợp nhãn thì người mua mới có quyết định dứt khoát chứ còn tầm thường như mọi căn nhà khác thì khi nào mua chả được.

Nhiều lần Lan buồn vì câu nói ấy nhưng lại tự an ủi mình rằng T.M. có lý, thôi thì mình tập thử xem và thú thật đã bốn năm càng lúc Lan càng tỏ cái si tình khờ khạo ngu dại của mình. Biết T.M. có lý tưởng, Lan bằng lòng đi bên cạnh nhưng T.M. là kẻ tham lam chứ không hẳn như đã nói. Kẻ tham lam thấy gì cũng muốn có... Lan có cái giá trị riêng của Lan mà chỉ vì từ lâu yêu T.M. Lan đã ngu muội vứt nó sang một bên. Bởi vì Lan coi T.M. là trên hết, trên hết mọi thứ nên khi không được đáp trả thì Lan tiếc. Đúng như T.M. nói lần nào Lan cũng khiêu chiến, cũng gây gỗ trước và rồi lại tự làm hòa. Vì yêu, Lan trơ truốc mặt dạn mày dày như thế nhưng T.M. ạ, Lan chỉ yêu người yêu Lan thôi.

Xưa kia, Lan cứ nghĩ cái lý tưởng T.M. chọn là trên hết, Lan là kẻ đến sau v.v... và Lan cũng tin rằng nếu T.M. bỏ được lý tưởng đó thì mọi thứ sẽ bỏ được hết. T.M., một câu nói thật nói thẳng mà Lan còn cố biện hộ cho T.M. chỉ vì tin là T.M. yêu mình.

T.M., nếu viết hết cảm nghĩ thì có lẽ cho đến giờ Lan nhắm mắt cũng không thể diễn tả hết và rồi lại ba bẩy hai mươi mốt ngày lăn dưới chân T.M. khóc lóc vì con tim mình không chịu nổi những đau đớn, vì lý trí không chống cự lại với cám dỗ ngon ngọt của loại trái cấm khó nuốt. T.M. biết hết về Lan nên ung dung như con mèo gian ác vờn chuột bằng những móng vuốt thu gọn. T.M. thích thú với trò chơi chú Tiểu Lan chôn xác bươm bướm nhưng có trò đùa nào mãi bưng bít và mãi tồn tại? Dù sao cũng cám ơn T.M. tuy đùa nhưng vẫn nói thật, vẫn ký giao kèo hẳn hòi cho nên mình xa nhau là tại Lan muốn chứ không phải tại T.M. vì T.M. có muốn chiếm giữ đâu mà sợ mất, có yêu đâu mà đau khổ. Và cũng vì thế mà khi Lan nhắm mắt thì đừng vờ vịt lai vãng mà người chết phải thêm một lần trào nước mắt vì uất hận.

P.S. Đừng nghĩ là Lan hận T.M. vì T.M. đến với Lan trước sau như nhất, chỉ có Lan tán tỉnh, thương yêu quyến rũ và nghĩ là T.M. yêu Lan mà thôi. Có điều biết là Lan đã tỉnh thì nên tránh kẻo mang vạ vào thân. Cám ơn T.M. đã dạy Lan nhiều bài học nên thân. Kinh nghiệm nào chẳng phải trả cho nó cái giá. Vĩnh biệt.

Lan không ký tên nhưng lá thư do chính tay nàng viết. Từ hai năm nay nàng vẫn thế; đã nhiều lần trách tôi thờ ơ với tình yêu của nàng, ghen với sự suy tư và cho rằng tôi mê những ý nghĩ hơn yêu nàng. Một buổi chiều cỡ hai tuần sau khi nhận thư, tôi về Sàigòn tới nhà nàng. Vừa bước chân vào khỏi cửa, tấm hình bán thân chụp nghiêng phóng lớn của Lan được đặt trên tủ buffet phía sau một bình hương chen chúc những chân nhang, vươn cao lên chơ vơ mấy cọng hương tắt ngang dang dở. Nàng nhìn tôi đầy vẻ trách móc. Đôi mắt thơ mộng ngày nao giờ nặng trĩu nét buồn cô độc. Phỏng đây là sự thực? Tôi không tin đôi mắt của mình và cũng không tin Lan bày chuyện hù tôi. "Em đã bị đụng xe, tử thương một tuần trước!" Mẹ nàng bảo thế với dáng trầm mặc chấp nhận như cố nén tiếng thở dài. Tôi vẫn đứng như trời trồng không lời chào hỏi; tôi muốn đập phá; tôi muốn thế giới này nổ tung lên cho tan nát chính mình. Thế là hết, dẫu không tin tôi cũng phải chấp nhận. Chúa bóc lột tôi đến độ trơ trọi; Thượng Đế giáng đòn hằn trên tôi... nhưng tôi đã làm gì? Cố gắng sống tốt lành để giờ đây mất tất cả, tại Chúa hay tại tôi?

Khí hậu của Sàigòn nóng đổ lửa mà tôi cảm thấy mình lạnh run, chừng như xương sống của tôi đã trở thành băng giá tỏa sức rét mướt ra bên ngoài cơ thể tạo nên mồ hôi. Đời tôi đã mất Lan, mất thật rồi, chẳng còn gì để bám víu. Ngày xưa khi còn nàng, tôi lấy làm thường và coi chuyện tình yêu chỉ như phần hương hoa của cuộc sống. Đúng, tôi yêu nàng, nhưng hai đứa mỗi người một cuộc đời; yêu nhau là đủ, mình yêu người và người yêu mình, tôn trọng lẫn nhau, không làm gì phiền hà tới người mình thương, không phải đối diện với những lẩm cẩm chẳng ra gì của cuộc sống hôn nhân... Nếu tôi chấp nhận có một đứa con như nàng đã có lần đề nghị thì giờ đây ít nhất còn có thể vớt vát lại phần nào hình bóng của nàng. Nhưng, lại cũng chữ nhưng rởm, tôi mang niềm cao ngạo chẳng ra gì vì không muốn bị mặc cảm làm hoen ố người mình yêu. Cái tính chất quân tử tầu nửa làm tôi hối tiếc, nửa trở thành niềm ủi an vì cảm thấy mình đã giữ được lòng tự trọng trong sự tôn trọng nàng.

Không gian chung quanh sầm tối khiến nổi bật khung hình nàng đang nghiêng nghiêng nhìn tôi với đôi mắt ngập đầy u uẩn. Em ơi, em đâu muốn tôi trở thành thằng hèn. Em biết tôi chân thành yêu thương và tôn trọng em...; đứng bất động ngắm ảnh nàng, tôi thầm nghĩ. Em đã đem theo tất cả năng lực sống trong tôi; có em là có tất cả và bây giờ không em, đời tôi không còn ý nghĩa. Giờ này tôi đã cảm nghiệm được tại sao đã có những người không muốn sống mà thích chết, hoặc sống hay chết cũng như nhau; thế nên tương lai đã không còn gì đáng để đợi chờ, mơ ước; mà có chăng, chết lại là một sự giải thoát khỏi phải đối diện với nỗi đau tận đáy tâm tư. Chợt nghĩ lại mình, hình như con tim không muốn đập, cũng chẳng muốn thở mà chỉ ước mơ được lịm đi, cho hơi thở ngàn dần lặng bước vào cõi hư vô...

-Anh T.M., má Lan chợt gọi.

Tôi ơ thờ hướng về phía phát ra tiếng nói lòng nặng nề không thiết trả lời.

-Anh làm sao vậy? Em nó chẳng may ngắn vận qua đi; anh đừng đau lòng quá... Nhiều khi tôi nghĩ, nếu hai người cưới nhau sớm thì tai nạn đâu có xảy ra... Nhưng có nói chi chăng nữa thì chuyện cũng đã rồi; tôi có con mà cũng như không... Giọng bà sụt sùi, đưa tay lau nước mắt.

Tôi chẳng biết nói sao... Chỉ nghĩ, ít ra bà hãy còn bác trai; riêng mình, thực sự trơ trọi. Phỏng tôi còn có thể yêu ai được nữa không? Phỏng với tâm trạng không thiết tha với cuộc sống như thế này đời tôi từ nay sẽ ra sao? Nỗi nhung nhớ đau thấu tâm can khiến tôi tự trách mình đã vướng vào tình cảm cho ra nông nỗi này. Còn đâu ân tình ngày cũ, còn đâu hình bóng ngóng chờ. Căn nhà này, bàn viết kia, những chiếc ghế, những bức hình có Lan treo trên tường trở thành muôn ngàn mũi giáo kỷ niệm đua nhau xâu xé tim tôi. Nó tê dại rồi, nó nát tan thành từng mảnh nhỏ hòa theo dòng máu cho tôi bốc thành hơi. Tôi muốn biến thành làn hơi vô hình dõi tìm bóng dáng Lan... Bác khóc nữa đi, khóc cho nỗi lòng đau khổ của bác, khóc cho niềm đau khốn nạn của tôi, khóc cho tôi lịm ngất tránh phải đối diện với quãng ngày tháng hư không đang trờ tới. Từ nay, tôi nào còn biết nhớ ai mà chỉ còn nỗi đau gợi lại. Tôi hận cuộc đời, tôi hận loài người, tôi hận Chúa, tôi hận chính tôi. Bác nói đúng, nếu cưới nhau sớm Lan đâu có chết trơ trọi như thế này; nếu cưới nhau sớm, cả hai đứa cùng chết, hoặc tôi đã có được những vết thương cắt xé da thịt chia bớt nỗi đau buốt con tim. Tôi hận phận số đã đẩy đưa vào cảnh trớ trêu; tôi hận những ông thày cũ đã dạy tôi luyện tập cá tính tự trọng. Ừ, nếu chúng tôi yêu nhau, đừng chống cưỡng lại bản năng tự nhiên của con người thì phỏng tôi có bị đau lòng như thế này không. Tôi thầm trách Lan vì nàng đã không bắt tôi phải làm theo ý nàng. Nàng muốn có với tôi một đứa con, vâng, một đứa con nhưng tôi quân tử rởm, tôi quân tử tàu... để rồi nàng chết đi với chỉ một niềm mơ nhỏ bé mà cũng chẳng bao giờ đạt được. Tôi ích kỷ vì tự ái rởm của tôi; tôi ích kỷ vì muốn trở thành cao thượng, vì sợ trở thành thằng hèn. Ừ, hèn thì đã sao? Tôi hèn; tôi đam mê với những ý nghĩ viễn vông mà không dám đối diện thực tại, không dám đón nhận những phiền hà để sống với Lan. Tôi là thằng hèn vì chỉ thằng hèn mới sợ trở nên hèn!

Cổ họng chừng như nghẹn lại làm tôi khó thở. Lan chết rồi tôi mới nhận ra giá trị vai trò của nàng trong đời mình... Nàng là tất cả, từ tâm hồn cho tới thể xác, là mạch máu luân chuyển cho tôi sức sống, là năng lực tạo niềm tin khiến tôi vững tâm đối diện với cuộc đời. Tôi đã coi thường mọi tranh chấp vì có nàng tôi không thích hơn thua, có nàng, mọi hình thức lấy lòng người đã không đáng cho tôi để ý mà dám sống chân thật ngay thẳng. Tôi biết và cảm được tình yêu của nàng đối với mình và biết trước sau gì hai đứa cũng hợp làm một xây dựng hướng đi cho tương lai. Thế mà giờ đây, mọi hy vọng, toan tính cho tương lai dù chỉ nơi tâm tưởng cũng theo Lan tan biến. Có nàng, tôi yên tâm hoạch định; mất nàng, tôi tan nát hư không. Những ngày trước, tôi mong thời gian qua mau để chóng gặp nàng mà từ đây thời gian sẽ trở thành bản án hành hạ quãng đời còn lại. Lan ơi, thế là hết! Anh đã phụ em; em đã chết vì anh chần chờ, do dự, vì mãi kiếm tìm một hạnh phúc mộng tưởng trong khi đã không biết nắm giữ năng lực hạnh phúc ở tầm tay... Lời vĩnh biệt viết nơi thư đã trở thành bản án bất diệt theo anh cắn rứt từng ngày. Còn gì cho anh mơ tưởng? Còn gì cho anh tha thiết?...

Tôi bật thốt "vĩnh biệt," lặp lại lời cuối của Lan đoạn bỏ ra ngoài leo lên chiếc Honda mượn của người bạn nổ máy. Má nàng nói với theo câu gì đó tôi chẳng cần để ý... Tôi sẽ chẳng bao giờ trở lại căn nhà này, chẳng bao giờ muốn gặp cha mẹ nàng lần nữa... Tôi sợ nhìn thấy bất cứ gì gợi lại hình ảnh nàng... Tôi muốn chết vì chỉ có chết mới có thể gặp lại nàng... Đau quá, nàng hận thù tôi vì tình sẵn sàng cho đi mà không được đón nhận, không được đáp trả. Nàng chết để trả thù tôi hay vì phận số? Nàng chết để bắt tôi phải đối diện với lòng mình, đối diện với sự thờ ơ của con tim ngu ngốc chai đá không nhận ra hạnh phúc nhưng không, được nàng trao tặng, hay vì nàng muốn tìm quên lãng tránh khỏi những ray rứt bởi tha thiết yêu tôi?... Những tiếng còi xe vang lên phía sau mỗi lần vượt qua, hãy đụng chết tôi đi, hãy giải thoát tôi khỏi nỗi đau đớn này...

Tôi dựng xe, bến tầu Bạch Đằng, lại cũng chốn chứa chan kỷ niệm tình yêu hai đứa!

-Em muốn dạy cho học trò của em tinh thần tự trọng, biết tôn trọng chính mình, biết tôn trọng người khác vì giá trị làm người chứ không phải vì chức quyền, danh tiếng hay tiền tài... Lan tâm sự buổi chiều ngày lễ ra trường giáo viên tiểu học khi hai đứa chúng tôi đưa nhau ra bến Bạch Đằng hóng gió.

Những con sông chảy ra biểnmênh mang, diệu vợi; biển chảy về đâu? Những con tàu đến rồi đi, đi tới chốn nào? Đã có lần Lan so sánh cuộc đời một người với con tầu khi chúng tôi nói chuyện về định mệnh. Đời người, hợp rồi tan như mây khói và dòng đời tựa những làn gió vô định hướng đẩy đưa, mông lung và huyền hoặc chẳng khác gì tương lai ngoài tầm tay với... Chúng tôi yêu nhau thắm thiết mà khi nghĩ đến tương lai tôi không dám quả quyết. Ước mơ của nàng chỉ là một cô giáo bình dị với chức nghiệp hướng dẫn tuổi thơ; nàng sẽ là một người vợ êm đềm chấp nhận tất cả những cá tính gàn bướng của tôi, và một người mẹ yêu thương săn sóc những đứa con xinh xắn... Mộng của nàng hiện thực chỉ có thế, không đòi hỏi, không tranh đua, chỉ chấp nhận và chấp nhận trong khi lòng tôi vẫn như con thuyền ngút ngàn mơ ảo để vuột bay cánh buồm bắt gió. Buồm mất, thuyền chơ vơ vô định giữa ngàn triều sóng đổ. Lan ơi, em ở phương nào, có biết lòng tôi ngập đầy thương đau, mất mát?

"Tình chỉ đẹp khi còn dang dở," hay đối tượng tình yêu vẫn đẹp muôn thuở trong cuộc tình dở dang? Nhưng dang dở trong điều kiện nào? Bao nhiêu cuộc tình đã tan vỡ phỏng những người yêu nhau không bao giờ lầm lỡ? Thế tại sao vẫn không có được hạnh phúc khi hai kẻ yêu nhau được toại nguyện với "một mái nhà tranh đôi trái tim vàng?" Cô tôi, cũng như bao người, chán ngấy với cuộc đời bình thường vợ chồng con cái đùm đề, chán ngấy vì thực tại hôn nhân đã không như mộng ước lứa đôi. Tôi đau vì mộng tình tan vỡ. Ai hạnh phúc hơn ai? Phỏng Lan có cảm thông nổi niềm đau bất tận nơi tôi, hoặc nàng vẫn bị hương tình dằn vặt mà tôi không cảm nhận được. Cầu mong cho nàng thoát khỏi những ưu tư của kiếp nhân sinh, yên bề bên kia cõi thế. Phần tôi, đau lòng vì tiếc thương nàng hay vì cảm thấy số phận bơ vơ của mình do vắng bóng nàng từ nay?

Lan đã chết, mang theo ước vọng bình thường dang dở, mang theo tình yêu còn đang là mộng tưởng ngon ngọt chưa kịp nếm đã đậm mùi chua chát. Nàng viết thư trách như đã bao lần hờn dỗi vì thái độ ngây ngô quân tử tầu của người yêu. Những khi bực mình vì tôi ngông nghênh do dự, nàng đã nói không nên trở lại trừ khi tôi thực lòng thấy cần nàng trong cuộc sống để rồi âm thầm chịu đựng và chờ... Lâu lâu không thấy tôi ghé qua nàng đã viết thư hờn trách! Giờ đây, phỏng nàng còn hờn, còn trách? Nàng còn đợi tôi hay tôi vẫn mãi đợi nàng? Đợi trong vô vọng, đợi với nỗi ăn năn có người yêu nhưng đã không biết đón nhận. Thế là hết! Cuộc đời nàng còn lại được gì? Cuộc đời tôi phỏng còn gì để tiến tới? Phỏng cuộc sống muôn đời chỉ là tiến trình theo đuổi mộng ước và khi đã đạt được lại kiếm tìm những gì còn ngoài tầm tay với để rồi chết đi trong ăn năn tiếc nuối vì mộng không thành? Đã bao nhiêu người giầu sang, tăm tiếng, danh vọng, chức quyền hùng bá một thời, khi chết cũng đi vào mai một cho hợp câu có cũng như không? Phỏng có phải tất cả chỉ là hư không và cuối cùng hư không lại trở về với hư không?

Nhưng tôi tin tưởng và mong chờ một ngày nào đó gặp lại Lan bên kia thế giới. Chả lẽ cuộc đời con người chỉ có thế, được sinh ra, sống, và chết đi là hết? Phải còn gì nữa? Phỏng tình nàng nơi tôi cũng chỉ là hư không? Hư không sao đau thấu lòng người? Những thành quả của các bậc vĩ nhân đã qua đi vẫn còn đang mang lại lợi ích cho nhân sinh; họ chết nhưng phần nào đó của những công việc họ làm vẫn tồn tại trong thế giới hiện thực. Một khúc cây, một đoạn nến cháy tàn nhưng được biến dạng tan vào không khí qua tác dụng của lửa thì đâu phải chúng đã biến vào hư không. Như vậy, chắc chắn con người chết đi không phải là hết mà được thay đổi dạng hiện hữu chứ không mất đi. Còn sự hiện hữu khác, tất nhiên vẫn có đường liên lạc. Sự hiện hữu vô hình tuy mắt trần không nhìn thấy nhưng đâu phải là không có mà sao sự liên lạc ít ai thực hiện được. Phải có người biết, và tôi muốn biết.

Mộ của Lan chơ vơ được vun cao với lớp đất mới, xa cách những mộ khác đã được xây khung bọc hoặc tô đá rửa, trạm hình và ghi ngày tháng sanh, tử, bởi các lô đất đã được mua dành phần trước. Cây Thánh Giá dựng nơi đầu ngôi mộ nàng chỉ gồm vài nét đơn sơ ghi tên thánh, tên gọi, ngày sanh, và ngày qua đời. Mười ngày... nếu tôi về đây trước mười ngày thì ít nhất cũng còn được nhìn thấy nàng lần cuối. Mới mười ngày mà đã trở thành thiên cổ... và từ nay không ưu tư phiền não, không phải chạy theo miếng cơm manh áo lo cho cuộc sống, không giận hờn, than trách. Danh vọng, chức quyền, tiền tài không còn mãnh lực lôi cuốn kẻ đã ra đi. Hình như từ bên kia vọng về lời nhắc nhở rằng tham vọng chỉ có thể ảnh hưởng đối với kẻ chạy theo nó, chỉ làm chủ được những ai thần phục thế quyền. Nàng nằm im đó dưới lớp đất chưa kịp nảy mầm cỏ dại, phỏng có biết tôi đang bị dằn vặt, ăn năn bởi thương tiếc vì đã yêu nàng tha thiết. Tôi câm lặng mong có được cảm nhận siêu hình từ bên kia thế giới và để lòng thấm thía nỗi mất mát xót xa! Thời gian lặng qua, nghĩa trang chìm trong yên tĩnh của màu tối màn đêm đã chan hòa bao phủ... Cuộc đời tôi sẽ đi về đâu? Nơi một nấm mồ như Lan bây giờ và thế là hết? Hư không trở về hư không? Có điểm nào tương tự giữa sinh và tử? Trước khi được sinh ra, bào thai dẫu bị ảnh hưởng tâm tính và điều kiện cơ thể của người mẹ nhưng không cảm nhận được bất cứ gì do giác quan cho tới lúc lọt lòng. Nơi thế giới nhân sinh hữu hình, con người nằm trong đùm bọc cuộc đời. Sinh là khởi điểm cảm nhận sự sống hữu hạn, hữu hình; phỏng tử là khởi điểm cuộc sống vô hạn, vô hình? Thế giới cuộc sống hữu hình hoàn toàn khác biệt với thế giới của thai nhi, và nếu thai nhi cho dù khả năng cảm nhận đến mức độ nào thì cũng không có hoặc không đủ khả năng nhận thức hay cảm nghiệm về cuộc đời... Suy rộng hơn, chính ngay một người cũng không thể nào hiểu hoặc biết hết mọi khía cạnh của nhân sinh. Cũng thế, có thể thế giới vô hình bên kia hoàn toàn khác lạ với cuộc sống hiện hữu này... nhưng làm sao và những ai có thể cảm nghiệm được, ai có thể vén bức màn bí mật của cõi sau; đâu là phương pháp liên lạc?...

o o o

Năm tháng dần trôi, niềm đau mất Lan cũng từ từ nguôi ngoai nhưng lòng tôi không thể quên nàng. Tôi lây lất miễn sống cho qua vì chán cảnh phiền hà của việc đua chen kiếm tiền tài, danh vọng... hình như nhận thức về sự chết của con người đã làm tôi không tha thiết cạnh tranh với cuộc sống nên lòng thường thầm tự nhắc nhở với những lời khôn ngoan qua ca dao: "Làm giầu có số, ăn cỗ có phần," hoặc "Làm quan có mã, làm kẻ cả có giòng." Tôi so sánh, Lan cũng như bao người khác đã qua đi, danh vọng hay tiền tài nào còn được gì! Thế nên, sự bon chen vật chất và tăm tiếng chỉ làm phiền não tâm tư. Lẽ tự nhiên, "Hữu xạ tự nhiên hương;" do đó, nếu danh phận đã chẳng có mà cố gồng mình tạo tiếng tăm thì chỉ chuốc lấy sự khổ ải vào thân. Ép xác làm những điều vô ích khiến mình bực bội thà đừng có nó cuộc đời sẽ thảnh thơi, đỡ phiền... Cuộc đời này, có tiền là có tất cả thế nên ai cũng muốn giầu có và ai cũng gắng sức để làm giầu, mà thực tế chứng minh, kẻ giầu nào đã chắc gì tài giỏi hơn ai. Đa số những nhà tỷ phú ở Mỹ đâu có ai học hết trung học trong khi cuộc đời của họ thời kỳ còn nhỏ lại quá ư cực khổ... Nói cho đúng, danh vọng, giầu có, trời cho ai người ấy được chứ không phải muốn và gắng sức thì sẽ đạt tới. Có chăng, sự ham mê danh vọng tiền tài mang lại khổ ải nhiều hơn niềm vui có chúng...

Cũng có thể trong giai đoạn này thời thế đổi thay khiến người người đang trên lưng voi bị vận số vật chìm xuống dưới dấu chân trâu ngựa, đồng thời cũng lắm kẻ trở thành "chó nhảy bàn độc" khiến tôi có thái độ yếm thế chấp nhận. Tuy nhiên, lâm vào cảnh dở thằng dở ông, tôi nào tránh khỏi tâm tư bất mãn với thời cuộc nên đành tìm lối trốn thoát bởi cho dù cố gắng chấp nhận đến mấy cũng không được yên phận nơi một xã hội nhố nhăng như thực tại của lời sấm: "Thằng khôn chạy trốn, thằng ngu dạy đời." Dĩ nhiên, khi lâm vào cảnh khốn cùng ai không cầu đến Đấng Linh Thiêng hoặc bất cứ hồn người nào thân thiết mong được phù trợ. Tôi ra mộ Lan nói với nàng giúp cách tìm đường đi và lòng thì chân thành cầu cùng Chúa hơn bao giờ hết. Tôi còn nhớ hôm ấy là chủ nhật tuần thứ mười ba năm B; nơi nhà thờ, bài đọc từ sách Khôn Ngoan gieo vào đầu tôi nỗi thắc mắc lạ kỳ: "Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi người trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian. Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó" (Khôn Ngoan 1:13-15). Theo sự suy nghĩ và kinh nghiệm sống bình thường thì Thiên Chúa không tạo dựng sự chết tất nhiên sẽ không có sự chết. Vì vậy, sở dĩ có sự chết phải do động lực nào đó vì Thiên Chúa là trên hết. Đàng khác, con người có sự tự do chính Thiên Chúa cũng tôn trọng. Ác quỷ thuộc về bên kia thế giới làm sao có thể cướp quyền của Đấng Toàn Năng. Thế nên, có thể rằng sự chết lại tùy thuộc sự chấp nhận do quyền xử dụng tự do của con người bởi kẻ nào thuộc về sự chết thì bắt chước nó... Không bao lâu sau, tôi vượt thoát và được định cư tại Mỹ.

Nhân ngày nghỉ cuối tuần chẳng biết làm chi, tôi lang thang ghé vô một thư viện. Vào thời gian này, những loại sách đọc cho biết mà không áp dụng được trong cuộc sống, tôi nghĩ, đọc chỉ uổng công. Truyện, tiểu thuyết, tôi đâu cần giết thời giờ; vả lại, vốn liếng tiếng Anh của tôi nào được bao nhiêu nên cảm thấy khá ngại ngùng khi tìm sách theo tên đề nơi những hộc cards. Tôi lang thang rảo quanh những dãy kệ sách vô tình gặp cuốn Many Mansions của tác giả Gina Cerminara sau này được Nguyễn Hữu Kiệt dịch thành Những Bí Ẩn của Cuộc Đời do Xuân Thu xuất bản năm 1988. Nếu không có những bằng chứng về các sự kiện được tác giả dùng để viết đang tồn trữ tại Virginia Beach, Hoa Kỳ, thì người đọc sẽ cho rằng tác giả cố ý viết loại truyện hoang đường hỗ trợ thuyết luân hồi của nhà Phật. Đọc xong cuốn sách, tôi như bị xâu xé bởi trận chiến giữa một thực tại có thể kiểm chứng và niềm tin đã được dạy dỗ, chấp nhận từ bao lâu nay: đời sống hiện tại một người là kết quả do sự ảnh hưởng của thái độ, lối sống nơi những kiếp trước và niềm tin của Công Giáo rằng chết là sự trở về với Chúa, trở về cùng Đấng Tạo Hóa; linh hồn của một người sau khi chết được thưởng hay phải chịu phạt tùy theo lối sống của chỉ một cuộc đời độc nhất đã được ban cho nơi trần thế này.

Ông Cayce, một tín hữu Cơ Đốc Giáo, tha thiết với cuốn Thánh Kinh, không biết gì Luân Hồi, lo sợ trở thành phản đạo, có khả năng khán bệnh bằng thần nhãn qua giấc ngủ thôi miên để trả lời những câu hỏi dưới sự dẫn dụ của người khác, đưa ra những phương pháp chữa những bệnh nan y mà các bác sĩ đã chịu bó tay... Ông đã được khuyến khích dùng khả năng thần nhãn đi sâu vào công việc soi kiếp... và những sự việc xảy ra đã minh chứng rằng hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn của Thượng Đế hoặc ảnh hưởng của sự di truyền mà là kết quả của những hành động và cách xử thế của con người trong những kiếp trước. Thế nên, mọi cay đắng, thất bại, đau khổ nơi cuộc sống đều là những phương tiện giúp chúng ta tiến dần đến sự toàn thiện. Qua cuốn sách, nhiều sự kiện được ghi lại khiến độc giả ngạc nhiên nhưng điểm đánh động lòng tôi mạnh mẽ nhất là tâm tình, lời nói, hoặc thái độ đối với kẻ khác cũng ảnh hưởng đến chính cuộc sống của mình. Đã bao lâu nay, những câu rất thường: "Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi," và "Cây tốt không sinh hoa trái xấu," hoặc "gieo gió gặt bão" không ngờ lại chứa đựng chân lý sâu xa về tâm linh. Bàng hoàng xét lại sự quá quắt của cái miệng mình vì nào có bao giờ tôi chịu thua ai, gặp trường hợp không thể đốp chát được với người nói chạm đến mình, chẳng cách này thì cách khác, không dịp này thì dịp kia tôi cũng đã cố dành cơ hội buông ra những lời bất lợi cho họ, tôi cảm thấy mình cần đặt lại vấn đề. Lại còn những chuyện diễu đầy vẻ vô tình nhưng cố ý làm tổn thương tự ái người khác thì không thể nào tưởng nhớ lại cho đủ, cái miệng của tôi thua một trả mười và tâm tư luôn luôn để ý những điều gieo gió mà không nghĩ chi đến những cơn bão sẽ bị gặt... Đồng thời, tôi cũng nhận ra luật yêu thương của đạo Công Giáo không đơn giản như tôi đã nghĩ từ bao lâu nay và có thể tóm tắt bằng một câu đơn giản nhưng đầy vẻ tuyên án. Đó là nếu lời nói hoặc thái độ làm cho kẻ khác bị tổn thương, khiến họ mang mặc cảm tự ty, hoặc có hại cho danh dự của họ thì lời nói hoặc thái độ này tương đương với hành động tội ác và chính mình phải trả giá cho những điều này không thể tránh thoát.

Xét như thế, bãn ngã con người là tham sân si nên luôn luôn lầm lẫn, luôn luôn gieo gió do đó linh hồn có được những cơ hội hiện thân nơi những cuộc sống khác nhau để dần dần sửa đổi tiến tới mức độ toàn thiện trở lại kết hợp với Thượng Đế mới chứng tỏ được sự khoan dung bao la của Đấng Toàn Thiện. Cho có cơ hội sửa sai mới chứng tỏ lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa mà Đức Kitô rao giảng. Nghĩ đến đây tôi lại bị sự đe dọa của mối lo sợ rối đạo giống như ông Cayce đã băn khoăn vì e trở thành phản đạo bởi nếu cho rằng những sự việc xảy đến với cuộc đời một người chịu ảnh hưởng của cuộc sống tiền kiếp thì tôi đã chấp nhận chủ thuyết luân hồi, sự tin tưởng của Ấn Giáo và Phật Giáo. Mặc dầu lo sợ trở thành rối đạo nhưng những sự kiện được chép lại nơi cuốn Many Mansions có cả mớ tài liệu minh chứng không thể chối cãi ở Virginia Beach đã không cho phép tôi nghĩ rằng đó là chuyện huyền thoại. Do đó, tính chất phản kháng bảo vệ sự thật nơi tâm trí tôi được dịp bùng lên tranh cãi. Tôi không phải tin những sự kiện này vì chúng đã xảy ra, chúng là sự kiện cũng như tôi không phải tin những sự chữa lành mà người ta gọi là phép lạ xảy ra ở Fatima hay Lộ Đức. Đó là những sự kiện được nghiệm chứng rõ ràng, thành quả của đức tin chứ không phải là điều phải tin. Hơn nữa, nếu tin rằng Chúa có lòng thương bao la đối với con cái loài người mà không chấp nhận Chúa cho con người lầm lỗi những cơ hội sửa sai để trở nên toàn thiện rồi về với Ngài thì đương nhiên đã tự chứng minh lòng thương của Chúa giới hạn chứ chẳng bao la chút nào. Đã có những lý luận cho rằng tự con người từ chối ơn cứu độ của Chúa mà sa ngã phạm tội nên họ tự tạo nên hỏa ngục cho họ bởi Chúa không muốn ai mất đi, không muốn ai phải sa hỏa ngục. Hay, lý luận hay nhưng bể. Kinh nghiệm sống chứng minh, dẫu người con khốn nạn đến thế nào chăng nữa, có bao giờ cha mẹ đành lòng chấp nhận để con mình chui xuống hỏa ngục đời đời trong khi có thể giúp nó phương tiện khác tránh khỏi sự trầm luân vô tận đó không. Con người giới hạn còn thương con như thế thì Thiên Chúa với tình thương bao la sẽ như thế nào? Phỏng câu nói "Chúa phạt xuống hỏa ngục đời đời" có phải là kết quả của sự nóng giận bất thường nơi con người hay là một cách nói lên lòng thương của Chúa chỉ giới hạn thua con người. Phỏng tin rằng Chúa không cho mình cơ hội để sửa sai dẫu sau khi chết có phải là một lối minh chứng Chúa của mình không từ bi bằng Đức Phật, thua Thượng Đế của Ấn Giáo? Có phải đã bao lâu nay tôi "đì" Chúa của tôi? Đồng ý rằng đạo Công Giáo cung cấp nhiều cơ hội đó là những phép Bí Tích cho con người trở về với Chúa, nhưng gặp những trường hợp không bởi tự mình và chính con người cũng không đủ khả năng để nhận thức thì lỗi lầm đổ tại ai? Trong Phúc Âm đã có trường hợp các môn đồ hỏi Đức Kitô về một người mù: "Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó để nó phải sinh ra mù lòa vậy?" (Gioan: 9:2) mà Đức Kitô đã trả lời "Để công việc Thiên Chúa được hiện tỏ" có nghĩa thế nào? Đã bao nhiêu thế kỷ con người không biết sự ảnh hưởng của chất rượu trên não bộ thai nhi, đã bao nhiêu người vừa sinh ra với bộ óc lệch lạc thì kết quả của lầm lỗi này do Chúa hay do sự thiếu hiểu biết của con người? Những hậu quả tai hại bởi sự thiếu hiểu biết từ xưa đến nay phỏng không phải là những trọng tội kinh khủng mà chính con người cũng không nhận ra trọng tội bởi dốt nát, đam mê thỏa mãn sở thích... trong khi lại hùa nhau kết án cá nhân... không đáng quăng xuống hỏa ngục đời đời thì những lỗi phạm cá nhân nào thấm thía gì? Vậy hỏa ngục ở đâu? Chỗ nào xử phạt những lầm lỗi quá lớn lao này? Tuyệt, tôi cảm thấy vui mừng khi đặt vấn đề đến đây vì đã có giải đáp. Chẳng còn hỏa ngục nào gớm ghê hơn cuộc đời chúng ta đang phải đối diện thường ngày. Nó đầy đủ mọi cực hình, mọi ham muốn hành hạ con người đến chết thì thôi và chỉ có chết mới thoát nỗi khổ ải triền miên này, chưa chết, chưa thoát ham muốn cho dù ham muốn được xếp vào loại nào, tốt hay xấu. Thực tâm nhìn lại chính mình, chưa chắc những ham muốn điều xấu đã làm con người đau lòng bằng ham muốn điều tốt lành. Bạn nghĩ thế nào khi thấy một số người giết những thai nhi kết quả của bản ngã không tính toán? Nỗi đau nào xót xa hơn vì muốn ngăn cản mà dành bó tay nhìn kẻ khác thực hiện tội ác? Vết thương lòng này bao giờ mới có thể được xóa nhòa nơi tâm hồn những người mẹ giết con? Và rồi thế nào đối với những người lương tâm bệnh hoạn?

Nghe những chuyện ma, những chuyện cầu hồn, tôi tin tưởng có một thế giới bên kia đồng thời cũng tin có những sự kiện thực của cõi vô hình đang tiếp diễn phía sau những nghi thức mà nhiều khi vì "vô tri bất mộ" con người không nhận biết. Mò mẫm hỏi về cầu cơ, một phương pháp đơn giản để liên lạc với các hồn bên kia với ý định thử, những người đã quá quen thuộc với cầu cơ kể khá nhiều chuyện ly kỳ. Nào là họ nhờ ma xó mời hồn của bố mẹ họ về cho biết tình trạng bên kia của ông bà ra sao, nào diễu chơi với hồn, hoặc có lúc hỏi vài câu để có sự trả lời về những gì có thể kiểm chứng ngay nơi một vài người khách đến thăm khiến họ ngạc nhiên v.v... Có người kể, hôm ấy một hồn người Pháp, ông ta là thi sĩ, đã đọc cho họ chép nguyên văn bài thơ bằng tiếng Pháp mà ông ta đã chưa kịp gửi cho báo đăng trước khi chết trận ở Việt Nam. Người thì kể khi hỏi muốn gì, hồn trả lời muốn hút thuốc, hồn muốn ăn phở. Một hôm, đang mùa chôm chôm, hồn lên muốn ăn chôm chôm; nhân tiện nhà còn ít chôm chôm đã để mấy ngày, người cầu cơ lấy ra đĩa bưng đến; hồn không chịu vì chê chôm chôm đã bị dập thâm mất một ít. Người đứng ngoài lên tiếng nói muốn ăn chôm chôm tươi thì mua mà ăn, và hồn chạy cơ trả lời là nói đểu. Điều đặc biệt, mọi người đã từng cầu cơ đều có nhận xét rằng những hồn, những ma xó tuyệt đối không bao giờ được phép nói lên bất cứ điều gì bất lợi hoặc làm hại đến bất cứ ai; các hồn chỉ nói những điều vô thưởng vô phạt. Tôi vẽ bàn, ngồi cầu cơ chung với họ nhưng hồn không lên, cơ không chạy và bị cho rằng vì tôi không tin hoặc có một số người cầu, cơ sẽ không bao giờ lên.

Người khác kể rằng bên cạnh nhà anh ta ở Việt Nam có một gia đình cầu hồn để bói toán kiếm tiền. Anh ta là Công Giáo nên cho rằng làm như thế là sai, có hại cho những người tin dị đoan. Một buổi tối, anh ta lấy nước phép ở nhà thờ về rảy lên mái nhà người cầu hồn, và thế rồi hôm sau họ gọi hồn không lên nên chẳng bói toán chi được. Gia đình cầu hồn nhận ra có điều gì đã xảy đến nên sang nói với gia đình anh ta rằng họ không làm gì đụng chạm đến cuộc sống và niềm tin của gia đình anh ta thì cũng làm ơn đừng phá họ.

Một cụ cỡ chừng bẩy mấy kể cho tôi nghe chuyện chính cụ chứng kiến. Số là có một thày giảng giúp xứ đạo cụ ở ngày xưa; nhà thờ ở cách một ngôi chùa chừng nửa cây số. Thày giảng ngày đó cũng đứng tuổi, cỡ sáu mấy, bẩy chục và biết về môi. Năm ấy, nhà xứ trồng được một vườn cà ghém rất sai trái đã đến lứa. Mới tối hôm trước cha xứ nói thày giảng ngày mai hái cà bán thì sáng hôm sau không hiểu sao ai đã hái trộm sạch cả một lứa cà. Thày giảng trình cha xứ, có điều, cha xứ cũng dễ tính nên chuyện qua đi không thắc mắc trong khi thày giảng lộ vẻ hơi bực bội. Ít lâu sau đến lứa cà tiếp theo cũng thế, cha xứ mới dạm nói hái cà bán tối hôm trước thì sáng ngày ra đã có ai hái trộm thêm lứa cà nữa. Thời gian trôi qua không chuyện gì khác thường xảy đến cho tới vụ cà thứ ba; tối hôm ấy cha xứ nhắc thày giảng ngày mai hái cà vì đã tới lứa. Cỡ bẩy giờ sáng hôm sau nhà chùa cho người sang gặp cha xứ để thưa chuyện và muốn gặp thày giảng thì lúc ấy thày đang ngồi bắt quyết trong khi chung quanh vườn cà thấy có mấy đường chỉ ngũ sắc căng ngang và không hiểu sao khá nhiều lá tre tấp vào dính đầy trên những đường chỉ ngũ sắc này. Người bên nhà chùa thưa chuyện đoạn giải thích rằng đây chỉ là chuyện giỡn chơi và đồng ý đền cả hai lứa cà trước.

Nghe người ta kể về đặc tính của hồn ma không nói điều gì hại tới người khác, câu hỏi thế sao có sự yểm, bùa ngải hại người đã xảy ra như một vài trường hợp chính tôi được biết đã gây nhiều nghi vấn. Vậy những sự kiện đạo thờ quỉ, những trường hợp quỉ ám chứng minh là có ác thần từ đâu ra? Tại sao những người cầu cơ lên không hỏi những hồn ma về cách thức chữa những bệnh nan giải cho người khác được nhờ? Nếu những hồn ma biết được những chuyện nơi thế giới con người thì tại sao không hỏi hồn để tìm những thủ phạm tội ác vì nếu làm như thế sẽ ngăn ngừa được tất cả những tội ác có thể xảy ra. Một người kể rằng ngày xưa thời ông ta còn nhỏ ngày nào cũng cầu cơ, nhưng cứ đúng ba giờ chiều thì hồn nói rằng phải về ngục và sẽ trở lại vào lúc bẩy giờ tối. Tuy nhiên, các hồn lên cơ rất vui vẻ và những câu trả lời chứng tỏ các hồn khá thân thiện với những người ngồi cơ.

Dẫu vậy, dù nghe nói, dù thấy những sự kiện khác thường nhưng tôi chỉ coi đó là những chiếc bánh vẽ. Ngồi trước một mâm cơn thịnh soạn, hương thơm thức ăn, đồ uống ngào ngạt mà không được nếm thử làm sao biết món ăn thực sự thế nào. Cũng như đức tin của tôi đã bao lâu nay được dạy dỗ, cố tin mà vẫn chỉ tin cho có hoặc tin vì lý do nào đó, có thể là vì biết rằng ngày nào đó mình không thoát khỏi cái chết hay vì đã bị nhồi sọ, ngày này qua tháng khác bị tuyên truyền theo lối rỉ tai nên thành thói quen. Có thể rằng nếu không chấp nhận những điều được dạy dỗ, không nghĩ rằng những gì được dạy là đúng lỡ ra chúng có thật thì uổng chăng mà đến lúc nhận ra lại đã không còn thời giờ hay cơ hội đặt vấn đề. Hơn nữa, cứ nghĩ rằng mình tin, cho rằng mình tin nào có thiệt thòi chi nên dù mù mờ chấp nhận vẫn có cảm tưởng chắc ăn hơn là bất cần vì có còn hơn không. Tuy nhiên, sự tin tưởng mù mờ này khiến tôi bứt rứt. Những câu Phúc Âm thật rõ ràng mà sao cứ thấy như hoang đường: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Người khác có thể cầu cơ được mà tôi cầu không được... sao có thể cho là đúng vì cuộc đời này thiếu gì kẻ nổ, thiếu gì người muốn tỏ ra mình hay, giỏi nên có cơ hội là cứ việc phét lác. Những chuyện đơn giản như thế mà còn mơ hồ đối với tôi thì nói chi đến chuyện tin với không, nói chi đến sự thực nơi lời Phúc Âm. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng chả lẽ qua bao thế kỷ với muôn người chỉ tin tưởng vào một mớ lý thuyết rỗng không? Vậy những người ấy đã dùng phương pháp nào để có thể tin vững rằng những điều đó là đúng và có thể thực hiện được? Họ tin tưởng thế nào hay cũng chỉ mù mờ như tôi? Họ có bao giờ kiểm chứng đức tin của họ? Bao nhiêu Phật tử, đã có bao giờ họ nghiệm chứng luân hồi hay là cứ cho rằng điều đó là đúng để chấp nhận một cách không tìm hiểu, cùng lắm thì chỉ nhai lại mớ luận lý đã được nhồi sọ. Nếu thực sự có luân hồi thì ít nhất một người phải biết không rõ cũng mù mờ rằng kiếp trước mình là gì, mình đã sống thế nào và bây giờ phải ra sao. Hơn nữa, bao nhiêu người cho rằng mình là Phật Tử đã không bao giờ bước đến ngưỡng cửa chùa; có tượng Phật ở nhà nhưng một năm phỏng được mấy lần tụng niệm...? Có đặt vấn đề thì lại tự ngụy biện rằng đạo tại tâm; đã không tin tưởng gì thì tại tâm hay tại rốn cũng chỉ là lối bào chữa cho chiều hướng duy vật, được sinh ra, sống, chết là hết như một con thú. Theo đạo như thế cũng chẳng khác gì mơ ước điều không tưởng, tôi nghĩ thế... trong khi mình kiếm tìm sự thật nơi các tôn giáo thì chỉ thấy những điều phải tin... Đã tin cần gì phải, và đã phải lại có thể chỉ là thứ tự kỷ ám thị hoặc tự lừa dối mình.

Năm cuốn sách của bộ Life And The Teaching Of The Master Of The Far East do Baird T. Spalding viết càng làm tôi hoang mang. Ông nói về cuộc hành trình của phái đoàn mười một người đi vào những vùng của Ấn Độ, Tây Tạng, Trung Hoa, và Ba Tư để sống với những vị chân sư và học hỏi về những sự kiện tâm linh áp dụng trong đời sống. Đại khái, bộ sách đưa lên điểm chính yếu là con người được sinh ra không phải để chết mà sự chết lại chính là giới hạn con người đặt ra cho mình. Phiền quá, nói thì nói thế mà Baird T. Spalding cũng đã không còn sống nơi trần thế này. Những vị chân sư đi vào vô hình, ra hữu hình và sống từ bao nhiêu năm tiếp tục giúp đỡ con người tự bao lâu nay mà không ai biết. Họ biết biến thân, dùng thần giao cách cảm để thông tin v.v... Điều tôi ao ước tìm kiếm mà không thấy là phương pháp thực nghiệm nào có thể áp dụng để trở nên những vị chân sư thì bộ sách không nói đến mà chỉ dùng điều kiệný thức chắc chắn, vững vàng rằng mình thuộc về hiện trạng đó thì sẽ trở nên như vậy. Những giải thích về một số vấn đề cần được ý thức nơi tập số bốn và sự trả lời cho những câu phỏng vấn của tập năm lại cũng chỉ dùng lý luận nhiều hơn. Điều khiến tôi nghi ngờ nhất đó là quan niệm xưa của Spalding: ánh sáng mặt trời là ánh sáng tự phản chiếu của trái đất từ một điểm khá xa và sức nóng của mặt trời qua ánh sáng truyền xuống trái đất là sức nóng của trái đất mà thôi. Tôi nghĩ, nếu trái đất tự nóng như thế, những tảng băng ở Nam và Bắc Cực tan ra thì lấy đất đâu cho con người ở. Nghĩ cũng kỳ, kiếm phương pháp không thấy mà chỉ thấy sách viết về những sự lạ...; biết để làm gì nếu không áp dụng được cho mình, tôi chán nản!

Cuốn Wisdom, Bliss, and Common Sense khuyến khích tôi có niềm tin vào sự thật tâm linh nhiều hơn; đồng thời nó cũng giúp tôi phần nào tin tưởng rằng khát vọng kiếm tìm một hạnh phúc vĩnh cửu vẫn có thể thực hiện được. Có điều cảm nghiệm của Darshani Deane về cơ hội được an bài phần nào khiến tôi nhụt chí bởi bà cho rằng không phải lo lắng, khi chuyện cần phải xảy ra, thì dù một người không muốn, cuộc đời cũng sẽ dồn ép hoặc có sự sắp xếp thần linh nào đó giúp con người cơ hội sống hòa hợp với định mệnh đã được an bài. Tôi nghĩ, nếu thực sự tìm tòi, cố gắng không cần thiết thì ước mơ của tôi chỉ là hão huyền. Cuốn này hòa hợp với cuốn Many Mansions tạo nơi tôi lòng trầm tĩnh, chấp nhận và ý thức hơn về thái độ cũng như lối sống.

May mắn, loạt sách Huyền Môn do Xuân Thu xuất bản giúp tôi có được những nhận định rõ ràng hơn đồng thời cũng tránh được những lý thuyết hoặc sự kiện được chép lại dường như chỉ cố tình khơi động tính tò mò của độc giả, nhất là những hiểu biết, quan niệm sai lạc về thiền đang thao túng khát vọng tìm hiểu đường hướng thực nghiệm tâm linh của con người. Nhờ cuốn Xứ Phật Huyền Bí mà tôi tin tưởng thêm câu Kinh Thánh "Người ta sống không nguyên bởi bánh" (Mt. 4:4; Lk. 4:4) là một hiện thực nhưng con người chưa ý thức được khi tác giả nói đến thánh nữ Têrêsa Newman và vị thánh Giri Bala ở Ấn Độ. Cuốn Tây Tạng Huyền Bí, câu truyện của Lạt Ma Lobsang Rampa viết về cuộc đời chính mình bổ túc về vấn đề soi kiếp và ảnh hưởng của tiền kiếp cũng như giá trị của sự tự do chọn lựa quyết định lối sống của một người. Cuốn Đông Phương Huyền Bí kể lại hành trình học thiền của tác giả nhà báo Paul Brunton do chính ông viết. Tuyệt, sự thật về thiền chẳng còn gì rắc rối và khó khăn nhưng tôi vẫn cảm thấy ít nhất vài điểm coi như không quan trọng đối với sự cố gắng thực hiện hành trình kiếm tìm thế giới tâm linh mà lại nắm phần then chốt định đoạt sự thực nghiệm thiền của mình. Nếu con người do ảnh hưởng bởi kiếp trước mà không có số đạt tới giới cảnh tâm linh ở kiếp này thì sự cố công thiền của họ đi về đâu? Phỏng có tiến tới được mức độ nào khả dĩ khích lệ cho họ tiếp tục thiền không? Qua những lần thử thiền, tôi thấy mình hình như không có duyên phận, dễ nản, vậy có nên cố gắng tiếp tục không bởi nếu tôi mang phận số để đi sâu vào thế giới tâm linh thì tôi phải được sinh ra với bản năng đam mê thiền. Hơn nữa, nếu đã có định số thì tránh cũng không thoát mà đã không có duyên cơ, dù cố gắng cũng chẳng ăn thua gì.

Tất nhiên, ai thực hiện một công việc gì cũng đều mong đạt được kết quả. Thuở ban đầu, sự mơ ước của tôi là kiếm tìm nguồn hạnh phúc vĩnh cửu; tuy nhiên, những cuốn sách kể về quyền năng của các vị chân sư có sức hấp dẫn không sao tả nổi, rồi nào những câu chuyện linh ảnh, do sự liên lạc được với một quyền năng bao trùm vũ trụ trong đó con người được chia phần đã khơi động phàm ngã tôi nổi dậy mà cố công lục lọi một phương pháp thực nghiệm rõ ràng cho mình. Thực tại cho thấy, càng tìm kiếm thì lại càng mông lung; tác giả này nói thế nọ, tác giả kia nói thế khác đồng thời không ai chịu nhận lối tu luyện của mình là đúng nhất, cũng không ai cho rằng chỉ có đường lối mình theo mới có thể đạt được đến bực đó. Đối diện với lý thuyết rằng Thượng Đế tức là niềm phúc lạc luôn luôn đổi mới không ngừng... Cái mà hành giả khát khao tìm kiếm nhưng vẫn gặp đó là Thượng Đế, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc vô tận; thế nên "Những vị thánh đã thực hiện bản chất thiêng liêng của mình trong khi còn ở thế gian... trong khi họ vẫn làm công việc của thế gian, tâm hồn họ đắm chìm trong một trạng thái phúc lạc bên trong nội tâm" (CBCS Yogi Ấn Độ; tr. 169). Chẳng khác gì mò mẫm trong rừng giữa đêm ba mươi, lộ ra được một chữ thiền thì càng tìm hiểu về thiền lại càng bước vào rừng chỉ rối. Thật là lắm phép, lắm kiểu với những cái tên Ấn dài lòng thòng, bao gồm từ không ngồi thiền đến những kiểu cách tu nghiêm khắc tới độ hủy hoại phần nào thân thể. Nào đâu đã hết, kẻ thì cứ ăn uống tự nhiên, không ngồi thiền ở hai cuốn về Thông Thiên Học của ông Olcott; tập luyện mà vẫn cần mạng số tiền kiếp ảnh hưởng như trong cuốn Tây Tạng Huyền Bí; ngồi thiền không cần quy luật thở hít mà chỉ cần ý thức nhận định bản thể của mình bằng cách giải đáp câu hỏi "Tôi là ai?" của nhà báo Paul Brunton; chỉ cần ý thức mạnh mẽ được nhấn mạnh theo quan điểm của Baird P. Spalding; và phương pháp đặc biệt đem lại thành quả siêu tuyệt của thiền sư Yogânanda... Thành quả đâu chưa thấy nhưng ảnh hưởng của sự tìm tòi qua sách vở đã hiển hiện; cái đầu tôi giật bưng bưng vì đam mê đọc sách và cố gắng phân tích những lý thuyết khác chiều hướng với hy vọng tổng hợp được một phương pháp thực nghiệm căn bản chẳng những đạt tới niềm hạnh phúc kiếm tìm mà lại sở đắc quyền năng vô biên của các bậc chân sư, đồng thời nếu may mắn thành công, có thêm chút danh thiền sư... thì lại càng tha hồ sung sướng.

Nhưng cái danh thiền sư đâu thể có giá rẻ như vậy! Không cuốn sách về thiền nào mà không nói tới sự quan trọng của một vị thày, một chân sư đối với người môn sinh thực lòng thiền niệm, và sách nào cũng đoan chắc rằng nếu môn sinh thực sự muốn, vị thày sẽ được gửi tới... bởi đó tôi yên tâm chắc mẫm thế nào mình cũng thành thiền sư nay mai nên càng ra công học hỏi, mê man đọc đến nỗi quên cả giờ giấc ngủ nghỉ. Dĩ nhiên, có đọc có biết dẫu chưa chắc điều mình biết sẽ đem lại lợi ích hay không. Chữ thiền mới đầu nghe đơn giản thế mà lắm rắc rối, đơn sơ nhất đã có thể phân chia làm hai loại, thiền khí công và thiền tâm linh. Thiền khí công lo luyện tập về thể xác, tạo nội lực mà nhà Phật gọi là Chân Hỏa Tam Muội, Ngọc Kim Cương v.v... Ai đọc truyện kiếm hiệp sẽ thấy nội lực này được xử dụng để phát sinh chưởng, có năng lực chống lạnh, giải nóng. Nguyên tắc của thiền khí công dựa trên lý thuyết ý dẫn khí và khí dẫn huyết mà dẫn như thế nào mới là vấn đề quan trọng, dẫn lung tung sẽ bị tẩu hỏa nhập ma. Qua sự mò mẫm, tôi biết đại khái có mấy đường dẫn như sau: từ từ hít hơi bằng mũi, tưởng tượng rằng đẩy làn hơi xuyên qua hoành cách mô sâu xuống đan điền tức là cỡ đốt dưới của ngón cái phía thấp hơn rốn, thở ra bằng mũi sẽ phát triển nội lực như những người theo Hiệp Khí Đạo hoặc Zen dưỡng sinh thường luyện tập, nếu thở ra bằng miệng, sẽ có nội lực thuộc loại các nhà nhân điện dùng chữa bệnh.

Không dẫn khí xuống đan điền mà cho chạy theo những luân xa mới rắc rối, cần thày chỉ dẫn. Đụng đến luân xa tức đối diện với những quan niệm khác nhau. Kẻ nói tám, người quan niệm bảy luân xa nằm từ đầu mũi chạy vòng lên đỉnh đầu và dọc theo tới tận cùng xương sống; thiền sư Yogânanda nói trong sách chỉ có sáu vì không tính hai huyệt tại chóp mũi và sơn căn. Bí thuật dẫn khí ra sao không nơi nào giảng giải khiến tôi đã mù tịt lại càng rối rắm thêm. Khi đọc sách, tôi cố gắng để ý từng chữ may ra tác giả vô tình sơ sót lộ bí mật nhưng thường thì cứ gặp những câu nói tức anh ách đại khái rằng phép tu luyện quí giá như vậy đâu dễ gì đem tiết lộ cho quần chúng. Mỗi lần gặp những đoạn nói kiểu này, tôi tự rủa thầm tác giả ích kỷ bởi hình như họ đã cố ý khêu gợi cá tính thèm khát danh vọng nơi tôi. Không đọc thì ham muốn biết; biết lưỡng chừng ham muốn tập, mà tập thì xuýt chút nữa tẩu hỏa nhập ma nếu không có một người bạn vô tình chỉ giáo. Số là đã hơn một tuần, tôi "ngồi công phu" mỗi ngày, khi thì dăm ba phút, lúc mê say vài chục phút... theo thứ tự đúng y chang ngón nghề ăn cắp do những phần các thiền sư tác giả vô tình bật mí: ngồi kiết già hay liên hoa, đầu và lưng cho thẳng, đôi mắt lim dim dồn về tâm điểm sơn căn, thở hết hơi ra, từ từ hít vô bằng mũi, tưởng tượng đẩy luồng không khí xuống đan điền tới lúc chẳng thể hít vô được nữa, ngưng một chút, từ từ thở ra, ngưng một chút và từ từ hít hơi vào... Được vài hơi, sơn căn tê tê, người say say... A ha, mới công phu có vài bữa mà khí lực đã dồi dào vì thấy khỏe khoắn hơn.

Nhưng tôi không thích loại công phu này bởi bản tính lương thiện, không thích đánh nhau nên chẳng cần nội lực oánh chưởng. Dẫn khí huyết mở luân xa coi bộ hấp dẫn hơn vì những tác giả thiền sư đầy quyền năng công phu kiểu này. Tôi nghĩ, đả thông càng nhiều luân xa càng tốt nên cho khí chạy đủ tám luân xa mong nắm phần chắc, cho chạy ít, lỡ thiếu uổng công sức. Dẫn khí chạy tới, chạy lui, hết chạy xuôi cho chạy ngược... tôi tưởng tượng khí huyết hai chiều công phá sẽ giúp luân xa thông suốt mở toang hoác càng mau đạt tới thành quả... được ít ngày, mỗi ngày dăm phút thấy thắt lưng ẩm ẩm ê ê. May mắn, hôm đó đến chơi một nhà người bạn, đúng như lời Lão Tử, "Ngôn giả bất tri," tôi thao thao phét lác về thiền, về công phu... Để cho kẻ dốt nói chán, bạn tôi nhẹ nhàng hỏi: "Có phải mày thấy ê ẩm ngang thắt lưng không? Tẩu hỏa nhập ma rồi đó ông ơi!"Cái thằng róm, chỉ một câu nói hời hợt mà nó phá tanh bành bao nhiêu công phu mò mẫm của tôi. Dĩ nhiên, nó nói trúng chóc và chỉ ngắn gọn có thế, tôi cố gắng dò hỏi thế nào nó cũng không chịu nói thêm, miệng cứ câm như hến; bị tôi lý luận bắt chứng minh, nó kiếm cách đổi đề tài... ngôn giả bất tri!

Kể ra tôi cũng chịu khó luyện tập đồng thời lợi dụng mọi cơ hội thúc đẩy thiền công... nhưng, tinh thần thì sáng suốt mà thể xác lại yếu hèn nên chẳng đi đến đâu ấy là còn may mắn chưa bị liệt bại vì tẩu hỏa nhập ma. Dĩ nhiên, nào ai muốn chịu sự khó, thế nên tôi chọn những lời dạy dễ dàng của tác giả thiền sư mà noi theo thay vì những phương pháp khổ hình mong có chân hỏa, tay hỏa... Tổng kết, thiền chỉ cần ngồi, nằm, đứng... sao cho đừng ngủ quên là được và giữ tâm tư thanh tịnh, hai mắt khép hờ, hướng về sơn căn hay đầu mũi và rồi muốn tới đâu thì tới. Thật ra, lý do tôi chọn nhắm mắt vì mở mắt khó chịu hơn. Những hiện tượng nhìn thấy linh ảnh nọ kia, nghe được âm thanh này nọ cùng nhiều sự lạ lùng như các tác giả thiền sư đã viết chưa kịp thấy, tôi cố gắng ngồi nhưng lười. Đứng thì mỏi chân, vặn vẹo thân xác lại đau lưng, nhức hông, chổng ngược mỏi cổ nên tôi chỉ tập thiền nằm. Lẽ thường, cũng có nhiều thế nằm, nào ngang, nào dọc, nghiêng phải, nghiêng trái, nằm ngửa, nằm sấp, theo đủ mọi phương hướng ngoại trừ hai hướng thiên địa... Một điều hiển nhiên ai cũng có thể nhận ra đó là thế thiền nằm nào cũng đưa công phu của tôi vào cõi u minh, vô vi đến độ quên cả vô vi.

Dẫu cho là ngụy biện thì sự chọn lựa phương cách thiền lười biếng của tôi vẫn là kết quả của một số lý do. Trước hết, không có thiền sư nào giải thích tại sao phải ngồi thiền; có chăng họ chỉ nói tới phải ngồi cho thẳng lưng, và lẽ tất nhiên, nằm lưng vẫn thẳng. Paul Brunton còn đặt vào miệng một thiền sư lời bình luận rằng thế ngồi thẳng lưng và xếp vòng chân lại chỉ có mục đích giữ cân bằng sao cho cơ thể không bị ngã nghiêng khi nhập định; như vậy, thế nằm mang giá trị cân bằng nhất, tim đập nhẹ nhàng hơn vì không phải bơm máu ngược lên đầu. Hơn nữa, thiền sư Yogânanda nhận xét ngủ cũng là một phần của thiền vì trong khi ngủ, người ta vô tình thiền bởi đã thoát ra ngoài mọi ý thức về xác thân để đắm chìm một cách vô ý thức trong cái kho dự trữ tinh lực của vũ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn. Theo quan niệm này, thiền là trạng thái vô vi của Lão và thực sự hợp với câu nói ngược "Càng làm ít càng tốt, mà không làm gì cả lại càng tốt hơn." Sự khuyến khích lắng nghe tiếng Chúa của Công Giáo còn được gọi là chiêm niệm nào khác gì bỏ lại tất cả mọi sự phiền hà tính toán, mở rộng lòng cho vô thức làm việc... Paul Brunton còn nhấn mạnh khi đặt vào miệng chân sư Maharichi lời khuyên tìm câu trả lời "Tôi là ai?" mà không đặt vấn đề ngồi đứng thế nào. Như thế, thiền định giúp con người nhận thức chân ngã, căn bản của tiểu ngã nếu nói theo Ấn Giáo. Đối với Khổng học thì đó là "bản thiện;" Công Giáo gọi là linh hồn. Như vậy, thay vì đặt vấn đề về cuộc đời hiện tại, người thiền tìm về động lực nguyên thủy con người được gọi là sự minh triết. Theo kinh nghiệm thiền nơi các sách tôi đọc, bất cứ ai đạt tới sự minh triết này đều nhận ra sự sống đích thực của một người không phải chỉ là sự sống thân xác mà cuộc đời xác thân là một phương tiện cho sự sống vĩnh cửu của chân ngã, của bản thiện, của linh hồn. Nhận định này phù hợp với câu nói có vẻ ngược của Đức Giêsu: "Kẻ nào tìm cách duy trì sự sống mình thì sẽ mất, còn kẻ nào đành mất thì sẽ cứu sống nó" (Lc. 17:33). Dẫu chữ "nó" hình như được dùng cho gọn văn chương có lẽ không chỉnh vì theo Mt. 10:39, 16:25, câu nói bao hàm nghĩa khác: "Kẻ cố tìm sự sống mình thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta thì sẽ gặp lại." Nơi Mc. 8:35 còn thêm "vì Tin Mừng" nên có thể hiểu kẻ nào đành mất sự sống mình vì Ta và vì Tin Mừng thì sẽ gặp sự sống khác...”

Tất nhiên, những hiểu biết, dẫu mù mờ, trên đã trở thành động lực thúc đẩy tôi thử thiền. Chẳng những thế, những gì càng mơ hồ thì lại hình như càng mang nặng tính chất hấp dẫn khuyến khích óc tò mò. Thực tế hơn, tôi suy luận, ngồi trước một bàn tiệc thịnh soạn với những của ngon vật lạ, được mọi người nói cho biết, dù đúng hay sai, thức ăn tuyệt vời; làm sao tôi cảm thấy tuyệt vời nếu chỉ ngồi đó nhìn để rồi trôi mất lưỡi vì nuốt nước bọt? Chắc chắn rằng nếu chưa được nếm thử, sẽ không bao giờ cảm nhận được thức ăn ngon như thế nào dù ai nói ra sao. Hơn nữa, sự thử thiền đâu cần phải có bằng cấp này, điều kiện kia. Điều kiện chỉ là vô vi như lúc ngủ để nhận ra chân ngã, quên đi cái phàm ngã của mình cho tiểu ngã trở về hòa nhập với đại ngã thì nào khó khăn chi... Hừ, không ngờ, kiếm cái chân ngã, cái mình đã có lại không dễ dàng như tôi tưởng... chưa kịp mang lại lợi ích thì thiền đã làm tôi ê ẩm ngang thắt lưng, may mà chưa tới độ tẩu hỏa nhập ma vì ngồi... thế nên đành nằm... thiền!

Dẫu thế, tôi đâu chịu bỏ cuộc dễ dàng. Nào ai lạ gì, lỡ phóng lao đành phải theo lao cho trọn chung thủy; mặt khác, những cuốn sách do các thiền sư viết quá hấp dẫn lại mang đầy vẻ khuyến khích tìm hiểu khiến tôi càng muốn tìm tòi để thực hiện cho được. Nghĩ cho cùng, sự vận khí huyết đả thông các luân xa dù nguy hiểm nhưng không thực hành thì đâu có hại gì; hơn nữa, Kinh Thánh đã chẳng nói tìm thì sẽ gặp; các thiền sư viết sách cũng thường nhắc lại lời những vị chân sư đã khuyên họ rằng nếu thực sự khát khao kiếm tìm cuộc sống tâm linh sẽ có thày dạy là những bậc chân sư được gửi tới... Thế nên tôi thầm nghĩ, trong khi chờ đợi bậc thày chỉ dẫn, mình ráng tìm hiểu chân ngã bằng cách trả lời câu hỏi "Tôi là ai?" trong phương thức vô vi. Thiền nằm dễ đi vào vô vi vì đó là cách thực hành vô vi hữu hiệu nhất bởi muốn trở nên vô vi vẫn còn là dục. Cứ kiên nhẫn vô vi bằng những giấc ngủ, tôi tự an ủi, và chờ đợi, sẽ có ngày chân sư hiển hiện do lòng thành thực và chung thủy của mình. Thêm vào đó, câu trả lời của vị tu sĩ khi thiền sư Yogânanda xin được chỉ dạy phép nhập định giúp tôi phần nào kiên nhẫn: "Hiện giờ thể xác em chưa được chuẩn bị sẵn sàng cho một kinh nghiệm như thế. Cũng như một bóng đèn nhỏ không thể chịu đựng nổi một điện thế quá cao, những dây thần kinh của em chưa sẵn sàng để lưu chuyển luồng từ điển của vũ trụ. Nếu tôi đưa em vào trạng thái đại định như bây giờ, em sẽ bốc cháy như bó đuốc chẳng khác nào tất cả những tế bào trong thân thể em đều bắt lửa" (Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ; tr.160).

Hình như càng những câu nói đơn giản, dễ hiểu lại càng không đơn giản và dễ thực hành chút nào, chẳng hạn "Tìm sẽ gặp" hoặc "Muốn là đã được một nửa." Ai mà không muốn lắm điều, nhiều thứ trên cõi đời này, nhưng những ai đã cứ muốn mà được? Tôi muốn cả thế giới lại chẳng có gì; nếu chỉ được một phần trăm, hoặc chỉ một phần triệu của thế giới, có lẽ tôi đã tha hồ xưng hùng xưng bá. Tìm sẽ gặp, câu nói xúi người mù dấn thân vào cánh rừng rậm rạp nguy hiểm. Tìm bằng cách nào, trong điều kiện ra sao, những gì cần được chuẩn bị, những gì không cần thiết làm cản trở cuộc hành trình tìm kiếm v.v... Đúng là ánh sáng của những vị chân sư trở thành điều ngu xuẩn cho kẻ đui mù. Hơn nữa, những điều kiện đôi khi các thiền sư vô tình bật mí thì lại càng mang đầy vẻ bí mật. Chẳng hạn, "Phải tiến từng bước bằng sự cố gắng cá nhân" (Hồi Ký của H.S. Olcott; tr.139). Đã giống như rợ vào rừng càng mò mẫm thì lại càng rối, đàng khác, những lời khuyên, những nhận định về phương cách thiền niệm mang đầy tính chất khó hiểu khi áp dụng. Cố gắng cá nhân là thế nào? Chưa đủ năng lực bước vào đại định mà lạc vô sẽ cháy như bó đuốc; mới thử thiền đã đụng ngưỡng cửa tẩu hỏa nhập ma thì còn cố gắng nỗi chi? Olcott đưa thêm lời khuyên "Phải khai mở trực giác để tìm hiểu những hiện tượng" (tr. 159), thật chẳng khác gì câu nói "tìm sẽ gặp."

Tuy nhiên, những nhận định của các vị chân sư, thiền sư đem lại cho tôi nhiều khuyến khích và hy vọng. Ít nhất, Yogânanda nhắc nhở: "Người hành giả thật tâm tu luyện chắc chắn sẽ đạt tới trạng thái siêu linh; đức tin mãnh liệt của y tự nhiên sẽ thúc đẩy y đến gần Thượng Đế" (tr. 171); đồng thời sự kiện bà ngồi sáu tiếng đồng hồ vững lòng khẩn cầu cho tới khi được sự trả lời giúp tôi nhận thực lòng nghi ngờ của mình đã bao lâu nay. Từ xưa tới giờ, tôi cứ nghĩ mình có lòng tin mạnh mẽ mà không được bề trên nhận lời; thành thực nhận xét, niềm tin của tôi chưa bằng một phần trăm của thiền sư Yogânanda. Sự nhận định này phần nào chứng minh rằng sống mật thiết với Thượng Đế, với những đấng vô hình mà mình tin tưởng sẽ có sức mạnh và được ban cho những năng lực lạ lùng để hoàn thành nhiệm vụ mình được kêu gọi, và như vậy, quyền hành của các vị chân sư đều từ Thượng Đế, nguồn năng lực vô biên tác động vũ trụ chia sẻ cho những ai nhận thực giá trị siêu linh của con người. Coi trên tivi, đọc báo chí, nghe những chuyện kể, tôi vẫn thường nghĩ rằng chỉ một số người đặc biệt nào đó có khả năng lạ lùng chẳng hạn năng lực chữa bệnh v.v... Tôi đã đoán xét sai lầm; Thượng Đế nào thiên vị riêng ai; thế nên, vấn đề còn lại tùy thuộc chính mình mà không biết, không tìm được phương cách để có được năng lực sẵn chờ. Nhận thức này nhắc nhở tôi lời nói của Đức Kitô: "Mọi sự đều là có thể cho người tin" (Mc. 9:23), hoặc "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Tuy nhiên, nhận thực như thế, nhưng đâu là phương cách thực nghiệm? Phải như thế nào để tôi có đức tin bằng hạt cải, bằng nửa hạt cải, hoặc một phần mười hạt cải? Và lấy gì làm mức độ đo lường đức tin?

Sự thật nhiều khi lắm điều trái ngược coi bộ không thể xảy ra nhưng lại chất chứa phần nào chân lý. Nếu chấp nhận câu nói "Ngôn giả bất tri" thì chẳng lẽ Đạo Đức Kinh không nói lên được chút nào chân ý Lão Trang? Nói rằng "Tri giả bất ngôn" quả là đúng trong trường hợp săn tìm phương pháp đi vào thiền niệm. Muốn vô vi thì chưa cảm nghiệm được "đạo trống." Bộ óc được tạo dựng nên chẳng lẽ thừa và nếu thực sự không cần bộ óc sao nó không bị thoái hóa theo luật tiến hóa tự nhiên; như vậy, phỏng vô vi là một thực trạng? Hơn nữa, đã quen tranh đấu, tính toán như một bản năng sinh tồn mà nếu không có lo âu, thất tình, lục dục, e nó sẽ bị bão hòa, tệ hơn nữa, có thể trở thành "Nhàn cư vi bất thiện." Đàng khác, được sinh ra giữa chốn xình lầy sao tránh thoát vương bùn bẩn thỉu, cuộc sống con người lệ thuộc đầy dẫy những liên hệ nên dẫu cho không muốn đụng chạm cũng phải đối diện nhiều chuyện khiến mình xáo trộn tâm thần. Thế nên, đâu phải cứ sống vô vi sẽ không bị những cảnh phiền hà ảnh hưởng. Sự thật này còn lắm điểm chẳng ngờ như thiền sư Bhaduri giải thích: "Sự bế môn nhập thất của tôi không phải vì lý do tiện nghi riêng cho tôi, mà là cho kẻ khác. Những người ngoài đời không thích nghe lời thành thật vì nó làm tiêu tan những ảo ảnh của họ. Những vị chân tu không những hiếm có, mà lại còn làm cho người ta hoang mang. Thánh kinh cũng có nói rằng: 'các vị ấy thường làm cho người đời đâm ra lúng túng trong cuộc sống của họ'" (Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ; tr.77). Bởi đó, chẳng lạ gì các vị thiền sư trốn lên rừng yên phận bè bạn với cỏ cây. Riêng tôi vẫn nghĩ, những người lên rừng sống cô lập vì họ có niềm hạnh phúc vô biên nào đó mà cuộc đời giàu sang, quyền quí, vợ đẹp con khôn, ăn mặc sang trọng không thể so sánh được. Phỏng đó là niềm hạnh phúc vô biên mà tôi muốn đạt tới?

Lẽ tự nhiên, không ai muốn chịu khổ mà có chăng ra công gắng sức tìm kiếm cuộc sống khá hơn. Nếu những người lên rừng làm bạn với cỏ cây, ăn uống khem khuốc, bơ vơ cô độc, thật sự khổ cực như con mắt chúng ta nhận xét, và nếu cuộc sống nơi thành phố xa hoa, mỹ lệ đem lại niềm an bình, vui tươi thoải mái hơn thì ai lạ gì xa lánh chốn hồng trần tiện nghi? Câu Kinh Thánh "Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì" (Gioan 6:63) chắc chắn mang ý nghĩa nào đó đối với những người coi rẻ cuộc sống bình thường mọi người đang trần thân vất vả theo đuổi? Lý luận, đặt vấn đề như thế nhưng tự xét lại, phần ngại ngùng nào đó dùng dằng ngăn cản ý định thử nơi tôi. Đang sống quen với nếp đời tạm coi là yên ổn, bất cứ những gì xảy đến đe dọa những thói quen cố hữu, những tiện nghi ràng buộc, đều tạo nên áp lực phản kháng khiến con người e sợ bị xáo trộn, e sợ phải thay đổi cho dù chỉ là quan niệm, tư tưởng. Thế nên, đã nhiều lần tôi tự đặt câu hỏi trong sự so sánh phỏng mình có giống như con dòi bọ cảm thấy sung sướng chui rúc nơi đống thịt rữa xình thối của một xác chết con vật nào đó để rồi cho rằng con nhặng dốt nát vì không ngụp lặn như mình?

Đặt vấn đề như vậy để tìm câu trả lời nơi tôn giáo, tôi cảm thấy hình như có những điểm tương đồng đã lâu nay được mù mờ chấp nhận nhưng chưa bao giờ tôi dám ngang nhiên tìm hiểu chẳng hạn về lý thuyết, quan niệm, nghi thức v.v... được các tôn giáo thực hành. Điểm đầu tiên và cũng là nguồn gốc cho mọi sự khác biệt là tên gọi. Những nhà sáng lập các tôn giáo cũng như những giáo đồ, ai cũng chấp nhận, cũng tin rằng có một Đấng Toàn Năng đầy quyền lực tạo dựng vũ trụ khi đối diện với những mãnh lực thiên nhiên không bề giải thích, thế rồi đặt cho Đấng Ấy một cái tên, diễn tả cảm nghiệm, kinh nghiệm linh tâm riêng tư của mình hay một số kinh nghiệm của nhóm mình dưới sự ảnh hưởng của văn hóa, tư tưởng, chiều hướng quan niệm địa phương... kiến tạo nên một số nghi thức bày tỏ lòng tôn sùng, ngưỡng mộ, sắp xếp và đặt ra những nguyên tắc hay luật lệ nên theo để phần nào chứng tỏ lòng thành của mình đối với Đấng Toàn Năng như một thứ điều luật tôn giáo chung cho giáo phái của mình... dần dần được sửa đổi sao cho hợp lý hợp tình hơn và truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác đến độ sau này tín hữu cứ rập theo và chấp nhận một cách máy móc không cần biết tại sao lại có những nghi thức ấy chẳng hạn như tế trời, lạy thần thánh, mua đồ cúng, viếng v.v... Tôi nghĩ, Đấng Toàn Năng nào có đòi hỏi ai phải tế; thánh nào dám ngang nhiên bắt con người phải lạy. Những đồ cúng, viếng, chỉ có giá trị chứng tỏ lòng thành chứ chẳng lẽ Đấng tạo dựng nên toàn thể vũ trụ này thèm khát vài chùm nho, trái táo mà không tạo dựng được nên muốn người ta cúng? Và rồi miệng đâu, răng đâu mà thưởng thức vị ngon ngọt của những phẩm vật dâng tặng? Dĩ nhiên, tổ chức nào cũng cần ngân quĩ để phát triển nên những lễ vật, những tiền của dâng cúng được dùng cho mục đích quảng bá và xây dựng tổ chức. Chính vì thiếu hiểu biết nên người ta đã coi tôn giáo như một sự ràng buộc hình thức, phải thế nọ, phải thế kia. Đồng thời do ảnh hưởng hoàn cảnh và quan niệm sống, những nghi thức tôn giáo dần biến thái mỗi ngày một phức tạp theo tạp niệm mà dần xa giáo lý để rồi thói quen tôn giáo mỗi ngày một lấn dần giáo lý khiến cho tín đồ chỉ còn nhận ra những luật phải giữ, kiểu cách phải theo để được thuộc về tổ chức tôn giáo ấy như một sự thực hiện lòng khao khát Thượng Đế nơi tâm hồn mỗi người.

Có thể cái nhìn của tôi về các tôn giáo còn quá non nớt, chật hẹp, nên thấy rằng Chúa, Phật đã bị quảng cáo một cách đầy thiếu sót cũng như lòng tin của con người bị lạm dụng biến thành mối lo âu. Người theo đạo Chúa lại thường bị nghe về luận phạt đồng thời với sự tuyên xưng, rao giảng một Thiên Chúa yêu thương vô bến bờ. Đã bao nhiêu ngày tháng qua người ta nhấn mạnh một Thiên Chúa dữ dằn chẳng khác gì quan tòa ác độc, thẳng tay trừng trị những kẻ nào không giữ luật. Chính quan niệm này tự nó đã có mầm mống đối nghịch vì sự luận phạt công thẳng không thể nào đứng chung với tình thương vô biên giới. Thật ra, thà rằng chấp nhận "mắt đền mắt, răng đền răng" một lối nói khác tương đương luật nhân quả có lẽ mang phần nào hữu lý hơn. Thuyết Luân Hồi của Ấn Giáo bị hiểu sai khiến con người e sợ sự trả thù tàn bạo của Đấng Linh Thiêng bắt phải trở thành những gì mình kinh tởm trong kiếp tới... Con người dẫu luôn luôn lỗi lầm nhưng không phải không có thiện tâm. Thế nên, khi một người nhận chân được sự tốt lành nào đó, họ sẽ tự động sống theo chứ không tùy thuộc luật buộc. Bởi vậy, có thể luật buộc là thành quả của sự thiếu sót quảng bá cho con người am hiểu và cảm nghiệm được những điều tốt lành. Phỏng tôn giáo quá đặt nặng về hình thức và nghiêm luật sẽ không còn kẽ hở cho ánh sáng chân lý chiếu soi đánh động tâm hồn thế nhân? Đúng ra, chân lý mới là chính yếu, là tất cả, để soi sáng, khắc phục, và chinh phục con người. Thử hỏi, lề luật nào không đối nghịch lời Thánh Kinh: "Ta sẽ đặt lề luật của Ta nơi cung lòng chúng và Ta sẽ viết trên tâm tư chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo lẫn nhau 'hãy nhận biết Yavê!' vì hết thảy chúng đều biết Ta từ bé đến lớn..." (Yêr. 31:34). Hình như các tôn giáo có chung một vị thần đáng sợ nhất và đó là thần đe dọa hình phạt, dựa trên mối e sợ, một khía cạnh của bản năng do sự nhận chân giá trị mỏng dòn của kiếp người để xây dựng luật lệ bởi "Ngôn giả bất tri."

Suy thế, tự thuở ban đầu, những nghi thức tỏ lòng tôn sùng của con người đối với một Đấng Toàn Năng đều bắt nguồn từ tâm tình của mình dẫu Ngài được gọi khác tên, dẫu thực hành khác nghi thức tôn sùng, khác quan niệm diễn tả. Hơn nữa, do sự hiểu biết lẫn lộn giữa những qui luật tôn giáo, đạo đức, luân lý, thay vì rao giảng giáo lý, người ta đã rao giảng luật luân lý địa phương. Sự lẫn lộn này có thể bắt nguồn từ thiếu hiểu biết về giáo lý căn bản tôn giáo hay do cái nhìn bệnh hoạn, không thấy những điều tốt lành nơi con người mà chỉ thích bới móc những chuyện chẳng nên dưới cái nhìn luân lý. Đồng ý rằng con người mang cả khuynh hướng hướng thượng lẫn thấp hèn, nhưng nhấn mạnh phàm ngã để lo sửa sai thì đường về chân ngã vô tình đã bị đóng kín. Có thể rằng, chính vì đã không nói về điểm chính yếu mà chỉ luẩn quẩn nơi những chi tiết do quan niệm khác biệt về Thượng Đế, các tôn giáo vô tình tạo nên những khoảng cách đối nghịch không phương hòa giải. Thật là phi lý khi đạo nào cũng cho rằng chỉ có một Đấng Toàn Năng cao cả tuyệt đối nhưng chỉ Đấng theo quan niệm của mình mới tuyệt đối vì nếu chỉ một Đấng Tuyệt Đối duy nhất thì những quan niệm kết quả của cảm nghiệm tâm linh dẫu khác biệt đến mấy cũng không thể nào trở thành nguyên nhân hay động lực cho bất cứ cuộc chiến tranh tôn giáo nào đã xảy ra.

Đồng ý rằng luân lý là sự áp dụng của ý thức đạo đức trong cuộc sống để kiến tạo nề nếp xã hội; một khía cạnh nào đó, luân lý là luật đạo đức thực nghiệm bất thành văn được dùng như phương tiện giúp con người thăng tiến về tâm linh. Bởi thế, luân lý mang tính chất tương đối tùy thuộc địa phương và quan niệm sống, phong tục, tập quán, cũng như cơ cấu xã hội. Tôn giáo vượt hẳn lên trên vì niềm tin là cội nguồn cho ý thức đạo đức bởi nếu không có niềm tin hướng dẫn, thế giới này chỉ là chốn hoang rừng tùy thuộc luật của sức mạnh. Tôn giáo đứng vững vì có mối dây liên lạc với thế giới vĩnh cửu bên kia cuộc sống giới hạn hiện tại của con người; mối dây này căn bản đặt ở chữ "tin" và được nói lên nhiều cách đôi khi khó phân biệt; lòng tin, niềm tin, đức tin v.v...

Lấy lòng tin làm căn bản, cùng một gốc và những chi nhánh phát sinh của Do Thái Giáo, Hồi Giáo, Kitô Giáo, gọi những nhà có lòng tin vững mạnh liên lạc với Thượng Đế là tiên tri, và phương pháp liên lạc được gọi là cầu nguyện. Ấn Giáo, Phật Giáo, và các chi nhánh gọi những người này của họ là chân sư dùng thiền làm phương tiện. Họ hàng Lão Giáo, Khổng Giáo lại dùng tiếng thánh nhân, thánh hiền; kinh nghiệm liên lạc với những đấng cao cả của họ để lại thì chỉ một con đường độc nhất là để lòng vô vi ngồi thiền. Lòng tin có Đấng Toàn Năng làm gốc là một điểm ắt có nhưng chưa đủ để liên lạc với thế giới bên kia do đó cần phương pháp thực nghiệm. Những phương pháp này của các tôn giáo thực ra khác tên nhưng cũng cùng một cách thức và đòi hỏi chung một điều kiện đó là lòng yêu thương tha nhân cũng như mọi loài tạo vật. Vô vi nhấn mạnh điểm mở rộng lòng, cởi bỏ những ràng buộc của thế giới hữu hình để đón nhận cảm nghiệm hiện hữu với Thượng Đế. Kitô Giáo phân biệt cầu nguyện thành ít nhất hai cách thức: cầu xin hay nguyện cầu, và lắng nghe tiếng Chúa. Đại khái, sau khi phân tích, suy tư, nhận định, mở rộng tâm hồn không để cho bất cứ gì ảnh hưởng mà để tâm hồn thanh tịnh chờ, lắng nghe những gì Chúa muốn cho mình. Các chân sư, thiền sư nói về kinh nghiệm thiền cũng khuyên để lòng thanh tịnh nhận thực mình chỉ vô ngã, nói cách khác, áp dụng vô vi để lắng nghe, tìm về thế giới siêu linh... Chung qui, dẫu được dùng tên khác nhau nhưng phương pháp chỉ là một.

Những điều kiện gặp gỡ thế giới siêu linh gồm có lòng tin nơi một mãnh lực huyền nhiệm tạm gọi là Thượng Đế hay Đấng Toàn Năng tạo dựng vũ trụ, và để lòng vô vi mà cầu nguyện hay thiền, nâng tâm thức mình lên hay hòa nhập cõi lòng hoặc linh thể của mình với Thượng Đế. Lên rừng thâm u hay ở giữa thành thị ồn ào náo nhiệt mà đạt tới tâm thức "Chúa ở trong tôi, tôi ở trong Chúa" hoặc "tiểu ngã hòa nhập với Đại Ngã" hay "tri giả bất ngôn" thì đó là hạnh phúc vĩnh cửu mà thế quyền, danh vọng, cũng như những vui thú trần gian không thể so sánh được. Câu nói "tri giả bất ngôn" chỉ về niềm hạnh phúc này vì không gì nơi cõi đời hiện tại có thể so sánh được nên không biết sao mà nói. Tuy nhiên, qua lời khuyên nơi kinh, sách, lòng tin đóng vai trò quan trọng và mang sức mạnh tiềm ẩn ít được để ý. Chân sư Sri Yukteswar đã nhắc nhở thiền sư Yogânanda: "Người đời ít khi nhận thấy Thượng Đế đã đáp ứng bao nhiêu lần những ước vọng của họ. Ngài không thiên vị thiểu số nào, nhưng Ngài lóng nghe những kẻ nào cầu nguyện Ngài với tất cả tâm hồn. Như vậy, người đời phải có một đức tin tuyệt đối nơi lòng Từ Bi Bác Ái của đấng Cha Lành trên trời" (Các Bậc Chân Sư Yogi Ấn Độ; tr.179). Đức Giêsu cũng đã nói rõ: "Mọi sự đều có thể cho người tin" (Mc. 9:23) và "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12).

Làm sao để có lòng tin vững vào Thượng Đế; phương cách nào kiến tạo đức tin bằng hạt cải... Câu trả lời tóm gọn chỉ là cách gặp gỡ, để lòng vô vi "thiền" hoặc "lắng nghe tiếng Chúa..." vì không còn cách nào hơn bởi khi đã gặp gỡ Thượng Đế thì "Tri giả bất ngôn."





Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả