Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]







NỖI NIỀM THẦM KÍN QUA

"VẾT THƯƠNG TUỔI TRẺ"

(Người Luân Đôn)

Thật ra, khi vừa đọc xong luận đề "Vết Thương Tuổi Trẻ" của tác giả Lã Mộng Thường, khó có mấy ai thuộc lớp người lớn tuổi giữ cho lòng bình thản. Một thoáng bất bình, bất như ý trỗi dậy. Tưởng còn nhẹ. Dễ thường đã có người phải nổi giận. Giận lắm. Họ đều muốn truy nguyên xem người viết đích thật là ai? Sao có thể "quá lời," hung hãn phóng bút đến như vậy?

Phản ứng tâm lý này, về một mặt nào đấy, cũng phải thôi.

Thế thì nội dung đề tài kia đã nói gì, những gì, khiến cho một phần dư luận phẫn nộ nhường ấy? Tạm xin nói ngay - nó chẳng khác một cuộc "nổi dậy," một cuộc "tổng phản công" về chính kiến, tư tưởng, đạo lý, văn hóa của giới trẻ nhằm vào lớp "đàn anh" hay xa hơn thế, có trách nhiệm gần xa trong việc mất còn của Miền Nam, của Việt Nam Cộng Hòa ở ngày qua. Và lại chỉ không giới hạn ở sự phê bình, hài tội bóng bẩy, tác giả hầu như đã còn muốn phản ảnh tiếng vọng tâm tư, tâm tình, tâm sự chán chường về cung cách sống của những người lớn tuổi trong thực trạng xã hội lưu vong ngày nay. Lòng khinh khi đẩy đến chỗ không còn một chút tín nhiệm, tin cậy. Dưới mắt tác giả - nghĩa là theo cái nhìn của thế hệ thanh thiếu niên - mọi giá trị nhân bản, tư cách, sĩ khí cùng thái độ làm người ở các đẳng cấp huynh trưởng đã hoàn toàn tan biến. Suốt hai mươi năm trôi qua, và cũng chính cái chu kỳ ấy có triển vọng kéo dài lê thê chưa biết đến bao giờ với hằng hà sa số nghịch cảnh, những điều ngang tai chướng mắt, những hành động vì dân vì tương lai đất nước chỉ toàn là tiếng phèng la ồn ào vọng động làm tan nát niềm tin lẫn tình người đồng chủng máu đỏ đầu đen.

Mọi sự ấy đã là đầu mối của đề tài nẩy lửa vừa bùng lên!

Thiết tưởng, cứ cần phải luận rõ nguyên nhân sự kiện thì rồi ra có luận bàn, có tranh cãi gì - điều đó mới giúp cho người đọc vốn quá bận rộn với cuộc sống thường nhật có thể theo dõi dễ dàng hơn, và cũng dễ dàng trở thành những nhà trọng tài đánh giá đúng mức những vấn đề cực kỳ khúc mắc, phức tạp đeo đẳng mọi người chúng ta từ ngày mất nước 75 cho đến nay.

Bài viết tuy không nói lên một cách rõ ràng, cụ thể, song đã bàng bạc, hàm chứa cả một trời u uất liên quan đến nhận định vừa được đặt ra ở lớp người trẻ sinh ra và lớn lên tại xã hội Tây Phương. Hay khi phải bỏ nước ra đi tìm tự do, họ đang trong tuổi thanh thiếu niên, và bây giờ đã thực sự trưởng thành, vào đời. Nhiều người trong bọn họ lại xuất thân khoa bảng đại học Âu Mỹ. Khá nhiều người vẫn giữ được dòng máu nước Việt, tâm hồn dân Việt. Họ thiết tha gắn bó với quê hương, đồng chủng. Chính vì thế mà họ đau khổ, đau đớn nghiền ngẫm lại vấn đề - những vấn đề không mấy đẹp xoay quanh trong tập thể lưu vong, hàng ngày hiện trước mắt họ, gây nhiều đáng tiếc đôi khi đến độ phi lý, phi nhân. Tâm hồn họ cởi mở, chân thành, thẳng thắn và hồn nhiên. Tuy hờn mát thốt ra lời chua chát, tự vứt bỏ mình đi, họ lại không chấp nhận và càng không thể im hơi lặng tiếng trước đầy rẫy những hành động tiểu xảo cùng thủ đoạn quay quắt đổi thay chỉ trong một chiều hôm ban mai. Lòng họ ví như mảnh ruộng vừa được cầy bừa tươm tất, cỏ dại không còn đất sống, chỉ chờ gieo mầm vãi hạt, hứa hẹn một vụ mùa phì nhiêu. Cho nên, họ thắc mắc, bực bội, phẫn nộ nếu như ai kia định tâm bôi đen tâm hồn trong trắng ở họ. Họ vẫn mong muốn, ước ao được các bậc trưởng thượng hiền lương chỉ dạy cho họ. Song lại không cho phép bọn điếm đàng, chuyên nghề khua môi múa lưỡi phỉnh phờ dư luận lên tiếng dạy đời, dạy thanh niên. Họ nổi giận đặt bút viết ra, cũng như một số người lại đã vội "phẫn nộ" khi thoạt vừa đọc những điều giới trẻ buộc lòng đề cập đến.

Thế cho nên, công luận cần bình tĩnh, khách quan duyệt xét lại vấn đề. Và chỉ bình tĩnh, khách quan - vẫn chưa đủ! Phải loại bỏ mọi xúc động cấp kỳ, mọi mặc cảm tự cao tự đại. Vì, suốt trong quá khứ dài, chỉ toàn những ai với ai kia "lên tiếng." Thế hệ trẻ Việt Nam chưa hề bao giờ cất lên tiếng nói của họ. Ngày nay họ mới mạnh mẽ tỏ bầy chính kiến. Tưởng nên xem đấy là một hiện tượng khích lệ, đáng mừng hơn đáng lo, đáng vui hơn là trách móc, dè bĩu, đáng lạc quan hơn là chuốc lấy bi quan. Đừng tìm cách "Cả vú lấp miệng," chận đường chận ngõ. Nếu có sợ, chỉ sợ "người thanh niên" tiếp tục thờ ơ, bình chân như vại trước mọi vấn đề dân tộc, sợ họ bàng quan, vong bản. Họ còn biết đau, biết tủi hờn, còn biết uất hận và nổi sùng, còn muốn đem tâm sự riêng đặt vào tâm sự chung của hàng triệu người dân Việt đang sống cuộc đời lưu lạc vật vờ ở các xã hội tư bản coi nặng tiền tài hơn tinh thần, hay, đã muốn xem nhẹ sự hưởng thụ vật chất để còn biết thế nào là tu dưỡng hạnh kiểm, gìn giữ đạo lý, đặt lại cho đúng việc bảo tồn, phát huy văn hóa Việt Nam cực kỳ tế nhị như giờ đây thì như vậy tại sao chúng ta lại không lấy đấy làm điều mừng rỡ?

Nhìn lại gần một thế kỷ về trước, xã hội Việt Nam chìm đắm trong gọng kìm ngoại lai, tinh thần vọng ngoại lan tràn khắp ba miền Trung, Nam, Bắc, thế mà vẫn đã vang lên lời thống thiết: "Tiếng Việt còn, dân Việt còn! Nước Việt còn!" Thì ngày nay, cho dù xứ sở tơi bời tan nát dưới bàn tay thống trị của bọn người vô tổ quốc, vô thần, vô gia đình - và cho dù một phần dân tộc thất thế, nổi trôi sống thân tầm gửi, mọi người chúng ta vẫn còn tất cả niềm kỳ vọng. Vì, "Tiếng nói bao hàm truyền thống tổ quốc Việt Nam ở thế hệ trẻ Việt Nam còn, tương lai dân Việt tất phải còn!"

Chúng ta chỉ vừa thua "một trận chiến."

Chúng ta nhất định không thua một "cuộc chiến" dành đoạt lại đất nước - đất nước của tiền nhân Hùng Vương lập quốc!

Qua nội dung "Vết Thương Tuổi Trẻ," khuyết điểm nếu có, chỉ là ở chỗ người trẻ quá nóng (cái nóng nẩy tất nhiên của tuổi trẻ) để rồi thiếu đi sự rào đón, cẩn trọng né tránh, khiến mắc vào lầm lỗi kỹ thuật đặt bút! Tác giả đã không phân biệt "cái hay" bên cái dở đáng truy kích, đập phá, tận diệt. Tác giả đã vô tình quên đi, không hề nhớ đến, biết đến một số không ít những tâm hồn dân tộc đáng quý, đáng nể trọng đã đóng góp, đã hy sinh cho Tổ Quốc hoặc cho nền văn hóa văn hiến đất Việt. Tác giả đã vơ tất cả vào một mối. Tất cả đều "cá mè một lứa." Chỉ vì tác giả dựa vào sự ăn nói hồ đồ, nông cạn ở một số cá nhân bất xứng; dựa vào hành động rác rưởi của những tên hề sâu khấu chính trị và văn hóa chưa đủ trình độ "thành nhân" đã vội rêu rao việc đội đá vá trời, tự khoác cho mình cái thiên chức hướng dẫn, dắt dẫn, chỉ đạo giới trẻ!

Tưởng nên hiểu rằng, lịch sử đất nước từ ngàn trước đến ngàn sau là một tiếp nối không ngừng, có tốt, có xấu, có huy hoàng, có đen tối, có lúc suy vi, có thời hưng thịnh. Đành rằng, khi mạt vận, kẻ hèn, kẻ hư hỏng nhiều như lá rụng mùa thu, nhưng lại chưa hề thiếu đi những phần tử xứng đáng, hào hùng. Hãy cứ xem chốn ao tù nước đọng, bùn lầy xình úng thật đấy, song nào cánh sen kia đâu mãi chịu tàn úa để bị tuyệt giống, để không thể nở rộ ngay trong hôi tanh?

Định luật thời gian đào thải, hủy diệt con người. Nhưng rồi lớp già nào đã tan biến hẳn? Vẫn hài hòa hiện diện bên mái đầu xanh, gần gặn người tuổi trẻ. Tạo hóa có âm dương, thì kiếp người không thể thiếu đi sự có mặt của hai thế hệ "trẻ" và "không còn trẻ nữa." Bảo cầm súng lao mình ra mặt trận, người lớn tuổi đành chịu. Nhưng bảo rằng truyền thống đạo lý, văn hóa của một dân tộc không nằm trong tay thế hệ cao niên thì lại khó đúng. Hơn thế, nó đúng đến độ tuyệt vời, như khi người ta bàn đến sự luân hồi của nhà Phật. Kiếp luân hồi chưa hẳn thấy ở những người chưa mấy tin, nhưng rõ ràng, hiện tượng luân hồi "từ trẻ bước sang già" thì ngời tỏ như ánh sáng mặt trời, và lại có ngay trong cuộc sống của một kiếp người! Nó quyện lẫn với nhau như tiếng đàn tiếng sáo hòa hợp với lời ca trầm bổng trữ tình. Văn hóa cũng thế, không phải tự nhiên mà một dân tộc có ngay nền văn hóa làm mẫu mực cho linh hồn của giòng giống. Nó cứ phải bắt nguồn từ thuở xa xưa, tiến triển, phong phú hóa hết đời này sang đời khác. Ở thời điểm văn minh tiến bộ ngày nay, người Tây Phương lại đã biết "cách mạng hóa" tư tưởng văn hóa. Họ gạn lọc, bảo tồn những nét văn hóa dân tộc cùng lúc lại du nhập những nguồn văn hóa đa dạng từ bốn phương, bất cứ là ở quốc gia nào trên hoàn vũ. Cho nên, có gì để thế hệ trẻ Việt Nam phải quá băn khoăn, giật mình soát lại cái gốc văn hóa của mình? Những điều thực tế, nào là,

"được vun xới nơi cánh đồng Mỹ và lớn lên bởi bắt rễ từ hoa mầu Mỹ, thở không khí Mỹ, học bằng tiếng Mỹ, nói bằng tiếng Mỹ..."

như giới trẻ vừa nêu, tựu chung tưởng như là mọi sự đến với họ từ môi trường Mỹ Quốc - và cho dù thế, chưa hẳn là điều nguy hại trầm trọng. Và cũng đừng vội kết luận mọi sự kiện kia sẽ cho phép họ lột xác, hoàn toàn đoạn tuyệt với cái gốc văn hóa "thật" ở mình - "Văn hóa Việt Nam"!

Đúng thế. Văn hóa là một điều gì mang tính chất siêu phàm lắm. Nó tiềm tàng, ẩn chứa nhiều phần. Phần lĩnh hội từ thực tế mà đến. Và phần khác, đến một cách siêu hình, có thể cảm nhận được ngay từ giòng máu "huyết thống nòi giống." Đừng quá câu nệ, tốn nhiều công tìm kiếm cho hai tiếng "Văn Hóa" một định nghĩa từ chương. Như, lao mình phân tích, giải thích "Văn" là gì và "Hóa" phải là gì! Hãy trả lại điển tích của chữ nghĩa cho điển tích chữ nghĩa của một thời đã qua, ở các nhà nho sính hán học. Chúng ta không còn nhiều thì giờ nữa, ở vào thời điểm sắp mở đầu một thế kỷ tân kỳ. Làm sao để mọi người, nhất là giới trẻ Việt Nam vốn bị xa vời ngữ Việt hiểu được cái nghĩa tổng quát của nó tưởng đã là quá đủ. Để dễ hiểu hơn, xin đơn cử một hình ảnh dung dị: Nếu có người hỏi chúng ta "Văn hóa, văn hiến Việt Nam" là đâu và từng diễn ra như thế nào? Xin thưa ngay: Trải bốn ngàn năm lập quốc, người Việt từ thuở sinh ra chỉ biết bú mớm từ bầu sữa mẹ. Trong dòng sữa ấy đã có ngay "tình mẫu tử," "tình người"! Họ không uống sữa của loài thú vật - loài bò để khôn lớn, để sống! Có lẽ vì thế, trong chất văn hóa Việt đào tạo nên "người có văn hóa" không chấp nhận thú tính: Con cái không thể ngoảnh mặt quay lưng với cha mẹ, đến một tuổi nào, đủ lông đủ cánh bay đi, sống cuộc đời riêng biệt, không mấy khi còn đếm xỉa đến bố mẹ, bệnh tật, sinh sống ra sao, còn mất, cũng không cần hay, biết! Đã là một sinh vật có hồn, người Việt ghê tởm sự loạn luân, đặt nhục dục lên hàng đầu của sự sống, và không thể nhân danh tự do đến mức độ đàn ông công khai kết hôn với đàn ông, đàn bà lấy đàn bà, thật thản nhiên như là người ta uống... sữa bò vậy!

Lỡ đã sinh ra làm kiếp người Việt Nam thì đố cao chạy xa bay cho đừng là người Việt Nam! Không cần nói đâu xa và cũng không cần dài dòng, chỉ nội một việc thật nhỏ nhoi mà đầy đủ ý nghĩa nhất: "Tại sao đã 20 năm qua, được đào tạo, bắt rễ sâu vào lòng đất Mỹ Quốc đến thế, vậy mà hôm nay, những người trẻ Việt Nam vẫn do một động lực thiêng liêng thúc dục, đã phải cầm đến bút biện bạch cho mình, đồng thời xác định nguồn gốc tinh thần "văn hóa" của mình?"

Nếu quả thực, giới trẻ Việt bị Mỹ hóa, nhất định họ đâu cần phải có phản ứng! Càng không can cớ gì phải "thổn thức" đặt thành vấn đề như họ đã đặt! Phải chăng, họ chỉ muốn mượn hình thức này để "vạch mặt chỉ tên" những kẻ quen thói ăn trên ngồi trốc ở những ngày Miền Nam chưa mất - nhờ vào ngọn gió phất phơ của thời cuộc đảo điên đưa đẩy đến địa vị vàng son, hay nhờ nước đục thả câu thì cũng thế. Chứng nào tật nấy, ví như ngựa quen đường cũ, nay sống giữa xã hội lưu vong mà chúng vẫn mơ màng, vẫn quay quắt tìm đủ mọi cách tô son trát phấn để mong được tái xuất hiện trong một vở tuồng "cười ra nước mắt" thuộc về lịch sử mất nước.

Đọc những điều người trẻ viết ra trên giấy trắng mực đen, cảm thông sâu xa với họ, những người Việt có tâm hồn bỗng thấy buốt nhói trong tim. Ngậm ngùi và xót xa cho thế hệ đang muốn vươn lên, đang muốn thực sự được là người Việt Nam! Trong dòng máu luân lưu ở cơ thể họ, từ hồn đến xác - vẫn ấp ủ một biển trời văn hóa Việt, truyền thống Việt.

Họ thất vọng đấy mà vẫn đang kỳ vọng đấy!

Hãy nghe họ tâm tình: "Sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đó"!

Còn mãi mãi biết ghi tạc trong đáy lòng lời tục ngữ của tiền nhân, lớp trẻ Việt Nam ở trên khắp các nẻo đường tự do vẫn còn đầy đủ danh dự, vẫn là những giá trị tinh thần ngời sáng trong tâm hồn nhiều người bỏ xa tuổi họ - những người mà mỗi sáng mai hay chiều hôm đến, nhìn bóng hoàng hôn tỏa xuống, đã chợt cảm thấy hơi sương lạnh bên bờ vai, thế nhưng chưa hề quên đi nỗi sầu vong quốc.

Vâng, xin hãy cứ tìm lại niềm tin, hỡi những người bạn trẻ!

Đất nước là của chung.

Thế nhưng đất nước Việt lại không thể còn là của những kẻ lỗi thời, vị kỷ, hễ mở miệng là cao ngạo tuyên xưng: ...đã "nguyên" là thế này, thế khác...

Bụi thời gian, thời thế, đã phủ kín những cái "nguyên" đầy hào nhoáng mà giả tạo kia rồi!

Đất nước giờ đây tùy thuộc các bạn. Tùy thuộc tuổi trẻ. Và xã hội tị nạn cần được lành mạnh hóa cũng bởi từ lòng nhiệt huyết, ý chí quả cảm của các bạn.

Nếu như những người trẻ đã có lý, không chấp nhận trở thành "những đợt sóng sau đổ theo ngọn sóng trước ô nhiễm" thì cứ lại phải nhớ thêm rằng những người muôn năm trước đã từng có dặn: "Sóng xa sóng đổ vào bờ"...

Bờ đây là... bến bờ Việt Nam!

Hễ còn là người Việt, còn biết hướng về đất Việt ngàn xưa, tuổi trẻ Việt Nam còn tất cả hy vọng dựng nước! Để rồi còn viết lại trang sử văn hóa hào hùng...

Người Luân Đôn.

10-1994

ÝKIẾNCỦAMỘTVỊCAONIÊN

về bài viết "Vết Thương Tuổi Trẻ"

VŨ HỒNG (Portland)

"Một già một trẻ bằng nhau." Câu nói có vẻ ngược ngạo đối với bất cứ thời đại nào, nhưng hỏi ý kiến người già về những băn khoăn của người trẻ thì lúc nào cũng hợp lý, nếu không nói là hữu ích.

Người trẻ có bầu máu nóng vô cùng quí giá thì người già cũng có kinh nghiệm đáng giá ngàn vàng. Do đó, sau khi đọc bài "Vết Thương Tuổi Trẻ," lòng thấy xốn xang, tôi liền đến thỉnh vấn một vị lão gia trưởng thượng. Như vậy có thể là một thách đố táo bạo bởi vì VTTT có những lời bộc trực đến cứng cỏi dễ làm phật ý người già. Nhưng cứ thử xem; dưới đây là ý kiến của vị cao niên đó sau khi đọc VTTT. Ông đã gọi tôi là anh bạn trẻ và nói với tôi thế này:

"Anh bạn trẻ! Ta chỉ nói riêng với bạn vì đến gặp ta; bạn chẳng đại diện cho ai, và ta cũng chẳng thay mặt cho lớp người nào để lên tiếng. Đây chỉ là lời tâm sự ta gửi đến cho bạn, riêng bạn mà thôi. Anh bạn trẻ ạ! Khi đọc xong Vết Thương Tuổi Trẻ, tim ta nhói lên, không phải bởi những lời phản ứng mạnh mẽ của anh bạn trẻ nào đó, mà tim ta nhói lên vì bất chợt nhận ra chính đó là vết thương của ta. Tim ta nhói lên bởi vì không bao giờ ta ngờ rằng trong cuộc đời của mình lại có những quá khứ giống hệt như của các bạn hôm nay: quá khứ của thác loạn, của mất gốc. Cuộc đời là một sự lập lại của những kỷ niệm vui cũng như buồn, thành đạt cũng như lầm lỡ. "Ai nên khôn chẳng đã dại đôi lần" phải không anh bạn trẻ?

Vết thương tuổi trẻ hôm nay, nỗi bực dọc của các bạn trẻ hôm nay cũng là vết thương, là nỗi đau của tuổi già hôm qua nếu người già còn chút nhạy bén với quá khứ của mình, nếu người già còn tri thức, ta nói tri thức chứ không phải trí thức, để nhìn lại chính mình. Các bạn đang nổi loạn? Tốt lắm, nổi loạn chớ đừng thác loạn. Không ai khuyến khích tuổi trẻ thác loạn tuy trong cuộc đời ai mà chẳng đã có lần thác loạn, thật đáng xấu hổ. A! Nếu ta còn biết xấu hổ thì vẫn còn đáng hãnh diện, nếu không, đã đánh mất cái liêm sỉ rồi. Ở lứa tuổi của ta trước kia, có nhiều người biết sống chừng mực mà hôm nay họ là những vị trưởng thượng đáng kính, nhưng cũng chẳng thiếu người trí thức đã chẳng hề biết đến hai chữ thân sỉ mà hôm nay lại đang muốn ngồi trên ghế của phán quan để lên án, để xỉ vả tuổi trẻ, bằng chính những lỗi lầm của mình ngày xưa.

Anh bạn trẻ ạ, ở lứa tuổi của ta, ngay cả hôm nay nữa, thiếu gì người già mất gốc. Muốn nói đến gốc, trước hết phải nói đến cái gốc riêng của mỗi người đã. Gốc riêng của mỗi người là cái nhân bản trong con người đó, là cái biết thân sỉ trong con người đó. Gốc riêng của mỗi người là phải biết làm một con người đúng nghĩa. Ta muốn những nhà lý thuyết rởm đừng vội phân tích chữ nghĩa. Họ nói nhiều quá rồi mà chỉ nói những lúc trời quang mây tạnh; còn khi chợt thấy chỉ một chấm đen thôi trên bầu trời báo hiệu bão bùng, họ lặn mất tiêu đâu hết. Không biết thân sỉ, không biết làm một con người đúng nghĩa thì đừng nói đến gốc với gác.

Có một số người già hôm nay, đang có mặt ở vùng đất tự do, yên ổn này, ba hoa, bao quát đủ mọi vấn đề, cái gì cũng biết, cái gì cũng hay, cái gì cũng muốn dạy dỗ người khác, mà bản thân họ đã đánh mất chính họ từ ngày 30.4.75, ngày mà họ hớt hải trút bỏ râu ria áo mão vù vù bay qua đầu những đồng bào khốn khổ của họ, những kẻ vô tội đang bị dồn vào ngõ cụt, vù vù bay qua đầu những chiến hữu của họ, áo giáp, nón sắt bê bết đất bùn và cả máu nữa, đang bơ phờ cầm cự một cách vô vọng dưới những giao thông hào, ngao ngán nhìn lên những chuyến bay chở những vị chỉ huy đáng kính của mình vội vã trốn chạy mất hút khỏi chân trời Sàigòn, mất hút khỏi vùng trời tổ quốc thân yêu. Những vị đáng kính ấy, có vị ngày đó đã bị những người lính thủy quân lục chiến Mỹ mặt non choẹt, quân phục hãy còn nếp ủi thẳng băng có lẽ mới từ hạm đội 7 biệt phái lên Sài Gòn để bảo vệ những yếu nhân Mỹ di tản, chĩa súng M16 vào mặt, giơ chân đạp xuống khỏi máy bay ở ngay phi đạo Tân Sơn Nhất. Hôm nay những người đó, những người chóng quên đó lại đang lên tiếng, để tự bắt đầu dấn thân vào một màn kịch mới. Có những người già hôm nay đang phơi phới có mặt trên các diễn đàn, những người mà ngày xa xưa ấy tự nhận là kẻ sĩ, là học giả, bằng cấp đầy mình nhưng khi bị nhốt vào trong những trại tù cải tạo, lúc sống chung với anh em thì tồi ơi là tồi, trước mặt công an, quản giáo thì hèn ơi là hèn. Có những bộ mặt còn nham nhở hơn, đang xốc lại áo mão, lấy giọng điệu cho trong trẻo để chuẩn bị đón gió. Những con người bản thân như thế, quá khứ như thế, mà hôm nay lại nói, lại còn dám lên tiếng rằng tuổi trẻ mất gốc, tuổi trẻ thác loạn, tuổi trẻ quên văn hóa.

Này anh bạn trẻ, anh đã đọc Thánh Kinh chưa? Chắc chắn là có, không có thì giờ đọc toàn bộ, nhưng trích từng đoạn thì ai đã chẳng từng một lần được nghe. Có một câu chuyện làm ta suy nghĩ đến độ mỗi khi định mở miệng giáo dục những người mình có trách nhiệm thì tự nhiên cảm thấy mình phải cân nhắc đắn đo. Đó là câu chuyện Người Đàn Bà Ngoại Tình trong sách Tin Mừng Gioan đoạn 8. Anh bạn trẻ thử nghĩ, có gì đáng nổi điên hơn khi mình biết người vợ đầu gối tay ấp của mình đi chung chạ chăn gối với một người đàn ông khác. Một người đàn bà ngoại tình! Còn có gì đáng ghê tởm hơn? Người ta bắt quả tang một người đàn bà như thế và dẫn chị ta đến cùng Đức Giêsu để ngài xét xử. Người ta ở đây bao gồm những người cao niên đạo mạo đáng kính nể, những chức sắc đáng kính trong xã hội Do Thái, những thanh niên có bầu máu nóng hăng say bênh vực lẽ phải đạo lý, những phụ nữ tò mò thích xía vào chuyện người khác, và cả đám con nít ham vui. Đông lắm, một đám đông hỗn độn náo loạn như thế vây quanh một người đàn bà dơ dáy cả trong lẫn ngoài. Chị đã rũ xuống như tàu lá chuối bị hơ lửa, lấy tóc che kín mặt không dám nhìn ai.

Ồn ào, la ó, người ta thúc dục Đức Giêsu lên tiếng, ngầm áp lực Ngài phải lên án. Đức Giêsu nhìn đám đông thương hại, thương hại đến chán nản, bởi vì Ngài không chỉ nhìn thấy những nét hung hăng kết tội trên mặt họ, những điên cuồng man rợ của họ bên ngoài, mà Ngài còn thấy rõ cả những quá khứ trong cuộc đời, những vết đen trong con tim của từng người trong bọn họ nữa. Đức Giêsu chán nản, chán nản đến độ phải cúi xuống nhìn đất và lấy ngón tay viết những hàng vô nghĩa trên cát. Ngài muốn một khoảng trống im lặng được tạo ra để tâm hồn đám đông lắng xuống.

Cử chỉ của Đức Giêsu làm đám đông càng nổi giận: "Lề luật cho chúng tôi ném đá chết hạng đàn bà dơ dáy thế này. Vậy Thầy dạy sao?" (Ga. 8:5). Sau câu lên án đó, tất cả già trẻ, lớn bé vây quanh ào ào lên như bầy o­ng, la lối đồng tình để gây áp lực với Đức Giêsu. Buồn bã pha lẫn chạnh thương, Đức Giêsu ngẩng lên nhìn đám đông, Ngài chậm rãi lên tiếng: "Trong các ông, ai sạch tội thì hãy ném đá người này trước đi." Rồi Ngài lại cúi xuống viết trên đất (Ga. 8:7). Lập tức bao nhiêu ồn ào náo động bay biến đi hết. Tất cả yên lặng, một sự yên lặng bàng hoàng rồi đông cứng. Lời nói của Đức Giêsu, khối đá ngàn cân đè lên trái tim từng người. Và Kinh Thánh nói: "Họ từ từ rút êm, bắt đầu từ những người già nhất." Cay đắng thật! Thánh Kinh chỉ dùng một câu ngắn gọn: "Bắt đầu từ những người già nhất."

Tại sao vậy, anh bạn trẻ? Hãy trả lời đi!

Tại vì: càng sống lâu càng nhiều lỗi lầm. Chỉ có Đấng Thiên Chúa làm người thì mới "Càng thêm tuổi càng thêm khôn ngoan" (Lc. 2:52). Còn bụi đất làm người thì càng thêm tuổi càng thêm tội. Tội đây là tội lỗi và tội nghiệp nữa. Ta không chỉ trích, không bôi bác người già vì tuổi già đáng kính, nhưng không phải tất cả người già đều đáng nêu gương đạo hạnh (Daniel 13:8-9). Kinh Thánh nói: "Đẹp thay trí phán đoán nơi người già. Triều thiên kẻ già là sự giầu kinh nghiệm." Nhưng "Cái vinh của họ là kính sợ Thiên Chúa" (Huấn Ca 25:4-6). Tuy nhiên, anh bạn trẻ thân mến, phần anh, anh phải kính trọng tất cả những bậc lão gia trưởng thượng. Đừng hỏi tại sao vì tất cả tuổi già đều đáng kính.

Ta không chỉ trích tuổi già, bênh tuổi trẻ, bởi vì trẻ già không phải ngôi vị bất biến, mà trẻ, già chỉ là khoảng thời gian chuyển dịch, kinh qua trên cuộc đời mỗi người. Trên tờ tuần san Time có một người Mỹ tên là Sylvéter viết: "Children may be the future of our country, but old age is our future." Một nhà thơ tiền chiến có những câu nghe thật vô lý, nhưng suy nghĩ lại, chúng ta phải công nhận là có lý:

Xuân đang đến nghĩa là xuân đang đi,

Xuân còn non nghĩa là xuân đã già. (Xuân Diệu)

Tuổi trẻ là thế, nuối tiếc cũng không được, mà khi tuổi già đến có muốn níu kéo thời thanh xuân trở lại cũng không xong bởi vì:

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ hẹp

Không cho dài tuổi trẻ của nhân gian. (Xuân Diệu)

* * *

Các bạn trẻ, các bạn đang phẫn nộ? Tốt lắm. biết phẫn nộ mới đáng là tuổi trẻ. Tuổi trẻ cam phận là tuổi trẻ đang già. Biết phẫn nộ, nhưng phẫn nộ đúng thì mới không bị hối tiếc về sau, mới không bị lợi dụng, không tự đốt cháy tuổi trẻ mình cho tư lợi của bọn hoạt đầu vô liêm sĩ.

Thời gian là một vòng quay rất chậm, nhưng vô cùng tàn nhẫn không bao giờ chịu lui lại dù chỉ một tích tắc cuộc đời. Thời gian kéo dài quá khứ của mỗi người nhưng lại lạnh lùng rút ngắn tương lai. Hiện tại là báu vật hiếm quí nhất trên trần gian; tuy nhiên hết sức phù du và ngắn ngủi, không ai có thể nắm giữ được hiện tại trong bàn tay của mình. Vậy các bạn trẻ, có phẫn nộ, hãy phẫn nộ lúc này đây, đừng để khi bóng tối tuổi già chụp xuống thì quá trễ, rồi hối tiếc quá khứ mình mà đổ phẫn nộ lên hiện tại tươi đẹp của những người trẻ khác, như vậy thật thiếu công bằng, nếu nói mạnh hơn một chút, không lương thiện.

Các bạn trẻ đang phẫn nộ, tốt lắm, phẫn nộ bởi bị lên án là mất gốc. Xin hãy bình tâm, người ta nói đúng đó: "Các bạn đang mất gốc." Trong chúng ta có ai còn gốc đâu? Cái gốc của mỗi người chúng ta đã bị bứng đi mất rồi. Mỉa mai và nực cười, những người lên án, và những người bị lên án, cả hai đang ngồi nhờ trên cái gốc của kẻ khác. Ngay cả những người đang sống trên quê hương Việt Nam cũng đang chới với vì cái gốc của mình. Toàn thể dân tộc nơi đất nước Việt Nam nhất là ở miền Bắc đã có thời kỳ dân chúng bị cho vào cái khuôn Máxít: phủ nhận nguồn gốc con người, sửa lại lịch sử đất nước, xóa bỏ tôn giáo, phủ nhận phong tục, tập quán đạo đức tốt lành dân tộc, con tố cha mẹ, tớ giết chủ, vợ chồng coi chừng nhau. Những ngày lễ ngày tết chỉ có một bàn thờ: cờ đảng và hình bác Hồ che lấp cả tổ tiên ông bà. Còn ở miền Nam mãi đến đầu thập niên 80, cán bộ đảng mới dè dặt bày lại bàn thờ tổ tiên của họ. Hiện nay tình hình văn hóa, đạo đức đã có cải tiến, học đường đã thấy xuất hiện châm ngôn: "Tiên học lễ, hậu học văn." Còn khẩu hiệu "Sống chiến đấu lao động theo gương bác Hồ vĩ đại" thì biến mất.

Gốc là gì? Gốc là cái phần cuối của thân cây, tiếp giáp mặt đất, dính liền với chùm rễ ăn sâu xuống lòng đất để hút lấy sự sống của đất mầu nuôi cả thân cây để sinh hoa kết trái. Một cây mất gốc thì sẽ chết khô vì không liên hệ được với đất màu. Một cành cây tháp vào cây khác sẽ bị lai giống và trái của nó bị biến chất. Cây có cội thì con người cũng phải có cái gốc của mình. Mỗi con người phải xuất phát từ một gốc. Hai sinh viên sĩ quan cùng tốt nghiệp nơi một trường võ bị như Đà Lạt, Saint Cyr, West Point chẳng hạn cũng có thể gọi là cùng một gốc. Hai vị linh mục cùng xuất thân từ một dòng tu như Đaminh, Phanxicô chẳng hạn cũng có thể gọi là cùng một gốc, nhưng đó chỉ là gốc phụ. Còn cái gốc chính của mỗi con người lại là lòng mẹ. Lòng mẹ là nơi mà cuống nhau của tôi dính vào, nối liền với máu thịt của đấng cưu mang tôi, nơi mà máu thịt của người đã làm cho tôi thành hình, và từ cái nôi huyền diệu đó, tôi mới được trang bị đầy màu sắc hôm nay. Không có cái gốc đó, ngoài cái gốc đó, không còn cái gốc nào làm cho tôi được có mặt, mang danh là một con người. Cho nên có thể nói mà không sợ tục tĩu chút nào, là con người ai cũng phải có lỗ rốn, cái dấu ấn nói cho mình biết cái ngày mình đã được rời khỏi cái nhau để hãnh diện được mang tên mang tuổi. Chỉ có con khỉ Tôn Ngộ Không trong truyện Tây Du Ký mới từ kẽ đá nứt ra thành sinh vật sống động thôi. Nhưng may quá, khỉ muôn đời vẫn là khỉ, không thể thành người được, và những ai tự nhận mình là gốc khỉ sẽ không bao giờ có thể trở thành một con người với đúng nghĩa con người.

Từ cái căn gốc chính của mỗi người, mình phải, hoặc (mình có) ăn ở trọn bề hiếu thảo với đấng sinh thành, nơi xuất phát đời mình, hết lòng yêu thương đồng bào cùng màu da giòng máu thì mới mở rộng ra đến lòng mẹ Việt Nam, cái gốc lớn hơn (không phải lòng dân tộc, bịp bợm, nhảm nhí mập mờ đưa người ta vào khuôn tròng chủ nghĩa, lừa đảo). Lòng mẹ Việt Nam là gì?

a- Nghĩa đen là nơi mà những ai được sinh ra bởi một người mẹ Việt Nam (Ai hướng về, ai còn có tâm hồn hướng về cái nôi êm đềm ấm áp ấy là con người còn gốc).

b- Nghĩa rộng là giang sơn gấm vóc, là đồng ruộng bát ngát, là củ khoai, hạt lúa, là cây trái bốn mùa, là khí trời, hơi thở, là tiếng ru, tiếng hát, môi trường bao quanh nuôi sống mình từ ngày còn non nớt mới chào đời. Từ đó mới nới rộng ra, mới đi sâu vào quá khứ để gặp được cái gốc huyền thoại (mà chẳng huyền thoại chút nào) Con Rồng Cháu Tiên.

Tại sao nói huyền thoại mà không huyền thoại chút nào? Bởi vì cái gốc của con người ta không như cái gốc của loài thảo vật. Bởi vì cái gốc của người ta chẳng những có phần thể chất cụ thể: Lòng mẹ mà còn có cả phần tinh thần linh thiêng nữa; mà cái phần tinh thần thì cao quí, quan trọng vô cùng, cao trọng đến độ ai mất cái phần ấy sẽ không thành một con người. Ai mà làm hư hỏng cái phần ấy sẽ trở thành nửa người, nửa ngợm.

Cái gốc Con Rồng Cháu Tiên cô đọng một đạo lý cổ truyền của dân tộc Việt Nam: Đạo lý yêu thương đùm bọc lấy nhau. Từ đạo lý ấy mới nảy sinh huyền thoại: Bà Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng, trăm trứng nở trăm người con. Năm mươi người thành rồng, năm mươi người thành tiên. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam là thế, không phải lẻ tẻ do nhiều giống dân, tự nhiều phương trời sáp lại gặp nhau tại một nơi chốn, sống chung với nhau, dựng vợ gả chồng rồi sinh sôi nảy nở thành một dân tộc tạp chủng. Nguồn gốc dân tộc Việt Nam là cùng chung một mẹ, cùng nằm chung trong một bọc nên người Việt Nam gọi nhau là đồng bào. Hai tiếng thân yêu, thương mến mà không một dân tộc nào trên thế giới có được để mà gọi nhau như thế. Từ huyền thoại đầy tính văn hoa nhuốm màu luân lý đó, dễ thấm nhập vào dân gian trở thành ca dao, thành cổ tích:

"Bầu ơi thương lấy bí cùng...

"Lá lành đùm lá rách...

"Tay đứt ruột xót...

"Nhiễu điều phủ lấy giá gương..."

Đạo lý ấy không cao xa khúc mắc mà bàng bạc đi vào lòng người nhẹ nhàng vững chãi, không lý thuyết suông mà cụ thể biến thành đồ ăn thức uống: Bánh chưng, bánh dầy. Bánh chưng vuông, bánh dầy tròn biểu tượng đất vuông trời tròn, dạy cho người ta ăn ở vuông tròn với nhau. Trái dưa hấu trở thành huyền thoại An tiêm: xanh vỏ đỏ lòng. Tình chồng nghĩa vợ có thủy có chung, không bập bềnh trôi nổi, nay hợp, mai tan. Tình làng nghĩa xóm có trước có sau, gắn bó che chở nhau như lũy tre xanh vững chãi. Huyền thoại, cổ tích không lên mặt dạy ai mà nhẹ nhàng căn cốt xây dựng từ con người, từ gia đình, làng xóm rồi kết tụ thành một dân tộc nhỏ nhưng tự tồn, đứng vững như bàn thạch trên đôi chân của mình, vượt thắng tất cả để dựng nước giữ nước. Cái gốc của chúng ta sừng sững như thế, mà cũng mênh mông bát ngát như thế, nhưng cũng vô cùng sâu thẳm, linh thiêng. Cái gốc của chúng ta không phải là khối gỗ vô tri mà nó có linh hồn xuyên thời gian như một sợi chỉ vàng nối tiếp thế hệ này đến thế hệ khác cho đến chúng ta hôm nay.

Hôm nay, những người Việt Nam chúng ta đang có mặt trên khắp mọi vùng đất lạ của thế giới này. Từ cực bắc Alaska đến cực Nam New Zealand, từ những vùng đầy sôi động Israel đến vài hòn đảo cô quạnh Falkland tận cùng Nam Mỹ. Chưa kể những vùng đất mệnh danh bờ xôi ao mật như Canada, Mỹ quốc, Âu Châu, Úc Châu v.v..., nơi nào cũng có người Việt ly hương tị nạn. Đồng bào chúng ta đang hết sức cần cù, một mặt đang làm phong phú cho nền văn hóa của đất nước cưu mang mình, một mặt đang vắt tim, nặn óc, lao động cật lực để hướng về đồng bào cật ruột, một phần thân thể của mình còn lại nơi quê nhà, chưa kể phải chăm sóc cho lớp trẻ tương lai là con là cháu trong chính gia đình mình đang mỗi ngày trở thành nửa Tây, nửa Mỹ, nửa Việt trong cái thế giới mà cha mẹ, anh chị chúng cũng đang chới với. Hôm nay, dù muốn dù không, hương hoa dân Việt đã bị bứt khỏi đồng ruộng thôn làng mà bay đi khắp bốn phương trời. Cái gốc của chúng ta, về lâu về dài sẽ là cái gì? Cam go lắm, khắc nghiệt lắm! Xin một số những vị cao niên mà thời nào cũng có mặt đang lớn tiếng trên các diễn đàn hải ngoại, các vị chẳng làm gì cả, hay có làm cũng chẳng bao nhiêu; các vị đang ngồi mát ăn bát vàng mà lại nghiêm khắc lên án tuổi trẻ, lớp tuổi trẻ đáng lẽ ra chúng ta phải trân trọng vì sức làm việc của họ, lớp tuổi trẻ đang dấn thân vào mọi lãnh vực: văn hóa, kỹ thuật, sản xuất, văn học, nghệ thuật và đã đạt được nhiều thành quả cao, làm những người ngoại quốc phải thán phục. Các vị lên án họ là mất gốc, nhưng xin hỏi, thật sự quí vị có hiểu gốc là cái gì không? Chẳng lẽ nó là một vài cái áo dài khăn đóng, một vài điệu hát múa quạt, múa nón? Nếu cái đó là gốc, thì... xin lỗi... chỉ mươi, mười lăm phút ai cũng có thể tự tạo cho mình một cái gốc như thế.

Lên án tuổi trẻ mất gốc! có lẽ là vì hôm nay người trẻ đang tiến xa hơn quí vị, mà vô tình đẩy lùi quí vị trở về quá khứ để gậm nhấm mớ chữ nghĩa từ chương cổ điển của mình? Lên án tuổi trẻ mất gốc! có lẽ là vì đã hơn một lần một vài bạn trẻ nào đó đã vô tình nghênh ngang trước mặt quí vị mà không chịu khúm núm như quí vị tưởng phải như thế mới là lễ độ? Cái gốc không phải ở chỗ đó. Cành khô củi mục có dán cái mác gì lên cũng chỉ là cành khô củi mục. Hãy là một cây đại thọ, ăn ở liêm chính, sống yêu thương, đứng thẳng, đứng vững như bàn thạch, tâm hồn cương nghị, trong sáng, thì tự nhiên không cần phải bắt ai nhìn vài cái gốc nào khác mà chính mình sẽ là cái gốc, là chỗ dựa cho chính mình và lớp trẻ tương lai. Bản thân mình nghiêng ngã, hẹp hòi lại còn câu nệ thành kiến, coi đồng đô la to như núi, thấy một chút vinh hoa thì mắt sáng ngời, như thế tự mình đã mất gốc từ lâu rồi, cần chi lên án ai?

Anh bạn trẻ thân mến, ta đã quá lời rồi chăng? Người xưa có câu: "Kim vàng ai nỡ uốn câu, người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời." Đúng như vậy, nhưng các cụ cũng nói: "Người khôn nói mánh, người dại đánh đòn." Hôm nay ta nói với anh bạn trẻ là nói về những người đáng đánh đòn, những người mang danh khoa bảng, những người khoác áo võ biền, họ đã có mặt ở các "triều đại" Việt Nam và cũng là những kẻ đã làm hỏng bao nhiêu "triều đại" Việt Nam. Hôm nay, họ đã thành lão niên nhưng vẫn chưa biết mình là những kẻ thất phu dại khờ nên vẫn oang oang lên tiếng dạy dỗ đủ mọi vấn đề, đủ mọi lớp người bằng những vốn liếng nghèo nàn cũ rích của mình. Tệ hơn nữa, họ còn đang muốn làm băng hoại lớp trẻ hôm nay. Những con rối đó đã làm những bậc trưởng thượng đáng kính phải chau mày, đã làm những người có thiện ý, ngày đêm bỏ công sức xây dựng cho tương lai lớp trẻ Việt Nam hải ngoại phải bực bội, và rất muốn họ, những cái thùng rỗng ấy, hãy im miệng đi.

Anh bạn trẻ thân mến, đã có lần ta thử giang thẳng hai tay, xem chiều dài từ đầu ngón tay giữa bên này đến đầu ngón tay giữa bên kia đo được bao nhiêu. Với khoảng cách ngắn như vậy, cho dù có một tấm lòng bao la rộng mở, khó mà ôm trọn một gia đình riêng mình trong vòng tay ấm áp, còn nói chi dám tham vọng ôm cả lớp trẻ Việt Nam đang có mặt trên khắp thế giới. Thế mà hôm nay đã có những tham vọng không tưởng đó lại đang lao xao xuất hiện. Nói thì dễ lắm, nhưng từ cái miệng đến đôi bàn tay thì xa vô cùng. Ngay cả đến bậc vĩ nhân có khi đi trọn cuộc đời cũng chưa tới. Đấng Tạo Hóa tạo thành thế gian, Ngài chỉ nói một lời, nhưng khi Ngài muốn cứu con người thì cũng cần một quá trình hàng bao nhiêu ngàn năm... đến khi có mặt trên trần thế vẫn còn bị thế gian treo trên thập giá.

Vậy xin những người thích lên án hãy suy nghĩ lại và yên lặng đi, hãy suy nghĩ về quá khứ của mình và quá khứ của dân tộc. Đất nước chúng ta quí lắm, 4000 năm mới xây dựng được tuy đã bao lần bị phá lên phá xuống vẫn mở rộng bờ cõi đến tận phương Nam, gặp biển cả phải dừng lại mà còn với tay giật thêm hai mảnh Phú Quốc và Côn Sơn. Dân tộc Việt Nam đâu có thua ai, nhưng tại sao hôm nay tan nát đau thương khắp thế gian? Ai đã đẩy lớp tuổi trẻ ra khỏi nước để mang thân phận lưu đày khắp thế gian? Ai? Xin đừng đổ tội cho Cộng Sản và người Hoa Kỳ. Chúng ta đánh giặc ngoài, tuy cam go nhưng còn dễ, đánh giặc trong khó vô cùng. Giặc trong là những kẻ nói nhiều làm ít hoặc không làm gì cả. Giặc trong là những kẻ khi vui thì vỗ tay vào, dành phần dành chỗ, khi hoạn nạn thì ôm đầu, ôm tiền bỏ chạy lấy một mình, những kẻ bằng cấp đầy mình nhưng tư cách không đáng một đồng xu mà hôm nay vẫn cứ thích nói lời chỉ đạo, những kẻ đã mất gốc ngay từ khi còn đứng trên đất nước mà hôm nay đang hung hăng lên án tuổi trẻ.

Anh bạn trẻ, nói đến đây chúng ta phải nghiêng mình khâm phục những người đáng kính đáng mến đang âm thầm kiên nhẫn giúp lớp trẻ Việt Nam một cách vô vị lợi trong những lớp Việt Ngữ, dạy lịch sử, dạy đạo lý. Lớp trẻ Việt Nam ở hải ngoại thông minh chân chất, ham làm việc, ít ba hoa, chịu khó học hành. Ngoại trừ một số hư hỏng vào lúc giao thời quáng mắt về vật chất xa hoa nên ăn chơi đàng điếm, kết tụ băng đảng; sự thể này không nên lấy làm lạ và cũng không nên thổi phồng vì họ nào có được ai thiết tha hướng dẫn đâu mà chỉ gán tội cho cả lớp trẻ đang mơn mởn xanh tươi. Ở đâu cũng có cỏ lùng lẫn lộn với cây lúa. Trong giới người lớn cũng vậy thôi, ăn chơi, chè chén, bỏ vợ bỏ chồng, giành giật làm ăn, đạp lên nhau kiếm lời, mánh khóe đủ cách để gian lận... chẳng những thế lại còn bôi đen bôi lọ nhau, làm những việc xấu xa khiến luật pháp phải can thiệp.

Chúng ta cũng phải nghiêng mình kính phục những bậc cha mẹ Việt Nam, kiên cường chịu đựng, can đảm làm việc trong một môi trường hoàn toàn xa lạ về mọi mặt: phong tục, tập quán, ngôn ngữ, mà vẫn lao vào giữa cuộc sống khắc nghiệt vì tương lai con cái, vì sự sống còn của gia đình, và vì sự sống còn của những người thân thuộc bên quê nhà nữa. Chúng ta phải nghiêng mình khâm phục các bậc lão niên Việt Nam đang sống rất xứng đáng trên miền đất hoàn toàn xa lạ, đối diện với một nền văn minh kỹ thuật trổi vượt nhất thế giới; các vị đó vẫn giữ được tác phong chững chạc của tuổi già Việt Nam, sẵn sàng lắng nghe và bình tĩnh đón nhận những cái hay, cái đẹp của nền văn hóa mới nhưng không đồng hóa tất cả, không để cho cái sai, cái xấu của một nền luân lý thực dụng lấn át cái tinh túy tốt đẹp của nền luân lý trầm mặc Á Đông, cách riêng nền luân lý Việt Nam. Đức Tổng Giám Mục William J. Levada, cai quản địa phận Portland, OR., trong một bài giảng tại núi Đức Mẹ Sầu Bi nhân dịp hành hương thứ 19 của cộng đoàn dân Chúa Việt Nam cùng với các cộng đoàn tị nạn của những người Ba Lan, Nga, Lào, Đại Hàn, Phi Luật Tân, Trung Hoa, và Căm Bốt v.v... đã nói, "Tôi ca ngợi cách sống đạo hạnh trong các gia đình Việt Nam, cha mẹ, vợ chồng, con cái sống yêu thương liên kết trước mọi hoàn cảnh khó khăn khắc nghiệt, hầu như chưa thấy một gia đình nào trục trặc tan vỡ. Tôi tin rằng đó là nhờ gương tốt của các bậc trưởng thượng và nhờ truyền thống tốt đẹp của một nền luân lý lâu đời cũng như sự góp công của các linh mục Việt Nam. Tôi mong mỏi truyền thống này phải được giữ lấy và còn phải nên gương cho nhiều gia đình trên đất nước các bạn đang sống."

Anh bạn trẻ yêu quí, kỷ niệm... là một bí mật cao quí riêng tư của mỗi người, cho nên kỷ niệm mỗi người đều không giống nhau, ngay cả những người thân yêu như bạn bè, chồng vợ, anh em dầu văn hóa có thể giống nhau. Kỷ niệm chúng ta có được là nhờ những cái mình kinh qua trong cuộc đời. Không ai có thể rung động được về cái mình chưa hề một lần cảm nghiệm. Đồ ăn thức uống, cây cỏ hoa lá, con đường đi hằng ngày, những người gặp gỡ tuổi ấu thơ, bạn bè, trò chơi, sách vở, bàn ghế học đường, tiếng rao hàng văng vẳng trong xóm vắng, những nao nao trong lòng khi thời tiết sang mùa... tất cả những cái đó kết tụ thành quá khứ, thành kỷ niệm, thành tình hoài hương. Những người trẻ hải ngoại hôm nay không thể nào thấy được mùa thu miền bắc Việt Nam qua hai câu thơ,

"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,

Đã vắng người sang những chuyến đò." (XD)

Và những người trẻ ở Sài Gòn hôm nay không thể nào cảm được cái đẹp của mùa thu: "Lá đỏ đầy công viên, cây cành bắt đầu trơ trụi chờ mùa đông khắc nghiệt tới" của hải ngoại.

Tôi có một đứa cháu gái sinh tại Mỹ. Năm nay, 1995, cháu 18 tuổi, nói tiếng Mỹ sõi hơn tiếng Việt, đi ăn nhà hàng Việt Nam cầm một cái hộp đựng đồ ăn mang về. Nó nói với cô tiếp viên: "Cho cháu xin cái thùng" nghe sửng người, nản quá. Má nó nói: "Nó đi trường nhiều hơn ở nhà, kỳ tụi em mới qua đâu có mấy người Việt Nam; bạn bè của nó toàn nhóc con Mỹ..." Một hôm con bé thấy cô nó (ở Việt Nam mới qua) ngồi thừ người nhìn qua cửa kính, tay cầm một miếng giấy vở học trò. Nó hỏi: "Cô có gì đó? Something interesting?" Cô đưa cho cháu.

-"Mày đọc đi, Mỹ con, hiểu gì không?"

Trên tờ giấy có mấy câu thơ của bạn bè Việt Nam gửi qua:

"Mi bảo gửi mi chút mùa hè

Làm sao ta gửi được tiếng ve

Làm sao gửi được cơn mưa hạ

Gửi làm sao được những hàng me.

Một mùa hè nhỏ ta muốn gửi

Vơi bớt u hoài kẻ tha phương

Gom cả quê hương vào cánh phượng

Cho mi mùa hạ chốn quê người."

Con bé đọc xong nói, "Hàng me có nhiều tiền không mà không gửi?"

* * *

Thời gian và các biến động lịch sử sẽ biến đổi con người làm nhạt nhòa phong tục tập quán và truyền thống của một dân tộc, nhất là những dân tộc nhiều phen đã bị phân ly chia cắt. Những đạo lý: "Quân, sư, phụ," những cách sống "phu xướng phụ tùy" không còn là kim chỉ nam cho xã hội và gia đình Việt Nam ngay trên đất nước Việt Nam hôm nay nữa. Một quyển sách viết bằng chữ Nôm bây giờ là một hiếm vật. Một người Việt Nam răng đen hôm nay thật khó tìm. Như vậy có phải chúng ta hôm nay đang mất gốc không? Ngay cả con bé cháu vừa được nói ở trên có phải đã mất gốc không?

Người Việt Nam tha hương mang theo mình cách sống văn hóa Việt Nam và kỷ niệm của mình tới miền đất lạ. Tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại có nền văn hóa Việt Nam trộn lẫn với nền văn hóa địa phương. Đó là mới mấy chục năm rời xa đất nước; thử hỏi một vài thế hệ nữa thì sao đây? Xin những vị hôm nay đang thích nói năng mà không hiểu mình đang nói gì đừng lẫn lộn: kỷ niệm, văn hóa, và cái gốc con người.

Sau gần hai ngàn năm, ngày dân Do Thái tái lập quốc gia đem dân từ những miền xa xôi hẻo lánh trở về đất Palestin, có những người dân của họ nhìn chiếc tàu bay sắp chuyên chở họ về đất mẹ ngây ngô tưởng đó là con quái vật, thế mà họ có mất gốc đâu? Thời gian có thể biến đổi nhiều thứ, có thể làm cho những kiến trúc của nền văn minh cực đại hôm nay, ngày mai trở thành phố tích, nhưng thời gian không thể làm tan biến cái gốc con người. Chúng ta thấy trên đất Mỹ này, người Đại Hàn, người Nhật, người Việt, người Mỹ đều mặt một y phục giống nhau, cùng nói một ngôn ngữ như nhau, nhưng cái gốc Á Đông, Tây Phương không thể trộn lẫn. Riêng người Á Đông, qua cái nhìn bên ngoài người Việt, người Tàu, người Nhật có thể tương tự, nhưng khi cư xử thì nó lộ ra cái gốc gác của riêng từng dân tộc ngay.

Cái gốc của con người là cái "Gen," cái "Chromosome" (nhiễm sắc thể) trong giòng máu, trong tế bào mà Đấng Tạo Hóa đã ban cho con người từng dân tộc; nó không thể nào mất được, hơn nữa nó còn tiềm ẩn trong tâm tư không thể xóa nhòa. Cái tiềm ẩn đó là đặc tính của một dân tộc cũng được Tạo Hóa làm cho nảy sinh để có thể sống hợp quần với nhau, yêu thương nhau mà tồn tại. Cây cỏ còn được Tạo Hóa phú cho những đặc tính tốt lành riêng biệt. Nho là nho, táo là táo, chỉ có con người ngược ngạo đem cành nọ tháp vào thân kia (mà chẳng thu được kết quả nào), huống chi mỗi con người, mỗi dân tộc.

Cái gốc của con người Việt Nam nó không chỉ ở sắc diện bên ngoài, màu da, mái tóc, nhưng còn cái quan trọng hơn, nó ở trong cái nhân bản con người Việt Nam. Một con người Việt Nam còn gốc thì sống ở bất cứ nơi nào trên trái đất này cũng sống lương hảo; những bậc trưởng thượng là những tấm gương sáng chói về đức độ cho đám hậu sinh. Trong gia đình, vợ chồng tương kính, thủy chung; con cái hiếu thảo cha mẹ, anh chị em trên kính dưới nhường; ngoài xã hội có trên có dưới, yêu thương, đoàn kết. Đối với cái xấu, cái hèn, cái gian manh thì cương quyết loại trừ; đối với cái đẹp, cái hay, cái tốt thì giữ lấy. Sống như vậy dù ngàn năm xa cách quê hương cũng vẫn sống trên cái gốc của mình.

Một con người tự nhận là Việt Nam, dù bằng cấp, chức vị, tiền bạc đầy mình mà sống vô luân, vô lương, nhắm mắt lao vào lợi lộc không kể liêm sỉ, ăn nói thì như bậc thầy mà hành động như phường vô lại, chí khí không cao bằng ngọn cỏ, một cơn gió nhẹ đã nghiêng ngả vật vờ mà cứ thích nói những chuyện đảo hải di sơn; những kẻ như thế, càng lớn tiếng nhận mình là Việt Nam càng làm ô nhục cho dân tộc. Nhưng khổ nỗi, thời đại nào cũng vậy, cái thùng rỗng thì tiếng lại kêu to.

Là người Việt Nam, dù tha hương nhưng lòng vẫn đầy ắp tình quê hương, vẫn còn thổn thức nỗi đau của dân tộc, chúng ta bình tâm nghĩ lại: không phải vì muốn cho ly kỳ, khác đời mà lịch sử Việt Nam mở đầu bằng huyền thoại một bọc trứng nở ra trăm người con, cổ tích bánh chưng bánh dầy, trái dưa hấu An Tiêm. Mở đầu bằng những trang huyền sử đó, tổ tiên chúng ta đã đặt dân tộc Việt Nam trên cái gốc đạo lý, trên cái nền nhân bản, để tuy là một dân tộc nhỏ bé, nhưng nhờ đạo lý mà sống còn, nhờ yêu thương gắn bó với nhau mà mở những trang sử oai hùng ngăn giặc giữ nước. Ngày hôm nay, tuy một phần dân tộc tạm phân tán khắp thế gian những vẫn nhờ đạo lý ấy mà tồn tại, lại còn góp công góp sức làm phong phú cho nền văn hóa của đất nước mình cư ngụ, làm giàu cho nền kinh tế của dân tộc có lòng quảng đại với mình. Một cái cây, ngọn đụng được vùng sáng bao la của bầu trời thì cái gốc mới vững chắc bám chặt xuống lòng đất. Một con người tâm hồn có mở rộng đón nhận ánh sáng tốt lành của Tạo Hóa để sống cho tử tế thì cái chân mới cứng cáp bám chặt được vào quê hương, vào dân tộc mình.

Thánh Kinh nói: "Mọi ơn tốt lành, phước lộc trọn hảo, đều do tự trên, tự Đấng Tạo Hóa, Cha các tinh sao sáng láng" (Gc. 1:17). Ông cha chúng ta đã sống hợp với ý Trời nên mới xây dựng được một giang sơn tốt đẹp như ngày hôm nay. Từ những lời hịch làm nức lòng dân chống giặc, từ những lời lẽ chiêu dụ an dân, đến những câu ca dao lan truyền khắp các làng mạc thôn xóm cũng đều lấy ông Trời làm gốc (Hịch Trần Hưng Đạo chống quân Nguyên, Bình Ngô Đại Cáo của thời chống giặc Minh, lời ca dao xin được mùa: Lạy Trời mưa xuống, lấy nước tôi uống...) cho đến triều đại phong kiến cuối cùng, các vua nhà Nguyễn, tuy đã có nhiều lỗi lầm sai sót nhưng vẫn bám chặt lòng tin vào Ông Trời... tế đàn Nam Giao sừng sững ở ngoài kinh thành Huế vẫn còn đó.

Có một điều lạ, ngay thời đại cận kim của thế kỷ thứ 20 này, bỏ qua đi thời gian chế độ vô thần, vô thánh ngự trị miền Bắc vào những thập niên 5... 6... 70, nhưng thật là quái đản, ngay cái hiến pháp của nền đệ nhị cộng hòa Việt Nam ngày đó cũng đòi gạt bỏ Đấng Thượng Đế ra khỏi bản văn. Thật là chân giả lẫn lộn, cho nên đất nước mới đau thương, tan nát thế này.

Hôm nay, ở hải ngoại, những kẻ mất gốc đó lại đang ồn ào lên án lớp trẻ, một lớp trẻ chưa hề có một lỗi phạm với lịch sử Việt Nam, chưa hề nhúng tay vào những tan hoang đất nước. Lớp trẻ là nạn nhân của chính những kẻ đang lên án họ; những kẻ đó, những kẻ đã làm mất quê hương Việt Nam, hôm nay lại đang muốn mang một mặt nạ khác, dán một cái nhãn khác vào ngực mình rồi lên án lung tung để hòng kiếm lợi, chuẩn bị xuất hiện trong một hoạt cảnh mới.

Này anh bạn trẻ, hãy tạm dằn cơn nóng mà suy nghĩ xem rác rưởi bèo bọt bềnh bồng mặt nước tuy ai cũng nhìn thấy nhưng chỉ trôi nổi vật vờ, rồi dạt vào bờ, vào bãi vô dụng. Đá tảng chìm dưới lòng sông không ai nhìn thấy nhưng vững chắc lâu bền, dù có bị nước đập sóng xô, bể nát trăm ngàn mảnh vẫn hóa thân cát vàng óng ánh, xây dựng nền móng nhà cửa, lâu đài, xí nghiệp, trường học, nhà thương, và còn cả giáo đường nữa. Anh bạn thân mến, các bạn cũng như những bậc cao niên, tuy già mà vẫn có tâm hồn trẻ, với tinh thần trung hảo hăng say làm việc sẽ mãi mãi là những nền tảng cho thế hệ ngày mai của dân tộc và của nhân loại.

VŨ HỒNG

ĂNNHẬU

Dưới thời Pháp thuộc, Phạm Quỳnh đưa lên một đặc tính của người Việt là gì cũng cười. Ông viết có vẻ hơi mỉa mai và cho rằng cái cười của mình không hợp thời, hợp cách: "Anam ta cái gì cũng cười, phải cũng cười, trái cũng cười, hay cũng cười, dở cũng cười..." Vào thời của ông, có lẽ đã bị ảnh hưởng bởi lối sống chỉ coi mình đáng được tôn trọng của thực dân và cho rằng các dân khác là mọi rợ nên luôn luôn phải tỏ ra "đàng hoàng rởm," không dám cười một cách tự nhiên. Do đó ông phê bình cái cười của người Việt dưới cặp mắt "đàng hoàng thực dân," và bởi thế không nhận ra giá trị của cái cười. Thử trung thực mà xét, chỉ những người có cuộc sống ngay thẳng đạo đức mới có được những nụ cười tự nhiên. Hay cũng cười, đó là điều nên vì mình là người, và chỉ người mới biết cười khi nhận thức được điều hay. Dở cũng cười, đó là sự nhận lỗi một cách chân thành, chấp nhận tha thứ cho người cũng như tha thứ cho chính mình. Phải cũng cười, nào có chi lạ, và trái cũng cười bởi chính nụ cười này chứng tỏ mình đã nhận ra sự thật. Nhận ra sự thật là điều thích thú nên phải cười, không nhận ra sự thật sao có thể cười. Phạm Quỳnh vẫn còn quên rằng còn nhiều thứ cười khác: cười cầu tài, cười nịnh bợ, a dua, cười nham hiểm, cười ruồi, cười nhạt, cười khinh khi, cười bợ đỡ...

Dầu biết đưa lên cái cười để mổ xẻ, Phạm Quỳnh cũng chưa nhận ra hoặc không dám phê bình một đặc tính thông thường khác nữa của người Việt là chuyện gì cũng nói đến ăn. Có lẽ bởi ông ta thích ăn nhậu, lại làm cho Pháp "Sáng rượu sâm banh, tối sữa bò" (Trần Tế Xương) nên không dám nói đụng đến chuyện ăn. Quả thực, dân ta chuyện gì cũng nói đến ăn. Ăn tất nhiên phải là một chuyện cần và tốt lành. Xét theo những thời điểm của một đời người, mới sinh ra đã ăn mừng ấm tử hay tôn nữ. Ba mươi ngày sau, ăn đầy tháng, bảy tháng sau, ăn thôi nôi, rồi nào ăn đầy năm, ăn xưng tội vỡ lòng, ăn thêm sức. Lớn lên đến tuổi dựng vợ gả chồng thì ăn hỏi, ăn cưới. Học hành đỗ đạt cũng ăn mừng. Đi làm, đi lính, được thăng quan tiến chức, ăn khao, bởi "vô vọng bất thành quan". Không lập gia đình, đi tu, lúc chịu chức linh mục thì ăn mừng đỗ cụ. Sống mới bốn mươi, ăn tứ tuần, rồi ngũ tuần, lục tuần... Tám mươi tuổi ăn mừng thượng thọ. Chết, ăn đám tang và rồi mỗi năm một lần con cháu ăn giỗ. Như thế, chết rồi vẫn còn là chủ đề cho con cháu ăn. Có nhiều chuyện không liên quan gì đến ăn mà vẫn gọi là ăn như ăn hối lộ, ăn bẩn, ăn cắp, ăn cướp, ăn mày. Ăn không được mời gọi là ăn chực hay ăn rình. Ăn được mời gọi là ăn cơm khách hay ăn đám.

Trong cuộc sống, bất cứ chuyện gì cũng cần có ăn. Làm nhà mới thì ăn hạ chân móng, ăn bỏ nóc, ăn đổ nền nhà, ăn hồi công thợ. Làm tàu thì ăn khởi công, ăn hạ thủy, ăn khai trương... Những ngày lễ tết chúng ta ăn mừng lễ, ăn tết. Không chuyện gì không có việc ăn đính kèm. Những người buôn bán dùng bàn tiệc làm nơi nhờ vả công việc, lại cũng ăn. Khách khứa tới, không mời khách ăn là không trọng khách mặc dầu chúng ta quan niệm mời khách ăn chỉ thêm đũa thêm chén chứ không thêm nồi thêm niêu.

Chúng ta thường đính kèm tiếng uống với chữ ăn, gọi chung là ăn uống. Đã ăn là phải có uống, không uống rượu, bia thì trà hay nước ngọt hoặc cà-phê. Có ăn mà không có uống cả là chuyện dị thường, không ai chịu như thế bao giờ. Đôi khi uống lại trọng hơn ăn mặc dầu ăn hiện diện trong mọi việc quan trọng, vui mừng, hay chia ly. Chả thế mà Chúa Giêsu đã phải biến nước thành rượu nơi tiệc cưới Cana ư!

Nếu chỉ uống rượu không, gọi là uống rượu suông. Uống đi kèm với ăn là chuyện bình thường tự nhiên, nhưng uống rượu nhiều hơn ăn trong một bữa tiệc được gọi là nhậu. Có người dùng hai tiếng "ăn nhậu" đi đôi với nhau, cũng chỉ như ăn uống mà thôi. Người miền nam Việt Nam dùng riêng chữ nhậu để chỉ việc ăn có uống rượu. Dân uống nhiều rượu hơn ăn dùng chữ nhậu để tiện gọi sự uống của họ, lâu dần thành biệt ngữ "nhậu" mang nghĩa của sự rượu chè say sưa. Tuy nhiên, trong tứ đổ tường không có chữ nhậu. Ngược lại trong ngũ khoái chỉ có chữ uống mà thôi, vẫn không có chữ nhậu. "Ăn nhậu" vẫn không phải là điều bị kết án.

Không ai trong cuộc đời chưa bao giờ ăn hoặc uống. Mà ngược lại, ăn uống là chuyện cần thiết và tốt lành. Tuy nhiên, có những người hoặc vì bản tính tự nhiên, hoặc lạm dụng sự ăn uống nên làm cho sự ăn uống có nghĩa xấu. Đồng thời cũng có những kẻ lạm dụng danh từ để đặt nặng ý xấu cho kẻ khác. Thực ra, chỉ có người lạm dụng sự ăn uống mới xấu còn việc ăn uống lại là việc không ai có thể tránh thoát bởi ăn uống đi kèm với sự sống con người.

Ngoài việc ăn uống để bảo tồn và tiếp tục sự sống, nó còn là cơ hội giúp chúng ta có thêm bạn bè. Xét chung, đa số bạn bè chúng ta có được đều bắt nguồn từ những việc ăn nhậu. Chúng ta cũng có bạn từ nhiều phương diện khác nhau, và có lẽ chúng ta sẽ không coi ai là bạn thân nếu chưa bao giờ chúng ta có dịp cùng chung bàn ăn hay chén tạc, chén thù với họ.

Những người chê bai kẻ khác trong việc ăn uống có thể có cái nhìn quá cổ hủ nếu không nói là có ẩn ý xấu. Họ sẽ biện luận rằng ăn uống phải điều độ, giới hạn! Thế nào là điều độ và thế nào là giới hạn? Mỗi người có giới hạn riêng cho mình. Bạn chỉ có thể ăn được hai chén cơm, cố ăn bốn chén bạn sẽ thấy thế nào? Bạn không uống được rượu, thử uống một ly rồi sẽ biết ra sao. Nếu bạn dùng hai chén cơm và một ly nước lạnh làm mẫu mực cho kẻ khác, có lẽ bạn không bao giờ có được một người được gọi là "bạn" bởi không ai chấp nhận được cái mẫu mực này. Hơn nữa, nơi đất nước cờ hoa, sự ăn uống và kiểu cách ăn uống không được đặt thành vấn đề; người nhận xét kẻ khác một cách khắt khe trong việc ăn uống, có lẽ nên đặt lại vấn đề: mình thì sao? Cái xà trong con mắt mình có lẽ che lấp cái nhìn của mình từ bao lâu nay!

Bạn có dám tự hào không thích ăn nhậu? Có một bác sĩ giải thích sự tai hại của rượu cho một nhóm người nghiện rượu. (Tôi nói nghiện rượu chứ không phải ăn nhậu). Vị bác sĩ nêu lên một thí dụ để hỏi những tay nghiền:-"Nếu chúng ta đưa một thau nước và một thau rượu cho một con bò, con bò sẽ uống thau nào?"-"Thau nước," vài người trả lời. Bác sĩ hăng say nói tiếp,-"Mọi người thấy con bò cũng biết rượu có hại nên không uống..." Vừa tới đó, một cánh tay giơ lên đỡ lời vị bác sĩ,-"Thưa bác sĩ, sở dĩ con bò uống thau nước vì nó ngu như bò..."

NHỮNGCÁINHÌNKHÁCBIỆT

Mọi người đều nhận thấy nếu chúng ta muốn có một cái gì, chúng ta phải làm một cái gì. Muốn có một chiếc xe, bạn phải mua. Mua xe, bạn cần tiền; muốn có tiền, bạn phải làm gì để có tiền. Dù bạn có đi ăn cướp tiền của người khác để mua xe thì cũng là làm một cái gì. Chính bởi nhận thức được điều này, chúng ta thường khinh chê những người chỉ biết nói phét hoặc chỉ biết ra lệnh cho người khác làm trong khi chính họ không chịu làm gì. Chúng ta cho rằng những người không làm gì là ăn bám, sâu mọt xã hội. Chúng ta đánh giá trị người khác tùy công việc của họ làm, và đôi khi tùy kiểu cách làm việc nữa. Thế nhưng, thường chúng ta không thích hoặc không chấp nhận những người làm việc khác đường lối chúng ta thường làm, hoặc chúng ta chống đối bởi không muốn đổi đường lối cũ của mình. Dầu thế nào, cũng phải công nhận rằng chúng ta khó có thể chấp nhận đường lối người khác dù tốt hoặc không.

Bạn nghĩ thế nào khi bạn đề nghị nhiều chương trình, lắm sáng kiến và không làm gì hết. Bạn nghĩ thế nào khi người khác đề nghị bạn làm những chuyện này, chuyện nọ cho công việc chung đến khi hỏi họ sẽ làm gì thì được trả lời họ chỉ biết đề nghị. Bạn thấy thế nào khi bạn và một số người cùng quyết định làm một việc gì, sau khi phân chia công việc, cả năm trời sau, nào rời hạn định, nào lý do nọ, lý do kia, mỗi người cả vài chục lý do rồi không có gì xảy ra. Ý kiến, ý kiến, và chỉ ý kiến...

Người có tài nơi cái miệng; ngưòi có tài nơi bàn tay; người có tài nhớ v.v..., nhưng tựu chung những tài này phải được thể hiện bằng cách nào đó trong thực tế, chứ không phải người có cái miệng nói hay chỉ chờ người khác soạn, viết về một vấn đề nào đó rồi học thuộc và nói lại như thế. Có một lần, tôi nhờ một người nói về phương pháp soạn một chương trình cho một buổi sinh hoạt của một đoàn thể bởi người này nói rằng họ nào coi những mười đoàn thiếu nhi ở Việt Nam, nào Hướng Đạo, nào Hùng Tâm Dũng Chí, nào họ lắm tài lắm đức... Người này nói lại với tôi rằng tôi kiếm sách, soạn bài rồi họ nói. Như thế cũng chỉ là cuội, dù tôi có soạn cho họ thì họ nói cũng chẳng ra lời bởi vấn đề là họ có biết gì không đã, mà nói với không.

Hy vọng bạn không bực mình với những người chỉ giỏi tài thánh tướng rằng họ thế này, họ thế kia, hoặc nói vuốt đuôi, chẳng hạn: nếu là tôi..., tôi sẽ... về những chuyện đã xảy ra từ đời tám tai nào. Riêng tôi, tôi muốn bạt tai những loại người này. Họ muốn dùng cái miệng của họ để chứng tỏ họ hay, họ giỏi. Họ có biết gì chăng đã không nói bởi "Điếc hay hóng, ngọng hay nói." Không tin, bạn thử coi; gặp người nào nói kiểu này về chuyện gì đã xảy ra, bạn thử nhờ họ làm bất cứ việc gì mà bạn thấy thật dễ dàng, chẳng hạn viết lại ý kiến để sửa sai việc đã xảy ra theo sự nhận xét của họ. Họ sẽ từ chối; một mực từ chối bởi thực ra họ có biết gì đâu. Nói theo đuôi, mửa lại những lời nhận xét của người khác thì được chứ lòng ruột họ có gì đâu. Lẽ dĩ nhiên, họ từ chối bởi muốn có ý kiến sửa sai, họ phải biết nhận xét vấn đề. Không biết nhận xét vấn đề, sao họ có thể viết lại được ý kiến sửa sai.

Tuy nhiên, "thế gian" lại thường coi trọng những kẻ "đánh võ mồm". Có hai loại võ: võ mồm và võ chân tay. Người ta gọi võ chân tay là phàm phu tục tử, còn võ mồm là loại văn chương học thức. Đây là quan niệm của những người ưa trọng sự từ chương, bắt chước. Hơn nữa, không có ai đánh thuế người nói phét, nói càn nên kiểu nào họ nói cũng được. Bảo đảm rằng khi nào thiên hạ chế ra máy đo nói phét và đánh thuế, phạt như phạt xe chạy quá tốc độ thì có lẽ thiên hạ đỡ rắc rối hơn. Đem so sánh võ mồm và võ chân tay với kẻ nói phét và người làm việc thì võ mồm tựa như kẻ nói phét và võ chân tay là người thực hiện công việc. Có khi nào người chỉ biết đánh võ mồm dám đấu với người biết võ chân tay không? Xin thưa rằng không, bởi người càng đánh võ mồm bao nhiêu, càng sợ người biết võ tay chân bấy nhiêu. Kẻ đánh võ mồm lại rất sợ chết, và bởi sợ chết, võ mồm thấy võ chân tay là chạy khuất mắt. Những lý thuyết gia rởm, võ mồm cũng thế, không dám nói phét khi có mặt những người thành công nơi sự làm việc bởi nói ra bị lật tẩy nên những lý thuyết gia rởm này chỉ còn cách hy vọng đánh lừa những người không biết, mong được chút cảm phục ba xu!

Ngược lại, những người thực hiện công việc hay, giỏi, coi thường hoặc không thèm để ý đến những loại người nói phét, chỉ biết võ mồm, nói đuôi này. Bởi thế cho nên, những người võ mồm rất ghen tị với những người làm việc. Lẽ đương nhiên "Hữu xạ tự nhiên hương," và đồng thời "Breakwind thì phải thối." Người làm việc giỏi, tự nhiên thiên hạ biết và coi trọng. Còn kẻ chỉ biết nói phét, nói càn, theo đuôi thì bị thiên hạ coi thường là cái chắc. Có gì lạ đâu, nói thì ai cũng nói được, nhưng thực hiện điều mình nói mới là điều khó khăn. Ai dám chấp nhận vượt qua những khó khăn là người làm việc. Chính bởi sự làm việc tạo cho người thực hiện công việc sự can trường, dám đương đầu với mọi chuyện xảy ra. Kẻ võ mồm chỉ còn đường tìm cách đẩy những người võ chân tay ra khỏi nhóm họ, hy vọng mới còn thế đứng.

Ai cũng nhận thấy, làm điều lợi cho người khác thì hao tốn sức lực, phiền toái, nhưng làm hại người thì lại rất dễ dàng. Kẻ chỉ biết đánh võ mồm chọn điều dễ này. Tham vọng về tiếng tăm hão huyền đã làm cho họ không biết từ chối mọi sự xấu xa nào, từ nhỏ đến lớn, để cố gắng gạt bỏ người bị coi là đối thủ. Họ nói nhiều kiểu cách (vì dĩ nhiên, nghề của họ là nói phét) mang đầy ẩn ý không tốt, có hại cho người khác mà có thể rằng chính họ cũng không biết. Họ có thể dùng chính điều tốt của bạn để kết án bạn. Thí dụ, bạn làm việc có chương trình và cố gắng theo đúng giờ giấc, phòng bạn xếp đặt ngăn nắp; họ cho rằng bạn không cần biết đến người khác. Họ đòi bạn nên không đúng giờ như họ; phòng bạn phải bừa bãi như phòng của họ... "Biết đến người khác" mà làm việc không có thứ tự, không có giờ giấc, chạy theo những đam mê lộn xộn của mình thì làm sao có giờ để biết đến người khác. Đó chỉ là lối biện hộ cho sự hưởng thụ, chạy theo thú vui riêng tư.

Người hoạt động thường cảm thấy rởm khi phải nói tới những lý thuyết viễn vông. Mở miệng nói ra là họ nói về thực tế. Vấn đề sẽ được giải quyết như thế nào thay vì nhai lại ông này nói gì, bà kia lý thuyết ra sao. Óc tổng hợp của người làm việc nhanh hơn cái miệng của họ trong khi kẻ nói phét chỉ có bộ óc như miệng con bò, thiên hạ "mửa" ra thế nào, nuốt vô và lại mửa ra, hay nhai lại như thế. Kẻ nói phét được coi như một thứ sinh vật ăn không tiêu, thực phẩm ăn vô không biến thành máu mà bị tuôn ra ngoài giống như vậy. Họ chỉ là bộ phận trống rỗng, xác chết biết đi với mớ lý thuyết rởm và có tài ăn nói hại người, lật ngược những điều tốt của người khác thành sự xấu tùy theo sự thèm muốn đê hèn, danh vọng rởm, tiếng tăm giả tạo.

Người hoạt động lại thường cảm thấy bực bội khi sống chung với mớ lý thuyết gia "dzổm" này. Nghe những ý kiến, lời nói thiếu thực tế, không kinh nghiệm sống làm sao không bực? Bạn cảm thấy khó chịu khi nói chuyện với những người xổ ra đầy những lý thuyết trống rỗng thiếu thực tế, bạn là người hoạt động. Bạn thích dạy khôn cho người khác, chỉ thấy đường lối của bạn là đúng, chỉ có một lối làm việc để giải quyết vấn đề nào đó mà thôi, coi chừng bạn là lý thuyết gia dzổm.

Người võ mồm sợ phải làm, sợ trách nhiệm, có nhiều lý do để từ chối bất cứ công việc gì. Người hoạt động, làm gì để có một cái gì tất nhiên phải là người đã nói là làm, đã làm là phải thành công, không kiểu này thì kiểu kia, và không lúc này thì lúc khác.

Sống với nhóm người nào mà bạn cảm thấy mất giờ khi phải ngồi phét lác với họ, bạn nên kiếm nhóm khác là hơn. Đàng nào bạn cũng không chấp nhận họ được. Đừng bắt ép bạn phải chịu khổ và chết dần chết mòn theo kiểu này.

CÁKHÔNGĂNMUỐI. . .

Sống ở trên đời, ai không thấy nhiều điều trái ngược, trái ngược chẳng những nơi cuộc đời chung đụng, xô bồ mà cho đến chính tại nơi bản thân mình cũng không tránh khỏi. Có điều, hình như ngụp lặn trong sự mâu thuẫn trường kỳ này nên mọi người đều cảm thấy phần nào những sự trái ngược được coi là bình thường và chấp nhận. Tuy nhiên dẫu được coi là bình thường, con người vẫn bị những điều trái ngược ảnh hưởng đến nỗi gây nên rắc rối triền miên tiếp nối.

Nhìn một cách bao quát, càng nơi đất nước tự do bao nhiêu lại càng lắm luật lệ để giới hạn con người. Thế nhưng người ta chỉ nhắc đến tự do, ca tụng tự do và cố tránh nói tới những luật lệ cấm cản để tưởng mình có tự do tuyệt đối hoặc tránh nói tới luật để làm bừa. Có thể bởi bị nhiều luật cấm cản trong khi mọi người không ai có khuynh hướng muốn bị ràng buộc nên càng mơ ước thoát khỏi giới hạn luật do đó càng nói về tự do, mà càng nói về tự do càng cảm thấy thiếu thốn tự do.

Đặt vấn đề nơi chính mình, sự trái ngược, mâu thuẫn thực sự sôi động. Sôi động bởi không ai kiểm soát và giới hạn được mình, chẳng ai làm chủ cũng như theo dõi hoặc có thể phạt những điều mình nghĩ như cảnh sát phạt xe chạy quá tốc độ. Chẳng hạn những người không ra gì hoặc mang tự ty mặc cảm lớn lao thì lại càng hay nói phét. Nói phét dĩ nhiên chỉ là thứ nói quá sự thật hoặc bày ra mà nói để người khác tưởng mình quan trọng. Cũng có thể vì nhận thấy không ai để ý đến mình nên nổ lung tung hầu mong người khác tưởng lầm mình là một cái gì. Nói như thế, nếu ai nhận ra mình phét lác hoặc nổ thì đã tự là cái gì vì đã muốn là cái gì nên tự tạo lấy cho mình. Còn những người phét lác chạy theo sự mâu thuẫn bắt nguồn từ mặc cảm con người mình chẳng có giá trị gì lại càng phét lác để che dấu mặc cảm này. Có người diễu rằng bởi không ai đánh thuế thằng nói phét nên cứ tha hồ lòe bịp; ngày nào đó nếu có luật và máy đo điện tử biết được nói phét hay nói thật, có lẽ khối kẻ ăn đòn dù đôi khi không phạm luật.

Vì tự tâm tính đã mâu thuẫn, người gầy muốn mập, kẻ mập muốn ốm bớt, lùn thích được cao trong khi người cao quá nhiều lúc cứ ôm đầu cầu ngắn bớt, con người đương nhiên học thành thói quen sống giả dối để che đậy cái yếu điểm của mình và điều mình mơ đem ra phét lác tưởng tượng là điều mình có. Thích không nói rằng thích mà tại... và vì... hoặc mở miệng khen người khác nhưng trong lòng thì mục đích "xít chó bụi rậm"... cho chết cha mày luôn. Hơn nữa, ai chẳng thế, mình chỉ có thể nhìn nhận, xét đoán sự việc qua kinh nghiệm bản thân hoặc sự học thức sẵn có nơi mình; thế nên, mình đã càng tự mâu thuẫn, lừa dối, đem điều không ra gì nơi mình gán ép cho kẻ khác nghĩ rằng đó là sự nhận định khách quan. Sống không thật thì lẽ đương nhiên dưới con mắt mâu thuẫn của mình, người khác chung quanh đều dối trá không thua mà có thể còn hơn mình gấp bội. Kinh nghiệm sống cho thấy, cuộc đời là những chuỗi lừa bịp, mưu đồ. Ai mưu mô sâu độc hơn, dùng kẻ khác làm bàn đạp cho mục đích của mình giỏi hơn thì càng bước trên sự nghiệp "vỏ bề ngoài" mau hơn. Chính vì vậy, kẻ phét lác cũng kiêng nể người chân thành ngay thẳng vì tự lừa dối mình để rồi phét lác cho rằng mình ngay thẳng do mơ ước được như thế. Người ngay thẳng không cần nói dối, chẳng thèm kiếm mưu mô, không "người này nói... người kia nói..." thì đã tự là cái gì nên không muốn trở thành cái gì.

Sự mâu thuẫn nơi con người không phải là chuyện mới lạ nơi thời đại đánh nhau bằng máy điện toán này nhưng đã có tự muôn đời xa xưa. Thánh Phao Lô của đạo Công Giáo hai ngàn năm trước đã tự xưng ra: "Sự lành tôi muốn, tôi không làm; còn sự dữ không muốn, tôi lại thi hành" (Rom. 7:19). Ông bà ta ngàn xưa cũng có hai câu đối nghịch: "Cá không ăn muối cá ươn, Con cãi cha mẹ trăm đường con hư." Đồng thời lại cũng có câu ngược lại: "Con khôn hơn cha thì nhà có phúc."

Nếu cho rằng cá không ăn muối cá ươn thì có cá nào ăn muối bao giờ đâu, chúng chỉ bơi lội, đớp nước. Hơn nữa, có bao giờ thấy ai nuôi cá bỏ muối cho cá ăn! Ngây ngô nghĩ rằng cá ăn muối để rồi lấy muối làm mồi đi câu, chỉ nên theo Lã Vọng câu lưỡi câu thẳng không ngạnh đợi thời về chầu ông bà. Người Việt dùng chữ ăn theo nhiều nghĩa tùy theo trường hợp. Đánh chắn, người này quăng con bài ra, người kia nhận lấy thêm con bài mình vô sắp cho có nước, gọi là ăn bài. Đánh bạc thắng, gọi là ăn bạc, hoặc làm điều gì khéo, dùng tiếng lóng "Thế mới ăn tiền." Nhuộm quần áo, cùng một loại thuốc nhuộm cho nhiều thứ vải, vải nào hấp thụ mầu đẹp nhất gọi là ăn màu. Vải ăn màu là vải được màu bao bọc, thấm nhập kỹ lưỡng. Cá ăn muối mang nghĩa muối giữ cho cá khỏi bị thiu thối hoặc ươn. Không hiểu "Cá không ăn muối cá ươn" nghĩa thực sự ra sao, có nghĩa đen thế nào: hoặc là cá không được trộn với muối để lâu sẽ bị ươn hay là cá đã bị ươn sẽ không ăn muối; nói cách khác, cá đã bị ươn có trộn muối cũng không ích gì, ươn vẫn hoàn ươn?

Vào thời xưa hay ngay cả bây giờ, ở những nơi không có điện, khí hậu lại có những ngày đông tháng giá hoặc những mùa nóng cháy da người, phương tiện di chuyển thô sơ kể như không có ngoại trừ đôi chân và khó có thể mua thực phẩm hằng ngày; người ta phải trữ đồ ăn cho mùa lạnh hoặc đôi khi muốn để dành cho những ngày kế tiếp. Vì không có tủ lạnh nên dùng muối ướp thịt, ướp cá giữ chất tươi. Như thế thịt, cá muốn để được lâu phải được ướp muối. Nếu không dùng phương pháp này, thịt, cá để dưới nhiệt độ bình thường chắc chắn sẽ bị hư thối rất mau.

Không hiểu ông cha ta nghĩ chi khi dùng nghĩa bóng trong sự so sánh việc muối cá và tư cách người con! Dù với sự hiểu biết hạn hẹp, dùng "muối" làm vật biểu tượng đem lại ý nghĩa thật tuyệt vời. Đồ ăn không có muối không gây chút ý vị gì. Dẫu pha chế đủ thứ như hành, tiêu, xả, ớt... lá thơm... vào cá, thịt, hoặc sơn hào hải vị mà không có muối hoặc mắm (mang nhiều chất muối) chắc chắn tan hoang phần khoái khẩu. Ngay dù dưa hấu, cam hoặc các loại trái cây vẫn được muối làm tăng thêm phần nào tính chất thơm ngon. Tuy nhiên, thử cho vô miệng một muỗng muối nhỏ, thật khó mà diễn tả nổi tính chất mặn đến độ chát đắng của muối. Cá không ăn muối, cá không được ướp với chất mặn đắng của muối chắc chắn cá ươn khi không có tủ lạnh, thiếu tiện nghi. Nếu đem so sánh một cách ám chỉ người thay cá và sự cố gắng, khó nhọc tập luyện những cá tính tốt, trong giới hạn giáo dục gia đình, con người không có được sự giáo dục này thì cũng chỉ như cá chết không ướp muối, không được để trong tủ lạnh, chỉ có hư đi.

Có điều, thường thì khi mình hiểu hay biết được gì thì lại hay cho rằng người khác cũng hiểu như thế. Thật ra ngay như chữ "ăn" đã được hiểu khác nhau tùy theo trường hợp, hoặc hai tiếng địa phương chỉ cùng một thứ nếu đem dùng tráo trở, không hợp tùy môi trường sẽ trở thành ngớ ngẩn, sao mình có thể nghĩ người khác cũng hiểu giống mình, ấy là chưa nói về khác kinh nghiệm nhận thức hay hiểu biết căn bản cá nhân.

Năm 1954 nhiều người Bắc di cư vào Nam trong số đó có hai bố con bắc kỳ nhà quê. Ông bố cũng nhận ra người miềm Nam có nhiều tiếng gọi khác miền Bắc. Vừa xuống khỏi xe chuyển trạm, ông bố còn đang loay sắp đồ, chẳng may thằng bé thấy lắm cảnh lạ nơi miềm Nam vui bước dõi xem. Chợt không thấy thằng nhỏ, ông bố quay qua hỏi mấy người địa phương đang đứng gần đấy nhìn những người mới tới:

-Bác ơi, lạc đây gọi là gì vậy?

-Đậu phọng.

Ông bố bắc mới gào lên:

-Giời ơi! Con tôi đi đậu phọng dzồi!

Cũng vì nghĩ người khác tự nhiên hiểu như mình nên đôi khi cũng có những chuyện ngây ngô "phản văn hóa" xảy ra trong gia đình Việt nơi miền văn hóa tạp chủng quốc tế này. Bố:

-Các con phải nhớ, "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư."...

-Đâu có ba, cá không bỏ tủ lạnh mới hư mà! Ướp muối mặn sao chiên?

-Con lại còn cãi ba.

-Con giải thích chứ đâu có cãi ba; có ba cãi con thì có...

-Sao ba lại phải cãi con?

-Ba coi, ba bảo con lau nhà, rửa chén, đổ rác, con làm theo lời ba, không cãi lại. Thế mà con nói ba đưa con đi xinê, ba không đưa con đi; ba cãi lại con chứ còn gì nữa...

Ai cãi lại ai thì chỉ có quí cụ ông, cụ bà hiểu chứ tuổi trẻ chỉ nói lên sự việc đã xảy ra khi đem so sánh hai vấn đề đơn giản con cãi hay ba cãi. Như vậy, nếu sửa lại câu ca dao thành "Con cãi cha mẹ chỉ quí cụ hiểu" có lẽ gây thêm rắc rối.

Nói rằng "Con cãi cha mẹ trăm đường con hư" thì đã tự đặt vấn đề cha mẹ phải thế nào để nói lên chỉ con hư mới cãi. Xưa nay, nay xưa, đối với những người vẫn còn mang quan niệm "nhất tầu nhì ta" hoặc "...Phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu," đặt vấn đề cha mẹ phải thế nào cả là một sự luân thường đảo ngược, họ hàng nhà tôm! Hơn nữa, cứ khư khư cho rằng không nên đặt vấn đề cha mẹ phải thế nào thì tại sao tục ngữ có câu "Con khôn hơn cha thì nhà có phúc". Nếu nhà đã có phúc, tất nhiên con khôn hơn cha, mà cãi cha mẹ lại là con hư! Cả một sự mâu thuẫn tận gốc rễ. Tục ngữ chống ca dao, đối nghịch như nước với lửa, bên "ông giăng", đàng "mặt giời".

Dĩ nhiên, đa sự thêm chút nữa mà nhận xét thì "con cãi cha mẹ" hoặc nói cách khác, có đủ sáng suốt để không làm theo lời không nên không phải của cha mẹ, đi đôi với "nhà có phúc"; bởi con khôn ngoan hơn nên mới mang tiếng cãi hoặc không chịu nghe theo những điều chẳng ra gì của cha mẹ... Thực tế thú nhận, cuộc đời có người nọ, người kia. Bàn tay còn có ngón dài ngón ngắn hoặc cặp mắt một người thường thì cái này không thích giống cái kia huống chi trên thế gian này có biết bao nhiêu bậc cha mẹ. Càng có nhiều, càng lắm sự khác biệt, hay có, dở có, khôn có, dại có, thôi thì đủ loại đủ cỡ. Cho nên làm bậc cha mẹ phải thế nào chắc chắn các bậc cha mẹ biết có thừa... vả lại cũng có thể đôi khi biết quá thừa nên... không biết, không để ý. Ai muốn biết cứ hỏi các bậc cha mẹ.

Một mục sư tin lành nói với người con:

-Ba chấp nhận con khôn hơn ba từ lúc con còn nhỏ tới khi 25 tuổi. Ba cũng chấp nhận con khôn bằng ba khi con 25 tuổi đến lúc 55 tuổi. Nhưng từ khi con 55 tuổi trở lên, một điều tuyệt đối con phải chấp nhận là ba khôn hơn con.

Nào có lạ gì, ông bảy mươi còn học ông bảy mốt thì cha khôn hơn con là chuyện bình thường. Ngược lại, ai cũng mong muốn nhà mình có phúc! Mơ ước nhà mình có phúc là điều không những nên mơ, nên chấp nhận mà còn nên thực hiện. Nếu con dốt hơn cha, dĩ nhiên cuộc đời đi xuống. Trò phải học sao cho giỏi hơn thày mới có tiến bộ; cuộc sống ngày nay có phát minh hoặc thực hiện được nhiều tiện nghi hơn ngày xưa thì con người mới thấy dễ chịu hơn. Nếu con thoái hóa dốt hơn cha, loài người dần dần trở về lối sống thuở xa xưa ăn lông ở lỗ... mà đâu ai muốn hoặc chấp nhận thế! Đâu ai muốn tre già măng lụi, măng tàn! Vậy mà cứ khư khư "Con cãi cha mẹ trăm đường con hư"... mâu thuẫn vẫn tiếp tục....

Nếu thử đem ráp nối để có "Con cãi cha mẹ thì nhà có phúc" chắc chắn không ai có thể chấp nhận. Nhưng nếu thực hiện sao cho con cãi cha mẹ nhà có phúc, có thể lại hợp lý và hợp tình mặc dầu nghe chướng tai. Dĩ nhiên, dưỡng dục con cái thì phần giáo dục khó và công lao hơn cả. Giáo dục con sao cho "khôn hơn cha" để có thể "cãi cha mẹ" nhà mới có thể chắc chắn có phúc. Nếu con vừa sinh ra đã tự khôn hơn cha nào có chuyện chi đáng nói, công lao nào đáng kể, và niềm hãnh diện nào đáng mang! Giáo dục con cái sao cho biết nhận định điều hay điều dở, sao cho biết mở rộng tầm mắt học hỏi thêm cho "khôn hơn cha" thế mới là kỳ công, mới "có phúc" thực sự tự tạo, không có gì mâu thuẫn, chẳng chút chi nghịch thường mà lại còn là điều đáng ca tụng, khuyến khích.

Đem ráp nối phần còn lại của câu ca dao và tục ngữ: "Con khôn hơn cha thì cá không cần ăn muối"... Tuyệt! Đâu có ai ngờ nơi cái thuận lý có cái nghịch thường và nơi cái ngược ngạo lại chứa đựng điều thuận biến. Nếu chấp nhận và thực hiện sao cho con khôn hơn cha thì cũng đành chấp nhận cha có cái dại hơn con. Không dại hơn sao lại gọi "con khôn hơn cha"? Ngược lại, cha nào dám nhận lỗi để sửa đổi hay cứ cố khư khư bám víu lấy câu "Muốn nói ngoa làm cha mà nói." Chẳng biết nói ngoa hay nói dại! Dĩ nhiên, con khôn hơn cha là điều mâu thuẫn; mà không có mâu thuẫn, không có đối nghịch sẽ không có tiến bộ. Thuyết Nhị Nguyên đã tự đối nghịch trong cái thuận nên sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái...

Thế nên, có một điều chắc chắn rằng con khôn hơn cha thì nhà có phúc. Ngược lại, cá không ăn muối chưa chắc cá đã ươn. Cá không ăn muối có thể nhà lại cũng có phúc! Ai không cho rằng nhà mình có phúc do đó cha mẹ nào không đương nhiên chấp nhận con khôn hơn cha! Và nếu ai cho rằng nhà mình không có phúc thì đã đến lúc tự lo tu đức lại để sao có được con khôn hơn cha. Con đã khôn hơn cha tất nhiên cá không cần ăn muối mà vẫn không ươn. Cá nào không cần ăn muối? Con nào được đào luyện khôn hơn cha?

Nhìn rộng hơn, một cộng đồng, một quốc gia là những thực thể được cấu tạo bởi nhiều gia đình hợp lại. Cộng đồng cũng thế và quốc gia cũng vậy, bao gồm giới lãnh đạo và những phần tử như trong gia đình giữa cha mẹ và con cái. Đem so sánh quốc gia, cộng đồng và gia đình thì cộng đồng hay quốc gia là những gia đình rộng lớn hơn và bao gồm những tập thể căn bản là gia đình. Khổng Tử đã hô lên từ bao năm về trước: "Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ." Muốn thiên hạ thái bình, lo trị nước và muốn quốc gia vững mạnh, an vui, gia đình cần được coi như mức điểm căn bản cho công cuộc rộng lớn hơn.

Nếu đã mở mắt vểnh tai để nhận ra "Con khôn hơn cha nhà có phúc" thì đồng thời "Dân vi quí" phải được nhập tâm để trở thành mẫu mực cho các nhà lãnh đạo cộng đồng hoặc quốc gia. "Dân vi quí" không chỉ có nghĩa là trọng dân. Trọng dân lẽ đương nhiên là đức độ phải có của các nhà lãnh đạo, nếu không câu "Quan nhất thời, dân vạn đại" trở thành bản án nhãn tiền mà mọi người đã có thể nhìn thấy. Dân vi quí đổi ngược câu "Quan chi phụ mẫu" thành dân là cha mẹ và quan là đầy tớ. Kinh Thánh đã chẳng dạy điều khôn ngoan này ư? "Ta đến để phục vụ chứ không để được phục vụ."

Kinh nghiệm lãnh đạo chỉ huy chứng minh dân vi quí phải là châm ngôn của những người cầm quyền. Hơn nữa, "Ba thằng đánh một, chẳng chột cũng què," hoặc "Một cây làm chẳng nên non..." chứng minh rõ sự suy nghĩ và làm việc của một người không thể hơn được sự làm việc, suy nghĩ chung của nhiều người họp lại. Dĩ nhiên, bất cứ cộng đồng lớn nhỏ nào đều có những người suy nghĩ sâu sắc hoặc làm việc hợp lý hợp tình hơn các người khác. Dân vi quí trong điều kiện này trở thành lời khuyên hoặc mẫu mực cho người lãnh đạo biết chấp nhận giới hạn hiểu biết và khả năng của mình để học hỏi hay dùng những người có khả năng ra làm việc. Nói cách khác, tôn trọng họ như bậc thày vì nếu muốn cho cộng đồng, quốc gia "có phúc" đành chấp nhận "con khôn hơn cha" và vì thế cũng nên chấp nhận dân vi quí. Điều dĩ nhiên nếu một nhóm người dân họp lại thảo luận thế nào cũng có điểm nào đó khôn hơn "quan"; tuy nhiên cộng đồng, quốc gia không có "phúc" tất nhiên chỉ tại "Quan chi phụ mẫu".

Những kết quả tang thương của quan niệm quân chủ chuyên chế cũng là kết quả của quan niệm "Thiên Tử"; ông vua được coi như con trời, muốn làm gì thì làm, không cần biết đến dân vi quí (quân vi khinh), không ý thức được con khôn hơn cha... Ngày nay, trải qua bao thời gian, bao kết quả khốn khổ do "Quan chi phụ mẫu," đã phần nào bừng tỉnh sự mê muội nơi dân chúng để có được quan niệm dân chủ. Dân chủ cũng chỉ là dân vi quí nói theo kiểu khác. Nếu dân đã là chủ thì những người lãnh đạo, cầm quyền đương nhiên là đầy tớ. Quan niệm và chế độ dân chủ đã được triển nở kể như tới mức tối đa thế mà "Quan chi phụ mẫu" vẫn còn được mù quáng áp dụng đến nỗi làm mờ lương tri không nhận định ra "Con khôn hơn cha nhà có phúc!" Bao nhiêu ông vua trong quá khứ, bao nhiêu thiên tử mất ngai bởi độc đoán, nắm hết quyền hành trong tay để rồi chỉ vì một ánh mắt hay đủng quần một mụ đàn bà hoặc vài câu bợ đỡ của những tên nịnh thần với chủ đích đạt tư lợi đã đưa đến kết quả "cho chết cha mày luôn..." Bao nhiêu nhà độc tài coi dân như cỏ rác, áp dụng ngu xuẩn câu "Con cãi cha mẹ trăm đường con hư" đã làm thế giới kinh sợ.

Trong Kinh Thánh, Chúa Giêsu không chỉ khiển trách bọn giả hình Pharisiêu thời 2000 năm về trước đâu, mà cả bây giờ nữa. Lời của Ngài vẫn còn đang là án phạt cho những người hiểu biết dân vi quí mà áp dụng "Quan chi phụ mẫu" hoặc cố ý ngu dân cho dễ bề sai khiến hay chỉ dùng những người dốt để khỏi có kẻ nói lên lời không thuận tai về lỗi lầm hoặc những điều không nên không phải của mình. Dân vi quí, dân đã là bậc thày mà quan không chấp nhận "ăn muối" sao quốc gia, cộng đồng "có phúc". Tưởng mình giỏi, hay hơn người rồi đóng tai bịt mắt không còn nhớ đến dân vi quí là gì, xin dừng lại vài giây tưởng tượng xem mình sẽ đi về đâu. Dĩ nhiên đã có khối kẻ theo đường quan chi phụ mẫu để rồi khi tai họa do chính mình gây ra xảy đến lại giãy lên như cua gãy gọng đổ lỗi, nghi ngờ rồi ăn nói bậy bạ cho người khác mà quên rằng "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí." Dĩ nhiên cứ nhắm mắt làm bừa thì khi họa đến sao có thể tránh khỏi. Muốn tránh phải biết dân vi quí.

Làm sao thực hiện "Con khôn hơn cha..." hoặc "Dân vi quí"? Cả toàn dân thiên hạ còn có thể nhận ra giá trị dân chủ mà mình không biết, không hiểu, có lẽ mình chỉ như nấm mồ được sơn son thếp vàng bên ngoài và chứa đựng bên trong một thân xác tàn thối mục nát. Dĩ nhiên, thiên thời, địa lợi không phải đâu cũng có hay cầu mà được, nhưng nhân hòa, dân chủ, dân vi quí, hay chấp nhận con khôn hơn cha thì đâu đâu và bất cứ lúc nào cũng có thể áp dụng được. Không có nhân hòa chỉ tự nơi mình đã là xác thân tàn thối trong nấm mồ, vô phương cứu vãn cho trở nên sống động. Hỡi người, người còn sống hay đã tàn rữa? Nếu còn sống, còn sinh khí, còn chất sinh động mới có thể "ăn muối," mới có thể nhận thức được câu "con cãi cha mẹ trăm đường con hư" đem áp dụng vào thuyết "Dân vi quí" có nghĩa các nhà lãnh đạo cãi lại dân, chống lại tính chất dân chủ sẽ lãnh nhận hậu quả khốc liệt nhan nhản trước mắt. Thế nên, "cá không ăn muối cá ươn" trở thành kim chỉ nam cho các nhà lãnh đạo nơi thời đại dân chủ để rồi dân chi phụ mẫu chứ không "cái gì" có thể được gọi quan chi phụ mẫu. Thời quân chủ đã qua, đã xưa rồi, không hợp, không phải là thiên thời, chẳng còn giá trị chi trong ý thức hệ dân chủ. Do đó, chẳng những nó không nên được bới ra mà lại càng không nên dốt nát áp dụng. Cái mâu thuẫn, đối nghịch, lừa dối tự tâm vẫn còn đó. Miệng hô dân chủ trong khi thực hiện quân chủ chuyên chế... Ô hay! Thế ra ta đang vẫn tự lừa dối ta!

Càng chín chắn suy nghĩ, càng thấy ông cha ta thâm thúy. "Cá không ăn muối cá ươn, con cãi cha mẹ trăm đường con hư" không phải chỉ áp dụng cho con cái, các bậc cha mẹ trong gia đình mà còn cho giới lãnh đạo. Ông bà ta đã không những không nói sai mà còn nói ngược cho khối kẻ nông cạn vấp phạm.

Trong thời đại với ý thức dân chủ, cá đã không có thể ăn muối, có đem bỏ tủ lạnh thì ươn vẫn hoàn ươn.

CĂNBỆNHBẤTTRỊ

Trong Tứ Thư do Khổng Tử biên soạn có câu: "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách." Quí cụ học Nho thường giải nghĩa đại khái: dù khi đất nước trong thời thái bình thịnh vượng hoặc lúc gặp cơn phong ba suy vi thì mọi người đều có bổn phận góp tay xây dựng. Nếu mọi người đều góp tay xây dựng hoặc cùng lắm, không xây dựng thì cũng không phá hoại, làm sao có chữ vong đụng tới đất nước được. Người viết trộm nghĩ, quốc gia suy vong do bọn thất phu cầm quyền. Hàng dân giả chỉ biết cày cấy hay buôn bán làm ăn, đó là một cách tích cực xây dựng đất nước bằng chính công lao sức lực, bằng mồ hôi nước mắt của người dân. Chịu khó làm ăn thì không thể nào có vấn đề suy vi bởi dù người nào có dại cho lắm thì dại vài lần rồi cũng sẽ khôn ra. Người viết đặt lại vấn đề, tại sao không nói quốc gia hưng vong, dân giả hữu trách mà lại thất phu. Nếu nói thất phu là bẩy hạng người thì lại càng không đúng vì dân gian được chia làm bốn giới chính yếu: sĩ, nông, công, thương.

Chữ Nho, chữ Nôm người viết không biết bởi hậu sanh không khả "úy," ai có lỡ mồm lỡ miệng mà nói "khả ố" thì cũng đành chịu vậy bởi có biện hộ hoặc chửi bới kẻ lỡ lời châm chọc thì cái tai mình gần cái miệng nên phải nghe những lời không đẹp tốt gì trước, thôi thà im quách cho xong. Hơn nữa, có được bộ Việt Nam tự điển thì Lê văn Đức cùng nhóm văn hữu của ông biên soạn chữ "thất phu," và Lê Ngọc Thụ hiệu đính, định nghĩa thất phu là người thường dân lại kèm thêm: "Tiếng mắng hay nói người đàn ông thô tục lỗ mãng: Đồ thất phu" (Việt Nam Tự Điển; Lê Văn Đức, quyển hạ; Nhà Sách Khai Trí; Sài Gòn; tr. 1541). Bởi nghĩa bao gồm, người viết đành dùng kinh nghiệm dân gian tìm hiểu. Người ta thường mắng kẻ khác là loại, hạng, thứ, quân thất phu chứ không ai dùng chữ dân giả. Nếu dùng chữ dân giả họ gọi là "hàng dân giả." Thế nên theo sự biến thái nghĩa dùng thay đổi tùy thời, chữ thất phu mang nghĩa "loại, hạng, quân, thứ chẳng ra gì." Bới móc thêm chút nữa, chữ "hữu" thấy không có vẻ hợp cho thất phu bởi chữ hữu mang nghĩa tự nhiên. Đối với hạng thất phu, đổi thành "đảm" mới đúng. Quốc gia suy vong, thất phu đảm trách... thật dễ hiểu... vì chỉ những hạng chẳng ra gì nắm quyền quốc gia thì mới làm cho suy vong được. "Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách" mang đầy vẻ vô lý bởi nếu mọi người đã có trách nhiệm với quốc gia, không kể sang hèn giầu nghèo, dù khôn ngoan hay ngu dốt thì làm sao có vấn đề "vong." Mà lẽ tự nhiên, khi hạng thất phu cầm quyền thì chắc chắn suy vong.

Hạng thất phu đều mang một căn bệnh bất trị gồm căn nguyên nguy hiểm sau: muốn kẻ khác thay đổi theo ý mình mà không chịu tìm hiểu chính mình để chấp nhận thay đổi, do đó thay vì tu thân tề gia lại "mậu tu mộng tề." Không muốn tu thân thì làm sao chả bị gọi là thất phu theo nghĩa dân gian hay dùng.

Mậu tu là tâm lý của những kẻ nghĩ mình là cái rốn của vũ trụ, chỉ mình là phải là hay không cần biết gì đến những điều hay lẽ phải của người khác; mà những ai thuận theo mình thì được cho là hay, ai không giống mình bị coi là chống đối hoặc chẳng ra gì. Mậu tu là con đẻ của tự ty mặc cảm nặng nề bởi mình không nhận ra giá trị thực sự của mình nên sợ người khác nhận ra những điều không nên không phải nơi mình do đó tự đặt ra những quy tắc cứng ngắc coi bộ hợp lý để che dấu yếu điểm khi xử sự công việc hoặc đối xử với những người khác. Đành rằng, công việc nào cũng cần có những quy luật nhưng quy luật cần hợp lý, hợp tình; các cụ học Nho gọi là nhân hòa. Vì thiếu tính chất nhân hòa nên không thể nào được lòng dân chúng do đó người mậu tu cố bám vào quy luật hầu tìm cách che dấu yếu điểm của mình.

Người mậu tu nhìn đời một cách lệch lạc do mặc cảm tự ti, cố gán ép thực tại phức tạp vào những khuôn mẫu hạn hẹp theo lối nhìn ếch ngồi đáy giếng của mình giống như câu chuyện mua ngựa của người một mắt. Ông kia nuôi được con ngựa hay, khá đẹp, lại cường tráng. Chẳng may gia đình lâm cảnh túng thiếu, ông đành lòng đem ngựa ra chợ bán. Có một ông khách độc nhãn tới hỏi mua, ông bán ngựa cho giá tám mươi đồng nhưng ông khách chỉ trả đi trả lại bốn mươi đồng mà thôi. Cuối cùng ông khách nói:

-Con ngựa này chỉ đáng giá bốn mươi đồng không hơn. Đồng ý rằng nó có một thân thể cường tráng, đẹp mã, chứng tỏ là một con ngựa hay, nhưng thật sự chỉ đáng giá bốn mươi đồng.

Ông bán ngựa hơi có vẻ khó chịu vì ông khách không biết coi ngựa mà cứ huênh hoang phét lác, chẫm rãi ông trả lời:

-Ông trả giá con ngựa bốn mươi đồng là đúng với ông bởi vì ông có một mắt nên ông chỉ có thể nhìn thấy giá trị của một nửa con ngựa. Như thế, thực sự, con ngựa này có giá trị gấp đôi những điều ông nhận xét nên phải là tám mươi đồng.

Câu chuyện không có kết luận nên không biết ngựa về tay ai hoặc ông bán ngựa gặp lúc túng quẩn có thể chấp nhận bán với giá bốn mươi đồng hay không nhưng điều hiển nhiên mọi người đều kinh nghiệm là chúng ta nhận biết thực tại tùy theo sự hiểu biết của từng người. Không nói đâu xa, thử ra chợ Kmart, có rất nhiều đồ bán mình không hiểu được dùng để làm gì. Thiên hạ chế ra đồ dùng phải có lý do, phải được dùng để làm gì mà mình không biết thì làm sao mình biết giá trị và có thể xử dụng được. Vấn đề thực tế hơn, nhà có cái tivi xài đã tám năm rồi, nay bị hỏng, thế mà cứ cố tình đem đi sửa để thợ chém cho hai trăm đồng, trong khi chỉ cần một trăm bạc có thể vào tiệm cầm đồ mua cái tivi tốt hơn. Bám víu lấy cái cũ hạn hẹp mình quen dùng mà không dám chấp nhận bỏ đi quả là lỗ to. Ấy chỉ là chiếc tivi cũ, nếu là chuyện lớn hơn thì ảnh hưởng sẽ tai hại biết đến thế nào? Có chăng cũng chỉ giống như đem trứng để miệng ác... quốc gia suy vong, thất phu đảm trách.

Có một điều ngược đời là càng những kẻ thất phu, khi có cơ hội, lại càng hay làm khó dễ người khác bởi nếu không thế sẽ bị lật cái tẩy hạn hẹp của mình. Dĩ nhiên người mậu tu luôn luôn e sợ người khác biết tẩy chẳng ra gì của mình nên lúc nào cũng cứ như con nhím xù lông để rồi nghi ngờ nhìn gà hóa quốc do bệnh có tật giật mình...

Căn bệnh bất trị mậu tu chỉ có thể chữa được bởi nhận thức cuộc đời mình lầm lỗi cũng đã nhiều, người ta có biết tẩy thì mình cũng chỉ là mình để chấp nhận thoát khỏi vũng lầy ếch ngồi đáy giếng. Có như thế quốc gia mới tránh thoát cảnh suy vi.

CÓTẬTGIẬTMÌNH

Ông bà ta thường nói: "Đời nào chó sủa lỗ không, chẳng thằng ăn trộm cũng ông ăn mày." Ăn mày mà được gọi là ông đủ biết người Việt mình kính trọng giá trị làm người của cá nhân đến độ nào. Lẽ đương nhiên không ai muốn đi ăn mày, ăn xin, sống nhờ vào lòng độ lượng bố thí của người khác. Ai cũng hiểu, chẳng đặng đừng người ta mới phải chịu nhục nhã như thế, nhục nhã vì danh dự, tự ái làm người của dân Việt rất cao. Qua truyền thống văn hóa, giáo dục, con cái có bổn phận giúp đỡ cha mẹ khi về già vì cha mẹ đã chăm sóc, nuối nấng con cái thời còn ấu thơ cho tới khi có thể thân tự lập thân. Được gọi là bổn phận ở đây để chỉ đa số vì đôi khi có những luật trừ bởi chẳng lại gì, cuộc đời này có người nọ thì lại cũng có người kia. Dẫu đa số cha mẹ lo lắng chăm sóc cho con cái, nuôi nấng, giáo dục cho con mình còn hơn lo cho chính mình thì một phần nhỏ nào đó lại không giống như thế mà ngược lại để đến nỗi con cái mang hận cả đời.

Hơn nữa, qua sự ảnh hưởng lề lối giáo dục cổ xưa, trọng nam khinh nữ, người đàn bà bị coi như con ăn đầy tớ; rồi nào những khổ ải nàng dâu phải chịu "Tốn tiền mua mâm thì đâm cho thủng," do ảnh hưởng của sự thiếu hiểu biết hoặc thiếu được giáo dục, bố mẹ chồng đã coi nàng dâu như kẻ chiếm mất con mình hoặc muốn tỏ quyền hành là bố mẹ chồng, khác máu mủ, hay vì nàng dâu không mang về cho mình số tiền lớn là của hồi môn mình hy vọng cướp được nên cố ý hành hạ nàng dâu để rồi gây nên những cảnh không thể ngờ đẩy nàng dâu vào nỗi thống khổ chẳng những thể xác mà cả tâm tư do đó sinh ra sự hận thù cả đời. Dĩ nhiên cha mẹ kiểu này khi về già chắc chắn lãnh hậu quả của sự khắc nghiệt do chính mình tạo nên ngày xưa. Ông bà ta nói "Trời có mắt cũng không sai."

Nếu nhìn vào thực tại, vẫn còn những cảnh con ăn đầy tớ xảy ra đầy đầy chan chan. Có những thái độ ươn hèn không thể chấp nhận được chẳng hạn những chuyện mình có thể làm được nhưng không làm, mà lại dùng lý nọ, lẽ kia, lạm dụng truyền thống để bắt ép hoặc muốn người khác phải phục dịch hầu hạ. Thí dụ, buổi sáng thức dậy, mình có thể pha cà phê nhưng đã không thèm pha, ỷ mình là cha mẹ, viện lý lẽ một cách lạm dụng truyền thống để ép người khác phải pha cho mình, hầu mình. Truyền thống nào nói đến buổi sáng sớm người này phải pha cà phê cho người kia nếu không nói là làm thuê phải trả công. Hơn nữa, có một điều kỳ cục là chỉ có mình mới pha cà phê, thêm đường hay sữa cho vừa cái miệng mình thế mà đã không thèm làm để rồi mượn cớ cố tình kiếm chuyện chê bai xỉ nhục người khác một cách bất công. (Dĩ nhiên, những người như thế sẽ có ngày "vêu mỏ", dù có mỏ cũng không uống được). Những thái độ như vậy tự đã biến mình thành kẻ thù, mở đầu mối hận cho người khác. Người nào càng tỏ ra mình oai phong, quyền thế rởm, càng có mặc cảm chẳng ra gì. Vả lại, mình càng chẳng ra gì thì lại càng cố gắng tỏ ra mình là cái gì và càng gây nhiều mối hận với người chung quanh.

Lại có những kẻ cố gắng giả hình giả chước tỏ ra mình đạo mạo, đạo đức để che lấp mặt trái không mấy tốt đẹp của mình. Kẻ càng đểu rả càng cố gắng cho có bộ vó đạo đức, thích mở miệng phê bình về nhân phẩm người khác mà quên rằng chính thái độ phê bình tự nói lên mình chẳng ra gì do đó trở thành rởm. Riết rồi quen thói tự lừa dối chính mình bởi cho rằng mình nói những lời đạo đức, phê bình bậy bạ người khác, mọi người nghĩ rằng mình tốt lành trong khi quên điều căn bản: thiên hạ không mù quáng tin theo lời mình đâu. Chẳng những thế, họ còn biết rõ con người xưa nay của mình như thế nào. Hơn nữa, bởi mình đã cố gắng lừa dối chính mình và người khác, sự thật xấu xa của mình càng bị phanh phui. Ai mà không ngứa miệng khi thấy người nào khen một tên đểu rả, đánh lừa, châm chọc thiên hạ về thái độ đạo đức rởm cố giả hình tạo nên.

Ăn mày được gọi là ông nhưng ăn trộm lại bị gọi là thằng. Những người sống chẳng ra gì, ỡm ờ để gây khốn khó cho người khác, lừa dối chính mình và lừa dối người khác đã đương nhiên ăn trộm công lao, tăm tiếng người khác nên đáng bị gọi bằng thằng. Dĩ nhiên bởi chủ ý xuyên tạc để chà đạp người khác với ý đồ dùng danh dự người khác làm bàn đạp cho mình bước lên đài danh vọng giả tạo là một thứ ăn trộm hạ đẳng. Tất nhiên đã ăn trộm thì nào có bao giờ mà thoát cảnh đề phòng, e người khác biết tẩy và bởi vì có tật nên hay giật mình do sợ người khác nhận ra điều xấu mình làm. Dĩ nhiên, chỉ thằng ăn trộm mới nghĩ giống kẻ trộm; chỉ thằng ăn trộm mới e sợ người khác biết mình ăn trộm; còn người ngay thì cũng chỉ có thể nghĩ người khác ngay lành giống mình. Tay chưa nhúng chàm làm sao biết chàm dơ bẩn đến độ nào, tẩy rửa ra sao. Do đó, nếu ai nghe thấy "sấm bên đông" mà "động bên tây" thì chắc chắn mình đã có chuyện gì muốn giấu người khác, nghĩa là mình đã làm chuyện không nên.

Tâm lý chung, "Trông mặt mà bắt hình dong," người sợ hãi điều gì thì chắc chắn tim đập mau hơn, cử chỉ lúng túng hơn, mặt đỏ lên bởi tim đập quá hoặc tái mét do lo sợ. Chẳng lạ gì, thằng ăn trộm thì luôn luôn "mặt lấm mày lét." Đã mặt lấm mày lét nên người khác vô tình chứ chưa chủ ý nói tới đã động lòng, đã giật mình cuống lên tìm đường bào chữa hoặc nói phóng đại ra những điều trái ngược để lấp liếm. Thật ra, có lấp liếm đến cách mấy thì cũng chẳng có thể che đậy được mà chỉ "lạy ông tôi ở bụi này." Thiên hạ không ngu ngơ đến nỗi để cho những người "mặt lấm mày lét như thằng ăn trộm" dễ dàng đánh lừa bởi kim bọc trong vải lâu ngày cũng phải lòi ra. Thế nên càng che dấu lại càng lòi đuôi, càng che đấu lại càng lấm lét. Người làm điều ngay chẳng có gì đáng che đậy và dĩ nhiên người làm điều ngay lấy câu "đường ta ta cứ đi..." làm căn bản. Vì thế những chuyện gì càng cố che đậy thì chỉ càng nói lên tự nó đã chẳng ra gì.

Những người có tật tất nhiên hay giật mình. Vào năm 1990, trong chương trình bài trừ ma túy, cảnh sát Florida đã đưa ra một trò nhỏ mọn bắt khá nhiều tay buôn ma túy. Cảnh sát Florida cắm một tấm bảng hai mặt đề chữ giống nhau: "Trạm khám ma túy cách 1500 feet." Sự thật thì đâu có trạm nào và thế rồi hai bên xa lộ, cảnh sát chận bắt tất cả các xe băng ngang quãng giữa hai chiều xa lộ bất hợp pháp. Những xe buôn ma túy mới trông thấy tấm bảng đã lo quay xe trở lại; cảnh sát cũng chỉ bắt những xe này về tội phạm luật xa lộ và từ đó khám xét, truy ra cả mớ buôn lậu ma túy. Dĩ nhiên những người không buôn ma túy đâu giật mình vì bảng xét tật buôn ma túy này.

Hơn nữa, càng những người có tật càng ưa nổ, nổ để che lấp điều chẳng ra gì của mình. Chắc chắn rằng có những kẻ nổ dại và cũng có kẻ nổ khôn. Tuy nhiên, kẻ nổ khôn thì ít mà dại thì nhiều. Kẻ nổ dại thường hay ngoác mỏ ra mà châm chọc, bới móc kẻ khác. Thà rằng bới bèo ra bọ còn đỡ, kẻ nổ dại cứ thích chứng tỏ ta đây hay, giỏi, lên mặt thày đời làm như mình là túi khôn của thiên hạ rồi phê bình, rồi chê bai, rồi nếu thế nọ, nếu thế kia. Lẽ dĩ nhiên ai cũng thừa biết, những kẻ mở miệng châm chọc người khác chỉ là phường hèn hạ dù có tự cho mình là thế nào chăng nữa. Dân gian có câu: khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay. Người viết thử đề nghị những kẻ bới móc, châm chọc người khác soi gương xem ra sao!

Dĩ nhiên, nếu nói gương theo nghĩa bình thường thì cần gì phải đề nghị vì nếu thế ai chẳng nhìn thấy một hình người trong gương! Người có cái đầu, đầu có mặt, mặt có hai mắt, hai tai, mũi; mũi có hai lỗ, dưới mũi là miệng, trong miệng có răng và hai hàm răng kèm cái lưỡi... Gương mà người viết muốn nói chính là thái độ của những người chung quanh đối với mình. Nếu những người chung quanh tránh mình như tránh hủi, chắc chắn mình chẳng ra gì, chắc chắn mình là thứ mở miệng ra là chuyên lonói "móc lò," làm dơ bẩn lây người khác. Nếu những người chung quanh không thích sự có mặt của mình mặc dầu họ không tránh, mình có thể là thứ mặt dầy, mặt thớt mà còn cứ vênh váo ra bộ ta đây.

Đã lỡ nói đến "mặt dầy" nên đành phân loại sơ sơ. Có những thứ mặt dầy tưởng mình là oai vọng lắm trong khi chẳng ra gì thế rồi nào là cho rằng người này khinh mình, người kia coi mình chẳng ra gì. Dĩ nhiên, người ta khinh thì mình chắc chắn chẳng ra gì bởi có ra gì người ta đã trọng vọng. Điều chẳng ra gì của mình là đã biết người ta khinh mà không tự sửa sai lại còn ra bộ vênh váo khoe khoang bới thêm, e còn có người không biết mình bị khinh, thật là điều điếm nhục. Có thứ mặt dầy tưởng rằng vì mặt mình quá dầy nên không biết xấu hổ là gì lại còn ra bộ ta thế nọ, ta thế kia, phê bình người này không biết điều, người kia không trọng vọng mình. Ai có thể chấp nhận được những câu chê trách chẳng hạn: "Người ta chẳng thèm mời mình ăn cơm!" có chi đâu, muốn ăn mày thì phải dùng lời nói nhã nhặn, tỏ bộ dạng đau thương khốn cùng để mà ăn chực chứ! Người ta đã coi khinh đến độ không muốn thấy cái "mặt mẹt" của mình mà dốt nát đến độ mở miệng trách người như thế phỏng còn gì nực cười hơn, còn biết chi là liêm xỉ. Có thứ mặt dầy khác như là thứ con mọt xã hội, cứ nghĩ mọi người trên đời này phải mang ơn vì đã có mình nên phải coi trọng... Có thứ làm ăn chẳng nên lại cứ thày dốt đọc ranh khôn... Đúng là viết về thứ mặt dày sẽ vô cùng tận... Thật ra thiên hạ hãy cònlịch sự chán bởi chưa coi mặt mình như cái thớt mà băm nát tan ra là còn phúc đức mấy đời, phương chi ra bộ thế này, thế kia mà cứ tưởng người ta không biết.

Những kẻ hay giật mình thường là loại khôn nhà dại chợ. Ở trong nhà thì huênh hoang ra bộ ta đây, chèn ép, chen lấn anh em dòng họ, rồi miệng thơn thớt nịnh bợ người quyền thế hơn, dạ ớt ngâm, đâm bị thóc thọc bị gạo. Thế mà đối với người ngoài thì cứ co vòi lại. Đúng là thứ xuẩn, loại gà què ăn quẩn cối xay. Dĩ nhiên, có khôn ngoan chăng đã đối đáp được với người ngoài, nhưng loại dại chợ vì không có liêm sỉ nên bị người ngoài khinh lại càng trở nên vô liêm sỉ đớp táp anh em, cắn quẩn trong nhà. Người ta bảo chó dại có mùa người dại quanh năm là thế. Tỏ bộ tịch ta đây với anh em họ hàng, con cháu nào có gì mà hay, có chi đáng phục. Dĩ nhiên, có khôn ngoan chăng đã đối đáp được với người ngoài.

Thật ra có khôn thì để cho người ta rái, lỡ dại, chấp nhận cho người ta thương. Thứ khôn nhà dại chợ chỉ tổ dở dở ương ương, nói ngang không chịu được thế nên ai cũng ghét. Những kẻ khôn nhà thường hay đưa ra lắm thứ lý thuyết ba xu ngớ ngẩn để tỏ ra mình quan trọng. Cuộc đời này, người có tài là tự động kẻ khác nhận ra tài năng của họ qua kết quả cuộc sống. Văn sĩ tất nhiên là người đã viết văn và văn viết ra được người khác đọc và chấp nhận là đứng đắn, là hay. Ca sĩ chỉ được gọi cho những người hát hay hơn người thường và được người khác hâm mộ. Giáo sư là người dạy học, có đời sống đạo đức ngay chính, không lang bang, cặp kè những hạng không ra gì, trong gia đình, cuộc sống đáng làm gương mẫu cho con cái... để được xứng danh kẻ sĩ... Còn những kẻ hữu danh vô thực hoặc chạy chọt luồn lọt cho có biệt hiệu nọ kia mà việc làm lại chẳng ra chi... thì dù có cố gắng lừa bịp đến cách mấy cũng dấu đầu hở đuôi bởi cá tính ngựa quen đường cũ.

Tóm lại, cuộc đời này thiên hạ không đến nỗi ngu đần để mặc cho mình bịp mãi đâu. Khi mình có tật, tất nhiên chuyện nhỏ nhặt đến mấy chăng nữa có xảy ra thì cũng giật mình. Giật mình bởi vết chàm còn đó, quần áo, mã bề ngoài nào có thể che dấu được! Nếu có cầu tiến đi chăng nữa, tốt nhất nên nhìn nhận chính mình, nhìn nhận con người thực của mình để rồi nếu thấy mình chẳng ra gì thì lo bỏ tăm vào túi, khi lỡ có phải tham dự chuyện gì lấy ra mà ngậm. Cứ sự thật mà nói, chẳng ai thèm chấp với mình nếu mình biết phận, không lòe bịp người khác vì "Khôn cho người ta rái, dại cho người ta thương, dở dở ương chỉ tổ cho người ta ghét." Càng có tật càng hay giật mình. Không ngậm tăm mà cứ tơm tớp chứng tỏ ta hay ta giỏi, có lẽ sẽ đi đến lúc chỉ nói cho chính mình nghe, lẩm bẩm như thằng khùng, thằng điên!

VẤNĐỀDANHXƯNG

Khi tôi còn ở nhà tập của dòng SVD tại Bay St. Louis, Mississippi, cha Braken có một lần nói là trở thành một SVD khó hơn lên thiên đàng. Hỏi lý do tại sao, ngài trả lời là trên thiên đàng có rất nhiều người có lẽ không thể đếm nổi; còn SVD, tất cả chưa được 5000 người trong khi thế giới này những mấy tỷ người. Lý luận theo kiểu này rất đúng và rất phù hợp với luận lý tây phương. Khi còn ở SVD, bởi những cố gắng nhấn mạnh về sự dồn mọi lỗ lực cho nhà dòng, tôi đặt vấn đề, tôi theo đuổi ơn kêu gọi cho nhà dòng, hay cho Giáo Hội, hoặc cho lợi ích của phần rỗi cho mọi người hay chỉ riêng cho một số người?

Khi làm việc chung với những người khác, đặc biệt là làm việc chung với những người Việt Nam, tôi thấy tham vọng cố gắng làm cho người khác biết mình rất mạnh mẽ trong mọi người. Dĩ nhiên, điều này không có gì là không đúng. Tuy nhiên, tôi thấy một mối nguy hại lớn lao bởi sự muốn "chứng tỏ mình là một cái gì" đưa đến sự sai lầm hay thiếu khôn ngoan trong đường lối làm việc. Điều này đã gây những thiệt hại có thể nhận thấy được bây giờ và sau này. Thực ra, nói về vấn đề này chúng ta thấy có vẻ mơ hồ nhưng nếu nhìn kỹ hơn, tai họa bởi sự không nhận thức ảnh hưởng cũng như công việc mình làm đã đưa chúng ta đến những lỗi lầm tai hại ảnh hưởng tới con cháu chúng ta.

Trong khuôn khổ bài viết, tôi muốn đặt vấn đề về sự liên hệ của danh xưng từ con người tới đoàn thể, từ đoàn thể tới cộng đồng Việt Nam, và từ đó, đặt vấn đề giữa nhà dòng, những tổ chức trong Giáo Hội tới Giáo Hội. Rộng hơn nữa, từ Giáo Hội tới con người trong ý nghĩa hợp nhất.

Cá nhân muốn tham gia hội đoàn, đoàn thể, có thể vì nhiều lý do. Không ai giống ai và thường thì không trường hợp nào giống trường hợp nào nếu được phân tích kỹ càng để so sánh. Tuy nhiên, trên một vài phương diện căn bản, chúng ta có thể nhận thấy những điểm chung chung: muốn người khác biết đến mình, có đặc tính xã hội cao, tìm một nguồn vui, vì người khác, hoặc có một chủ đích riêng... Trong đoàn thể, cá nhân muốn được nhận định thứ bậc cũng rất rõ ràng. Sự đặt ra những cơ cấu, vai trò nhằm mục đích đem lại lợi ích cho đoàn thể để công việc được giải quyết có thứ tự, tránh sự rắc rối liên hệ bởi trách nhiệm, và cũng tạo nguồn năng lực cho cá nhân làm việc.

Có nhiều cách để được chú ý trong một đoàn thể: Chu toàn nhiệm vụ đắc lực, chứng tỏ mình có những tài năng riêng,... Nói chung, ai cũng thích mình được người khác để ý đến. Điều này thường đưa đến quan niệm chỉ có ý kiến mình là đúng và chỉ đường lối làm việc của mình là hay, đem lại sự không cần biết hoặc không nhận xét ý kiến và đường lối làm việc của kẻ khác. Một thí dụ điển hình trong vấn đề làm việc giúp chúng ta nhìn rõ hơn: người làm chủ tịch hay đại diện một đoàn thể thường chỉ thấy ý kiến của mình là ý kiến của đoàn thể đó. Thực ra, đó chỉ là ý kiến cá nhân... Thường khi nói đến đoàn thể người ta chỉ nói về người đứng đầu. Đoàn này của tôi, đoàn kia của người khác. Sao lại của tôi? Sao lại của người khác. Vậy những thành viên trong đoàn là ai mà lại của tôi? Mọi người đều thấy rõ cá nhân chỉ là phần tử của một tổ chức hay một đoàn thể, nhưng thường cá nhân không chịu nhìn rõ hoặc chấp nhận là cá nhân chỉ góp phần vào đoàn thể hay tổ chức trong một lãnh vực nào đó.

Trong một đoàn thể, cá nhân nào chỉ muốn mình nổi, muốn chứng tỏ "ta đây", không trước thì sau sẽ bị cô lập bởi ai cũng muốn được chú ý. Ai nhận ra điều này và làm việc cho người khác được biết đến, chính người đó sẽ nổi danh. Còn chỉ làm cho chính mình nổi danh, người khác sẽ không thèm chú ý tới mình, và sẽ bị đào thải.

Xét trong trường hợp đoàn thể với cộng đồng, không ai trong một đoàn thể nào đó mà không thích đoàn thể của mình. Nếu những đoàn viên của một đoàn thể nào mà không thích đoàn thể họ đang tham dự, đoàn thể đó sẽ tan rất lẹ. Bởi chính vì muốn được người khác nhận ra, để ý đến mình, thường các đoàn viên muốn cho đoàn thể mình nổi danh, làm những chuyện tốt được nhiều người để ý tới. Hơn nữa, nói chung, mọi đoàn thể đều không muốn mình giống đoàn thể nào mà ngược lại muốn cắt đứt, tách biệt riêng một mình khỏi các đoàn thể khác, muốn có một đường lối sinh hoạt riêng. Chính điểm này làm đoàn thể tự cô lập mình lại. Không thích có điểm chung với đoàn thể khác, đoàn thể tự tiêu diệt chính mình. Không giống với đoàn thể khác, cũng có thể là bởi ban điều hành không biết gì về những nguyên tắc sinh hoạt hay điều hành. Không giống người khác để mình muốn làm gì thì làm, luật tự mình đặt ra, quyền hành mình nắm trong tay. Chẳng sớm thì chầy, đoàn thể kiểu này cũng ngả nghiêng bởi đoàn viên không thể bị lừa bịp lâu ngày. Họ có sự so sánh và nhận định. Tại sao những đội thể thao phát triển mạnh mẽ, bởi họ có những điểm chung với những đội thể thao khác. Họ có luật chung, có những đội khác để thi đua, khuyến khích, cổ võ. Những đoàn thể nào bị chết chỉ là những đoàn thể khác người; nói chung, những đoàn thể này có ban điều hành làm việc theo luật rừng đoàn viên không chấp nhận được.

Nhìn rộng hơn nữa, những cộng đồng Việt Nam so với những cộng đồng bản xứ. Những cộng đồng bản xứ có những đường lối làm việc, sinh hoạt na ná giốngnhau. Những cộng đồng Việt Nam thường vịn vào cớ mình có truyền thống riêng, đường lối làm việc riêng, mình khác biệt với những cộng đồng khác, mình đặc biệt giữa nơi người bản xứ. Vâng, không có gì sai, đúng hoàn toàn bởi lẽ đương nhiên, mình không phải là người bản xứ. Tuy nhiên, nếu đặt nền tảng trên sự nhận định rằng mình khác biệt hoàn toàn với người bản xứ để rồi cố thủ, sinh hoạt, làm việc theo đường lối riêng mình, có thể đưa đến những vấn đề sau:

1- Tránh sự liên lạc, chung đụng với người bản xứ. Chính mình tự cô lập mình và có thể không có một đường lối làm việc. Thử đặt vấn đề đơn giản: được bao nhiêu cộng đồng Việt Nam có được một chương trình làm việc cho một năm; cộng đồng nào có được ít nhất những lịch trình sinh hoạt trong một năm sắp tới, hay là khi nào có dịp thì làm, làm theo dịp lễ tết. Có cộng đồng nào đặt chương trình thăng tiến cho cộng đồng không hay chỉ làm việc nhất thời, theo hứng, theo dịp. Dùng ngôn từ "uyển chuyển theo thời" chỉ là một lối bào chữa phi lý bởi có chương trình đâu mà nói uyển chuyển. Cả một cộng đồng không có lấy một chương trình cho một năm làm sao đoàn thể trong cộng đồng đó biết thời gian nào cộng đồng sẽ có những sinh hoạt nào để rồi đặt chương trình sinh hoạt, thăng tiến cho đoàn thể mình. Đã bao nhiêu lần bạn thấy chương trình sinh hoạt của đoàn thể bị ngưng trệ một cách đau khổ bởi chương trình tùy hứng của cộng đồng? Tôi đang làm việc với một đoàn thể nọ. Muốn có một chương trình sinh hoạt cho một năm của đoàn thể này, tôi hỏi kiếm chương trình của cộng đồng để xếp cho chương trình đoàn thể. Hỏi ra, câu trả lời là cộng đồng không có chương trình. Ban điều hành, cố vấn của cộng đồng được bầu ra để làm gì? Hay chỉ có tên đến nỗi chương trình sinh hoạt của cộng đồng không có. Vậy chương trình sinh hoạt của cộng đồng do ai nắm giữ hay chỉ là tùy hứng. Nói kiểu nhà thơ Xuân Nghị, "sinh hoạt theo mùa," ưng thì làm, không ưng thì thôi.

2- Để chứng tỏ mình có đặc tính riêng, cộng đồng đi vào ngõ bí không giống ai. Đặc tính riêng không phải là những gì không giống ai mà giống những người chung quanh nhưng nổi bật về điểm đặc biệt nào đó. Cũng bởi vì muốn chứng tỏ không giống ai, mình càng tìm kiếm những gì khác người, hoặc cố chấp bảo thủ những gì không hợp thời, "weird, wild". Muốn cho người khác biết đến mình mà không biết đường lối nào để làm cho người khác hiểu mình thì cũng như cuội. Điều này chẳng khác gì bạn tổ chức văn nghệ nhưng đóng cửa hội trường không cho ai vô coi và đòi họ khen ngợi văn nghệ của bạn là hay. Bạn nấu ăn, đồ ăn nấu với nước mắm, rồi mời những người không chịu nổi mùi vị nước mắm thưởng thức và ước vọng họ khen ngon, nhận ra tài nấu ăn và tính chất, mùi vị đồ ăn của bạn. Xin thưa, họ bịt mũi và chê rằng đồ ăn cho dã thú. Cố thủ sắc thái riêng của mình mà không cần biết gì đến người khác nhưng lại muốn họ chú ý đến cũng không thua gì nấu đồ ăn cho người được mời không đúng cách.

3- Cũng chỉ vì không biết cách hòa hợp cho giống với người khác. ngược lại bảo thủ cho rằng sắc thái của mình đặc biệt, tất nhiên chỉ làm hại những người trong cộng đồng và có thể đem đến sự tự ty mặc cảm cho chính mình. Thế hệ thứ hai của những người di dân mang nặng tính chất tự ty mặc cảm này nên họ cố gắng trở nên giống người bản xứ. Ăn nói, may mặc, kiểu sống, họ muốn sao cho giống như những người khác bởi họ cảm thấy họ không giống ai. Chúng ta có thể nhìn thấy giới trẻ Việt Nam, họ là thế hệ thứ hai của người tỵ nạn, di dân. Có thể nói rằng sự đua đòi của họ trong cách ăn mặc, lối sống, một phần lỗi tại sự cố chấp của người lớn trong vấn đề bảo vệ đặc tính của mình một cách mù quáng. Nếu chúng ta dùng chữ "mất gốc", "sự xung khắc giữa giới trẻ và già trong gia đình Việt Nam..." có lẽ vì câu "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài" bị quên lãng hoặc cái nhìn của người lớn không kịp phù hợp với cuộc sống bất chợt thay đổi chăng. Và kết quả thế nào; cộng đồng đang mất dần sắc thái "tuyệt đối" của nó. Khi lớp già qua đi, lớp trẻ chỉ giữ lại những sắc biệt mà những dân bản xứ chung quanh có thể chấp nhận được. Thế cho nên, bản sắc đặc biệt của mình có đặc biệt hay không lại tùy thuộc vào người khác có thể chấp nhận được hay không.

Một điểm xa hơn, đó là các hội dòng tu. Các hội dòng tu thường chỉ ráng cổ võ cho chính dòng mình mà quên rằng bổn phận trên hết của dòng tu là phục vụ và làm cho Giáo Hội lớn mạnh. Nhìn kỹ nơi sinh hoạt dòng tu một chút, tên dòng, kiểu ăn mặc của họ có lẽ có giá trị với họ hơn Giáo Hội. Thay vì mở mang "Nước Chúa", họ dùng sự mở mang nước Chúa để phát triển dòng tu. Dùng dân Chúa xây đắp dòng của họ. Có lẽ sự đặt lại vấn đề xây đắp Giáo Hội hay xây đắp cho dòng của mình, những người tu dòng nên để ý. Sự phân biệt, làm cho mình nổi chỉ mang lại điều nguy hại cho những chương trình rộng lớn hơn.

Tiến xa hơn một bước nữa, đó là giữa Giáo Hội và dân Chúa. Bạn đã có bao giờ cảm thấy không thích nói chuyện với người khác tôn giáo của bạn chưa? Khi thực tập chương trình thăm bệnh nhân, tôi gặp vài trường hợp: một số bệnh nhân từ chối sự thăm viếng của những tuyên úy khác tôn giáo.

Hai mươi năm trước, và bây giờ còn nhiều người Công Giáo nghĩ rằng "ngoài Giáo Hội Công giáo không có ơn cứu rỗi." Khi dạy giáo lý lớp 11 cho các em người Việt, nói về ơn cứu rỗi tới điểm: "Sự cứu rỗi của Chúa đến với mọi người, nghĩa là ngoài Công Giáo cũng có ơn cứu độ." Một học sinh hỏi tôi, vậy mình truyền giáo để làm gì? Tôi trả lời rằng mọi người Công Giáo có nhiệm vụ làm chứng nhân nước trời. Điều này có nghĩa ơn kêu gọi truyền giáo nơi chúng ta đòi hỏi chúng ta trở thành chứng nhân để cho những người khác nhận biết ơn cứu độ của Chúa đã và đang ở nơi họ chứ không phải bắt họ phải trở thành người Công Giáo. Trở lại hay không tùy họ và tùy lối chứng nhân của mình.

Thử đặt một vấn đề, trong Phúc Âm, Chúa dạy về sự hợp nhất của con cái Chúa là gì? Mọi người nhận thấy rõ ràng không thể có cách nào làm cho mọi người trở thành Công Giáo, nói rộng hơn, không có cách nào làm cho mọi người chỉ tin vào Đức Kitô. Vậy điểm hợp nhất của con cái Chúa là điểm nào bởi nhìn tổng quát, mọi người là con cái Chúa. Con cái Chúa ở điểm nào khi họ tin vào Brahma như trong Hindhuism, tin vào luân hồi như trong triết thuyết nhà Phật, và còn nhiều thứ tin trong nhiều đạo khác nhau? Có một lần tôi nói chuyện với một người tin lành, bà ta không thể chấp nhận được những người không tin vào Đức Kitô được ơn cứu rỗi (dầu bà ta chấp nhận Kitô hữu nói chung có ơn cứu độ), bởi bà ta suy luận rằng những người khác không thuộc về Đức Kitô. Tôi hỏi lại vậy trước thời Đức Kitô, bao nhiêu người đã qua đâu biết gì về Đức Kitô. Bà ta nói rằng Đức Kitô đã hiện hữu từ trước. Nói thế thì cũng như bây giờ, biết bao nhiêu người không bao giờ được nghe thấy tên Đức Kitô.

Xét thế, chúng ta càng gò bó với danh xưng Công Giáo hay Tin Lành, Anh Giáo, v.v..., chúng ta càng từ chối sự hiện diện của Chúa nơi những người khác trong khi chúng ta thuộc lòng rằng Chúa ở khắp mọi nơi. Có lẽ chúng ta tự phản lại chính chúng ta khi tuyên xưng Chúa ở khắp mọi nơi, mọi người mà lại từ chối sự hiện diện của Ngài nơi những người khác.

Ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người. Chúa ở nơi mọi người trong khi Giáo Hội có quyền đóng hay mở cửa nước trời? Quyền chấp nhận hay không chấp nhận ơn cứu độ của Chúa cho người khác nơi Giáo Hội hay nơi cá nhân? Nếu chấp nhận rằng ơn cứu độ của Chúa đến với mọi người thì sự đóng hay mở cửa nước trời không phải nơi Giáo Hội mà Giáo Hội có bổn phận phải tuyên xưng nước trời cho mọi người và không có chút quyền nào đóng cửa nước trời. Chỉ có nhiệm vụ nhưng không có quyền. Quyền chấp nhận người nào ở trong Công Giáo hay không là quyền của Giáo Hội, nhưng vấn đề ơn cứu rỗi thì không. Đó cũng là lý do tại sao Giáo Hội chỉ đặt vấn đề thuộc về hay không thuộc về đức tin Công Giáo. Vấn đề này thuộc về vấn đề danh xưng chứ không thuộc về ơn cứu độ.

Nhận ra như thế, nếu chúng ta không mở mắt vểnh tai để nhìn nhận những người khác là tại chúng ta. Chính chúng ta đóng khuôn chúng ta lại. Từ chối ơn cứu độ của Chúa nơi người khác có thể là một hình thức cho rằng chúng ta là Chúa. Tội lỗi! Chúa không chấp nhận được bất cứ ai, thần thánh nào ngang hàng với Ngài. Bạn rao giảng nước Chúa hay bạn rao giảng cho tôn giáo, dòng tu của bạn?

Hơn nữa, bạn và tôi là người Việt Nam, chúng ta có thể dùng tiếng Việt để nói cho những người không biết tiếng Việt nghe, hay chúng ta phải dùng ngôn ngữ của nọ để nói. Đường lối làm việc, cách diễn xuất, phát biểu tư tưởng của chúng ta người khác có thể hiểu, chấp nhận, hay chúng ta phải nói cho họ hiểu bằng ngôn ngữ của họ, theo lối diễn tả, giải thích của họ. Vậy khi chúng ta muốn gây sự chú ý của người khác, chúng ta nên dùng đường lối nào, tôi tin rằng bạn đã có câu trả lời. Muốn dùng ngôn ngữ của người khác để diễn tả cho họ nhận biết điều mình muốn nói, giá trị văn hóa, phong tục, tập quán, gia đình v.v... của mình không phải là chuyện nằm mơ hay nói suông. Mơ thì dễ nhưng thực hiện ước mơ không dễ chút nào. Vấn đề là chúng ta có tự nhận thức hay không!

ĐINƯỚCLÀOĂNMẮMNGÓE

Những người bôn ba trôi nổi thường thì có sao Liêm Trinh đóng cung thiên di, ấy là nói theo tử vi. Càng đi nhiều bao nhiều, điều dĩ nhiên, càng biết nhiều bấy nhiêu. Chả thế mà có câu "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn." Ngược lại, chỉ ro ró ở nhà, thường thì người nào càng có trí khôn, sự hiểu biết nhỏ hẹp bao nhiêu lại càng tưởng mình biết hết mọi sự hoặc chỉ mình là đúng, đường lối kiểu cách mình là hay. Thật ra, cuộc đời núi cao còn có núi cao hơn, những kinh nghiệm hiểu biết cá nhân không bao giờ cho đủ, thế nên, có hay thì cũng chỉ hay nơi chốn hạn hẹp nhà mình vì "Ở nhà nhất mẹ nhì con, ra đường lắm kẻ còn dòn hơn ta."

Khi những người bắc Việt mới tràn vào miền nam sau năm 1975, nhiều cảnh dở khóc dở cười đã xảy ra, không những nghe chỉ tức cười về cái ngố, cái ngược bởi thiếu hiểu biết, tưởng rằng trên đời này chỉ vỏn vẹn như miền quê hẻo lánh tối tăm hoặc trong rừng u minh mà còn gây ra khá nhiều tai nạn giết người chỉ vì một vài câu nói quen dùng nơi miềm Nam mà người Bắc làm việc trong chính quyền mới vô hiểu theo nghĩa ngớ ngẩn khác hoặc không hiểu rồi làm bừa đi hay kết án bậy bạ.

Nhớ lại những ngày đầu, bộ đội lái xe ngược chiều đường phố, xa lộ Biên Hòa, tống số chết vì tai nạn bởi sự lái xe không biết luật lên tới cả ngàn. Vô nhà thấy người ta bật quạt trần thì tay ôm đầu hô ầm lên máy chém... Tháng 8, 1975, một hôm tại hàng bán quần áo nơi Phan Thiết, chú bộ đội ghé vô hỏi bà chủ quán mua chiếc "lọc cà phê". Cái mà chú bộ đội gọi là chiếc lọc cà phê được làm bằng vải dính liền với một chiếc khác thành một cặp kèm theo mớ dây quấn lung tung. Chú chỉ đòi mua một chiếc mà bà bán quán nói không thể bán một chiếc được, phải mua cả hai. "Ơ cái bà này, bà bán thì tôi mua, mua một chiếc hay hai chiếc tùy ý tôi, sao bà cứ bắt tôi mua cả hai thế?" - Chú lý luận. Giằng co qua lại đến nỗi khách đi ngang cứ mỉm cười và vội bỏ đi e cười chú cho là nhạo báng bộ đội. Và cuối cùng bà chủ quán đành bán cả đôi trong khi chú bộ đội trả tiền một chiếc. Nào ai biết chú bộ đội lọc cà phê ra sao với cặp lọc cà phê ấy thay vì "cái nồi ngồi trên cái cốc."

Đường xá bụi bậm, chắc có lẽ một số bộ đội được huấn luyện kỹ càng về cách giữ vệ sinh nên lái xe Honda phải dùng "băng vệ sinh" bịt mũi. Cũng có mấy chú bộ đội được đóng đô tại những nhà lầu chủ nhân bỏ trốn ra ngoại quốc, mua được mấy con cá trê còn sống vừa cỡ cổ tay định nấu bữa ăn vương giả bù đắp cảnh "vắt cơm nắm muối" những ngày tháng ở trong rừng. Đem về tới nhà, thấy có chiếc bồn chứa ít nước, thả cá vô, định sau khi uống ly nước trà sẽ làm cá nấu canh. Nào ngờ, sau khi uống nước, bắt cá làm thịt, cá biến đi đâu mất, đưa tay rờ đụng lung tung, ấn ấn thử thử, nước xối xả chảy qua bồn rồi thông đi đâu mất. Mấy chú bộ đội cho rằng nguỵ bày kế ăn cắp cá. Mãi về sau mới biết cái bồn dùng để làm gì.

Cũng có một bà nhà khá giả ở miền Bắc. Sau năm 75, các em nơi miền Nam viết thư mời qua chơi, trong thư ghi rõ "Chị thu xếp sang chơi càng sớm càng tốt, đồ dành cho chị chúng em đóng thùng cả rồi." Bà bắc kỳ nghe con đọc thư mà tức tối mãi không thôi.

-Quân chúng mày lâu nay học thói ngụy hỗn láo - bà lẩm bẩm - chúng mày nói với chị mà dám nói "đồ dành cho chị." Chúng mày khinh chị là quê mùa nên dùng những lời bẩn thỉu...

Thế rồi bà thu xếp vô nam gặp mấy đứa em để cho một trận hả cơn ấm ức... Vừa tới cổng nhà em, bà đã oang oang:

-Đây này, chị các em tới để xem "đồ" các em dành cho chị là đồ thế nào. Các em dám viết thư "đóng đồ" cho chị à...

Người em thấy chị tới, không cần biết chị nói gì, dẫn vội vô nhà chỉ những thùng đồ buộc dây ngay ngắn nơi một góc phòng khách líu lo,

-Chị ở chơi với chúng em vài tháng. Năm thùng đồ này em đóng sẵn như đã viết thư cho chị đến khi nào chị về đem ra Bắc.

Bà bắc kỳ mới ngớ ra, người miềm nam gọi mấy thùng này là cái "ấy".

Có một gia đình mới qua tới Mỹ năm 1975, bảo trợ đưa vô ở một căn nhà, chỉ cho tủ lạnh, bếp núc v.v... cuối cùng nhờ người thông ngôn hỏi còn cần gì nữa không. Hai vợ chồng cũng đứng tuổi, thấy nơi tủ lạnh thịt thà đầy đủ, có cả những thứ không cần thiết như bơ, sữa tươi... Đồ ăn đã có, thức uống thời không bèn nói với thông dịch viên hỏi cho cái lu đựng nước uống. Thông dịch viên chẳng sao dịch được chiếc lu, đành nói ra chiếc thùng đựng nước. Bảo trợ hỏi đựng nước để làm gì. Người chồng nói đựng nước uống và rửa mặt. Bảo trợ không thể hiểu tại sao mấy người tỵ nạn này cần thùng đựng nước trong khi có nước thành phố nên mới chỉ cho vòi nước nơi bồn rửa chén... Mọi người cùng cười, bấy giờ vợ chồng con cái mới biết nhà không có giếng mà vẫn có nước.

Người khác thì đã biết nước non đầy đủ, chỉ mỗi tội khi đi tiểu xong không biết làm sao cho nước chảy. Rờ vào cần xả nước, thấy lỏng lẻo nhưng không dám ấn mạnh sợ cần gẫy, loay hoay mãi cũng chẳng được cuối cùng đành thử mở nắp bồn nước xem sao. Khi nước đã chảy, người đó mới nhận ra, à thì nó không gãy...

Một ông cụ già kể chuyện kỳ mới sang Mỹ mà cười đến đứt ruột. Giọng cụ trầm trầm, chân thành, không có vẻ gì là nhạo báng hay chê trách nhưng lững thững, điềm đạm lại đơn sơ khiến người nghe cảm thấy mến phục.

-Nhớ kỳ mới sang, mình nhà quê mà, con tôi chỉ cho tôi từng ly từng tí. Tôi thì cũng biết rằng nhiều thứ mình chẳng hiểu gì nên ráng nhớ được chút nào hay chút ấy rồi tính sau. Con tôi chỉ tôi cách nấu nồi cơm điện, tôi lại cứ thắc mắc sao không có lửa mà cơm có thể chín được. Nó giải thích là đun bằng điện mà điện đâu chẳng thấy. Thế rồi nó phải lấy gạo, vo, đổ nước vào nồi, đoạn chỉ tôi ấn nút. Tôi ấn cái nút đỏ bởi nó bảo nếu nó đỏ là có điện, nào ngờ ấn cái nút phía trên. Đợi được một lúc, thấy nồi cơm sôi. A! Thì ra nấu cơm điện tiện lợi và dễ dàng quá, không phải lo lắng gì, lại chẳng sợ khê vì to lửa. Rồi cà phê cũng bằng điện, nấu nướng bằng bếp điện... chỉ có mỗi cái nó quên không chỉ là cái nhà cầu... Nó dẫn tôi vào nhà cầu, chỉ cho tôi vặn nước rửa mặt, rồi phòng tắm, chỗ nào nước nóng, chỗ nào nước lạnh, rồi cho nước xịt bông sen. Lần đầu tiên tôi ướt hết vì quên cởi đồ trước khi vặn nước, nhưng cũng không sao, thay ra đàng nào chả phải giặt, chỉ phải cái tội nước xịt tối tăm mặt mũi và thay đồ ướt hơi khó. Còn có mỗi cái nhà cầu nó không chỉ làm tôi khổ sở suốt một tuần và té xuýt gẫy chân. Anh thấy đó, cái nhà cầu có hai cái nắp, một cái nắp kín, một cái nắp lủng một lỗ to ở giữa. Cái nắp kín thì đâu cần thiết vì có ai vô ngắm nhà cầu đâu mà phải đậy lại. Còn cái nắp lủng tôi chẳng hiểu dùng để làm gì. Khi đi tiểu, thật là khó vì làm sao có thể cho nước tiểu rơi vào cái lỗ lủng nhỏ như thế và rồi nước tiểu rơi vào nó, bắn lung tung... mỗi lần đi tiểu, tôi lại phải lau. Mới đầu không để ý, nước tiểu bắn vô cả quần, tôi lại phải thay, rồi sau đó lau chùi phòng vệ sinh cho sạch. Tính tôi lại sạch sẽ, cứ mỗi lần đi tiểu lại phải dùng đồ lau nhà lau phòng tắm rồi mới giật nước. Từ ngày hôm sau tôi vén quần cao lên và sau đó vô bồn tắm rửa chân rồi lại lau nhà cầu. Tức quá, tôi lật ngay nó đứng lên, thế là hết. May mắn, mình cũng thông minh. Nhưng đến lúc đi tiêu thì cả là một cực hình, anh biết chứ, ở Việt Nam mình, bàn cầu có hai đế để chân, đàng này nó tròn quay lại tráng men trơn trượt. Bỏ cái nắp lủng xuống leo lên cho dễ ngồi chồm hổm thì sao mà tiêu lọt vô lỗ thủng, mà dựng nắp lên thì vành bô nhỏ quá sao đặt chân cho vững. Được ba lần, tôi sợ đi tiêu muốn chết nhưng nhịn không được. Khổ nữa, lúc lấy giấy để chùi thì đứng trên bô cũng khổ mà bước xuống cũng phiền. Hơn nữa ngồi chênh vênh trên vành bô lúc tiểu nó cứ vọt cần câu ra phía trước không làm sao cho nó vào trong bô, mà nào có nín được... Thế rồi lại lau, lại chùi... mệt quá sức. Đến lần thứ tư, chẳng biết cái quần mắc đầu gối tôi làm sao, vừa đưa chân bước xuống, tôi té chúi vô tường đánh cái rầm. Quân Mỹ này làm nhà cầu tệ quá... nghĩ vậy nhưng tôi không dám la. May mắn thằng con tôi đang ở nhà, nghe động chạy vô, thấy tôi té lộn tùng phèo mới kéo tôi đứng dậy rồi đi ra để tôi tiếp tục làm chuyện không ai có thể làm giúp. Sau đó, thấy lốt dép trên miệng bô, nó cười không nín được. Suốt cả nửa tiếng nó cứ cười mà tôi không hiểu tại sao. Cuối cùng, nó vừa cười sặc sụa vừa giải thích là ngồi ngay trên nắp bô lủng như ngồi ghế khi đi tiêu. Còn lúc tiểu thì lật nắp bô lủng đứng lên cho dễ như tôi đã thử trước. Đơn giản có vậy mà tôi không biết. Ai ngờ cái thói quen đã làm hại mình.

Má tôi (người viết), sang tới Mỹ rồi mà cứ đòi kiếm cho được chiếc lồng bàn... và cũng có lồng bàn nhưng bây giờ đành vất lăn vất lóc bởi rau thơm để úp lồng bàn héo hết, phải bỏ tủ lạnh. Bà còn nhờ cậy thiên hạ mua cho được chiếc nồi đất có đánh đai dây thép chung quanh cho chắc chắn đem kho cá. Bà lý luận cá kho nồi đất mới ngon. Ngon đâu không biết nhưng từ ngày có chiếc nồi đất cỏn con kho cá, bà cứ lẩm bẩm nhà không dám mở máy lạnh mà tiền điện vẫn cao. Tôi nói cá kho bằng nồi đất mà phải đun bằng rơm mới có mùi thơm lúa chín... Thế rồi bà chửi "Cha tiên sư bố mày..."

Nhà tôi có mảnh vườn, ông bà già trồng rau, cấy sả cho vui, và nếu có thừa đem ra chợ "chồm hổm" (N.O. LA). Hai cụ đem rau, đem sả vô nhà bó bó buộc buộc công cả đất cát, bụi bặm vô. Cụ ông nhờ người mua cho được hai cái chổi quét tay, rồi chổi đẩy về quét quét, hốt hốt khiến quạt máy lạnh hút bụi bậm bay lên bít kín "air filter." Nhà đã có sẵn máy hút bụi hai ngựa mà ông bà không thèm xài, chỉ quét, có nói cũng không thèm nghe. Tôi đành chịu vậy biết sao hơn! Có lần nói quá, bố tôi trả lời: "Có lấy được máy hút bụi thì tao đã quét xong.

Lẽ đương nhiên, ai không biết "Đi nước Lào, ăn mắm ngoé," nhưng nếu biết chỉ để mà biết thì làm sao "nhập gia tùy tục". Kiểu cách sống ở đâu, phương tiện thế nào, sử dụng ra sao cho hợp đòi hỏi nơi con người sự thay đổi sao cho thuận. Không biết, có lẽ nên hỏi thay vì leo lên bàn cầu trượt té, may mà không gẫy chân!

NHỮNGCẶPKIẾNGMÀU

Mọi người đều có kinh nghiệm thông thường, khi chúng ta đeo cặp kiếng màu xanh, chúng ta sẽ nhìn thấy mọi vật quanh mang màu xanh không ít thì nhiều. Nhìn sự vật qua cặp kiếng màu xanh chúng ta cảm thấy dễ chịu, không bị chói mắt khi gặp ánh nắng gay gắt. Ai đeo kính màu hồng hay màu xám hoặc đen, cũng nhìn thấy sự vật chung quanh có pha những màu tùy theo cặp kiếng mình mang. Nói chung, những cặp mắt kiếng đều có đặc tính làm thay đổi một phần nào hình dạng, màu sắc, nét phiếm diện bên ngoài của sự vật. Những cặp kiếng làm cho chúng ta cảm nhận sự vật chung quanh một cách dễ chịu hoặc khó chịu hơn, không thể đúng với sự vật. Chẳng hạn bạn đeo cặp kiếng đen đậm khi trời gắt nắng, bạn sẽ cảm thấy mát mắt hơn, nhưng cũng cặp kiếng đó đeo trong khi trời nhá nhem tối, bạn sẽ chẳng nhìn thấy chi chung quanh. Kết quả của sự đeo cặp mắt kiếng đen đậm trong vùng nhá nhem tối thế nào, có lẽ bạn không cần giải thích.

Khi giao tiếp với những người khác, dầu quen hoặc không quen, chúng ta cũng thường bị những "cặp kiếng kinh nghiệm" của chúng ta ảnh hưởng không ít thì nhiều. Ca dao Việt Namcó câu: "Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon." Hoặc "Những người thắt đáy lưng o­ng, đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con, những người béo trục béo tròn, ăn vụng bằng chớp, đánh con cả ngày." Còn khá nhiều những kinh nghiệm như thế. Đúng hay sai ai mà biết nhưng hợp hay không hợp với kinh nghiệm của chúng ta trong cuộc sống hiện tại, có lẽ chúng ta có thể giải nghiệm một cách dễ dàng.

Ai cũng nghi ngờ rằng chưa chắc những người có hình tướng "không ăn khách" bên ngoài đã là người xấu và cũng chưa chắc rằng những người có mã hào hoa bên ngoài đã là những người tốt. Thế thì câu "Trông mặt mà bắt hình dong..." có lẽ không thể là chân lý muôn đời được. Chẳng những thế nó còn bị câu "Hơn nhau tấm áo manh quần, nếu đem lột trần, ai cũng như ai" hạ cho đo ván. Ngoài ra, hai câu "... thắt đáy lưng o­ng... và béo trục béo tròn..." đặc biệt để nhận xét về hình dạng bên ngoài của người phụ nữ càng nói lên cặp mắt kiếng kinh nghiệm của chúng ta không đứng vững chút nào. Chưa chắc những phụ nữ có "đáy thắt lưng o­ng", hình dáng đẹp đẽ bên ngoài đã khéo chiều chồng, nuôi con, mà trái lại, bị thuyết nhà Phật qua Truyện Kiều hoặc kinh nghiệm về tướng diện đánh phủ ngược lại: "hồng nhan bạc phận" hoặc "hồng nhan đa truân". Còn những người "béo trục béo tròn..." thì nhan nhản trước mắt, nói ra là đụng chạm... Các bà, các chị, có gia đình rồi thì thôi chứ, đâu cần giữ eo, có bầu sao mà giữ eo; họ tốt lành, chiều chồng, dạy con, ngược lại hẳn với câu ca dao trên. Xét như thế, kinh nghiệm chưa chắc đã lấy gì làm bảo đảm, không có gì là luật chung và thường thì không thể áp dụng, gom góp hoặc dùng kinh nghiệm của trường hợp này cho trường hợp khác.

Mặc dầu thế, kinh nghiệm lại thường giúp chúng ta thông cảm được với những người khác. Thái độ, nếp sống, lối đối xử của chúng ta bắt nguồn từ những kinh nghiệm thông thường gần giống nhau. Nhưng lại cũng chính những kinh nghiệm thông thường này làm cho chúng ta dùng luôn những kinh nghiệm đặc thù, cá nhân của chúng ta như một mẫu mực chung cho tất cả những trường hợp khác. Chẳng hạn khi bạn giao tiếp với một người, lối đối xử của họ quá tệ với bạn, có thể bạn đã vội cho rằng người đó là người xấu, và chính vì thế, mọi sự liên quan đến người đó cũng đều xấu. Ai có ngờ đâu, người đó có lối đối xử với người khác không đẹp theo kiểu bên ngoài có thể lại chính là người gây dựng gia đình họ một cách vững vàng. Chẳng những thế, chúng ta có thể còn nghĩ rằng những bạn bè của người đó cũng không tốt lành gì bởi kinh nghiệm cho chúng ta thấy "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã." Như vậy, có phải chúng ta đã bị sai lầm bởi ảnh hưởng đặc thù của kinh nghiệm thông thường một phần nào rồi không?

Bình thường khi trao đổi hay bàn luận về vấn đề nào với người khác, chúng ta đều cho rằng những ai đồng quan điểm với mình là đúng, còn những người có quan niệm ngược lại, không giống với chúng ta là không đúng. (Tôi nói không đúng không có nghĩa là sai). Cặp kiếng màu quan niệm, kinh nghiệm của chúng ta ảnh hưởng đến sự nhận xét quan điểm người đối thoại rất nặng nề. Chúng ta bị tư tưởng "ngưu tầm ngưu, mã tầm mã" khống chế, và thường quên rằng một sự việc có thể thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Vấn đề là quan điểm và phương thức thực hiện sự việc đó có hợp thời hợp cảnh hay không. Hơn nữa, kinh nghiệm, quan niệm của mỗi người lại tùy thuộc vào sự hiểu biết của chính người đó. Môi trường sống của một người trong quá khứ cũng tạo nên những kinh nghiệm ảnh hưởng đến cái nhìn của họ đối với những vấn đề xảy ra chung quanh. Thí dụ, bạn có thể chấp nhận được bao nhiêu cách cầu nguyện hay chỉ có một lối cầu nguyện duy nhất của bạn? Bạn có thể chấp nhận được bao nhiêu phong thái của một người lúc cầu nguyện hay chỉ một kiểu duy nhất mà bạn quen dùng trong muôn vàn nghi thức, phong thái khác?

Ngay như quan niệm về tôn giáo cũng biến chuyển rất nhiều từ xưa đến nay. Tùy quan niệm của mỗi thời mà sự thực hành tôn giáo, nghi thức thay đổi. Chẳng hạn trong vấn đề dạy giáo lý, chuyện rất đơn giản, cũng được chia ra ít nhất ba loại lý thuyết khác nhau. Tiếng Mỹ gọi ba lý thuyết này là "Classical Theory, Kerygmatic Theory, và Social Science Theory". Classical Theory nhấn mạnh trên lề luật, quyền bính, tuân theo đúng như lời dạy, ghi nhớ thuộc lòng, phải tin, phải làm, và trọng hình thức bên ngoài. Điểm quan trọng nhất của lý thuyết này là Thiên Chúa quyền năng và công bằng. Kerygmatic Theory nhấn mạnh những vấn đề: Tin Mừng của Chúa Giêsu, luật yêu thương, lịch sử ơn cứu độ. Điểm quan trọng nhất của Kerygmatic Theory là sự tốt lành và lòng nhân ái của Chúa Cứu Thế. Social Science Theory nhấn mạnh trên sự để ý đến những nhu cầu tinh thần cần thiết của người khác, dấn thân phục vụ xã hội, và sự tự do trong lãnh vực trách nhiệm. Lý thuyết này đặt nền tảng trên ân sủng của Thánh Thần và sự đa diện của ân sủng. Tuy nhiên, coi chừng bạn có thể có quan niệm theo lý thuyết thứ ba (Social Science Theory) nhưng sự thực hành của bạn lại thuộc về lý thuyết cổ điển (classical) trong khi các phương pháp thực hành của ba lý thuyết hoàn toàn khác nhau. Nếu dùng "râu ông mà cắm cằm bà," bạn sẽ bị gán cho biệt hiệu "lý thuyết gia" theo nghĩa trái của nó.

Ngày xưa (chỉ 20 năm về trước), quan niệm "chúng ta có thể biết được ý Chúa một cách rõ ràng" có một thế đứng độc tôn nơi các dòng tu Công Giáo. Đó là lý do tại sao đã có thể có quan niệm vâng lời tuyệt đối. Bây giờ chúng ta thấy sao? Ai mà không hiểu rằng chúng ta không thể hình dung được Chúa thế nào! Ai mà không nhận ra rằng Chúa mà chúng ta có thể tưởng tượng được chỉ là thần tượng không phải là Chúa bởi vì Chúa mà chúng ta có thể tưởng tượng được, chúng ta có thể lạm dụng được tùy theo sự tưởng tượng của chúng ta. Sự tưởng tượng này đưa đến hậu quả là cho rằng Chúa thế này, Chúa thế kia rồi tiến tới Chúa bảo cái này là đúng, cái kia là sai và từ đó chính những người muốn rao giảng về Chúa lại dùng Chúa như một thứ bung xung kiếm lợi lộc hay danh vọng hoặc ảnh hưởng về bất cứ phương diện nào cho riêng cá nhân mình. Đôi khi tôi cảm thấy nực cười, tiếc rằng Chúa "không có cái miệng" để nói cho những người "biết được ý Chúa" rằng Chúa theo họ tưởng tượng không khác gì những thần tượng được họ thăng hoa để lạm dụng. Thử đọc kỹ lại Thánh Kinh, Chúa hoàn toàn khác biệt với tất cả những gì chúng ta có thể tưởng tượng.

Chỉ vì những kinh nghiệm, quan điểm khác nhau ảnh hưởng đến sự nhận xét của mỗi người như những cặp kiếng màu thay đổi sự nhận ra màu sắc của những sự vật chung quanh, chúng ta cần biết e dè, coi chừng tiên đoán sai lầm về người khác trước khi thực sự giao tiếp với họ. Tôi rất thích giới trẻ, ham làm việc với họ, muốn giúp họ thực hiện những chương trình của họ phần nào nếu có thể. Đo đó tôi thường phải hỏi họ về những việc họ nhờ tôi rằng họ muốn tôi làm việc đó như thế nào cho hợp với chương trình hoặc ý thích của họ. Biết rằng họ không thích nghe giải thích dài dòng, tôi lại phải đặt ra những câu hỏi ngắn để họ trả lời thay vì tôi nêu ý kiến. Tôi chỉ cần tổng kết những câu trả lời của họ là biết họ ưng thế nào. Có một người muốn làm việc với nhóm trẻ mà tôi e rằng người này muốn bắt họ phải làm thế nọ, phải làm thế kia, tôi đã cực lực phản đối bởi vì tôi nghĩ đến cái nguy hại là nhóm trẻ sẻ bị tan rã vì họ không thích làm theo những gì họ không được đóng góp hoặc hỏi ý kiến. Điều dĩ nhiên ai cũng hiểu là giới trẻ không thích bị theo những mệnh lệnh, chương trình từ trời rơi xuống bắt họ làm.

Một hôm, nhân lúc nói chuyện với một người khác, ông ta hỏi tôi một câu thật đơn giản: "Anh có thể nghĩ rằng chỉ mình anh mới thích, và lo lắng cho giới trẻ sao?" Câu hỏi không có chi là đặc sắc nhưng lại làm tôi suy nghĩ rất nhiều. Cái kinh nghiệm nhìn thấy những người "lãnh đạo" không biết chút nào về thuật lãnh đạo, làm việc theo hứng, theo mùa, rồi "dictator, messiah complex, boss..." đã làm tôi muốn tìm hiểu những người khác và tìm phương pháp làm việc với người khác. Thật sự, khi nghe một người trình bày về quan niệm làm việc của họ, cái gì cũng thấy họ đúng, họ hay, tôi đâm ra nghi ngờ. Người mà không nhìn thấy yếu điểm cũng như ưu điểm của mình có lẽ còn thiếu sót một phần nào khi đụng chạm với thực tế. Chỉ nhìn thấy cái hay không, đó là chỉ mơ ước mà thôi bởi mình chỉ thường nói đên những điều mình mơ ước, mình chưa có. Chỉ nói về những điểm hay của mình, điều này chứng tỏ rằng mình không có tài về những điều mình nói bởi vì mình còn đang mơ mình được như thế. Tuy nhiên, tôi tin rằng bất cứ ai cũng có thể thay đổi phương cách làm việc khi họ nhận ra chiều hướng làm việc của họ không mang lại lợi ích cho công việc như họ mong muốn mà sự mong muốn này phải là kết quả của thiện tâm, thiện chí của họ.

Bởi nhận ra rằng quan niệm cũng như kinh nghiệm đã tạo ra nhận xét đưa đến những ý nghĩ và quyết định sai lầm, tôi đặt vấn đề nên thử tìm hiểu người khác trước khi nhận xét và quyết định những vấn đề liên hệ tới họ. Biết đâu người ta không giống như những gì mình nghe về họ, và cũng biết đâu rằng hình dáng bên ngoài của họ không ăn khách nhưng tấm lòng và thiện chí của họ lại bao la. Hơn nữa, có lẽ cũng một phần nào tôi còn chưa đủ đức tin để nhận ra rằng điều gì Chúa muốn thì không cách này hay cách khác, Chúa cũng sẽ thực hiện công việc theo ý Ngài. Có ai ngờ Phaolô trở thành kẻ rao giảng Tin Mừng bậc nhất trong lịch sử Giáo Hội thời gần hai ngàn năm về trước. Hơn nữa, những cái mà tôi cho là tốt, là hay, chúng chỉ hay, tốt theo quan niệm và kinh nghiệm của cá nhân tôi, đó không phải là ý Chúa. Chúa không suy nghĩ theo đường lối người trần thế. Chúng ta chỉ có thể nhìn những sự việc đã xảy ra và nói về một phần nào ý Chúa trong giới hạn đó. Còn tương lai, chỉ Chúa biết!

Cặp mắt kiếng của bạn màu gì?

NHẬPGIA

Ông bà có câu: "Nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục," nghe thì rất hợp lý, hợp tình và dễ dàng chấp nhận, nhưng thực tế lại không hấp dẫn chút nào! Phần ai thì không biết, chứ ngữ tôi, thiệt... là... trần ai vất vả.

Nếu vấn đề là chỗ ăn ở hoặc phải đối xử với người khác thế nào thì không có chuyện gì phải nói. Vấn đề là đường lối làm việc sao cho tăng phần lợi ích cho mình mà không mang lại hậu quả tai hại cho người khác. Có lẽ những người vui lòng an phận với bất cứ những gì người khác bảo làm, không bao giờ đặt câu hỏi làm thế này, thế kia thì hậu quả sẽ ra sao tương đối đỡ bị dằn vặt trong tâm tưởng. Họ sẵn sàng chấp nhận mọi vấn đề, muốn ra sao thì ra, nghĩa là bất cần, hoặc âm thầm không thèm chấp nhận hậu quả của việc mình làm để rồi nghĩ "tại người khác bảo mình làm như thế;" với những người đó, họ dễ sống và dễ dàng phù hợp với mọi hoàn cảnh. Tuy nhiên, họ chỉ có thể trở thành thứ "thiên lôi chỉ đâu đánh đó," không cần biết hậu quả ra sao, tinh thần trách nhiệm cũng kể như không có, mà có lẽ chính vì thế, khi họ có cơ hội lãnh đạo một cơ cấu nào, họ rất dễ dàng chỉ biết tìm đến cái "tôi" của chính họ. Có thể sự chỉ tìm đến cái tôi này đưa họ tới độc đoán hoặc vụ lợi, lạm dụng người khác, coi người khác như một công cụ của mình. Đồng thời những người này có cuộc đời êm ả, ít phải phấn đấu với chính mình. Cuộc sống họ được coi như một dòng suối êm đềm, chẳng may có thất bại thì họ đầu hàng dễ dàng hoặc là sẽ bị vùi xuống bùn đen không thèm muốn ngóc lên. Họ thuộc loại người như vậy; óc phấn đấu của họ là sự chấp nhận cho qua, bởi họ có bao giờ nghĩ là lỗi tại họ đâu. Chấp nhận cho qua thì có gì phải ăn năn, có chi phải phiền muộn, họ là những người sung sướng; có thể nói là họ luôn luôn bằng lòng về chính họ.

Ngược lại, mang một tâm trạng cầu tiến và luôn luôn tìm phương cách đem lại lợi ích hữu hiệu nhất cho bất cứ công việc nào mình làm, loại người này khá vất vả, lắm gian nan, bởi xưa nay, có ai làm việc giống ai. Thí dụ, bạn có trí nhớ với cái tai của bạn, người khác có trí nhớ với cặp mắt. Nếu bắt bạn nhớ qua sự nhận thức với cặp mắt thì hậu quả sẽ thế nào? "Nhập giang tùy khúc" tai hại ở chỗ đó. Dĩ nhiên, cuộc đời không ai luôn luôn bị đau khổ và cũng không ai luôn luôn cảm thấy hạnh phúc. Hạnh phúc và đau khổ thường đi đôi với nhau. Những gì có thể được gọi là may mắn thì lại kèm theo cái hậu quả không ai muốn lãnh lấy, hoặc là những gì được gọi là ân sủng, đồng thời cũng trở thành án phạt. Cái đau khổ của nhập giang tùy khúc là mình có đủ sức để chịu đựng hay không, hay là chính hậu quả bết bát của người khác, bởi bắt mình làm điều tốt theo họ nghĩ, trở thành gánh nặng cho mình, và mọi sự không hay đều đổ trên đầu mình.

Bạn cảm thấy thế nào khi bạn phải sống với những người muốn bắt mình làm những điều họ cảm thấy tốt đối với họ để rồi cho rằng điều đó cũng tốt cho bạn? Là người Việt Nam, nước mắm thật tuyệt cho bữa ăn, đó là đối với tôi, nhưng còn bạn?

LÝLUẬNTRẺCON

Tôi nhận được thư của cháu gái trong đó có đoạn: "Susan is really doing well. She said she has o­ne competitor who is very smart. She really got exited when she finally beat this boy in a spelling contest. She got in a fight with this boy. He said her eyes were too big. Contrarily, she said that at least she can see better."

Khi vừa đọc xong đoạn này, tôi nghĩ, đúng là lý luận trẻ con. Lẽ đương nhiên đó là lý luận của trẻ con. Cháu tôi mới sáu tuổi và bạn cùng lớp với cháu tôi cũng chỉ sáu tuổi hoặc có hơn thì bẩy tuổi là cùng; chúng không trẻ con thì người lớn với ai.

Nhưng không hiểu sao sự lý luận này đã gợi cho tôi nhiều suy nghĩ cùng tưởng tượng ra những hình ảnh của hai đứa bé học khá nhất lớp, tranh đua cho sự học và lý luận về sự thắng bại để rồi đưa đến kết luận thật trẻ con, trẻ con như trẻ con. Chẳng những thế, những hình ảnh này còn đem đến cho tôi sự liên tưởng về ảnh hưởng của môi trường đưa tới cuộc tranh luận trẻ con này.

Ông bà có câu, "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài." Hoàn cảnh nơi mình sống ảnh hưởng thật mạnh mẽ về tư tưởng, quan niệm cũng như cuộc sống của mỗi người. Không những thế, khi một người đã bị ảnh hưởng, rèn đúc trong cuộc sống nào, thường thì cả đời họ sẽ sống theo kiểu cách đó cũng như quan niệm thu gọn trong sự hiểu biết bởi môi trường đó. Nếu một người được đào luyện trong môi trường nhấn mạnh sự tôn trọng ý kiến của người khác, để rồi ý kiến của chính họ cũng được tôn trọng dù nó đúng hoặc là sai thì người đó sẽ dễ dàng chấp nhận những người sống chung quanh để nhìn ra điều hợp hay không với họ nơi những môi trường họ sống sau này. Người nào sống trong môi trường gò ép, được giáo huấn theo kiểu bảo sao chỉ nên biết vậy thì sau này họ cũng lại đóng lại cái vai trò "bề trên" của bề trên họ khi trước để chỉ thấy ý kiến của họ là đúng, là mẫu mực cho những người khác phải theo. Chả thế mà ông bà mình lại cũng có câu, "Ông bẩy mươi học ông bẩy mốt" ư! Thực tế chứng minh, nhiều khi ông bẩy mốt còn phải học những điều hay của đứa trẻ mười tuổi nếu về phương diện nào đó cụ bẩy mốt vẫn chưa bằng đứa trẻ này. Cháu tôi đang học nơi một trường khuyến khích sự tranh đua học hành của học sinh nên mới có chuyện tranh luận về vấn đề hơn kém để đưa ra lý luận trẻ con như thế.

Nói là cháu tôi và bạn cùng lớp lý luận theo lối trẻ con vì câu kết luận của bạn học của cháu tôi là tại cháu tôi có đôi mắt to, và cháu tôi cũng cho rằng đôi mắt to nhìn khá hơn thì cũng phần nào hợp lý đối với trẻ con. Tuy nhiên, tôi lại thấy cái tính chất trẻ con này không phải chỉ ở trẻ con mà còn ở đa số không phải trẻ con. Ông bà có câu "Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon." Hoặc câu khác, ám chỉ sâu xa về sự nhận xétnông cạn, trẻ con của người đời, "Hơn nhau tấm áo manh quần, nếu đem lột trần ai cũng như ai." Tôi không chắc đã nhớ đúng câu này nhưng đại khái như thế. Điều này mang nghĩa, không phải chỉ trẻ con mới lý luận và có kết luận một cách trẻ con mà không phải là trẻ con cũng có lý luận và kết luận thật trẻ con, nông cạn, và sai lầm.

Lẽ dĩ nhiên, ai không sai lầm, nhưng khổ nỗi, bởi không chấp nhận mình trẻ con, sai lầm, người không trẻ con càng sa lầy trong lý luận trẻ con và sai lầm bởi chỉ xét đoán con người theo vẻ bên ngoài, thiếu sót nhận thức cân nhắc. Có một lần, linh mục Joe Trí, SVD, đưa ra một ý nghĩ thật dí dỏm trong một bài giảng nói về sự thiếu sót, lầm lẫn của con người. Ngài đặt vấn đề có phải Chúa đã dựng nên cây trái cấm rồi quên rào nó lại nên bà Evà có cơ hội hái trái cấm ăn và còn chia cả cho ông Adong? Có lẽ Chúa không bao giờ phản đối sự thiếu sót theo nghĩa đen này của câu Kinh Thánh bởi Ngài không có cái "miệng" như chúng ta để giải thích. Chỉ những người theo Thiên Chúa Giáo lại sẵn sàng gân cổ ra bênh vực cho Chúa theo nghĩa bóng rằng Chúa cho con người, được đại diện bằng Evà, Adong có tự do lựa chọn và quyết định. Tôi trộm nghĩ, dù Chúa có sai lầm thì đã sao bởi tôi thích Chúa cũng có sai lầm và vì chấp nhận được Chúa có sai lầm, tôi mới có thể theo Ngài được. Điều này có nghĩa, Chúa mà tôi tin có tính chất người một chút. Có nhìn thấy mình nhiều sai lầm, tôi mới có thể chấp nhận để cho Chúa có cơ hội sai lầm với hy vọng chấp nhận được những sự sai lầm của những người sống chung quanh. Trở lại vấn đề lý luận của hai đứa trẻ, tôi lại thấy lý luận của chúng không trẻ con chút nào mà cũng như lý luận của mọi người không trẻ con.

Có lẽ tôi không thể nhớ được tôi đã lý luận theo lối trẻ con này bao nhiêu lần. Mà dù có nhớ được thì có lẽ tôi cũng không thể đếm nổi mình đã lý luận như chúng bao nhiêu lần; tôi đã sai lầm quá nhiều. Thế mà tôi vẫn cảm thấy mình người lớn mới ngược đời. Hơn hai mươi mốt tuổi được gọi là thành niên, nào còn trẻ con gì. Nghĩ cũng lạ, dù cảm thấy là một người lớn mà lại nhận ra mình thật trẻ con. Tôi tin rằng bạn không bị lý luận trẻ con, sai lầm này ảnh hưởng; tôi muốn nói bạn không chỉ nhìn vẻ bên ngoài để kết luận về người khác hoặc chỉ nghe một vài người quen nói về một người nào đó rồi in trí người đó như thế hoặc mới tiếp xúc với một người nào đó đã vội kết luận họ thế này, thế nọ. Ai cũng có một vẻ đẹp tâm hồn thật đặc biệt, có thể nói đó là một phần nào vẻ đẹp của Thiên Chúa mà bình thường chúng ta khó nhận ra. Tôi tin bạn nhìn thấy những vẻ đẹp này để có những lý luận người lớn. Tuy nhiên, cho dù có già đến đâu thì mình vẫn còn tính chất trẻ con bởi "nên như trẻ con mới được vào nước trời" (Mt. 10:14).

NHỮNGCHIẾCKHĂNTAY

Tôi mua một tá khăn tay cỡ nhỏ. Khi gấp lại, chúng rất phù hợp với những chiếc túi quần của tôi cũng cỡ nhỏ do đó tôi cảm thấy hài lòng với khuôn khổ nhỏ hẹp của chúng. Tuy nhiên, sau hơn một năm, không hiểu vì tôi lơ đãng hay đánh mất, mười hai chiếc khăn tay chỉ còn lại năm; tôi mua thêm hai tá khác. Hăm bốn chiếc khăn tay mới này khổ lớn gấp rưỡi những chiếc cũ khiến tôi thấy khó chịu bởi chúng không vừa vặn với mấy chiếc túi quần nhỏ hẹp, bỏ vào túi theo chiều dài của kiểu xếp cho tiện khi dùng, chúng thừa ra ngoài, nhưng gấp đôi lại theo chiều ngang, chúng dày cộm lên vừa khó nhìn lại vừa khó chịu.

Xui thay, nhằm thời kỳ tôi bị xổ mũi, hắt hơi liên miên nhất là vào những buổi sáng. Mấy chiếc khăn tay cũ đã bị ướt mèm rất lẹ trong khi những chiếc khăn tay lớn chịu đựng với sự xổ mũi của tôi lâu dài hơn. Tôi lại cảm thấy những chiếc khăn tay lớn tiện lợi hơn. Sự xổ mũi của tôi kéo dài đến hơn một tháng nên tôi có thói quen dùng nhiều những chiếc khăn tay lớn thành ra tôi lại không thích những chiếc khăn tay cỡ nhỏ.

Tôi đã không thích những chiếc khăn tay lớn bởi tôi đã quen dùng những chiếc khăn tay cỡ nhỏ và cũng vì chúng cho tôi cảm giác không tiện lợi theo thói quen cũ của tôi. Thói quen cũ này làm tôi cảm thấy dễ chịu vì đã quen và vì tôi không phải thay đổi cho phù hợp với những gì khác lạ, những gì mới mẻ, lợi ích hơn.

Tôi đã thích những chiếc khăn tay lớn bởi chúng thỏa mãn nhu cầu của tôi trong trường hợp xổ mũi; đồng thời chúng đem đến cho tôi cảm nghĩ không thích những chiếc khăn tay cũ. Những chiếc khăn tay lớn tạo cho tôi một thói quen mới do sự tiện dụng ở môi trường mới.

Cả hai cỡ khăn tay, nhỏ và lớn, chúng có những công dụng giống nhau nhưng được ưa thích khác nhau tùy nhu cầu và tùy trường hợp. Tuy nhiên, những sự ưa thích này đôi khi lại không được xét theo nhu cầu và trường hợp mà thường thì tùy thuộc thói quen gây cảm nghĩ ảnh hưởng đến tôi.

Tương tự như vậy, có lẽ tôi ưa những người hợp với tôi hơn tùy theo cá tính của tôi chứ không phải tùy theo tư cách, nhân phẩm của họ, và tôi không thích những người khác biệt với tôi bởi tôi không hợp với họ chứ không phải vì họ có cá tính không hợp với tôi. Xét thế, có lẽ tôi đã có thói quen coi người khác như là những chiếc khăn tay. Ưa thích họ hay không tùy theo thói quen và nhu cầu của tôi chứ không phải tùy theo cá tính hay bản chất của họ. có phải đó là thái độ ích kỷ? Tôi không thích những chiếc khăn tay lớn không phải vì chúng làm phiền tôi mà vì tôi chưa có thói quen với chúng. Có lẽ những người tôi không ưa, tôi đã không hiểu họ hoặc tôi không muốn hiểu họ, hay tôi đã không chịu nhìn ra giá trị của họ hoặc bởi tôi chưa có thể lạm dụng họ; nói cách khác, tôi chưa nhìn ra những gì nơi họ đem lại lợi ích có thể dùng được cho tôi. Chỉ ưa những người mình có thể dùng được, điều này thật là ích kỷ, không có tinh thần đạo đức chút nào. Thế mà tôi vẫn còn ngụp lặn trong vòng luẩn quẩn này. Ưa người này nói chuyện có duyên vì cái duyên của họ làm hài lòng mình, điều này có nghĩa mình đã kiếm được điều gì nơi họ để thỏa mãn lòng mình - rõ thật ích kỷ. Không ưa người kia bởi nói chuyện với họ không hợp, do mình không nhìn thấy hoặc hiểu những sự tốt lành nơi họ, hoặc chính sự tìm hiểu đòi hỏi sự cố gắng tránh bị lệ thuộc vào thói quen của mình.

Không hiểu chừng nào tôi có thể không nhìn người khác như những chiếc khăn tay? Tôi cũng không hiểu khi nào tôi mới thấy hai loại khăn tay cỡ lớn và cỡ nhỏ có những giá trị tương đồng mà những giá trị đó không tùy thuộc vào nhu cầu hay thói quen của tôi?

NHỮNGSỢITÓCBẠC

Khi bạn thấy những sợi tóc bạc xuất hiện lẫn lộn nơi mái tóc đen huyền của bạn, có lẽ một cảm nghĩ nào đó nói lên bạn đang bước vào tuổi già mặc dầu cố gắng cho rằng bạn hãy còn trẻ, dù bạn ở tuổi nào, bởi tóc bạc báo hiệu cho tuổi già và bởi đa số những người già có những bộ tóc bạc. Tóc tôi tuy chưa bạc nhiều, mặc dầu chỉ mới chớm hoa dâm, nên tôi chăm chỉ nhổ được phần nào nếu có thể, có lẽ để cảm thấy mình còn trẻ bởi tôi đang mang cái e sợ mình bước vào tuổi già.

Có người nói, "Những sợi tóc bạc bắt đầu của mái tóc hoa râm là những sợi tóc báo hiệu sự may mắn" nhưng tôi không tin, chỉ thấy mình đang chập chững già. Tôi muốn và cố níu kéo lấy bộ tóc đen! Có lẽ bộ tóc đen ăn khách hơn bởi nó chứng tỏ vẻ trẻ trung vì tóc đen chỉ có ở những người trẻ. Đó cũng có thể là nhuyên nhân để có thành ngữ "mái đầu xanh" mặc dầu đâu có tóc ai trên thế giới này màu xanh.

Tôi thường hay nhổ tóc bạc và rất chăm chỉ nhổ những sợi tóc không "xanh" này, có khi hàng giờ, lại thêm ý muốn chứng tỏ mình còn trẻ (mặc dầu cảm thấy già) nên đôi khi tôi đã nhổ luôn những sợi tóc đen bởi nhổ đại trong khi những sợi tóc bạc cứ liều lĩnh cố bám víu và lẫn tránh vào những sợi tóc đen như tôi đang cố níu kéo vào cái cảm nghĩ mình còn trẻ.

Đôi khi tôi nghĩ, bạc đầu thì đã có sao! thiên hạ bạc đầu nhiều chứ mình chỉ một cái đầu bạc thì ăn thua gì, đâu có hại hoặc làm chết ai! Thế nhưng, cảm nghĩ quí giá này không thể đánh bại được sự ngán ngẩm cái tuổi già đang tới, để rồi tôi vẫn chăm chỉ nhổ những sợi tóc bạc trước gương.

Nếu bạn đã bao giờ đứng trước gương nhổ tóc bạc, trên trần nhà phía sau lưng bạn là những bóng đèn sáng, lại nữa, tường nhà quét vôi trắng, bạn sẽ thấy rằng đôi khi bạn đã nhổ lầm những sợi tóc đen mà bạn nhìn thấy "bạc" bởi ánh điện phản chiếu. Cứ mỗi lần nhổ lầm những sợi tóc đen bị phản chiếu bởi ánh điện thành trắng, tôi lại cảm thấy xót xa - xót xa bởi như mình đã đang tay nhổ phần nào cái tuổi trẻ còn đang vương lại được biểu hiệu bởi mầu sắc tự nhiên đen đặc biệt này của mái tóc.

Chính sự nuối tiếc vì đã lầm lẫn này, giúp tôi nhận thức không phải chỉ những sợi tóc đen xấu số, mang tràn đầy ước vọng của tôi được quăng vào thùng rác mới là kết quả của sự sai lầm, thiếu sự xem xét kỹ lưỡng trước khi nhổ của tôi, mà tương tự, có lẽ đã khá nhiều lần, trong cuộc sống, tôi đã quăng vào "thùng rác" biết bao ý tốt, kèm theo sự thiếu cân nhắc kỹ lưỡng như những sợi tóc đen không may này - và tôi gọi đó là không may - không may bởi tôi đã quăng sự may mắn của tôi vào dĩ vãng của cuộc đời. Các cụ học nho thường lập lại câu: "Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí," hoặc trong thuyết nhà Phật có câu "Nếu đã là phúc thì không phải là họa, và đã là họa thì không thể tránh khỏi." Cả hai câu chỉ đại khái nói lên điều may mắn thì không bao giờ đến lần thứ hai và mình có quyền từ chối hay bỏ lỡ, nhưng những điều không may, không phải chỉ đến một lần; hơn nữa mình không thể tránh được cái gọi là không may.

Bạn sẽ hỏi thế nào và cái gì là may mắn. Có lẽ bạn đã biết rõ thế nào là không may! Nào có chi đâu! Những cái bạn cũng như tôi gọi là may mắn, chúng đem đến điều chúng ta mong muốn, chúng ta thích hoặc đang chờ đợi. Còn không may là những điều xẩy ra mà chúng ta không muốn, không thích.

Những người nổi tiếng, thành công là những người biết chụp cơ hội của những "phúc bất trùng lai." Những người than thân trách phận là những người ngồi chờ cơ hội. Cổ nhân có hai câu nói có vẻ đối nghịch: "Thời thế tạo anh hùng" và "Anh hùng tạo thời thế." Anh hùng tạo thời thế là điều chúng ta có thể làm được, bởi ai không nghĩ mình là anh hùng! Ngồi đợi thời thế tạo anh hùng thì chỉ có họa vô đơn chí mà thôi vì thời thế có thể chưa chắc đã kịp tới thì mình đã lìa khỏi cõi đời bởi chỉ chờ với đợi không làm chi hết. Lìa đời với ước mơ không thực hiện được không phải là họa, là một sự ấm ức thì là điều chi!

Những cái lầm lẫn dù nhỏ mọn như nhổ những sợi tóc đen thay vì những sợi tóc bạc đâu phải tại thời thế mà tại tôi đã không xem xét kỹ lưỡng rồi đổ tội cho không may hoặc sự phản chiếu ánh đèn. Dù có phản chiếu ánh đèn, nếu tôi muốn biết rõ ràng sợi tóc đó bạc hay đen trước khi nhổ nó thì có lẽ không bao giờ tôi gặp cái "không may" dốt nát này! Nói đến dốt nát có nghĩa ám chỉ rằng tôi cũng cảm thấy mình thông minh, anh hùng lắm chứ! Thế nhưng, những sự xem xét kỹ lưỡng (nếu suy luận như thế) lại là phúc bất trùng lai. Cho nên, không may, tai họa là do mình tạo nên, bởi mình không biết dùng cơ hội, bởi mình chỉ muốn chờ thời, đợi người khác dọn cỗ rồi kiếm cách ngồi vô chứ không phải tại nó tự dưng xảy tới. Có ai ngờ đâu chính mình tạo ra cơ hội may mắn hoặc không may cho mình. Chữ ngờ luôn luôn không ngờ! Và điều không ngờ lại là điều đáng tiếc. Chính nó là phúc nhưng "bất trùng lai."

Nhổ những sợi tóc bạc thành những sợi tóc đen còn nói lên cái nhìn thiếu sót vội vàng để rồi sinh ra lầm lẫn của tôi, nhưng tôi vẫn cứ cố tình và thích đổ lỗi cho ánh đèn, cho bức tường trắng chứ không phải tại cái cặp mắt mù quáng, "nom gà hóa quốc" qua cái kinh nghiệm cứ thấy trắng đã cho là tóc bạc. Những sợi tóc vừa bị nhổ xong có thể kiểm chứng ngay được, nhưng những cái nhìn qua kinh nghiệm sẵn có của tôi có lẽ không bao giờ hoặc không có cơ hội để xét lại dù chỉ một lần. Đôi khi tôi đã cảm thấy, chỉ cảm thấy thôi rằng mình lầm, nhưng lại cũng cứ cố tình cho rằng hoặc bào chữa để cho rằng tôi luôn luôn đúng. Đúng theo kinh nghiệm của tôi, mặc dầu kinh nghiệm của tôi không giống kinh nghiệm của người khác. Chỉ có một trong hai trường hợp: kinh nghiệm của tôi giống kinh nghiệm của người khác, cái đúng của tôi có thể là đúng. Kinh nghiệm của tôi khác kinh nghiệm của người khác, cái đúng của tôi có thể là sai, sai với người khác.

Vấn đề là tôi có chịu nhìn cái đúng của người khác không, hay nếu cái đúng của người khác không giống của mình, tôi đã vội cho rằng họ sai. Họ sai hay tôi sai!

NÔLỆ

Có lẽ không ai chấp nhận mình là thứ nô lệ của bất cứ người nào, cái gì, hay tư tưởng nào. Nếu gặp ai bảo mình là nô lệ của bất cứ vấn đề nào đó thì dù sống dù chết, mình cũng phải chiến đấu tới cùng để ít ra là quét sạch tư tưởng đó nơi đầu não người ấy, và hơn nữa mình cũng cố gắng chứng minh cho mọi người thấy và chính mình tin rằng mình không phải là nô lệ của bất cứ điều gì. Nếu xét như thế, mình lại đang là nô lệ của lời nói mình là nô lệ. Mình không là nô lệ của nó sao mình lại tốn công sức chiến đấu chống lại nó. Mình không là nô lệ của nó thì mình lại trở thành nô lệ của ý muốn tranh đấu chống lại lời nói của kẻ khác. Xét cho cùng, mình không muốn là nô lệ, mình cũng đã là nô lệ; điều này có nghĩa mình là nô lệ của ý nghĩ không muốn là nô lệ.

Xa hơn chút nữa, khi mình muốn làm một việc gì, dù cho việc đó có tốt lành đến đâu, mình cũng đã là nô lệ cho ý muốn và công việc đó. Tuy nhiên, bên ngoài, nào là hô hào, nào những câu nói hào hùng bất diệt, nào những chí hướng lớn lao, những giọng điệu cứu dân độ thế theo nhau hàng hàng lớp lớp để tô son vẽ thếp cho cái ruột nô lệ bên trong. Tôi đồng ý rằng làm nô lệ cho ý hướng tốt vẫn còn hơn làm nô lệ cho những ý hướng xấu. Có một điều là những ý hướng tốt bên ngoài, được nói thành lời đang ẩn chứa một bí mật nào, một dã tâm nào không bao giờ được nói ra. Cũng có thể rằng chính chủ nhân của những dã tâm cũng không biết mình đang là nô lệ cho nó. Vì trong khi chủ nhân của những dã tâm hô hào một cách trọng thể, hùng hồn cho cái vẻ tốt lành của ý định, chính là lúc chủ nhân của ý định đó lại đang bị cái dã tâm thúc đẩy tận trong đáy tiềm thức. Ai hay đọc kiếm hiệp, trong bộ Anh Hùng Xạ Điêu, tác giả dùng miệng Hoàng Dược Sư nói một câu thật chí lý. Dù cho bất cứ một cuộc tranh giành ngôi báu nào để làm lợi ích cho dân thì dân cũng đã mang những đau khổ trước.

Ai có vô tình đọc bài thơ "Xin Cảm Ơn Trời" của Xuân Nghị trong cuốn Giai Phẩm Xuân do Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại Chicago ấn hành năm 1980 (tr. 66) mới thấy tác giả khai quật nấm mồ trong tận đáy lòng con người một cách tài tình và minh bạch. Nấm mồ cũ kỹ từ ngày con người mới sinh, càng ngày càng xình chướng lên, càng ngày càng nặng mùi không được ai ưa thích, đã và đang tiềm ẩn trong chính mỗi người. Tôi muốn nói trong chính mọi người, trong chính tôi, nhưng có thể không có nơi bạn; tôi cầu xin như thế. Nếu bạn không có cơ hội để đọc, mời bạn thưởng thức sơ qua một đôi câu thơ như kết quả của sự quật mồ này.

Vì ngu xuẩn, vì ươn hèn, khiếp nhược

Tôi chẳng nhìn ra thằng địch núp trong tôi

Nó phục kích ngay trong tim trong óc

Nó đào sâu hố chia rẽ bằng lời

Nó đánh phá anh em bằng thủ đoạn

Nó vung đao chém nát cả tình người

Nó giăng lưới thả bùa mê trước mắt

Khiến tôi nhìn chỉ thấy ngọc châu thôi

Nó bịt kín lỗ tai bằng móng sắt

Tôi không nghe tiếng gọi vọng từ trời

Nó thu nhỏ tim tôi bằng hạt đậu

Biến óc thành thứ đá trắng như vôi

Nó gọt dũa đầu tôi thành bốn cạnh

Tôi soi gương mà chẳng nhận ra tôi

Tôi chỉ thấy mỗi ngày tôi lớn mạnh

Trên đau thương và thống khổ của đời...

Muốn đánh địch, tôi phải đánh thằng tôi trước đã

Muốn thắng địch, thẳng kẻ thù trong tôi phải ngã.

(Xuân Nghị)

Cái xuổng đào mồ của tác giả là "trí khôn trong cái óc con người" với sự kiện "đã bắt tôi làm dân mất nước". Mới đọc bài thơ, tôi tưởng tác giả ngạo chính tác giả. Đọc xong bài thơ, tôi thấy tác giả hóm hỉnh vác cái xuổng sắc bén, thẫn thờ với những lời thơ đục vào tận đáy tâm khảm tôi. Nếu nói rằng thơ phát xuất tự đáy lòng, thì tác giả trước hết đào nơi hố thẳm của tác giả. Nếu nói rằng thơ phát tiết trong điều kiện bối cảnh thì tác giả bới lên nấm mồ đang ẩn tàng nơi mọi người. Nếu nói rằng thơ được khơi dậy từ trong đáy lòng phối hợp với hoàn cảnh thì lắm kẻ tức tối chịu không được. Kẻ nào chịu không được, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh để chứng tỏ rằng mình không thối nát như thế thì kẻ đó trở thành nô lệ của bài thơ và của cả ý nghĩ đấu tranh cho cái chính nghĩa "thằng tôi," thằng tôi mang ý nghĩa nơi bài "Tồi" của Billy trong nguyệt san Tiếng Mẹ số 5, 1984.

Tôi sinh ra tính vốn lôi thôi

Quanh năm suốt tháng nói chuyện tồi

Nghĩa đâu không thấy toàn thánh sống

Ngồi ngẫm sự đời tội cái tôi. (tr.11)

Ai có thể nhận rằng mình "ươn hèn, khiếp nhược"? Ai dám nhận rằng "tôi chẳng nhìn ra thằng địch núp trong tôi"? Những người nhận ra rằng mình ươn hèn, khiếp nhược có bao giờ dám có ý tưởng chỉ mình mới có thể làm được đại sự, còn người khác chỉ là thứ "đá trắng như vôi nằm dưới những nấm mồ mục nát." Kẻ cho rằng người khác là mục nát là kẻ mục nát hay người khác mục nát? Có lẽ chính những điều xấu xa mà mình nghĩ cho người khác lại là của chính mình, còn điều tốt lành mà mình nghĩ mình có lại chỉ là những điều dã tưởng. Con người cảm ứng sinh thơ. Sự vật, diễn tiến bên ngoài trở thành phương tiện phô diễn sự thật nơi nội tâm. Người chỉ nhìn thấy cái mục nát của kẻ khác lại thực sự là người mục nát, người đang bị nô lệ bởi cái mục nát nơi chính họ. Có thể nói rằng kẻ khác là phản ảnh của chính mình. Mình nhìn thấy điều tốt nơi người khác tức là mình đang mang điều tốt lành đó. Nếu mình chỉ nhìn thấy điều xấu nơi kẻ khác, mình đang chứa đầy những điều xấu mà mình nhìn thấy. Mình đang bị nô lệ cho những điều xấu nơi chính mình nên chỉ nhìn thấy những điều xấu nơi kẻ khác. Lấy gì để có thể làm mẫu mực đo lường kẻ khác trong khi mình không phải là chính họ. Những điều tốt cho họ chưa chắc đã là điều tốt cho mình, thì những điều tốt cho mình cũng chưa chắc tốt cho kẻ khác.

Nói lên những điều khôn ngoan để bắt người khác phải học, phải theo thì ai cũng có thể làm được, nhưng "muốn đánh địch, tôi phải đánh thằng tôi trước đã" thì quả là một sự giác ngộ tuyệt vời. Có ai ngờ đâu, kẻ địch của mình lại chính là mình. Ông chủ mà mình đã và đang là nô lệ lại chính cũng là mình. Tác giả Xuân Nghị gom tất cả những chân lý thánh thiện, những lý thuyết cao vời của những bậc cứu nhân độ thế, của những tay dạy đời nhưng không bao giờ thực hiện những điều mình đã dạy bằng một câu kết thật đơn sơ nghe có vẻ mơ hồ nhưng thật cay cú mà lại tuyệt vời: "Muốn thắng địch, thằng kẻ thù trong tôi phải ngã." Tôi muốn thêm một ý vào câu này, mong Xuân Nghị đừng câu chấp. "Chỉ thằng kẻ thù trong tôi phải ngã thôi; con kẻ thù trong tôi mà ngã thì có lẽ sinh cả mớ thằng kẻ thù mới."

ĐÀNÔNG

CÓNÊNRỬACHÉNKHÔNG?

Hỏi gì kỳ vậy làm bà xã tôi càm ràm đến nhức nhối cả con tim, điếc luôn cặp tai "xâu sắc". Chỉ mỗi chữ "nên" mà một buổi tối thơ mộng đi đứt. Bình thường ăn tối xong, tôi "nên," đoạn đánh rửa sạch sẽ chiếc ly cối, tráng đi tráng lại dăm bẩy lần nước sôi để nguội, nhẹ nhàng nâng niu ép một ly cam vắt nguyên chất, lau chùi thêm lần nữa những gì trông không đẹp mắt làm mất thẩm mỹ bên ngoài ly nước, và cẩn thận nhẹ gót bưng ra đặt nơi chiếc bục nhỏ kế bên salon nhà tôi đang ngồi vắt chân "chữ ngũ" coi tivi kèm theo lời mời êm ái "mình dùng ly nước cho thanh thản ngọc thể." Tivi có hôm chẳng ra gì, tôi lại phải "hai chân ba cẳng" lồng lên xe, vù đi trong tích tắc thuê cuốn phim tình tứ, rồi lại hết tốc lực xông về trình chiếu hầu nhà tôi. Khi nhà tôi đã bắt mùi tivi hoặc phim, tôi mới kiếm ghế hạ bàn tọa ké bên chăm sóc lỡ nhà tôi có mệnh hệ gì còn kịp thời giúp đỡ. Thường thì nhà tôi thư thái đưa tay ngọc nâng ly nước cam vắt "ô-ri-rin" hớp từng ngụm nhỏ ý chừng muốn để cho những sợi nước tinh chất ấy thấm dần vào cơ thể, lan tới từng làn da thớ thịt cho thêm phần tươi mát dung nhan. Dĩ nhiên, dù chương trình tivi có hay mấy hoặc phim có mùi mấy chăng nữa thì cũng có lúc chấm dứt. Lúc đó ly cam vắt đã cạn và cũng là thời điểm tôi ẵm nhà tôi lên giường.

Nghĩ mà tức ơi là tức, tôi ẵm nhà tôi lên giường còn được phương chi rửa chén. Nào có chi đâu! Tôi ẵm nhà tôi thì nhà tôi ẵm con tôi. Tôi nâng niu nhà tôi thì con tôi được chiều chuộng, đâu có thiệt gì! Tôi thương con tôi nên mến nhà tôi, thương con đành chiều vợ nào có sai trái chi! Tôi muốn con tôi có hiếu với bố nó do đó tôi đành phục vụ nhà tôi.Không hiểu mấy người mũi lõ nghĩ thế nào mà vẽ voi vẽ chuột "Không nên đánh đàn bà dù chỉ là với bông hồng." Cần gì phải đánh với bông hồng, tay không mới tình! Tôi không dám đánh, tôi chỉ đấm thôi, đấm nhà tôi mỏi cả tay, mệt cả người mà còn chưa thấm gì. Có hôm, tôi vừa đấm vừa ngủ gật. Số là tối hôm ấy, nhà tôi không được khỏe, cảm thấy biếng ăn nhưng đồ ăn ngon nên nàng hơi quá chén, chỉ quá hai chén, không hơn. Thế là nàng bỏ cả coi tivi, không uống cam vắt và "nhờ tôi tí chuyện." Nàng nhờ tôi đấm, đấm lưng! Tình chưa? Tôi đấm đến nỗi rụng rời cả tay chân cho tới khi mệt quá, quên hết mọi sự, lăn quay ra cạnh nàng ngủ luôn tới sáng. Dù tôi đã đấm nhà tôi đến độ mệt không còn hơi sức, quên hết mọi sự mà còn chưa ăn thua gì, phương chi chỉ dùng bông hồng.

Tôi có hiếu với nhà tôi như thế nên đôi khi cũng cảm động được lòng nàng do đó có khi nàng thương hại tôi đôi chút. Chuyện xảy ra như sau, tôi hay bị phong chạy; một lần không hiểu ra sao mà ngón cái chân phải sưng u lên như hột vịt, đau đớn quá chừng, đau "đêm quên ăn, ngày quên ngủ." Mặc dầu biếng ăn vì đau đến độ gầy xỏm đi mà ngón chân cái cũng chẳng xẹp bớt chút nào, nó cứ sưng kềnh càng và không chịu chui vào đôi giầy. Đi lang ta, lang tây, dăm bảy ông lang mà không hết, đau cứ còn đau, đau đến độ không đủ sức hầu hạ nhà tôi. Suốt hai tuần lễ chỉ ôm chân rên, nhà tôi mới động tình đề nghị để lang nhà thử chữa. Cỡ đến ba mươi mấy phút, nàng bảo tôi ngồi ghế salon và dùng dầu nóng xoa bóp ngón chân và những vùng phụ cận. Bàn tay tươi mát ngà ngọc nhà tôi đụng đến đâu là phong chạy khỏi nơi đó. Sung sướng, tôi cảm ơn nàng và đứng dậy đi ngay được. Lang nhà thật tuyệt vời, tôi cảm khoái! Đoạn ẵm nhà tôi lên giường như thông lệ. Thiệt là phiền, khi tôi vừa ẵm nhà tôi lên, tôi mới nhận ra phong đã được đuổi chạy từ ngón chân cái lên tới chỗ giữa hai đùi ráp nối với thân mình. Dầu thế, tôi vẫn cố ẵm nhà tôi vô phòng.

Nàng thương tôi hết chỗ chê, vậy mà chỉ vì chữ "nên" quái ác của câu hỏi "Đàn ông có nên rửa chén không," tôi đã bị đạp ra khỏi phòng tối ấy. Lạnh lùng salon đơn chiếc làm tôi bực với câu nói vô tình, sai luật lệ, không hợp lý, chẳng hợp tình, lại thiếu rõ ràng. Vớ vẩn, tại sao lại "đàn ông có nên rửa chén không?" Đàn ông là thế nào? Ông nào mà có nên với không nên. Chẳng lẽ ông nào đó, không có vợ hoặc vợ đã bỏ đi sang bên kia thế giới, ăn xong lý luận đàn ông không nên rửa chén rồi cứ để ngập lên mặt, đồ ăn thừa bốc mùi um lên thì sao chịu nổi. Ai rửa cho đàn ông này mà nên với không. Lại nữa, chẳng lẽ vợ ông hàng xóm, coi có mòi sạch nước cản, ăn xong bày biện ra đấy và rồi đàn ông nhà mình nên qua rửa chén ư! Tức thì thôi chứ! Đàn ông nào mà nên rửa chén dùm vợ tôi, tôi thưa hắn ra tòa. Tòa không xử được, tôi đóng cửa không cho hắn qua rửa chén. Nếu vợ tôi mở cửa cho hắn, một là tôi chạy đi nơi khác, không thì chạy đi mua súng. Nếu đã có súng mà quên mua đạn, tôi sẽ chạy đi mua đạn, và rồi khi hắn qua rửa chén dùm, tôi sẽ bắn. Tôi không bắn trần nhà đâu, cũng không bắn cột, bắn kèo hay tường vách chi hết. Tôi dứt khoát bắn hắn. Bắn hắn không được, tôi bắn nhà tôi, và nếu vì quá thương nhà tôi mà không nỡ bắn nàng thì tôi bắn chính tôi. Đàng nào tôi cũng bắn.

Tuy nhiên, để tránh những phiền phức xảy đến với gia đình, tôi nghĩ không nên dùng tiếng "Đàn ông" mà dùng chồng có nên rửa chén không, hoặc dư giả văn chương hơn thì "ông chồng" hay "đức ông chồng." Tôi không đồng ý dùng văn chương trong những vấn đề hệ trọng ảnh hưởng đến tình nghĩa chăn gối vợ chồng như trường hợp này, do đó tôi không đồng ý dùng những tiếng "ông chồng" hay "đức ông chồng". Ông chồng thì sao mà còn có thể sống để rửa chén cho cháu dâu khi cháu dâu đã bẩy mươi mấy tám chục; đức ông chồng cũng thế, chẳng sống được thọ như vậy nên phải dùng tiếng "chồng." Chồng có nghĩa đặt lên trên, không để dưới, hoặc nằm trên, không dưới mà cũng không ngang. Vì thế câu "Đàn ông có nên rửa chén không" nên đổi thành "Chồng, người nằm trên, có nên rửa chén không" cho đúng, cho danh chính ngôn thuận.

Đến đây, càng nói càng thấy nhiều rắc rối, càng đặt câu hỏi, càng lắm chuyện lôi thôi. Nếu nói rằng "Chồng, người nằm trên, có nên rửa chén không" rõ ràng hơn vẫn chưa đủ. Chưa đủ vì vẫn còn bị dây dưa tới những chuyện xốn ruột, lộn gan nơi quí chị em "liền bà." Tôi nói liền bà để tránh chữ "đàn," lại có thêm chút xíu khác biệt bởi quí chị em đâu phải gà, ngỗng mà gọi đàn như đàn voi. Đồng ý rằng cũng có chị em "nhỏ" như voi hoặc xinh xắn như gà nhưng dù nhỏ hay xinh xắn thế nào mà gọi là đàn cũng "chăm phần chăm" mích lòng; vả lại tôi không muốn làm mích lòng ai hết nhất là bà xã, nên đành gọi "liền." Liền có nghĩa "chung một," "làm một," dính với người mình muốn dính và tách rời khỏi người mình không muốn đụng tới.

Sự rắc rối, mích lòng, chưa được rõ ràng còn lại không phải nơi "đàn ông" mà là rửa chén nào, của ai! Vấn đề được đặt ra như sau: Chồng mình nên rửa chén nhà mình, hay chén nhà người khác, hoặc chén của "cái con ngựa" nào đó? Chi tiết nhỏ này coi bộ không ra gì nhưng lại còn quan trọng gấp mấy lần "đàn ông" nào rửa chén. Giả sử có đàn ông nào rửa chén tại nhà tôi, chỉ có mình tôi lộn ruột, ghen tương. - Không sao! Bà xã tôi vuốt nhẹ là huề vì mình cưng bà xã mà! Bả nói là mình "phải" nghe! Nhưng chồng mình mà rửa chén nhà chị em khác thì không xong! Trăm lần không xong, vạn lần không yên! Chú rể họ tôi, "đàn ông không thích rửa chén nhà mình" nhưng lại xung phong rửa chén nhà một "con ngựa." Chẳng những rửa chén không mà thôi, chú ấy lại còn rửa luôn cả con ngựa nữa. Cô tôi biết được, thế là một màn xếc xy sống động được diễn ra ngay trên con lộ trước chợ. Không biết cô tôi thuê đâu được ba bà hộ pháp, một buổi sáng, chờ con ngựa tới chợ, xé phăng hết những gì không thuộc làn da trời sinh trên người trước mặt bàn dân thiên hạ. Ông đi qua, bà đi lại ai cũng nói là đáng đời cái tội đàn bà lười rửa chén. Đàn ông nên rửa chén sinh hậu quả thế đấy quý bà ơi!

Bởi vậy, câu "Đàn ông có nên rửa chén không" chẳng những nên mà phải đổi thành "Chồng mình có nên rửa chén nhà mình không?" Hoặc là "Đàn ông hàng xóm có nên rửa chén nhà mình không?" cho rõ ràng.

Hơn nữa, từ thuở tạo thiên lập địa, nói theo Kinh Thánh, Thượng Đế tiên vàn tạo dựng trời đất, cây cối, muông chim, súc vật, đầy đủ mọi sự rồi mới tạo dựng con người, mà người đầu tiên là đàn ông. Đàn ông chứ không phải thanh niên giống đực cũng chẳng phải thằng con trai. Xét theo hành trình tạo dựng, đàn ông tự nhiên đã được sẵn cỗ ngồi vào. Nếu đặt vấn đề đàn ông phải làm, tại sao Thượng Đế không tạo dựng đàn ông trước tiên để bắt "đàn ông" này nặn ra trái đất mà ở, chế biến ra cây cối hay súc vật, rau cỏ để ăn hay làm thịt. Như vậy, đàn ông tự bản chất đã được ưu đãi do chính Đấng Tạo Thành vũ trụ. Dù cho bất cứ ai có dốt mấy chăng nữa thì cũng có thể lật Kinh Thánh ra mà đọc nơi sách Khởi Nguyên đoạn I câu 26 trở đi. Theo bản Kinh Thánh do linh mục Nguyễn Thế Thuấn, đoạn này viết: "Và Thiên Chúa đã phán: Ta hãy làm ra người theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta... Trị trên cá biển và chim trời, và trên súc vật và mọi loài mãnh thú..." Chỉ mỗi bản dịch tiếng Việt dùng chữ "người" chung chung nhưng các bản dịch tiếng Mỹ dùng chữ "man" rõ ràng, nghĩa là đàn ông được tạo dựng giống hình ảnh của Thượng Đế để cai trị mọi loài, chim bay trên trời, mãnh thú, cầm thú nơi đất, và cá tôm đủ loại nơi biển cả sông ngòi...

Cũng theo Kinh Thánh, Thượng Đế lại đã tạo dựng nên giống cái của "người", "man" và đó là đàn bà, lấy từ xương sườn cụt của đàn ông mà ra (KN. 2: 21b). Sự tạo dựng đàn bà xét như thế không có trong ý định của Thiên Chúa theo Kinh Thánh vì trong sách Khởi Nguyên đoạn 2 câu 2 viết: "Và ngày thứ bảy Người (Thiên Chúa) đã nghỉ mọi công việc Người làm." Thật rõ ràng, dễ hiểu, khi Thượng Đế đã hoàn thành công trình của mình, cần nghỉ, Ngài tạo dựng đàn ông lo lắng, coi sóc công trình của Ngài và Ngài nghỉ. Như thế, cho tới khi Thượng Đế thấy mọi sự đã toàn hảo, Ngài vẫn chưa tạo dựng đàn bà mà Ngài nghỉ; có lẽ đàn bà không cần thiết bởi: "Thiên Chúa đã hoàn tất công việc người làm."

Đọc tiếp tới câu 21 đoạn 2, "Và Yavê Thiên Chúa đã giáng xuống trên người (đàn ông) một giấc tê mê... và Người đã rút lấy một xương sườn của nó và lấp thịt vào..." Cứ theo con mắt trần và đơn sơ mà hiểu thì đàn bà được tạo dựng trong sự tê mê của người đàn ông, ngoài ý định của Thượng Đế tự nguyên thủy. Có lẽ chính vì trong lúc "tê mê" của đàn ông, đàn bà được tạo dựng từ xương sườn cụt cho nên khi đàn ông gần kề bên xương sườn cụt của mình đều cảm thấy tê mê. Đến đây câu hỏi tại sao Thượng Đế lại phải dựng đàn bà có lẽ đã rõ ràng và ai cũng có thể tự trả lời bằng nhiều cách. Chẳng hạn: Đàn bà để phụ giúp đàn ông trong việc cai quản thế giới. Nếu hiểu theo ý này, thế ra thời nay luân thường đảo ngược, "rế lên trên nồi!" Đàn bà lại đặt vấn đề "Đàn ông có nên rửa chén không." Trở lại Kinh Thánh, bất cứ ai kiên nhẫn, bỏ thời giờ đọc từng chữ, từng dấu phẩy, dấu chấm, không sót dù một chút sai sót của nhà in, đều không thấy Kinh Thánh nói tới đàn ông rửa chén mà chỉ thấy câu "Ta sẽ làm cho nó cái gì trợ giúp tương đối với nó!" Linh mục Nguyễn Thế Thuấn dùng chữ "Cái gì trợ giúp" có lẽ cũng phải có lý do. Hơn nữa, Kinh Thánh không dạy điều sai ngoa. Cứ theo câu này, đàn bà chỉ là "cái gì," hơn nữa lại "trợ giúp tương đối." Ai cũng hiểu rằng đã là tương đối thì không thể ngang bằng, chỉ là một phần nhỏ. Đó cũng là lý do tại sao, có thể nói, Socrate đã quan niệm "đàn bà không có linh hồn." Chuyện về Socrate kể lại rằng bà vợ ông ta quá dữ dằn. Một hôm, có khách đến chơi, hai người đang ăn uống và nói chuyện, không hiểu bà vợ Socrate tức chuyện gì, hất luôn mâm cơm hai người đang ăn. Socrate bình tĩnh nói với người bạn đại khái như sau: Nếu chúng ta đang ăn mà có một con gà mái nhảy vào mâm cơm bới tung tóe, chúng ta có tức với con gà ghẹ đó chăng. Socrate là một nhà hiền triết Tây Phương; sau này thêm Aristote, Platon, cả ba ảnh hưởng mạnh mẽ nơi tư tưởng, óc não lớp người mũi lõ mắt xanh mà còn cho rằng đàn bà không có linh hồn, thứ gà mái ghẹ, thì chữ "cái gì" và "tương đối" có lẽ được hiểu rõ hơn chút đỉnh. Mà đã không có linh hồn tức là nhiều thứ không có kèm theo; thế cho nên chẳng lạ gì tại sao có cảnh luân thường đảo ngược mà ông bà ta gọi là "tôm chà."

Lý do tạo dựng đàn bà ngoài ý muốn của Thượng Đế cũng có thể với mục đích để đàn bà phục vụ đàn ông chẳng hạn như rửa chén, quét nhà, nấu ăn, sinh con đẻ cái v.v... Lẽ đương nhiên, trở lại Kinh Thánh, Thượng Đế còn nghỉ nữa là "đàn ông" được tạo dựng do Ngài. Bình thường suy đoán, đàn bà được tạo dựng để phục vụ đàn ông thì rửa chén, quét nhà, dọn phòng là những chuyện bình thường đương nhiên. Vậy còn vấn đề "Đẻ..." Xin thưa, chuyện đàn bà đẻ cũng là chuyện đương nhiên vì đànông không bao giờ đẻ từ khi có đàn bà. Còn chuyện tiếp theo chuyện "đẻ..." thì không ai có thể thay thế được. Không ai có kinh nghiệm làm dùm chuyện này và cũng không sách vở nào viết về vấn đề này ngoại trừ truyện tiếu lâm "Vua Thành Thái cắm cờ cấm..." mà thôi. (Hơn nữa, đó chỉ là truyện tiếu lâm, các bà các ông muốn biết, viết thư hỏi, người viết sẽ trả lời vì viết ra đây không lợi ích chi.) Nếu đặt vấn đề đẻ cũng quan trọng và cần thiết vì, như huyền thoại Trạng Quỳnh - Đoàn thị Điểm đối sứ Tầu: ai cũng ở đó mà ra, thì vấn đề khác lại được đặt ra. Thiết nghĩ Thượng Đế đã không có ý định tạo dựng đàn bà thì dĩ nhiên đàn bà không cần thiết. Nếu lấy lý do tạo dựng đàn bà để sinh con đẻ cái thì lại càng phi lý hơn vì Thượng Đế đâu có dựng nên cây chuối cái đâu thế sao vẫn có cây chuối con. Có thể, nếu không có đàn bà để trợ giúp đàn ông, đàn ông cũng đẻ con như cây chuối đâu đã chết ai. Xét như vậy, sự đẻ của đàn bà không cần thiết nếu không có đàn bà. Có đàn bà chỉ để "trợ giúp tương đối" mà thôi, và đã trợ giúp tương đối thì cũng chỉ như "có rế đỡ nóng tay" mà chớ. Có thêm đàn bà để phục vụ mà lại đặt vấn đề "Đàn ông có nên rửa chén không" xét ra lại càng thêm nghịch lý với chữ "trợ giúp" của Kinh Thánh. Hơn nữa thử hỏi như vậy có rế đỡ nóng tay hay càng bị nóng hơn?

Thử đặt vấn đề thế nào là "trợ giúp tương đối." Viết đến đây, người cầm bút đành lật vài cuốn Kinh Thánh bản dịch tiếng Mỹ xem chữ "trợ giúp... tương đối" Tây Phương quan niệm thế nào. Ít nhất 6 cuốn dùng 5 chữ tương đương trong sách Genesis đoạn 2 câu 18: "I will make him an aid fit for him" (The Anchor Bible, Genesis, E.A. Speiser; p.15; Double Day, New York.) "I will make a suitable companion to help him" (Good News Bible, Today's English Version, p.3; American Bible Society; New York 1978.) "I will make a suitable partner for him." (New American Bible; Saint Joseph Edition, p.5; Catholic Book Publishing Co.; New York 1986.) "I will make him a helper fit for him." (The New Oxford Annotated Bible, Revised Standard Version, p.3; Oxford University Press; New York 1977.) "I will make him a helper like himself." (The Holy Bible; Good Counsel Publishing Co., p.2; Chicago, Ill. 1963.) "Let us make him a help like unto himself." (The Holy Bible; Genesis 2:18; Catholic Press Inc.; Chicago, Ill. 1950.) Qua 6 bản dịch khác nhau, khác thời điểm, những chữ được dùng để chỉ đàn bà: an aid fit for him, companion to help him, suitable partner for him, a helper fit for him, a helper like himself, a help, chỉ mang nghĩa trợ giúp và không bản dịch nào viết Thượng Đế gọi đàn bà là vợ đàn ông mà chỉ nói đàn ông gọi đàn bà là vợ. Hơn nữa, theo quan niệm Do Thái, người đặt tên có toàn quyền trên kẻ bị đặt tên. Đó cũng là lý do tại sao Kinh Thánh được viết rằng Adam đặt tên cho mọi loài, điều này có nghĩa mọi loài dưới quyền thống trị của con người. Đàn ông đặt tên cho đàn bà là Eve cũng trong nghĩa này mà chớ, cũng như quyền đặt tên và trách nhiệm và bổn phận của cha mẹ trên con cái chẳng những của người Việt mà của mọi dân tộc trên thế giới. Hiểu ý nghĩa về sự đặt tên như thế, đàn ông cất nhắc đàn bà lên làm vợ chứ thực ra, theo Kinh Thánh, đàn bà chỉ là "trợ giúp... tương đối" mà thôi.

Bạn có chiếc xe, bạn o bế chiếc xe là chuyện bình thường, nào lau chùi, nào đánh bóng, hút bụi, sơn sửa v.v... Đàn ông có trợ giúp là đàn bà thì đàn ông o bế đàn bà đâu có sao. Chỉ có một điều hơi trái sự thường, mà còn có vẻ bất thường nữa: chiếc xe không bao giờ dám đặt vấn đề bạn chạy, chiếc xe cỡi lên bạn mà lái. Trái lại đàn bà được đàng chân, lân đàng đầu, được o bế nên đặt vấn đề chiếc xe lái người. Nói cách khác, muốn đàn ông trở thành trợ giúp, con hầu đầy tớ của bà chủ để rửa chén, quét nhà v.v... nên đưa ra vấn đề "Đàn ông có nên rửa chén không."

Lý do tại sao người viết nói đàn bà đưa ra vấn đề đàn ông có nên rửa chén không rất dễ hiểu vì nếu người nghĩ tới vấn đề này là đàn ông, đâu cần gì phải nói. Muốn rửa thì rửa, không rửa thì quăng thùng rác chứ có gì mà nên với không. Chẳng lẽ mua chén bát còn được mà quăng chúng vào thùng rác khó khăn lắm sao. Chuyện đơn giản chỉ có thế nên người đặt vấn đề rửa chén nhất định là người ở phía đàn bà, và dù không phải đàn bà "chăm phần chăm" thì cũng mang tính chất đàn bà, "trợ giúp tương đối."

Dĩ nhiên chúng ta tôn trọng quyền làm người của bất cứ ai dù được tạo dựng trước hay sau hoặc người đó to lớn hay bé nhỏ, ngay cả cho dù cao sang hay thấp hèn. Tuy nhiên, trời đất này còn có thứ tự, mặt trời soi sáng ban ngày thì trăng sao đành chấp nhận bị ánh sáng mặt trời che lấp chứ nếu trăng sao tranh đấu với mặt trời về khả năng soi sáng ban ngày thì muôn đời cũng chỉ là đêm. Thử tiếp tục đọc Kinh Thánh, vấn đề tương tự "Đàn ông có nên rửa chén không" đã xảy ra từ thời tạo thiên lập địa rồi chứ đâu phải bây giờ mới được đề cập tới.

Đoạn 2 câu 24 sách Khởi Nguyên viết: "Bởi thế mà người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khắn khít với vợ mình..." Nói cách khác theo kiểu câu 21 đoạn 2 thì người đàn ông tê mê với đàn bà quên cả cha mẹ; âu đó cũng là nguyên nhân mọi sự khốn khổ và rắc rối của cuộc đời bởi cái ham vui tê mê của đàn ông mà ra. Nghĩ thật cũng đáng cho cái thói đời ham hố.

Chính sự tê mê của đàn ông đối với đàn bà sinh ra lắm thứ mà quí cụ ngày xưa gọi là "Thấy chồng hiền (thương) xỏ chân lỗ mũi, hoặc "được đàng chân lân đàng đầu." Những chuyện tương tự cũng đã xảy ra đầy đầy chan chan trong lịch sử với những câu kết luận: "Vua nghe vợ mất nước." Có những nhà thâm nho sâu sắc hơn thì dùng tiếng "Chó nhảy bàn độc."

Đoạn 3 của sách Khởi Nguyên đại khái kể lại: Người đàn bà được cưng chiều, được cho đủ mọi sự cũng như quyền hành giống người đàn ông do thói đam mê yêu vợ của anh chàng ngốc nghếch đầu tiên như đàn ông chúng ta bây giờ cưng vợ, mụ Evà mới ăn no rực mỡ, tưởng rằng những gì đàn ông có được là mụ cũng có thể tranh đấu để tương đồng. Văn vẻ hơn chúng ta gọi là "nam nữ bình quyền." Thế là mụ tìm mọi cách để "cỡi cổ" tên đàn ông ngốc nghếch chồng mụ. Mụ không thèm nhận định vị thế của mình, bởi có linh hồn đâu, ăn trái cây biết trước biết sau với hy vọng cầm đầu anh chồng khờ vì thương vợ. Và kết quả là mụ đã biết trước biết sau rõ ràng, biết mình chẳng có gì ngoài bộ đồ da để ra đến độ xấu hổ phải che lá đa. Tệ hơn nữa, chính ngay khi vừa giành giựt được điều mong muốn, mụ đã đổ thừa ngay cho con rắn câm có cái miệng biết ăn nhưng không biết nói. Có lẽ, nếu mụ đổ cho anh chồng mê vợ thì bây giờ đàn bà đẻ, đàn ông mang bầu không chừng. Và thế rồi ra sao chúng ta chẳng lạ gì, từ ngày mụ biết trước biết sau chỉ được một tí bằng trái táo, luân thường đảo ngược, trật tự bị rối ren, ngay cả mụ đẻ chồng mụ cũng bị đau bụng nữa; đôi khi lây đến ông hàng xóm đau bụng mới cả là vấn đề tai hại.

Chúng ta cũng thấy rõ hơn, tại các nước Cộng Sản, lý thuyết nam nữ bình quyền bị lạm dụng khiến chó nhảy bàn độc, tên ngu dạy đời, đàn bà mê muội đàn ông, do đó dân chúng đói rách lầm than. Khi mà bà chủ ra lệnh cho tên "chồng hầu" rửa chén thì cuộc đời trở nên tai hại như thế đó. Đàn bà mới chỉ muốn bình quyền, nhân loại từ ông tới cha, con tới cháu đã lầm than, bới lông đất mới có miếng mà ăn thì khi đàn bà mà làm chủ để đức ông chồng rửa chén có lẽ thiên hạ sẽ đại loạn, đại loạn vì "vua nghe vợ mất nước," đàn ông nghe đàn bà tan tác gia phong, luân thường đảo ngược.

Dù cho cả thế giới này không ý thức được sự tai hại của tính chất "được đàng chân lân đàng đầu" hay nói khác hơn lạm dụng lòng thương mến của chồng để hò chồng rửa chén, người Việt ta vẫn còn có sẵn nề nếp gia phong sống hòa hợp trong thứ bậc, vai trò nào, tôn ty ấy. Có lẽ ông cha ta đã khôn ngoan nhận ra sự tai hại này từ bao đời trước nên đã để lại nào tam tòng tứ đức, nào đạo vợ chồng, nào những lời khuyên răn làm trai không nên nghe vợ. Mới chỉ một mụ đàn bà đòi bình đẳng mà cả thế giới muôn đời đau khổ thì cái gọi là "Đàn ông rửa chén" phải được dẹp tan ngay từ trong trứng nước. Nếu không, đại loạn, hoặc quí vị sẽ bị trắng mắt như người viết được biết một số trường hợp, mụ vợ hành hạ ông chồng tàn bạo quá chừng!

SUYTƯ

Đôi lần nghĩ về cuộc sống, tôi chỉ thấy tôi phải sống, thích sống và muốn được sống. Điều này có nghĩa tôi không muốn chết và có thể nói rằng tôi ngại ngùng và e sợ khi nghĩ đến cái chết. Một điểm đặc biệt tôi nhận ra nơi chính tôi, đó là rất ít khi tôi đặt vấn đề sống để làm gì. Mục đích cuộc sống của tôi như thế nào. Tôi chấp nhận cuộc sống đang có, đi làm kiếm tiền sinh sống và có thể nói sống cho qua ngày. Tôi cảm thấy khó trả lời về mục đích cuộc sống. Nào có gì đâu, tôi phủ lấp qua ý nghĩ, mọi người sống thì mình sống, cần chi phải suy nghĩ lôi thôi. Tôi không muốn trả lời về mục đích cuộc sống của mình bởi không biết sao để trả lời. Do đó tôi đành chấp nhận sống cho qua, miễn sao sống cho qua!

Tuy nhiên, câu hỏi về mục đích cuộc sống dần dần ám ảnh tôi nhiều hơn. Tôi không thể quên hoặc lờ đi được bởi cuộc sống đem đến cho tôi nhiều cảm nghĩ bơ vơ, lạc lõng. Tôi nghĩ, bởi không có một mục đích cho cuộc sống nên tôi cảm thấy bơ vơ, vô định hướng mặc dầu tôi vẫn không thể nào trả lời được. Nếu đặt vấn đề ngày mai phải làm gì, tháng sau sẽ ra sao, rồi năm tới, rồi năm tới nữa, cuộc sống sẽ thế nào, tôi chỉ thấy một sự rắc rối bao quanh đầu óc tôi. Ngày mai thì cũng như ngày hôm nay, đi làm, về nhà ăn, ngủ; lúc nào buồn ra quán càfê kiếm vài người quen tán dóc, lai rai với vài loong bia thì càng tốt. Tôi hy vọng tháng sau cũng thế, rồi năm tới cũng không có gì thay đổi hoặc ảnh hưởng tới mình. Dầu thế, tôi vẫn e sợ bởi cái tương lai mịt mù của tôi, cái ngày mai mà tôi không thể nào biết cũng như dự định trước được. Cứ mỗi lần nghĩ người ta sao mình vậy, tôi cảm thấy áy náy và kiếm cách lảng tránh. Tôi đành thở dài, kiếm chuyện gì để tâm tới cho khỏi phải trả lời câu hỏi hóc búa này đang xoay quanh tâm trí.

Nhìn thấy những người khác có gia đình êm ấm, tôi thấy thèm một mái ấm gia đình. Có lẽ có vợ con, đỡ phải suy nghĩ hơn, tôi nghĩ thế! Bởi tối ngày phải lo làm việc, lo cho gia đình, tôi không còn thì giờ để suy nghĩ lang thang. Hơn nữa, có gia đình rồi, mục đích của tôi rõ ràng: làm lụng, gây dựng cho gia đình, con cái. Nhưng chẳng lẽ cuộc đời chỉ có thế thôi sao? Lớn lên, lập gia đình, sinh con cái, lo lắng cho gia đình và chết. Ôi buồn thay cho kiếp người! Chỉ giống như những làn sóng tiếp nối nhau tràn vào bờ biển. Thế là hết!

Con người được sinh ra tất phải có giá trị của một con người. Cuộc sống được nhận lãnh tất phải có giá trị và mục đích của nó. Người ta không chế tạo chiếc xe rồi để đó. Người ta không bắc chiếc cầu qua sông nơi không ai đi lại. Người ta cũng không xây nhà khi không có người ở. Vậy tôi được sinh ra để làm gì và cuộc sống tôi phải thế nào. Tôi nghĩ rằng cuộc sống của tôi có giá trị hơn chiếc cầu, hơn chiếc xe và hơn cái nhà. Thế nhưng tôi lại không biết cuộc sống của tôi sẽ được dùng để làm gì!

Này bạn, bạn có thể trả lời cho tôi bạn dùng cuộc sống của bạn để làm gì không? Bạn có thể đề nghị cho tôi biết cuộc sống của tôi có giá trị ở điểm nào, và tôi phải trả lời cho chính tôi ra sao! Cuộc sống của bạn hiện tại thế nào? Và mục đích của nó là gì?

THÁIĐỘVÀTÂMTRẠNG

Coi trên TV, những vị lãnh đạo quốc gia, những người có địa vị cao, nắm quyền hành lớn lao trong tay, họ xuất hiện rất từ tốn; thái độ của họ bình thản và kiên nhẫn. Những dịp may nào đó, bạn gặp những nhà lãnh đạo, bạn cũng có những cảm giác về từng người khác nhau. Gặp người này, có thể bạn cảm thấy được thông cảm và tin rằng những chuyện bạn cần nhờ họ sẽ được giúp đỡ mau chóng và tận tình. Gặp người khác, bạn cảm thấy sợ hãi bởi lối đối xử của họ như đe dọa bạn hay kiếm cách trấn áp bạn. Hoặc đối với người khác nữa, bạn cảm thấy họ rất bình thường, khiêm tốn, và thân thiện. Thái độ của họ như khuyến khích bạn trở nên tự nhiên. Bạn không cảm thấy bị gò bó hoặc "hớp hồn".

Khi nói chuyện với những người chung quanh cũng thế, có những người bạn không muốn bàn luận bất cứ vấn đề gì với họ vì bạn không chấp nhận được thái độ của họ khi nói chuyện. Ngược lại số người mà bạn muốn bàn luận hoặc chia xẻ những ưu tư, hay tính toán công chuyện làm ăn với thì rất hiếm. Thường thường, khi gặp chuyện cần bạn mới phải tìm kiếm người để nhờ vả. Lẽ đương nhiên, bạn sẽ chạy đến những người mà bạn cảm thấy có thể thông cảm hoặc sẵn sàng giúp đỡ hay cộng tác với bạn giải quyết những vấn đề nan giải bạn muốn nhờ.

Qua những cảm nhận trên, tôi muốn đặt vấn đề về nguyên nhân tạo nên thái độ của một người. Ông bà ta có câu: "không có lửa sao có khói," chúng ta nhận thấy và chấp nhận như vậy. Tuy nhiên, đối với thái độ của một người, đôi khi lửa khói không hòa hợp với nhau. Lửa một đàng và khói một nẻo. Lý do tạo nên thái độ của một người thường không đơn giản như chúng ta nhận thấy nơi bình diện bên ngoài của họ mà bao gồm nhiều yếu tố khác nhau. Những yếu tố này có thể là do sự giáo dục, ảnh hưởng bởi môi trường hoàn cảnh sống, cá tính riêng từng người, hoặc bởi điều mơ ước hay thiếu sót nơi tâm tư của họ. Một yếu tố không ngờ nhưng ảnh hưởng nặng nề nhất nơi thái độ của một người là chính tâm trạng của người đó thế nào. Thái độ bên ngoài có thể phản ngược lại với sự nhận thức về chính con người của họ. Đây cũng là chủ đề của bài viết này.

Tâm lý bình dân có câu: "Điếc hay hóng, ngọng hay nói." Ai cũng biết và không muốn mình giống câu này. Tuy nhiên, có thể mình không muốn "hay nói" vì mình ngọng bởi vì mình đã ngọng; do đó mình lại càng hay nói. Xét về tâm lý, thái độ của một người cũng thế, những người tỏ ra oai quyền, hống hách, lại cảm thấy chính mình chẳng có giá trị gì. Bởi muốn cảm thấy mình là cái gì nên thường có khuynh hướng tỏ ra mình là một cái gì để người khác nể, để cảm thấy oai. Dĩ nhiên, con người chỉ muốn những gì mình chưa có hoặc cảm thấy có chưa đủ. Những người càng mang nặng tự ti mặc cảm mình chẳng ra gì lại càng muốn tỏ ra quan trọng. Điều này ngược hẳn với thái độ của những người có quyền hành và nhận ra quyền hành của họ. Vì họ biết họ có quyền hành, lời nói của họ có kẻ nghe và phải vâng theo, họ đâu cần nổ, đâu cần giương oai hay tỏ ra oai quyền. Vì thế, người nào càng tỏ ra quan trọng, oai quyền bao nhiêu, càng chứng tỏ mình bị tự ti mặc cảm bấy nhiêu. Điều này có nghĩa họ càng không nhìn ra giá trị con người của họ. Thái độ hống hách chỉ biểu dương một tâm trạng cảm thấy mình chẳng ra gì.

Câu điếc hay hóng, ngọng hay nói còn mang thêm một ý nghĩa khác. Người nào càng không rành rẽ về vấn đề gì, càng tỏ ra mình thông thái về vấn đề đó. Những người học võ từ mười năm trở lên, họ không nói về võ biền. Họ chạy trốn đánh lộn. Đối với họ, thà rằng chạy trốn còn hơn giơ tay giơ chân bởi họ biết cái giơ tay giơ chân của họ có thể chết người. Chỉ có những người nào học được dăm ba miếng võ quèn mới thích chứng tỏ ta đây có võ. Đúng là ngọng hay nói!

Trong cuộc sống thường ngày, thái độ của mỗi người chúng ta cũng tương tự như thế. Nếu mình không nhận ra giá trị và thực tài của mình, mình sẽ cảm thấy thèm khát được người khác coi trọng, kính nể. Thử để ý một vấn đề đơn giản: đi dự tiệc tùng hay đám xá. Chiếc ghế ngồi và vị trí chiếc ghế có thể làm cho người ngồi trở thành quan trọng được không? Theo tôi nghĩ, người quan trọng thì ngồi ghế nào cũng quan trọng. Người ngồi làm chiếc ghế quan trọng chứ không phải vị thế chiếc ghế làm cho người ngồi quan trọng. Thế mà những chuyện vớ vẩn lỉnh kỉnh đã và đang xảy ra: ông phải ngồi chỗ này, bà phải ngồi chỗ kia. Nào là mâm nhất, mâm nhì, nào là "ăn đưa xuống, uống đưa lên." Cứ mỗi lần gặp chuyện xếp chỗ ngồi trong đám xá, tiệc tùng, tôi lại nhớ tới chuyện phiếm Trạng Quỳnh ăn vỏ chuối.

Nhìn lại chính mình, mỗi người được ban cho những khả năng khác nhau. Đôi khi những khả năng này chỉ được nhận ra khi mình ở trong một vai trò và môi trường nào đó. Nếu bạn sống với những người không biết đọc, không biết viết, dù bạn có khả năng viết lách văn chương, bạn cũng không thể phát triển khả năng của bạn được. Ngược lại, dù bạn là người bình thường về mọi phương diện trong một đoàn thể, nếu bạn bị bầu làm "chủ tịch," hoặc "đại diện," hay "trưởng ban chấp hành," có thể rằng những khả năng bình thường của bạn có cơ hội phát triển để rồi nhận ra biệt tài riêng nào đó của bạn về lãnh đạo. Thử xét một thí dụ: Giả sử Giáo Hoàng hay Tổng Thống Mỹ hút bụi văn phòng của họ, có lẽ truyền hình, báo chí sẽ làm rùm beng lên nào là khiêm nhường, chịu khó, đơn giản, bình dân v.v... ôi đủ thứ tốt lành được gán ghép. Đã bao nhiêu lần bạn và tôi làm những chuyện bình thường như thế, nào có ai coi ra gì đâu. Vị thế của một người có thể làm cho công việc thường tình của họ quan trọng hơn.

Xét cho cùng, có thế nào chăng nữa, mình cũng chỉ là mình. Dù có gọi mình là thứ gì hoặc gán vào trăm thứ nhãn hiệu nghe cho kêu, mình cũng không oai hơn hoặc được trọng vọng hơn. Vấn đề chính yếu là khả năng của mình thế nào và mình có nhận ra giá trị của mình hay không. Người nào thèm được trọng vọng hơn, thèm được gán ép thêm những biệt hiệu hay những danh xưng đao to búa lớn, người đó đang chứng tỏ mình mang tự ti mặc cảm nặng nề hơn. Chỉ có người đói mới thèm ăn, người no, có ăn thêm cũng không nuốt được. Người không nhận ra giá trị của mình thèm được đề cao cho oai, thích nổ cho người khác nể. Chẳng lạ gì, cuộc đời này hay cuộc đời xưa cũng thế, ông bà ta đã có câu "Thùng rỗng kêu to" kể cũng chẳng sai chút nào. Thái độ của mình đang chứng tỏ tâm trạng mình ra sao.

CHÚNGTÔISẼRASAO?

Từ ngày đọc hai bài "Đời Sống Nội Tâm Của Giới Trẻ" do Phạm Vũ ghi lại và "Tông Đồ Giáo Dân và Đại Hội Công Giáo Việt Nam New Orleans" của linh mục Trần Phúc Long trong đặc san Đại Hội Công Giáo Việt Nam Kỳ II, tôi đã cảm thấy cực kỳ hoang mang. Trước khi chưa đọc hai bài trên, tôi nghĩ rằng những điều lo âu về "thân phận tinh thần" của tôi chỉ một mình tôi có hoặc tôi đã quá ưu tư viễn vông hay tôi thuộc vào loại bất thường lạc loài. Khi đọc xong hai bài trên và để ý cùng nói chuyện với những bạn bè ngang lứa hoặc hơn kém vài tuổi, họ cũng không hơn gì, cũng bất thường như tôi. Có một số người có vẻ dễ sống, giống như trong bài "Đời Sống Nội Tâm của Giới Trẻ": cần gì phải thắc mắc, ngày mai có ngày mai lo, giữ đầy đủ luật, đi lễ Chúa Nhật là đủ. Hơn nữa, bao nhiêu người đã sống, mình cũng sống chứ có chi đâu! Một số khác, mọi người có thể gặp họ bất cứ lúc nào nhưng phải coi chừng. Họ sống không cần biết gì hết. Tôi gạ chuyện hỏi họ. "Sh...", ngoắc cái đầu và nói tiếng này làm tôi cũng ớn ớn. "Mày hết chuyện nói rồi ư?...", và thế là hết. Có lẽ họ không thích nói đến chuyện này, những chuyện về giá trị tinh thần hoặc lương tâm, đạo đức.

Chúng tôi còn trẻ phải không các bạn, quí vị lớn tuổi? Chúng tôi ham chơi, thích vui, thích được để ý, muốn làm những chuyện phi thường, muốn bắt chước những anh hùng, muốn trở thành người lý tưởng. Ai được chúng tôi thích, chúng tôi học theo từng cử điệu, lời nói, cách ăn mặc, và mọi sự của họ. Hỏi tại sao, có gì mà tại sao! Chúng tôi bắt chước người chúng tôi thích, người chúng tôi ưa. Còn nếu không ưa ai, chúng tôi lánh xa. Trông thấy cái bộ mặt đã phát ghét, sao chúng tôi có thể tới gần. Từ đó, những lời nói, cử điệu của những người chúng tôi không ưa, chúng tôi thấy gai mắt. Tội chi gặp hoặc nói với những thứ người này bởi họ đâu có hấp dẫn chi mà ham, chỉ "bored".

Chúng tôi là thế đó, ham vui, có chi xấu đâu, thích nữa. Muốn trở thành những mẫu người lý tưởng và làm những việc phi thường đâu có chi tội lỗi. Có những người làm những chuyện tầy trời để được nổi tiếng đã chết ai đâu! Chúng tôi thèm được để ý như cơ thể cần đồ ăn. Bất cứ gì, dù xấu hay tốt, mà người khác khen, khuyến khích chúng tôi làm, dù có bỏ ăn bỏ ngủ, chúng tôi cũng làm. Được người khác để ý là một sự hãnh diện lớn lao cho chúng tôi, ai mà không ưa! Người ta thường chê trách chúng tôi chứ kẹo lời khen với chúng tôi như kẹo kéo. Tội chi chúng tôi nghe những lời chê trách đau khổ đó.

Muốn tham gia các đoàn thể nhưng đoàn thể họ có những điều chấp nhận không được. Gì cũng cứ nói đến luật, luật! Không có những thứ luật đó chúng tôi đâu có chết. Muốn hòa mình với những người đồng lứa tuổi, kiếm chút niềm vui, nhưng họ khó hấp dẫn chúng tôi quá đi. Những người lãnh đạo các đoàn thể cứ làm như họ nắm trong tay các lề luật rồi dùng những luật "rừng" đó mà đàn áp kẻ khác thay vì khuyến khích. Chúng tôi sợ! Sợ cảnh phải lệ thuộc những luật phi lý mặc dầu chúng tôi biết rằng sống trong một tập thể là phải hòa đồng với những người khác. Nhưng hòa đồng đâu phải làm tôi mọi cho những thứ luật rừng. Tôi thấy, thay vì tham gia đoàn thể để đỡ cô đơn, lạc loài, lại trở thành nô lệ cho những luật lệ không có tính chất người chút nào.

Hơn nữa, chúng tôi cần người có đủ uy tín để theo, để bắt chước chứ chúng tôi không cần người ra lệnh, hò hét. Chúng tôi đâu phải tù nhân. Chúng tôi kính trọng người khác không phải vì họ hơn chúng tôi về cái này hay cái kia mà vì chính con người của họ, vì họ là người. Chúng tôi cũng là người, chúng tôi cũng phải được tôn trọng chứ! Đâu phải cái gì chúng tôi cũng sai đâu! Chúng tôi cũng có những điều đúng mà người khác không thèm biết, không thèm để ý đến. Không thèm để ý nghe chúng tôi, mắc mớ gì chúng tôi nghe họ. Người lãnh đạo là người thần tượng của chúng tôi, là người biết nghe đến ý kiến của chúng tôi dù nó đúng hay sai. Nếu ý kiến tụi tôi sai, nói cho chúng tôi sửa, để chúng tôi học thêm, việc gì cứ quăng một tiếng "sai" hay "mày biết gì" lúc chưa kịp suy nghĩ hoặc chưa nghe xong rồi bảo chúng tôi phải thế này, phải thế kia. Không có phải thế nào hết! Ưng, chúng tôi làm, chúng tôi theo, không ưng "bye," đã chết ai đâu?

Có những người lại đạo đức "miệng" nữa. Cái gì cũng mang Chúa ra hù chúng tôi. Họ làm ngang như Chúa là một sự gì đáng sợ lắm. Chúa đâu có bao giờ khinh tụi tôi đâu! Sao họ đem Chúa ra mà lại coi thường tụi tôi. Chẳng ai đại diện Chúa hết! Cộng đồng không có ai cho tụi tôi theo! Chúng tôi muốn góp phần vào cộng đồng nhưng không có người để theo, không có người chỉ lối thì góp chi? Chỉ có những người bắt chúng tôi theo những luật rừng thì làm sao tụi tôi có thể vâng lời cho được!

Bạn tưởng chúng tôi không biết suy nghĩ ư? Nếu bạn nghĩ thế, bạn không biết gì về chúng tôi hết! Bạn chỉ tưởng tượng rồi lên án thôi. Đừng thấy tụi tôi thích ăn mặc theo "mode" rồi kết án tụi tôi chạy theo Mỹ mà lầm. Ăn mặc theo mode được người khác chú ý, dù họ có khinh bỉ, họ cũng đã chú ý rồi. Hơn nữa, tụi tôi thấy nó hợp thời, ngộ ngộ, thích con mắt thì làm theo. Nếu bạn thấy rằng kiểu nào đứng đắn hơn, hợp thời hơn, ngộ hơn, chứng minh cho tụi tôi coi. Dùng lý luận mà nói, mà đã nói thì phải hợp và thu hút được sự chú ý và thích thú của tụi tôi mới được, hoặc bạn làm trước đi, nếu bạn nói không được. Chúng tôi thích, chúng tôi sẽ theo, thế thôi, không cần dài dòng. Chúng tôi nghĩ rằng chính bạn thấy bạn không hợp thời nên chê trách, kết án chúng tôi. Bạn già rồi, dù bạn mới mười lăm tuổi nếu bạn đã có ý nghĩ và làm như thế. Cuộc sống là vươn lên và đổi mới mà bạn, nếu không sẽ chết vì buồn chán. Những cái gì chán, tụi tôi lánh xa.

Bạn có bao giờ tưởng tượng rằng chúng tôi có những mộng ước cao vời không? Chúng tôi cảm thấy người Việt Nam có cái giá trị nào đó mà chúng tôi không biết, chúng tôi muốn tìm cho biết và làm cho nó nổi lên. Thế rồi không ai thèm để ý, chúng tôi đành phải chạy theo những gì được những người chung quanh ca tụng và bắt chước. Bắt chước để được người khác để ý, vì nó hay hay, đâu có gì là xấu, tốt nữa! Nhưng khổ nỗi, chúng tôi đã không nghe được những đề nghị, ý kiến mà chỉ thấy những con mắt ra lệnh có vẻ hận thù, thiếu sự đối thoại.

Đối thoại đâu phải chỉ kẻ khác nói, chúng tôi phải im lặng nghe và làm theo! Đối thoại đâu phải là nuốt vào những cái mà kẻ khác mửa ra rồi lại mửa ra sao cho giống đâu! Đối thoại là phải biết tôn trọng ý kiến đôi bên. Chúng tôi tôn trọng ý kiến người khác, họ cũng phải tôn trọng ý kiến chúng tôi. Có bao giờ ai hỏi tụi tôi tại sao thích để tóc "Punk" không hoặc tại sao thích mặc những cái áo rộng thùng thình đâu mặc dầu chúng nó ngộ ngộ, hay hay! Những cái ngộ ngộ, hay hay này ở trên người chúng tôi làm chúng tôi thấy hãnh diện. Ôi chao! Nhiều cặp mắt nhìn đến chúng tôi, có thế thôi! Chúng tôi chỉ thấy những "không được thế này thế nọ," "phải thế này thế kia," hoặc những kiểu nói ám chỉ chúng tôi chẳng ra gì. Dịu dàng với tụi tôi đâu có làm ai sụt mất kí lô nào đâu, hoặc bớt oai hay xấu đi chút chi. Chúng tôi thèm những lời dịu dàng, khuyến khích, khen thưởng bởi tụi tôi muốn nổi mà, muốn trở thành anh hùng của thế giới lận.

Chúng tôi là thế đó. Xấu có, tốt có, lẫn lộn, nhưng muốn được khen, khuyến khích. Chúng tôi cần người biết khen đúng chỗ, biết chỉ những điều sai, điều đúng trong tình bạn bè, anh chị em. Chúng tôi cần những lời nói dịu dàng, chân thật, cảm thông với nỗi bơ vơ không được ai chú ý tới. Tụi tôi có thể làm nhiều thứ chuyện mặc dầu chưa biết chuyện gì. Tụi tôi cần người chỉ cách làm. Người khác làm được, tụi tôi cũng làm được, chỉ chưa biết cách làm thôi. Tụi tôi sẽ ngoan như đàn cừu non khi gặp người thông cảm, thiết tha đến tụi tôi. Thiết tha nghĩa là không ra lệnh mà tìm hiểu tụi tôi thế nào, thích chi để giải thích hay thông cảm. Chúng tôi có nhiều nỗi băn khoăn nhưng có ai thèm hỏi đâu! Kiếm người để nghe, đâu có ai nghe. Bố mẹ tụi tôi? Họ còn bận đi làm và chỉ ra lệnh hay la thôi. Có bao giờ hỏi tụi tôi nghĩ gì và ra sao đâu! Có chăng lại cũng giống như những người chung quanh, chỉ ra lệnh, chỉ "phải" và "phải". Không giải thích tại sao, không thèm hiểu tại sao!

Có ai hiểu và thông cảm được chúng tôi hay chỉ thấy rằng điều tốt cho họ là điều tốt cho chúng tôi để rồi bắt, muốn chúng tôi phải theo một cách mù quáng. Chúng tôi có sự suy nghĩ, nhận biết chứ! Nhưng không ai giải thích, hoặc nói bằng kiểu nói của chúng tôi cho chúng tôi hiểu. Người hút thuốc thì sự hút thuốc thích thú đối với họ. Người uống rượu thì rượu ngon đối với họ. Còn tụi tôi không biết hút thuốc hoặc không biết uống rượu, sao tụi tôi thích chúng được. Tương tự thế, những điều tốt của những người khác chẳng khác gì rượu và thuốc hút đối với tụi tôi, những kẻ không uống được rượu và không hút thuốc. Cho nên, dù bạn hút thuốc, uống rượu, chúng tôi không cho đó là xấu thì kiểu ăn mặc của tụi tôi, tóc tai của tụi tôi đâu có thể được gọi là xấu. Bạn hãy chừa hút thuốc, ngưng uống rượu, tụi tôi sẽ không theo những mốt mới, không chạy theo những cái bạn cho là xấu.

Ai là người có thể đến với chúng tôi, chỉ cho chúng tôi điều nên theo, nên giữ, nên bỏ với ngôn ngữ của chúng tôi. Chúng tôi có lòng chân thành, có những con tim rộng mở, không đủ cho bạn thích thú ư? Có người nói Chúa ở trong cộng đồng, chúng tôi đồng ý, nhưng trong cộng đồng không có người cho chúng tôi theo, không có người giúp chúng tôi nhìn thấy Chúa với trí óc, con tim của chúng tôi mà chỉ có những mệnh lệnh khó nuốt, khó theo và khó học đòi. Tụi tôi bơ vơ, cực kỳ lạc lõng, và đâu là đường cho tụi tôi theo? Có lẽ chỉ Chúa biết. Còn bạn ra lệnh cho chúng tôi, vô ích! Chửi tụi tôi, thừa! Kết án tuổi trẻ chúng tôi đó là kết án chính bạn vì bạn không thèm mở rộng con tim để hiểu chúng tôi.

NGHĨGÌVỀGIỚITRẺ

Nói đến giới trẻ, mọi người đều nhận thức rõ đó là lớp người ở tuổi của cuộc đời đang bắt đầu vươn lên, chuẩn bị cho tương lai. Tuổi trẻ là tuổi của học hỏi phát triển cho ngày mai tươi sáng hơn. Có thể nói rằng, vận mạng của xã hội sau này nằm trong tay giới trẻ. Người Việt Nam ta có câu hát: "học sinh là Người Tổ Quốc mong cho mai sau..."

Ai cũng biết rằng: Nếu chúng ta muốn có một cái gì, chúng ta phải làm một cái gì. Chúng ta không thể chỉ ước mơ và để điều ước muốn tự nhiên thành. Hơn nữa, sự trưởng thành của giới trẻ cần phải được hướng dẫn, cần nhiều bàn tay góp lại làm việc. Sự thành công của giới trẻ sau này là kết quả của sự gầy dựng bây giờ. Nó không giống như trò chơi xổ số, bỏ ra vài đồng bạc mua xổ số, không trúng thì trật, bởi sự hướng dẫn sai lầm có tầm mức ảnh hưởng lớn lao tới tương lai của cả một lớp người.

Ai cũng muốn cho giới trẻ Việt Nam sống trên đất Mỹ có được một chút ý thức, nhận thức về giá trị cũng như đặc tính người Việt Nam. Nhưng thử hỏi ý muốn này đã được thể hiện như thế nào? Qua hai mươi năm sống trên đất nước này, hiện trạng "mất gốc" đã và đang là ưu tư người dân Việt khi nhìn đến đàn con cháu "nói tiếng ngoại ngữ". Sự hãnh diện về thành quả học hành của lớp trẻ tại trường Mỹ không bù đắp lại niềm ưu tư lớn lao này. Hơn nữa, không có gì thấy nản bằng mở miệng nói với con bằng tiếng Việt, con đứng ớ ra không hiểu, lại phải nói bằng tiếng Mỹ.

Câu hỏi mà mọi người muốn tránh né là chúng ta đã làm được gì cho giới trẻ Việt Nam. Niềm mơ ước cho giới trẻ, ai cũng có mà khi nói đến làm gì cho giới trẻ, chúng ta thường có nhiều lý do: chúng ta không còn trẻ... bận công ăn việc làm, đó là việc của những người khác...

Nếu trẻ có thể tự hướng dẫn, lớp trẻ đâu cần đến người lớn với mớ kinh nghiệm đường đời. Lẽ đương nhiên, ai cũng bận lo kế sinh nhai, và thế là giới trẻ bơ vơ! Bởi niềm mơ ước của mọi người là nhìn thấy giới trẻ trưởng thành hơn, do đó khó mà có thể tin rằng để giới trẻ được huấn luyện trong tay người khác có thể đạt tới niềm mơ mình ước muốn. Vấn đề này phải chính người lớn, tại nơi chốn này.

Thực ra không phải chúng ta không muốn giúp đỡ giới trẻ, nhưng bởi chúng ta tự cảm thấy chúng ta không có đủ khả năng. Có thể nói, đó là cơn bệnh của mọi người muốn hướng dẫn giới trẻ nhưng không biết làm gì cho chúng. Nếu bạn cảm thấy thế, thực sự bạn sẽ thành công khi làm việc với giới trẻ bởi vì nếu bạn cảm thấy biết hết mọi sự, bạn sẽ thất bại ê chề khi làm việc với họ.

Nguyên tắc căn bản để làm việc với giới trẻ chỉ là khuyến khích giới trẻ và cộng tác, giúp họ thực hiện những gì họ thích, họ muốn biết, thế thôi. Bạn cộng tác và hướng dẫn họ, không ra lệnh, không bắt họ phải làm thế nọ thế kia.

Này bạn, dĩ nhiên, khi bạn nhúng tay làm việc với giới trẻ sẽ có lắm "Thầy dùi" dạy không dầu họ chẳng làm gì. Nhưng, lờ họ đi, xin nhớ rằng "ĐƯỜNG TA TA CỨ ĐI".

CHÚNGTÔITUỔITRẺ

Chúng tôi,

Những người con thơ dại

Của các bậc làm mẹ, làm cha;

Những người em,

Đang chập chững vào đời

Của các bậc làm chị, làm anh.

Xin cho chúng tôi biết

Tại sai chúng tôi sống trên đất này

Và quê này là quê của ai?

Không quê nội, cũng không quê ngoại.

Chúng tôi mới ra đời đã xa mãi dòng sữa quê hương!

Tới trường, không ai nói đến giòng giống Việt.

Về nhà, má, cha mãi lo mảnh áo, miếng cơm.

Ai cho biết, dầu chúng tôi muốn biết!

Ai kể cho nghe, dầu chúng tôi không điếc!

Đừng tránh nói để trách chúng tôi mất gốc!

Đừng kết án chúng tôi đi hoang,

Bởi không ai dẫn đàng

Bởi chúng tôi đâu biết

Quê này là quê của ai?

NGHĨGÌVỀGOMGIỚITRẺ

VÀOMỘTĐOÀNTHỂ

Bất cứ ai khi có dịp nói tới một hội đoàn nào đều nghĩ về thế nào hội đoàn đó sinh hoạt, bao lâu đã được thành lập, tinh thần của những người trong hội đoàn, sự đối xử của ít nhất là những người lãnh đạo hay của đoàn viên đối với người trong cộng đồng hoặc các đoàn thể khác... Những người trong một hội đoàn cần sự hãnh diện về hội đoàn của mình, cần tiếng tăm cho hội đoàn mình cũng như sự phát triển cho chính bản thân mình, tinh thần cũng như khả năng, do hội đoàn có thể cung cấp cơ hội. Không ai muốn cho hội đoàn mình đang tham dự sụp đổ, giải tán. Người nào không cảm thấy hãnh diện về hội đoàn mình tham dự, họ sẽ rút lui bất cứ lúc nào. Chính vì thế hội đoàn cần nhiều yếu tố để bảo vệ đoàn viên của mình, để phát triển nhân số, để phù hợp với hoàn cảnh nơi chốn cũng như thời gian, và ít nhất là để theo kịp với những ước vọng của đoàn viên cho đoàn thể họ đang theo. Nếu không được cải tiến để phù hợp với đoàn viên, hội đoàn đó sẽ bị tan rã.

Nhìn lại tiến trình của những cộng đồng Việt Nam những năm qua tại Mỹ, những hội đoàn nào đã được thành lập, rồi chết đi! Những hội đoàn nào đang ngoi ngóp nửa sống nửa chết? Những hội đoàn nào các đoàn viên bỏ phiếu chấp nhận bằng những bước chân tham gia, và hội đoàn nào đã phải ngậm ngùi nhìn những bước chân của đoàn viên rời bỏ không một vết tích? Những hội đoàn nào chỉ còn là những cái tên, những hội đoàn nào chỉ còn là những mớ lý thuyết tuyệt vời không ai theo nổi, không thể nào thực hiện cũng như không có lấy ít nhất một đường lối sinh hoạt. Chương trình không có, đường lối thì không, danh từ hội đoàn đã bị hiểu lầm, có lẽ bị lạm dụng thì đúng hơn.

Đó mới chỉ là những đoàn thể nhỏ bé. Có người lại chủ trương gom góp giới trẻ lại thành một đoàn thể duy nhất. Chủ trương hoặc ý nghĩ này thật tuyệt vời, lý tưởng, nhưng lại ngược đời hơn bất cứ sự gì trên trần gian. Chủ trương này cũng giống như chủ trương một thế giới đại đồng. Nếu có thể gom mọi người trẻ lại thành một đoàn thể thì cũng đã có thể gom mọi quốc gia lại thành một cộng đồng thế giới. Có thể nói rằng người có chủ trương gom góp mọi người trẻ lại trong một đoàn thể không hiểu biết gì về trẻ và về cả chính bản thân của họ. Nói về người trẻ, người có chủ trương này có những sự không hiểu biết sau: thứ nhất, chữ trẻ không được xác định tuổi; thứ hai, không hiểu gì về sự khác biệt tâm lý giữa các lứa tuổi; thứ ba, sự lầm lẫn lớn lao nhất là tưởng trẻ cũng nghĩ như mình; thứ bốn, muốn trẻ làm theo ý mình không cần biết họ thế nào; thứ năm, thiếu óc thực tế, chỉ tưởng tượng, mơ theo những ý nghĩ huyền ảo; thứ sáu, không hiểu biết gì về vai trò lãnh đạo và tưởng rằng mình biết hết mọi sự v.v...

Người muốn gom góp trẻ thành một đoàn thể không hiểu chính bản thân họ vì họ không nhận ra rằng họ thích những gì, không thích những gì. Họ không nhận ra họ thích sinh hoạt kiểu này hoặc không thích sinh hoạt kiểu kia. Họ không cảm thấy chán khi phải nghe những bài thuyết trình rởm dài hai hay ba tiếng đồng hồ hoặc họ không cảm thấy niềm vui quanh vòng lửa trại. Họ có thể không nhận ra sự khác biệt giữa uống bia và uống nước ngọt hay nước lã, sự khác biệt giữa ăn thịt và ăn rau. Nếu đem giới trẻ gom chung lại thành một hội đoàn thì cũng giống như quăng giới trẻ vào một chiếc nồi khổng lồ, đổ nước vào, bỏ lên bếp nấu cám heo. Người không cảm thấy khác biệt giữa thịt và rau cũng giống như heo ăn cám nấu. Có miếng nào là thịt và có miếng nào là rau đâu. Chúng nhừ nát và lộn xì ngầu. Một đoàn thể mà gồm mọi người trẻ cũng giống như cám heo nấu mà thôi. Chủ trương theo lối cám heo nấu này không thể nào thực hiện được. Không tin, ai giỏi cứ thử. Chỉ trừ cảm quan chai đá đến độ không cảm thấy sự thay đổi của thời tiết, người có chủ trương này mới không cảm thấy thất bại, không cảm thấy làm hại người khác. Nếu còn một chút cảm giác, có lẽ không có nơi cho người này độn thổ. Có đánh nước trống lãng hoặc cả vú lấp miệng em thì cũng không thể nào thoát khỏi sự xấu hổ với lương tâm sau này.

Bạn có biết tâm lý của lứa tuổi từ 8 đến 9 thế nào không, từ 9 đến 10 và từ 10 đến 12 rồi tuổi 13 đến 14. Nét đặc biệt của tuổi 15, từ tuổi 16 đến 18, từ 18 đến 20? Nếu bạn gom các bạn trẻ khác lứa tuổi lại với nhau, có lẽ lứa tuổi 12, 13 không thể nào thích sinh hoạt với lứa tuổi 9 hay 10. Một điều bạn có thể nhận thấy dễ dàng, bạn không thể có tâm lý được như trẻ 10 tuổi dầu bạn biết tâm lý của chúng. Bạn có thể thích tiếu lâm với bạn bè, tất nhiên bạn không thể ngồi im để con ruồi đậu lên mép không thèm đuổi. Lẽ đương nhiên, bạn chỉ thích những ai thích cùng kiểu sinh hoạt với bạn. Nếu bạn là thanh niên mà thích ẵm búp bê, coi chừng bạn có trục trặc tâm lý, hay thể xác rồi. Gom trẻ thành một đoàn thể cũng giống như bắt bạn, một người con trai, ẵm búp bê và phải cảm thấy thích thú. Cái ý nghĩ, chủ trương thế giới trẻ đại đồng này không hợp với bạn, không hợp với tôi thì lẽ đương nhiên không thể hợp với giới trẻ.

Tất nhiên phải có lý do tại sao lại có những người có chủ trương này. Những người trẻ nhận thấy rằng họ không thích đoàn thể này mà thích đoàn thể kia, tất nhiên họ không thích kiểu đoàn thể đại đồng như thế. Tại sao có đoàn hướng đạo? Lý do chỉ là một số trẻ thích sinh hoạt ngoài trời, thích cắm trại. Tại sao có ca đoàn nếu không phải ca đoàn chỉ gồm những người thích hát, thích hát trước rồi mới có ca đoàn. Ca đoàn không thể có khi không có ai thích hát. Tại sao có những người chỉ thích hướng đạo mà không thích gia nhập ca đoàn? Lẽ đương nhiên vì họ thích những hoạt động ngoài thiên nhiên hơn.

Xét như thế, những người trẻ không ai giống ai. Có những đoàn thể khác nhau vì có những nhóm người thích kiểu sinh hoạt giống nhau. Vậy nguyên nhân nào đã thúc đẩy có người có chủ trương một đoàn thể cho giới trẻ. Trẻ không có chủ trương này vì trẻ gia nhập đoàn thể chứ không đặt vấn đề chủ trương đoàn thể. Họ kiếm môi trường họ thích chứ họ chưa biết tạo môi trường họ thích. Không phải người trẻ thì người không trẻ, người lớn. Người lớn là ai và tại sao họ chủ trương như thế?

Hầu hết mọi người chủ trương "trăm hoa đua nở", bởi họ nhận ra rằng người trẻ không thể nào chấp nhận bị gò bó trong một khuôn khổ mà họ không thích. Người trẻ đã không thích, trời sập họ cũng không cần biết. Họ chỉ biết họ không thích thì không ai có thể ép họ được. Bởi chỉ một số người trẻ thích và cảm thấy phù hợp trong một khuôn mẫu nào đó nên chủ trương trăm hoa đua nở phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Thử kể sơ sơ: Hướng Đạo, Thiếu Nhi Thánh Thể, Thánh Linh, Linh Thao, Cursillos, Công Lý Hòa Bình, Tông Đồ Cầu Nguyện, Đạo Binh Xanh, Hùng Tâm Dũng Chí... Trong Giáo Hội, nào cả bao nhiêu dòng nữ, bao nhiêu dòng nam. Tại sao không gom tất cả các thứ dòng nam nữ vào một. Có lẽ người có chủ trương một đoàn thể cho giới trẻ nghĩ rằng họ là đấng cứu độ mới cho nhân loại chắc. Cả Giáo Hội Công Giáo không bao giờ dám đề nghị, đề nghị thôi chứ chưa dám nói đến thực hiện, họp chung các dòng, thế mà có kẻ muốn gom chung giới trẻ trong một đoàn thể. Chính ngay Chúa Giêsu cũng chỉ mới dám nói đến hợp nhất trong đức tin thôi chứ chưa dám nói tới mọi người phải theo đạo Công Giáo. Người chủ trương một đoàn thể cho trẻ có lẽ sinh lầm thế kỷ. Nếu họ được sinh ra trước Chúa vài năm, có lẽ họ được ghi tên trong Phúc Âm về việc dạy Chúa ra lệnh gom góp mọi người vào một tổ chức.

Chủ trương gom góp giới trẻ vào một đoàn thể có lẽ được cưu mang bởi tham vọng nắm đầu toàn bộ giới trẻ. Bảo sao chúng nghe vậy ai mà không ham. Chỉ một lệnh của mình, thiên hạ tiền hô hậu ủng. Mình muốn thế nào, được như thế, ai mà không thấy sướng rên. Điều này càng trái với lời Chúa. Trong Phúc Âm, Chúa dạy ai muốn trở thành người có địa vị cao nhất, hãy làm những việc hèn mọn nhất giúp người khác. Gương Chúa rửa chân có lẽ bị hiểu ngược lại. Câu "Con người đến không phải để làm chủ" biến mất chữ không. Như thế, thay vì giúp trẻ thăng tiến theo từng khả năng, hiểu biết, đường lối của chúng, gom trẻ lại làm một đoàn thể chỉ để ra lệnh chúng làm theo ý mình. "Con Người đến để ra lệnh" không có trong Phúc Âm mà ngược lại với Phúc Âm. Những gì ngược lại với Phúc Âm ngược lại ý Chúa, ngược lại ý Chúa là kẻ thù của Chúa. Kẻ thù của Chúa là kẻ thù của chúng ta. Chúng ta chỉ được phép yêu thương kẻ thù chứ không được phép giúp kẻ thù chủ trương chống lại Chúa. Ai giúp người khác chống lại Chúa tức là chống chính Chúa.

Người chủ trương một đoàn thể cho giới trẻ có tham vọng "đến để ra lệnh". Đến để ra lệnh phản nghịch lại "con người đến để phục vụ". Không những thế, tham vọng đến để ra lệnh còn đi ngược lại với con người vì kẻ chỉ muốn ra lệnh cho người khác làm là kẻ không biết tôn trọng giá trị của người khác. Họ coi người khác như là thứ nô lệ cho chính họ. Bạn nghĩ thế nào về chỉ một đoàn thể cho giới trẻ?

VẾTTHƯƠNGTUỔITRẺ

Đã bao nhiêu lần tuổi trẻ chúng tôi đọc được những hàng chữ trên các tạp chí, đặc san về mối than phiền của các bậc đàn anh, đàn chị như tuổi trẻ mất gốc, chạy theo thời, tuổi trẻ thác loạn, quên hoặc bỏ rơi văn hóa... Thế rồi những đề nghị, những lời kêu gọi bảo tồn văn hóa, phát huy văn hóa... với những giọng điệu đầy nhiệt huyết, thâm tình đôi khi tới độ đãi bôi, huênh hoang với những ý kiến nông cạn không đưa ra được một đề nghị dù chỉ nhỏ nhoi có thể thực hành được trong tầm tay với.

Đem tuổi trẻ chúng tôi ra mà mổ, hỡi các bậc đàn anh, đàn chị! Có phải quí vị đang nói lên tiếng nói phản ảnh lại những sự thiếu sót của chính quí vị, những lỗi lầm quí vị đã gặp phải, không dám chấp nhận và dùng chúng đổ lên đầu chúng tôi? Nói rằng chúng tôi mất gốc, chúng tôi có gốc đâu mà mất. Quí vị làm ơn bới ra, vạch trần gốc của chúng tôi xem nó ở đâu và nó thế nào. Có phải quí vị đang cảm thấy nuối tiếc những gì vàng son đã mất mát của thời đã qua mà chúng tôi không có. Đó là gốc của quí vị chứ không phải gốc của chúng tôi. Những ngày quí vị hùng hồn oai vệ trên diễn đàn danh vọng thời xưa ấy, chúng tôi chưa có trứng! Những lời ca tụng hoa mỹ đến với quí vị thời oanh liệt ngày nào, chúng tôi không được biết. Gốc chúng tôi đâu?

Chúng tôi mang dòng máu đỏ, da vàng, tóc đen, và mũi tẹt, tuổi hãy còn trẻ; chúng tôi đang chờ quí vị, những đàn anh đào tạo gốc cho chúng tôi. Chúng tôi học bằng tiếng Mỹ, nói bằng tiếng Mỹ, thở không khí Mỹ, ăn đồ ăn Mỹ; mọi sự đến với chúng tôi nơi môi trường Mỹ. Chỉ có thể nói được rằng chúng tôi sinh ra từ dòng máu Việt nhưng được vun xới nơi cánh đồng Mỹ và lớn lên bởi bắt rễ từ hoa màu Mỹ. Gốc chúng tôi được cấu tạo như thế nào?

Tuổi trẻ chúng tôi thác loạn? Có phải quí vị so lối sống của chúng tôi bây giờ với lối sống của quí vị ba mươi hay năm mươi năm về trước và gọi nó thác loạn? Chúng tôi thác loạn tại chúng tôi không sống giống như quí vị thời son trẻ hay chúng tôi thác loạn vì chúng tôi không biết nó thác loạn? Chúng tôi thác loạn vì chúng tôi sống theo kiểu của chúng tôi hay vì chúng tôi không sống theo kiểu của quí vị? Nếu đem so sánh kiểu sống bây giờ của quí vị với lối sống ba mươi năm trước đây quí vị đã sống, quí vị sẽ nói sao? Trong Hán văn có câu: "Đa thọ, đa nhục." Chúng tôi xin tạm hiểu là càng sống lâu càng thấy mình nhiều lầm lỗi. Cứ theo ý nghĩa này, tuổi trẻ hơn, ít lầm lỗi hơn. Nếu nói thác loạn là điều sai lầm thì phải nói rằng quí vị thác loạn hơn bởi đa thọ đa nhục.

Chúng tôi không biết làm sao để khỏi bị gọi là thác loạn. Ai chỉ cho chúng tôi lối sống khác mà chúng tôi có thể chấp nhận được hầu tránh lối sống thác loạn. Chúng tôi chỉ có kinh nghiệm với tuổi trẻ non dại của chúng tôi rằng "Người ta chỉ đề nghị những điều họ không thể thực hiện được," bởi nếu điều gì họ đã thực hiện, họ đâu cần nhắc tới! Điều mình mong ước lại là điều mình chưa có hoặc có chưa đủ. Cho nên, nếu có những lối sống của quí vị đề nghị cho tuổi trẻ chúng tôi chăng, thì chúng cũng chỉ là lối sống mà quí vị không thể thực hiện nổi hoặc quí vị đã không bao giờ thực hiện. Quí vị đã không thể thực hiện nổi, tuổi trẻ chúng tôi cũng chỉ thế thôi, không hơn quí vị đâu!

Tuổi trẻ chúng tôi chạy theo thời! Sống với những người chung quanh, nếu chúng tôi không giống họ, chúng tôi sẽ bị đào thải. Họ sẽ nhìn chúng tôi với những ánh mắt lạ kỳ; chúng tôi sẽ trở thành thứ "thượng đóng khố đi giầy" giữa những người mặc quần hai ống. Thật ra, có chạy theo thời, sống dung hòa với những người chung quanh thì cũng chỉ như sự văn minh đổi váy ra quần để rồi lại cũng đổi quần ra váy mà thôi, nhưng phải tùy thời! Tùy thời hay theo thời cũng thế! Quí vị có theo thời không? Tất nhiên, quí vị đang chạy theo thời với kiểu của quí vị.

Nếu nói rằng không giống quí vị là chạy theo thời thì quí vị cũng đang không giống với chính quí vị ba mươi năm trước đây. Ai không phải thay đổi cho phù hợp với cuộc sống hiện tại. Trong quí vị, hỡi những bậc đàn anh, đàn chị, còn có ai mặc áo dài khăn đóng khi ra ngoài đường để giữ lấy gốc không? Còn có ai thích nhai trầu nhuộm răng cho khỏi lạc giống nòi không hay quí vị "đóng bộ đồ tây, tay kẹp điếu thuốc..." Có lẽ chính những ý nghĩ chê thuốc lào là bẩn, là dơ đang gọt rửa gốc của quí vị. Sự từ từ gọt rửa này không là theo thời thì là thứ chi? Quí vị quên mất câu "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài," mặc dầu quí vị đang làm theo, sao lại lên án chúng tôi, tuổi trẻ?

Bao nhiêu người trong quí vị hô hào bảo tồn văn hoá, phát huy văn hóa. Tuổi trẻ chúng tôi không thực sự hiểu rõ chữ "Văn Hóa" là gì! Hy vọng quí vị hiểu rành mạch ý nghĩa của nó. Nếu không hiểu, quí vị hô hào làm chi cho phí sức, uổng công! Lật tự điển Việt Mỹ, chữ "Văn Hóa" được dịch là culture. Chữ culture bao gồm chữ cult. Gốc của chữ này có thể bởi chữ cultus trong tiếng Latin. Họ hàng liên hệ với chữ cult là cultivate, cultivation. Trong tự điển Frunk & Wagnalls, chữ culture được giải thích theo nhiều nghĩa. Một trong những ý nghĩa của nó là "The development and refinement of mind, morals, or taste." Ý nghĩa theo nhân chủng học của nó, tự điển này giải thích: "The sum total of the attainments and learned behavior patterns of any specific period or people." Theo Phạm Quỳnh, quí vị thừa biết, "Văn là vẻ đẹp." Không hiểu Phạm Quỳnh định nghĩa chữ "Hóa" thế nào! Theo nghĩa thông thường, hóa là biến hóa, thay đổi, có thể nói là sự tiến triển. Nói đến biến hóa, thay đổi, ý nghĩa này mang tính chất động, biến động không ngừng. Như thế, nói theo Hán tự, hóa là "dịch". Đem gom nghĩa của hai chữ "văn" và "hóa" lại thì văn hóa nói lên sự tốt đẹp, vẻ đẹp biến đổi không ngừng của một dân tộc. Nó đã biến hóa, thay đổi, mang tính chất triền miên động thì sao lại kêu gọi bảo tồn. Lấy gì để có thể tồn trữ được sự biến động? Nếu nói rằng giữ lấy những vẻ hay, vẻ đẹp đã chết thì giữ làm gì bởi nó đã chết, không còn sống động, cần gì phải giữ, phải theo. Hơn nữa, có giữ cái gì đã "chết" thì lại trở thành không giống ai, không được bất cứ ai chấp nhận! Nếu nói rằng giữ lấy những vẻ hay, vẻ đẹp biến động thì phải biến đổi, phải thay đổi cho kịp với tính chất biến động của văn hóa. Đã thay đổi, tức là theo thời, thế sao lại kêu gọi bảo tồn? Quí vị kêu gọi bảo tồn có phải kêu gọi tuổi trẻ chúng tôi sống sao cho giống quí vị? Quí vị có bảo tồn văn hóa không hay cũng đang sống theo thời mà kêu gọi chúng tôi bảo tồn! Thử nhìn kỹ lại, gốc chúng tôi ra sao mà nói bảo tồn? Có chăng, chúng tôi chỉ bảo tồn được những gì chúng tôi đã có và sẵn có. Quí vị muốn chúng tôi bảo tồn lối sống của người Mỹ, ngôn ngữ Mỹ có phải không? Quí vị hãy chỉ cho chúng tôi "văn hóa" mà quí vị đang kêu gọi bảo tồn như thế nào! Thử cho chúng tôi nhìn thấy một chút xíu thôi, hoặc rờ tới văn hóa của quí vị xem nó ra sao! Nếu quí vị hô hào bảo tồn sự trống rỗng thì quí vị sẽ không có gì để chứng minh, để chỉ cho chúng tôi hoặc không có gì có thể đưa ra cho chúng tôi đụng tới! Quí vị đàn anh, đàn chị, quí vị đang hô hào chi vậy?

Chúng tôi, những người trẻ đang mang nặng vết thương bởi sự dày đạp bằng lời nói của lớp người đàn anh, đàn chị. Những lời nguyền rủa của họ như "thác loạn," "bỏ rơi văn hóa," "mất gốc" đang hằn in trong tâm não chúng tôi. Lớp đàn anh chúng tôi đang nói cho sướng cái miệng của họ. Có thể nói, họ đang dùng lớp đàn em sinh sau đẻ muộn, không biết mô tê gì về quá khứ của lớp đàn anh để làm thùng rác rồi quẳng vào đó, bằng miệng của họ, tất cả những sự xấu xa mà họ có thể gán cho. Nếu những sự xấu xa này là những gì họ gán cho chúng tôi, chúng tôi không cần biết, chúng tôi không cần phải nghe hoặc để ý đến, nhưng nếu những sự xấu xa này là của chính họ, có lẽ họ nên và cần đặt vấn đề lại! Chúng tôi đang ngoi ngóp với vết thương nặng nề của tuổi trẻ, tác phẩm của lớp đàn anh, đàn chị chúng tôi.

Hỡi những người thuộc lớp đi trước chúng tôi, xin hãy nhúng tay làm một cái gì chứng minh cho chúng tôi thấy. Chúng tôi chán ghét những sự tuyên truyền đầy vẻ tốt lành nhưng dị hợm, và dùng chúng tôi như bàn đạp để hy vọng có được chút danh vọng hão huyền rồi! Chúng tôi cần những chứng minh cụ thể. Những ý kiến cao vời, tốt lành, chúng tôi đã và đang nghe đến độ mệt lả, nhưng những chiếc lá khô rơi rụng bên đường thì không ai thèm quét; nói theo kiểu Andrew A. Rooney.

Hãy làm gì để chứng minh, hỡi các bậc đàn anh, đàn chị! Cha ông chúng ta có câu: "Sóng trước đổ đâu, sóng sau đổ đó." Nhưng lớp trẻ chúng tôi không thèm đổ theo những sự gì được gọi là xấu xa dưới con mắt chúng tôi đâu!

TỰDO

Không ai muốn bị bó buộc hoặc cấm đoán trong khuôn khổ nào đó ngoại trừ trường hợp tự ý do đó mọi người thích tự do. Tự do là nhu cầu không những thuộc về tâm linh mà còn là đặc tính thiết yếu trong cuộc sống của một con người. Xét chung trong các loài động vật, tự do mang nghĩa đơn thuần và thường bị lạm dụng hiểu lầm là muốn làm gì thì làm. Chẳng hạn con chim, tự do bay nhảy, ăn ngủ. Con cá tự do bơi lội dưới nước tới bất cứ đâu. Những con thú hoang không bị ràng buộc bởi bất cứ gì, tha hồ nhởn nhơ kiếm ăn sinh sống.

Tự do hiểu theo nghĩa đơn giản này mới thoạt nghe coi bộ không giới hạn. Ai không cảm thấy muốn được tự do như loài chim, hoặc oai hùng như loài hổ, tất cả các loài dã thú phải sợ. Nhưng thử nghĩ kỹ thêm, tự do tự bản chất đã mang sự trái nghịch không có nghĩa vô giới hạn theo nghĩa muốn làm gì thì làm, muốn thế nào thì được thế ấy. Cá sống nơi sông hồ nước ngọt tất nhiên không thể bơi ra biển hoặc bay nhảy như chim bởi cá bị giới hạn bởi chính tính chất của cá. Chim không thể bơi dưới nước hoặc bay vượt ra khỏi bầu khí quyển vì nếu thế chim sẽ chết. Xét như vậy, tự do tự nó mang nghĩa giới hạn mà ít ai để ý. Tự do tùy thuộc giới hạn trong điều kiện lệ thuộc và tự do mang nghĩa tinh thần, ý thức hệ chứ không phải mang nghĩa muốn làm gì thì làm.

Trong cuộc sống của loài dã thú, chim muông, cá biển, luật rừng mạnh được yếu thua hoặc cá lớn nuốt cá bé là định luật sinh tồn cho muông thú. Ngược lại, luật rừng này chỉ được chấp nhận nơi xã hội loài người khi họ sống trong thời kỳ sơ khai, chưa biết luân thường đạo lý là gì, ngay cả chưa biết làm chiếc lều để trú ngụ hoặc chế tạo quần áo mà mặc.

Tới khi con người biết sống hợp quần tạo thành từng nhóm hoặc bộ lạc, rồi đến quốc gia... nghĩa là con người đã biết lập thành những xã hội nhỏ hoặc lớn, bất cứ cỡ nào, cũng đều có một số lề luật mà mọi người thuộc xã hội đó phải tuân theo để bảo vệ không những cho chính mình mà còn cho người khác, thì sự tự do của mỗi người lệ thuộc vào những luật lệ và ý thức hệ nơi xã hội mình đang sống. Vì thế, có những lề luật nơi xã hội này cấm đoán mà xã hội khác không hoặc cũng cùng một sự kiện nhóm người này có thể chấp nhận trái lại nhóm người khác không như trong trường hợp liên hệ tới ý thức hệ. Chẳng hạn vấn đề đa thê những người Thiên Chúa Giáo không chấp nhận trong khi người đạo khác tại Việt Nam lại coi là sự thường. Người theo Phật Giáo tại Việt Nam có thể chấp nhận tự do lấy hai vợ trong khi người Thiên Chúa Giáo không. Người Tây Phương với ý thức hệ bắt nguồn từ Thiên Chúa Giáo không chấp nhận hai vợ do đó các quốc gia Tây Phương không chấp nhận đa thê; thế nên, dù người nào được sinh trưởng trong chế độ đa thê cũng không được chấp nhận thực hiện ý thức này nơi xã hội Tây Phương.

Xét như thế, chỉ những loài muông thú không có trí khôn mới có thể có tự do muốn làm gì thì làm dầu tự bản chất được sinh ra đã bị giới hạn. Con hổ đang dưng gầm lên phá tan bầu không khí tĩnh mịch của đêm khuya, khua động giấc ngủ muông thú làm chúng giật mình bay toán loạn. Con chim muốn bay đâu thì bay, đậu đâu thì đậu, và thế rồi còn làm dơ cả hồ nước tắm của người khác... Con chó chạy loanh quanh, cắn sủa lung tung, và bậy bạ bất cứ chỗ nào trên đường phố hay trong vườn, sân cỏ... Nếu tự do hiểu theo nghĩa này, chỉ là thứ tự do rừng rú không thuộc về con người.

Loài người lại khác hẳn, tự do chỉ được hiểu theo nghĩa liên đới trong xã hội nếu xét về hành động hoặc cách sống. Bạn có chiếc xe, muốn lái trên đường nào cũng được nhưng phải tùy vận tốc được quy định để bảo vệ sự an toàn không gây tai nạn chứ không phải lái xe đâm vào nhà người khác rồi viện cớ tự do lái xe. Tự do theo kiểu rừng rú này không dành cho thứ người. Bạn có máy hát tốt, không phải cứ tự do mở lớn làm phiền giấc ngủ người khác ban đêm. Nếu xử dụng tự do nghe nhạc một cách sai lầm phá giấc ngủ người khác, kết cục sẽ được ăn búa, ấy là chưa nói đến những phiền hà trước khi ăn búa. Nói cách khác, tự do chỉ trong khuôn khổ liên đới giữa những con người chứ không có gì được gọi tự do tuyệt đối vô giới hạn trong cuộc sống xã hội.

Con người không phải chỉ có cuộc sống hữu hình, bao gồm những hành động có thể trông thấy hoặc rờ mó được mà còn bao gồm cuộc sống tâm linh, tư tưởng... Về phương diện tâm linh, tư tưởng, con người có tự do tuyệt đối. Bạn muốn nghĩ gì thì nghĩ, không ai có quyền cấm đoán, dù chỉ là ý nghĩ nghi ngờ của bạn. Bạn muốn tin gì thì tin, chẳng ai được phép hoặc có thể bắt bạn phải tin theo họ. Tự do tư tưởng, tâm linh thường đi kèm theo tự do ăn nói để truyền bá điều mình cho là đúng, nên theo. Tuy nhiên tự do ăn nói, phát biểu có những giới hạn riêng của nó. Chẳng hạn, bạn không có tự do ăn nói tuyệt đối để chửi bới người khác, hoặc viện cớ tự do ăn nói để vu vạ cáo gian, hoặc nói xấu kẻ khác. Nếu viện cớ tự do ăn nói để làm như thế, ăn nói đâu không thấy mà chắc chắn sẽ bị ăn đòn. Có những người mượn cớ say rượu để lạm dụng vấn đề ăn nói và cho rằng rượu bia nói chứ không chủ đích nói như vậy. Mượn cớ như thế chỉ là một thứ láu cá, bịt mắt người không để ý. Nếu đã say lẽ dĩ nhiên chỉ nói dại chứ không thể nào nói khôn, thế mà ông say, ông chửi bố người khác, ông không chửi bố ông. Ông say khôn! Tất nhiên ông say khôn ông sẽ lãnh thẹo hoặc ôm hận cả đời. Mà ông khôn thật... nên hết khôn dồn ra dại...

Tự do ăn nói còn bị giới hạn về phương diện khác, đó là sự lạm dụng niềm tin hoặc tôn giáo của người khác mà bắt họ phải làm những chuyện không hợp lý hợp tình. Tôn giáo chỉ dạy con người sống ngay thẳng tốt lành chứ không phải trở thành bè phái hoặc giương oai điệu võ. Tôn giáo chú trọng về cuộc sống tâm linh chứ những hoạt động bên ngoài chỉ là phần phụ mặc dầu những hoạt động này khuyến khích và làm tăng trưởng niềm tin. Dùng tôn giáo để chứng tỏ ta đây hay, giỏi, có tài, thay vì khuyến khích con người sống tiến tới chân, thiện, mỹ lại càng đi ngược lại tôn giáo. Thế nên, những sinh hoạt tôn giáo là những sinh hoạt đạo đức chứ không phải màn kịch hay đóng phim. Dĩ nhiên, bất cứ xã hội nào cũng có những lề luật sống; tôn giáo cũng cần có những lề luật tinh thần kèm theo sự thực hiện niềm tin. Một điều ít người để ý là bất cứ lề luật nào làm hại đến con người đều trở thành tội lỗi. Đó là lý do tại sao có những luật trừ. Luật trừ không áp dụng luật cho người tự bản chất hoặc vương vào điều kiện không thể thi hành luật. Thí dụ: luật giữ chay nơi đạo Công Giáo. Những người bệnh cần phải ăn nhiều bữa để giữ gìn sức khỏe cho sự chữa trị không bị luật buộc; các cụ già trên số tuổi nào đó cũng không bị luật buộc...

Tự do ăn nói bị giới hạn nơi khuôn khổ làm hại con người nhưng khi con người bị áp chế thì quyền nói lên chống lại sự áp chế lại được bảo vệ. Bởi thế không ai có quyền cấm người này nói chuyện với người kia bằng bất cứ cách nào hoặc giá nào bởi sự cấm đoán đã tự ẩn chứa những mưu đồ muốn che dấu. Ở những nước nghèo, chậm tiến, quyền chống lại áp bức được coi như không có hoặc chỉ có trên giấy tờ. Nơi những nước văn minh, đường dây điện thoại là phương tiện hữu hiệu giúp những người bị áp bức có thể nói lên điều khổ ải của mình với những người có quyền hành giải quyết giúp mình. Đó là một phần lý do tại sao nơi những nước văn minh người dân sống thoải mái hơn về phương diện tinh thần, tránh được những ấm ức không thể nói ra và không ai biết tới.

Một trong những quyền tự do nơi một người mà không ai có quyền ảnh hưởng là vấn đề chọn lựa lối sống của mình: sống độc thân hoặc hôn nhân. Những cuộc hôn nhân gượng ép, bị ép gả, ảnh hưởng bởi bất cứ lý do, điều kiện nào như tiền bạc, có bầu trước khi cưới hỏi, danh dự gia đình... đại khái không phải là ý muốn hoàn toàn tự do của người bước vào hôn nhân... đều không thành. Dẫu có sống với nhau, có con cái, và dù cho có bao nhiêu năm tháng chịu đựng thì hôn nhân vẫn không thành. Hơn nữa, người bị ép gả thường khinh khi người phối ngẫu. Đàn ông bị gả ép trước sau sẽ theo đuổi người đàn bà khác. Đàn bà bị gả ép sẽ coi khinh chồng và coi sự ăn nằm vợ chồng như là bị cưỡng đoạt nên sinh hận một đời. Chính vì thế sự gả ép hôn nhân bị cực lực lên án.

Có những trường hợp xử dụng sai lầm quyền tự do sẽ đưa đến những tai hại không thể ngờ; chẳng hạn vấn đề tự do mượn người đi ghe, tàu đánh tôm cá. Sự trả tiền mặt thuê những thành phần bất hảo để trốn thuế xem ra có lợi chút ít mà mang lại thiệt hại lớn lao. Những vụ mất cắp trên tàu nếu không có người chỉ điểm sao có thể xảy ra bởi người ngoài đâu ai biết trên tàu mình có gì, đường đi nước bước thế nào ngoại trừ người đi trên ghe. Hơn nữa những thành phần bất hảo đang bị truy nã đi trên tàu dầu không ăn cướp nhưng chỉ điểm cho băng đảng từ nơi khác về cướp. Nói rộng hơn, chính dùng sự tự do của mình một cách sai lầm trong trường hợp này không những đã dung dưỡng mà còn tiếp tay thực hiện tội ác cho chính mình. Thực tế cho thấy, những tầu bị cướp đều do chủ tầu chấp chứa những thành phần bất hảo mà ra. Lợi chẳng bỏ hại, những người này đã tự chấp nhận món lợi nhỏ để rước lấy mối hại lớn lao do thực hiện sai lầm quyền tự do của mình.

Lẽ đương nhiên, mề đay nào cũng có mặt trái của nó. Sự hiển hách công lao càng cao bao nhiêu thì sự khó nhọc vất vả đòi hỏi năng lực tự chế, ý chí kiên cường bền bỉ càng gấp bội bấy nhiêu để tạo dựng danh tiếng hoặc cơ đồ. Thường thì người ta chỉ trầm trồ chiêm ngưỡng vẻ bên ngoài cao sang của những tòa lâu đài vĩ đại mà không để ý đến nền tảng được chôn vùi dưới đất để giúp tòa lâu đài đứng vững. Con người có tự do để xử dụng tự do của mình, thực hiện ý mình muốn thì chính tự do của mình lại cũng bị ý mình muốn hạn chế. Người muốn có thân hình đẹp, cường tráng phải tập luyện thể dục, tuân theo giờ giấc luyện tập, ăn uống điều độ và lại cũng phải tuân giữ những điều cấm kỵ như uống rượu, hút thuốc hoặc bất cứ gì làm hại sức khỏe. Người muốn trở thành bác sĩ phải chấp nhận học hành cực khổ để chu toàn những điều kiện học hỏi, dành tất cả thì giờ cho mục đích. Muốn trở thành bác sĩ mà không lo học, chỉ lo chơi tức là đã tự phá hủy mộng của mình. Xét như vậy, chính tự do của con người đã giới hạn sự tự do.

Nói tóm lại, tự do có hai mặt: một mặt tự do chọn lựa mình trở thành thế nào, tự do quyết định ra sao để theo. Mặt khác, khi đã chọn lựa tức là đã chấp nhận từ bỏ một số điều kiện khác. Một người chấp nhận lập gia đình tất nhiên đã tự từ bỏ cuộc sống độc thân. Thế nên, ai đã dùng tự do của mình để chấp nhận thực hiện điều gì thì đồng thời cũng dùng tự do để tự chấp nhận cấm đoán mình không thực hiện hoặc từ bỏ những điều khác trong liên hệ cuộc sống.

Ai cũng nhận thấy tự do là quí mà xử dụng tự do không dễ gì. Có một điều người ta ít để ý và đó là tự do quyết định và chấp nhận mình sẽ trở thành thế nào là một hồng ân của Thượng Đế nơi mỗi người và sự tự do này rất tuyệt đối. Thời gian qua có thứ được gọi là đạo Satan nổi lên; theo kinh nghiệm những người làm việc giúp các nạn nhân của đạo này cho biết, chính Satan cũng không thể làm gì nổi một người khi người đó không chấp nhận quyền hành của Satan trên họ. Có thể nói, dẫu chính Thượng Đế đã ban cho con người tự do cũng tôn trọng tự do của con người. Chính vì tự do mang giá trị tuyệt đối này, sự thực hiện tự do cần sự hiểu biết và tập luyện năng lực ý chí. Ai không tập luyện, học hỏi để xử dụng quyền tự do nơi mình thì suốt đời chỉ là nô lệ cho chính sự thiếu hiểu biết. Dĩ nhiên, không ai muốn làm nô lệ. Hơn nữa, nếu mình còn muốn được tự do tức là mình đang không hiểu tự do là gì. Mình còn đang cảm thấy không nói lên được điều muốn nói tất nhiên mình không biết cách nào để thực hiện quyền tự do ăn nói. Thượng Đế không bắt mình câm thì không ai có quyền cấm hoặc đàn áp mình không cho nói.

PHÉPLẠ

Khí hậu buổi chiều vào khoảng ba giờ của mùa hè nơi miền nam nước Mỹ thật oi bức, nhất là vào đầu tháng tám khi chúng tôi tham dự ba ngày tĩnh tâm tại Carmel Center bên kia cầu hăm bốn miles của thành phố New Orleans. Mặc dầu chung quanh ngôi nhà tĩnh tâm là những bãi cỏ và rừng thông bao bọc, không khí oi bức và ẩm ướt của miền đất gần hồ làm chúng tôi cảm thấy nhớp nháp mỗi khi bước ra khỏi cửa. Rải rác đây đó, anh chị em Đoàn Thánh Linh người thì ngồi dưới gốc cây tay cầm tập thánh ca và thần trí như phóng vào cỏi vô hình nào đó suy gẫm. Kẻ xoãi dài trên băng ghế lấy hai tay làm gối dõi tầm mắt nơi khoảng không gian vô định chừng như mơ hồ quên mất thế giới chung quanh để lạc tâm hồn vào chốn huyền nhiệm suy tư. Người đu đưa trên chiếc võng nối liền giữa hai cây thông thẳng tắp cao vượt qua nóc tòa nhà hai lầu, tập thánh ca mở úp trên mặt, hai bàn tay nửa chắp nửa giữ sách dường như bất động. Người chăm chăm bước dọc theo con đường sỏi trắng ngoằn ngoèo len lỏi giữa những hàng cây, đầu cúi, hai tay bắt sau lưng chừng như đang suy tính chuyện gì quan trọng. Đàng kia, hai ba mái đầu xanh chụm lại với những khuôn mặt trầm trọng đang thì thầm to nhỏ những chuyện gì gây cấn. Lác đác trên những thảm cỏ, vài nhóm nhè nhẹ vang lên giọng hát thánh ca.

Cha Trọng Ân hỏi tôi có ý kiến gì chuẩn bị cho chương trình cáo giải sẽ được thực hiện vào buổi tối sau cơm chiều. Ngài đã xếp đặt một chương trình nhưng vấn đề chính yếu là làm sao và bằng cách nào để gây được nơi mỗi người tâm tình thống hối hầu thêm một lần thực sự nâng tâm hồn xin hòa giải với Chúa. Tôi chỉ có thể đề nghị với cha để từng người xưng tội riêng nhưng ban phép xá giải chung trước khi cữ hành bí tích thánh thể để mỗi người có thêm thời gian thống hối sau khi xưng tội. Sau đó, tôi nêu lên vấn đề rằng cha cũng như tôi hoặc bất cứ ai đều muốn nói lên tiếng nói tận đáy tâm tư của từng người, cũng muốn có một vài nghi thức diễn tả tâm tình của mình với Chúa, nhưng cha hoặc tôi không thể nào nói lên đúng mức được những người trẻ cảm thấy thế nào và giải bầy tâm tình họ ra sao. Do đó, tại sao không để họ nói lên tiếng nói phù hợp với chính họ bằng cách để họ xếp đặt một chương trình cho nghi thức hòa giải. Cha Trọng Ân nói tôi họp Ban Điều Hành Đoàn Thánh Linh để xếp chương trình.

Tôi còn đang lang thang ngắm cảnh trong khi kiếm anh trưởng định nói về đề nghị xếp giờ họp ban điều hành, chị hội phó đã chạy như biến ngang qua tôi ra dấu về ngay phòng họp. Chưa biết chuyện gì xẩy ra bởi tôi không thể nghĩ được tại sao lại có cuộc họp bất thường, lạ lùng ngoài chương trình dự tính như thế. Tôi mau chân bước về phòng họp với ý định để khi gặp ban điều hành sẽ nói lên ý định của cha về vấn đề soạn chương trình cáo giải cho anh chị em vào buổi tối. Chừng hai phút sau, mọi người trong ban điều hành đã có mặt đầy đủ, luôn cả cha Trọng Ân. Ngài là người lên tiếng trước giải thích lý do cho cuộc họp bất thường này và lại là chương trình hòa giải cho anh chị em vào buổi tối. Cha mở đầu với câu hỏi mọi người nghĩ thế nào và có ý kiến gì để thực hiện một chương trình thực tế, dành để chuẩn bị tâm hồn anh chị em, cũng như nói lên tâm tình thống hối nơi mỗi người, và giãi bày thực sự tấm lòng mình trong nghĩa vụ giảng hòa với Thiên Chúa. Mọi người phát biểu nhận xét và ý kiến của mình đoạn sắp xếp những ý kiến thực hành cho có thứ tự và đề nghị anh trưởng đoàn chịu trách nhiệm kiếm người phân phối thực hiện chương trình. Cuộc họp tan sau mười lăm phút để mọi người có giờ tiếp tục suy gẫm.

7g45, sau khi ăn tối và dọn dẹp, nghi thức chuẩn bị hoà giải và thánh lễ bắt đầu. Bầu không khí im lặng đè nặng trên tâm tư mỗi người chừng như nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của diễn trình những nghi thức sắp tới. 8g00, từng nhóm nhỏ kiếm nơi yên tĩnh để chia xẻ tâm tư với Chúa. 8g45, mọi người trở lại với nghi thức hòa giải với anh chị em và chuẩn bị xưng tội...

Thời gian chậm chạp qua, người xưng tội trước dùng giờ chờ đợi bí tích xá giải để thống hối; người chờ đợi xưng tội có thêm giờ giãi bày tâm hồn với Chúa nơi nhà nguyện hoặc phòng đợi. 12g10, thánh lễ tiếp tục với lời nguyện hòa giải, tiếp theo đó, thánh thể. 12g30 thánh lễ chấm dứt. Chè chị phó đã sẵn sàng đợi mọi người từ hồi chiều. Chương trình chia xẻ với toàn thể anh chị em được nối tiếp. Người đầu tiên khởi sự là cha Trọng Ân, lần lượt tới mỗi người ngược chiều quay kim đồng hồ. 1g45 sáng, mọi người về phòng ngủ trừ ban điều hành ở lại họp cho chương trình ngày mai.

Sau khi thánh lễ vừa chấm dứt, ra tới phòng ăn để thanh toán chè, cha Trọng Ân nói với tôi, "Nhóm trẻ họ làm việc rất được. Chỉ cần nói ý kiến của mình cho họ rồi để họ bàn luận và xếp đặt chương trình làm việc là mọi việc hoàn thành tốt đẹp." Đối với tôi, câu nói này như kết luận của một phép lạ kể từ ngày tôi khởi sự tình thân hữu với Đoàn Thánh Linh khi tôi còn ở nhà tập SVD vào năm 1982. Điều mà tôi ưu tư là làm thế nào anh chị em Thánh Linh nhận ra giá trị và khả năng của chính họ. Khả năng họ đã có sẵn nhưng thường họ không nhận ra bởi có thể rằng họ không được ai chấp nhận hoặc minh chứng, hay nói cho họ biết. Thường thì những lời đề nghị đến tai họ trở thành mệnh lệnh. Tôi dùng chữ "phép lạ" bởi chính những sự việc đã xẩy ra chứng tỏ một cách hùng hồn tinh thần và ý thức về những việc mà những người trẻ trong Đoàn Thánh Linh đã làm.

Bạn đã bao giờ thử im lặng cầu nguyện và suy tư suốt hai tiếng liên tiếp chưa? Nếu bạn chỉ im lặng một giờ thôi trong tiến trình suy tư cầu nguyện để chuẩn bị tâm hồn cho bí tích cáo giải, tôi phục bạn sát đất. Tôi không thể nào làm được như thế. Thử nhìn chung quanh, tại sao những người lớn thích đọc kinh mà không thích im lặng chỉ độ mươi phút trong nhà thờ để cầu nguyện riêng với Chúa. Tôi muốn nhấn mạnh chỉ mươi phút im lặng cầu nguyện. Tôi chỉ thấy nếu không đọc kinh chung, người lớn đọc kinh riêng. Im lặng, tôi không thấy chút nào hết. Tôi nghĩ rằng họ biết cầu nguyện. Nói với Chúa cũng như nói chuyện với người khác, có gì khó đâu nên ai mà không biết. Thế tại sao họ đọc kinh? Có phải là họ không giữ thinh lặng được để cầu nguyện không? Tôi sợ sự im lặng này, tôi không thể im lặng được một giờ nên tội phục bạn khi bạn giữ được. Vì tôi thấy nó khó nên tôi nghĩ những người lớn thích đọc kinh cũng chỉ tại họ không giữ im lặng được lâu giờ. Không tin bạn để ý thử coi, trong nhà thờ, chừng một phút, một phút thôi, nếu không có chương trình gì tiếp tục xẩy ra là ai nấy nhớn nhác, không phải chỉ trẻ con đâu, người lớn ấy, quay ngang quay ngửa, xì xào ngay lập tức. Và rồi sao? Kinh được cất lên, kinh cất lên bởi không biết quí trọng sự im lặng. Kinh cất lên để mọi người đọc cho khỏi nhớn nhác. Không biết im lặng thì nhớn nhác phải xẩy ra, có chi mà lạ.

Anh chị em Thánh Linh thực hiện chương trình cáo giải và thánh lễ từ 7g45 tối đến 12g30 nửa đêm, vị chi bốn tiếng bốn mươi lăm phút, không là một phép lạ thì là thứ gì? Lẽ đương nhiên, nếu cha Trọng Ân hay tôi xếp chương trình cho họ sẽ chỉ có một tiếng ba mươi phút hoặc ngắn hơn, họ sẽ la rùm làng lên là dài dòng, là lòng thòng, là phí phạm thời giờ, là không hiểu biết giới trẻ, là "boring" dầu cho thế nào chăng nữa, là đủ mọi hình thức không tốt đẹp...Tuy nhiên, bởi chính họ soạn chương trình, chính ban điều hành của họ được hỏi ý kiến, bởi chính họ có quyền quyết định những việc họ làm nên bốn tiếng bốn lăm phút đã không có gì là phí phạm thời giờ hoặc không hiểu trẻ... Họ làm phép lạ thôi, tôi nghĩ như thế. Tôi đã không thể ngờ được sự việc xẩy ra như vậy. Có lẽ, tôi chưa hiểu họ được bao nhiêu bởi nếu tôi chỉ hiểu họ được một nửa thôi, hy vọng rằng họ không bao giờ cảm thấy bực mình khi tôi làm việc với họ.

Từ những hiểu biết thêm về giới trẻ khi làm việc với Đoàn Thánh Linh, tôi nhận ra rằng, chính giới trẻ làm việc đắc lực gấp mấy lần mình mong ước về những vấn đề gì mình đề nghị mà họ có quyền quyết định làm hay không. Không thèm hỏi ý kiến rồi ra lệnh cho họ làm, chỉ chuốc lấy những hậu quả đắng cay. Họ không thèm nghe, dĩ nhiên, có nói cũng bằng thừa.

Chỉ Chúa biết tôi phải tự sửa đổi như thế nào. Tôi không biết. Vấn đề còn lại là tôi có dám hỏi những người trẻ rằng họ muốn tôi sửa đổi như thế nào chăng, và tôi có dám nói lên lời cám ơn họ khi họ cho ý kiến để rồi ghi nhớ nằm lòng mà liệu bề đổi mới hay không. Tôi tự sửa đổi hay không; có lẽ cứ nhìn vào thái độ của họ đối với tôi là có thể biết. Nhưng thường, tôi chỉ mơ họ thích tôi mà thôi!

SỐNGĐƠNGIẢN

Tôi vô nhà tập niên khóa 1982-1983. Ai mà không biết là sự học hỏi và thực tập sống theo ba lời khấn khó nghèo, độc thân, và vâng lời là những chủ đề của năm nhà tập. Khi học hỏi về sự khó nghèo cũng như thực hành đức tính này, chúng tôi đề cập đến vấn đề cuộc sống đơn giản. Chúng tôi phân tích khá nhiều khía cạnh của cuộc sống này qua những đề mục như: chiếc áo không làm nên thày tu, sự giàu có là thuộc về kẻ nghèo, dùng những phương tiện đơn giản trong cuộc sống, thức ăn, nhà cửa, thực trạng mình đang sống.

Nơi nhà tập có một nhà nguyện nhỏ đặt Mình Thánh, nơi chúng tôi đọc kinh sáng và nguyện gẫm cá nhân hoặc hai lần dự thánh lễ của nhóm tập sinh trong một tuần. Những tập sinh khóa trước trang hoàng bốn bức tường nhà nguyện với những nét họa tân kỳ đối chọi nhau bởi mầu sắc. Những nét họa này mang nét thẩm mỹ nơi những bộ óc giàu tưởng tượng của thời đại. Chúng tôi đem những nét họa nơi nhà nguyện ra mổ xẻ và cho rằng những nét sơn trên tường làm mất tính cách đơn giản của sự cầu nguyện cũng như cuộc sống của tập sinh. Hai người trong nhóm xung phong sơn lại nhà nguyện. Sau một tuần làm việc, nhà nguyện nhỏ được sơn lại hoàn toàn màu trắng. Những băng giấy màu xanh, vàng và đỏ nơi chiếc đèn néon trên trần cũng được gỡ ra. Nhà nguyện chỉ còn lại bốn thứ màu: màu gỗ mộc của những hàng song làm bình phong cho nhà tạm, màu đỏ của chiếc đèn chầu, màu trắng của căn phòng và nâu vân của chiếc thảm. Mọi người hoan hỉ, cảm ơn hai tập sinh xung phong sơn và xếp đặt lại nhà nguyện qua một tuần làm việc chăm chỉ.

Có những tập sinh sốt sắng hơn, nêu vấn đề nên đổi lại kiểu sống của chúng tôi. Tôi giật mình, nguy hiểm! Căn phòng tiện nghi gồm có phòng vệ sinh và tắm gọn gàng như các phòng khách sạn mặc dầu nhỏ hơn, bây giờ mà đem đổi lại giống những căn nhà lợp lá nền đất như tôi đã sống qua ở Việt Nam, có lẽ khó chấp nhận trên đất nước này. Tôi đề nghị một lý thuyết phản ngược lại ý kiến lành thánh đó: Vấn đề khó nghèo và sống đơn giản không phải là chúng ta phải ở nhà tranh vách đất như những người bên Phi Châu nghèo khó hay nơi vùng hạn hán bên Mễ Tây Cơ... Vấn đề là có sao chúng ta sống vậy. Tôi không đồng ý phá building hai lầu tiện nghi đang sống để xây lại những căn phòng đơn giản hơn. Tại sao chúng ta không chấp nhận những cái chúng ta đang có lại tìm kiếm những cái đơn giản hơn? Đơn giản hay không tùy thuộc cuộc sống của chúng ta chứ không phải tại nơi cái nhà. Mọi người đồng ý với ý kiến của tôi và từ đó không ai đề cập đến việc kiếm những căn nhà thực sự theo kiểu đơn giản như mọi người thường nghĩ tới.

Khi hai tập sinh đi mua sơn về bắt đầu việc sơn sửa lại nhà nguyện, tôi ghé qua, đứng nhìn họ làm và rỗi miệng nói: Chúng ta phải tốn tiền, tốn công sức để tìm kiếm sự dơn giản. Điều này không còn gì là đơn giản mà nó lại trở thành kiểu sống đơn giản mắc mỏ, một lối sống đơn giản phức tạp.

Cho tới nay, 1996, hơn mười năm qua, tôi vẫn còn bị những hình ảnh tốn tiền mua sơn trắng và công lao hai người làm suốt một tuần lễ để có được sự đơn giản của nhà nguyện nơi nhà tập. Tôi cảm thấy thật vô lý. Chuyện vô lý đã xảy ra; tôi đã chấp nhận nó, không chỉ mình tôi, cả nhóm nhà tập mười người mà có lẽ chỉ mình tôi bị cái vô lý đó ám ảnh.

Sống đơn giản là có sao sống vậy, cắt bớt những sự hoang phí, tốn tiền phi lý, không đòi hỏi những gì không cần thiết cũng như không làm cho sự việc trở nên phức tạp. Cả nhóm nhà tập chúng tôi đã phải trả giá mắc mỏ cho sự đơn giản của nhà nguyện thay vì chấp nhận nhà nguyện như đã sẵn có. Tốn tiền, tốn công sức để có một nhà nguyện đơn giản là cả một sự thực hiện không đơn giản chút nào! Chẳng lẽ sự đơn giản mắc mỏ đến thế sao? Và tại sao nó lại được gọi là đơn giản. Nếu cuộc sống đơn giản tốn phí tiền của và công sức hơn sự sống xa hoa, quí phái, tội gì phải tập tành và tiêu pha cho nó.

Tôi đã cảm thấy sự đơn giản của nhà nguyện là một sự phức tạp tổn ải bởi ý muốn và sự thực hành để có sự đơn giản này. Chấp nhận nhà nguyện với kiểu cách trang hoàng cũ đơn giản hơn hay đổi mới cho có vẻ đơn giản, đơn giản hơn?

Xét như thế, người nào còn tìm kiếm sự đơn giản để sống đang còn làm cho cuộc sống không đơn giản, đang làm rắc rối thêm cho cuộc sống. Người nào không thèm tìm kiếm sự đơn giản mới có thể sống đơn giản bởi chúng ta chỉ tìm kiếm những gì chúng ta chưa có hoặc còn thiếu. Hơn nữa, có lẽ ai còn có thể định nghĩa được cuộc sống đơn giản thì vẫn còn chưa sống đơn giản. Nhìn kỹ hơn, nếu sống đơn giản còn là có sao sống vậy thì vẫn còn chưa đơn giản tí nào bởi thực ra, cuộc sống đâu có đơn giản chi!

MẢNHVỤNSUYTƯ

Đôi khi tôi đọc truyện dịch của Quỳnh Dao, một tác giả người Trung Hoa. Những nhân vật Quỳnh Dao đưa ra có đầy rẫy cá tính riêng biệt kèm theo lối văn gợi cảm, lôi kéo người đọc vào hùa với tác giả để bị cuốn hút mà có tâm tư buồn, giận, thương, ghét những nhân vật trong truyện tùy ý tác giả xếp đặt. Cứ mỗi lần đọc xong một truyện của Quỳnh Dao, tôi lại tự lẩm bẩm: "Mình bị lừa thêm một vố nặng." Tôi phục Quỳnh Dao với thiên khiếu viết truyện, mặc dầu đã bị "dịch" thế mà vẫn hay; tôi vẫn mê say trong khi chúng tặng tôi những vố hụt hẫng, bực bội.

Bỗng một hôm, vô tình đọc nơi tờ báo nào đó không nhớ tên, một truyện ngắn đề tên tác giả Quỳnh Dao làm tôi chưng hửng, vừa đọc vừa thắc mắc tại sao lối văn lại tự nhiên khác biệt xa cách thế! Dẫu ngạc nhiên nhưng tôi lại phục Quỳnh Dao có thể viết tiếng Việt vì đã nghe và đọc ỷ Lan, người ngoại quốc, viết tiếng Việt phê hơn một số người Việt; LM Mominici Đỗ Minh Trí, S.J. cũng người ngoại quốc, viết và nói tiếng Việt rành rẽ; LM Thành nói tiếng Việt kèm thêm thơ văn Đoạn Trường Tân Thanh. Sau này, tôi mới nhận ra bài viết của Quỳnh Dao lối văn khác lạ với các truyện dịch không phải do Quỳnh Dao người Trung Hoa viết, mà là do một tác giả người Việt trùng bút hiệu Quỳnh Dao. Tôi bị bé cái lầm!

Lại một lần khác, vô tình nghe đến tên ca sĩ Bích Ngọc, tôi hỏi người nói là bà Bích Ngọc cũng là ca sĩ ư! Bà là người chuyên trị về sắc đẹp mà báo chí bìa trong bìa ngoài đó đây đăng hình quảng cáo cái đẹp của sửa chữa, khuyến khích các cô các bà làm đẹp cho trẻ mãi không già rầm rộ... có nơi nào quảng cáo bà Bích Ngọc là ca sĩ đâu! Dĩ nhiên, một điều kiện để trở thành ca sĩ nổi tiếng ngoài giọng hát là sắc đẹp... Vì thường thì người ta mê ca sĩ chứ có ai mê giọng hát ca sĩ đâu! Chả thế mà một khi ca sĩ nào đó bước lên xe hoa, tự nhiên bị giảm bớt thành phần bon chen ái mộ... Bà Bích Ngọc đăng hình quảng cáo đẹp lộng lẫy, nếu là ca sĩ nữa có lẽ đâu cần gì làm nghề sửa... Hát không đỡ vốn liếng và không kiếm tiền nhiều hơn sao! Tôi lại bị thêm bé cái lầm lần nữa. Ca sĩ Bích Ngọc không phải là bà Bích Ngọc sửa sắc đẹp. Xin đừng hiểu lầm! Sửa sắc đẹp là sửa xấu thành đẹp chứ không phải sửa đẹp thành xấu. Sửa đẹp thành xấu ai cũng làm được. Tôi hơi rườm rà vì lối nói ngược này không hiểu tự đâu phát xuất đã trở thành thông thường cũng như câu nói khám bác sĩ... Bác sĩ khám rõ ràng mà gọi là khám bác sĩ... Chính vì cái lắt léo của tiếng Việt mà tôi phục những tác giả ngoại quốc nói và viết được tiếng Việt... mà họ lại viết hay. Coi chừng nếu không được biết trước họ là người ngoại quốc, tôi đã bị thêm bé cái lầm cho họ là người Việt.

Thật ra, tôi bị lầm cũng nhiều, nhiều không thể đếm. Chẳng những lầm bởi kiến thức hạn hẹp của mình về người khác mà còn lầm về chính bản thân mình. Mới điều gì đó, ngày hôm qua còn gân cổ tranh cãi phần đúng về mình cho bằng được... cãi đến độ nước miếng bắn tung tóe... cãi xùi bọt mép, cãi như đang cố oánh võ mồm với kẻ thù... thế mà hôm nay, mới ngủ dậy đã thấy mình lầm đứt đuôi con nòng nọc để rồi nhớ lại cái hào hùng bướng bỉnh của con ếch ngồi đáy giếng coi trời kiến thức của thiên hạ bằng vung ngày hôm qua mà tự xấu hổ. Tôi còn có nhiều cái lầm lẫn khác, lầm do sự nhìn của cặp mắt; mới thấy thằng con trai đi phía trước, chợt nó quay lại, ngay bằng đứa con gái, hoặc đứa con gái có mái tóc chấm vai dễ thương đang yểu điệu đi cách mình vài bước; vụt một cái, nó đã biến thành thằng con trai có hàng râu mép bám quanh mồm chứng tỏ rõ ràng giống đực. Về ý nghĩ, sự suy luận, tôi lầm vô số kể mà không thể nào biết được tuy đã bao lần cố gắng phá ngu vẫn chưa thấy khá hơn.

Tôi còn nhiều lần bị lầm, trông gà hóa quốc hoặc nghĩ sai trật lung tung, nhất là nói chuyện với mấy người Mỹ càng bị lầm nhiều hơn. Có bận, vô quán cóc với mấy người bạn Mỹ nơi phi trường New Orleans, một chị người Mỹ đen nhưng xinh xắn hấp dẫn bán quán hỏi tôi muốn uống gì; tôi bập bẹ trả lời "hot black"; vừa mới nói xong, chị ta liệng tia nhìn vào tôi miệng buông tiếng "sh..." Tôi vô tình nào biết chi trong khi các bạn cười lên hô hố. Cái gì mà cười, tôi tự hỏi... Mãi sau mới biết mình vô tình, người khác hữu ý nên bị hố... Cái hố thiếu hiểu biết. Thế nhưng làm chi hơn được, nào tôi đâu phải mới sinh ra đã có thể biết hết mọi sự... Chỉ còn cách chấp nhận sự hạn hẹp bất đắc dĩ của mình, im miệng là tốt nhất. Khổ nỗi, tôi lại sợ hai làn môi nơi cái miệng ăn da non dính tịt vào nhau e hết đường ăn uống, không còn dịp thưởng thức những của ngon vật lạ trên trần đời chưa được bao giờ thử chăng nên chấp nhận cho chúng mấp máy. Cho phép chiếc miệng mấp máy lầm bầm một mình e người khác nói mình điên; do đó vì sợ bị coi là điên, tôi lại gia thêm chút nữa cho nó nói. Khỉ, làm sao mà giữ căn cơ được chiếc miệng của kẻ hay nói, thích nói như tôi! Không nói thì những người chung quanh đâu ai biết mình đang sờ sờ ra đấy, đâu ai để ý đến mình. Hơn nữa, nếu chỉ nói chuyện bình thường thì lại có vẻ rẻ tiền quá nên đã nói là lo nổ; đã nổ phải nổ cho lớn, cho to, người khác may ra mới nhận thấy tôi hay, tôi giỏi, mặc dầu cái đầu gần như rỗng tuếch. Đôi khi chẳng còn gì để nổ, để khoe thúng khoe mẹt về chính mình, tôi bới, tôi móc, tôi phê bình những chuyện trời ơi đất hỡi không ăn nhập gì đến thực tại. Tệ hơn nữa, muốn nổ cho ngon, lôi mấy tay cự phách, tiếng tăm rầm rộ ra chỉ trích, dùng họ lót đường, làm bình phong đoạn gán ép cái nhận xét ngu muội của mình vô cho người khác tưởng mình thông thái hầu quên hoặc xóa bớt phần nào tự ty mặc cảm hằn sâu trong tâm khảm về bộ não con ếch thăm thẳm nơi đáy giếng của mình...

Bao nhiêu lần nói, bấy nhiêu lần bị coi khinh, có người còn tệ hơn nữa, lúc tôi đang gân cổ, xùi bọt mép, họ ngồi im, lãng đãng không thèm nghe ra bộ chẳng có gì đáng chú ý. Đến lúc khác, tôi lại được nghe thấy người đó đã hạ mình thậm tệ khi vắng mặt. Thật là tức không để đâu cho hết... Nhưng biết sao hơn, họ chỉ áp dụng kỹ thuật nổ mình đã dùng... đáng đời. Người ta nói "chó ba khoanh mới nằm, người ba lăm hãy nói". Con chó ba khoanh mới nằm vì đâu có ai tranh chỗ nằm của nó đâu! Người ba lăm hãy nói thì còn gì cơ hội, không nói vội, thiên hạ nói trước dù cho ba lăm hay bẩy lăm cũng chỉ còn nước lẩm bẩm như tên khùng. Không chụp cơ hội nói cho kịp, đâu ai để ý đến mình. Lại nữa, cái miệng có cái lưỡi để làm gì, chẳng lẽ chỉ để ăn... Nếu không để nói thì tại sao biết nói! Những con thú không biết nói, chúng chỉ có cái miệng để kêu, để hú... Nếu chúng biết nói, chắc cũng đã nói. Không tin cứ thử vô thảo cầm viên, một bầy khỉ dù chẳng biết nói cũng đua nhau khẹc khẹc tùm lum đấy sao!

Nói quá hóa lỗi nhiều. Nói để mong được chú ý thì lại được nghe nhiều người phê bình chẳng ra gì. Tôi nghĩ, thì mình phê bình bậy bạ người khác tất nhiên họ phê bình bậy bạ về mình là lẽ thường, đàng nào cũng bậy bạ. Mình đã chẳng ra gì mà họ nói mình chẳng ra gì tức là họ nói đúng. Họ đã nói đúng, không cần cãi, chẳng lẽ cãi họ nói sai; mình có cãi họ nói sai thì tự chính mình đã nói sai, đàng nào cũng sai! Có điều, với tâm tình hướng thiện mặc dầu nổ, tôi cố gắng coi những lời châm chọc sau lưng mình chỉ như thứ gãi ngứa, ngứa miệng!

Có phải chỉ tại tôi thích nói chẳng ra gì về người nào đó, thích được mọi người biết tới, muốn cho mọi người có cảm nghĩ sai lạc là mình oai phong, cũng thế nọ thế kia nên đã không để miệng ăn da non mà cứ vung vít bậy bạ? Nếu nói rằng chỉ tại tôi muốn được để ý cũng hơi bất công. Bất công vì nếu không có người thích nghe sao tôi có thể nổ bởi nào tôi có bắt họ phải nghe đâu. Họ đã thích nghe, chẳng lẽ tôi lại đóng chặt cửa phòng lại nói một mình? Chỉ có người điên mới nói hoặc lẩm bẩm một mình; mà người điên không thể biết chính họ nói gì. Lý do khiến nhiều người thích nghe những chuyện chẳng ra gì về người khác cũng có thể vì họ thích xoi bói chuyện bá vơ; không thế mà những tờ báo bới móc tùm lum lại bán chạy như tôm tươi. Cuộc đời này có nhiều kẻ còn tệ hơn tôi; họ bới móc để sinh sống thay vì nổ bởi muốn cho người khác biết đến mình. Những tờ báo bới móc bán chạy, càng bới nhiều càng chạy đã đủ chứng minh thiên hạ thích biết những chuyện của người khác. Biết để làm gì? Có thể biết để xem có ai tệ hơn mình chăng bởi ngưu tầm ngưu, mã tầm mã! Chẳng lẽ biết những chuyện không ra gì của người khác để học theo? Cần gì phải học vì mình còn tệ hơn!

Thế rồi một hôm đọc cuốn Đất Khách Trời Quê của Trường Sơn Lê Xuân Nhị gặp truyện "Ông Đạo Jimmy Swaggart" mà đã một thời tên ông được ti vi, báo chí làm rùm beng lên. Lê Xuân Nhị viết về ngón đòn giữa hai tay Jimmy và Gorman đấu nhau về chuyện liên hệ giữa giống đực và giống cái. Kể cũng lạ, cuộc đời này đâu thiếu chi những chuyện dây dưa gian díu của đàn ông và đàn bà mà sao Lê Xuân Nhị lại chọn Jimmy mà viết, sao không viết chính chuyện của mình, hoặc thảng chuyện mình chẳng ra gì, không chi hấp dẫn! Sao báo chí, truyền hình cũng chỉ bốc Jimmy mà lên khuôn, lên ảnh. Chợt đưa tay rờ gáy, tôi sực nhận ra vì họ là những người có tên tuổi nên bị chọn, còn những vụ tầy đình, hấp dẫn gấp bao nhiêu lần thì không ai thèm nói tới bởi có nói tới cũng chẳng ai để ý. Từ nhận thức này, tôi biết thêm được một mánh: muốn nổi, muốn thiên hạ để ý, đừng thèm nổ bậy bạ, cứ việc để miệng ăn da non; khi nào chịu không nổi, miệng gần tịt rồi, nhắm người nào đó tên tuổi to lớn mà nổ... Các ứng cử viên tổng thống hoặc state bị bạn đồng liêu đối nghịch hạ đòn, bới móc tranh giành miếng đỉnh chung đã đành; những người vượt hẳn khỏi lớp bình dân lại có chút tài (cả 2 nghĩa), chút tiếng, cũng dễ bị làm đề tài mổ xẻ, dễ bị biến thành nấc thang cho kẻ khác với mơ ước hèn kém bước lên bàn tọa tăm tiếng... Có lẽ về phạm vi này nhà Phật khá đúng: chẳng hồng nhan thì cũng đa truân.

Trong cuốn Đất Khách Trời Quê, Lê Xuân Nhị viết: "Xưa nay người hạ giới chỉ thích chửi bới và nói xấu những kẻ quyền quí, những người sang trọng chớ đâu ai thèm bỏ thì giờ đi nói xấu và thị phi thằng ăn mày, đâu có ai thèm đi chê thằng cùi là hủi? Có thế mà không ai nghĩ ra hết. Thứ nhất, nếu con có bị thiên hạ đàm tiếu hoặc nói xấu thì con phải biết rằng con là người thành công trên đường đời, có địa vị trong xã hội." (Cơ Sở Văn Hóa Đông Phương; California 1990; Tr. 240) Mới đọc đến đoạn này, tôi chợt bừng tỉnh; bởi tôi chẳng ra gì nên cứ bới móc kẻ ra gì... Những ngôn từ nổ bằng cách bới móc người khác đã tự đánh giá đối tượng của tôi hơn tôi, và lẽ tất nhiên, tôi đang tuyên xưng mình thua họ... Sáng con mắt ra mới thấy mình đã lao sâu xuống đáy giếng. Tuy thế, có ăn năn thì chuyện cũng đã rồi, thôi thì từ nay chẳng thèm phí sức, tốn công lao nhọc cổ võ cho những kẻ hơn mình, quyết để miệng ăn da non may ra trở nên tốt như mọi người.

Vừa được ít bữa im miệng thủ vị, tôi lại đọc thấy đây đó xôn xao về một nhóm văn bút. Người ta mang ra đủ mọi lý do, tạo thêm nhiều danh từ đao to búa lớn ám chỉ... Nếu chỉ một người múa gậy vườn hoang thì có lẽ chẳng có gì đáng nói, cũng chỉ như tôi đã ngứa miệng làm thợ bàn bao lâu nay. Đàng này, kẻ tung, người hứng, nhân danh đến cả những sự cao vời đầy vẻ bất khuất nhiệt tâm của những anh hùng cứu nhân độ thế thấy cảnh bất bình ra tay nghĩa hiệp giúp tôi thông thái ra, nhận thêm được cái dại xưa nay chưa bao giờ nghĩ tới, cũng là bài học tưởng rằng hợp quần gây sức mạnh. Câu hỏi đầu tiên đến với tôi: Sao những vị anh hùng hăng tiết vịt ấy không ai nói động gì đến ca sĩ Bích Ngọc, cây viết Quỳnh Dao người Việt? Nghĩ đến đây, tôi thấy mình anh hùng hẳn lên vì đã biết ngậm miệng chấp nhận để hai làn môi ăn da non. Tuy nhiên, hào khí rởm nơi mình bỗng nổi dậy theo đoạn kết nơi truyện "Nhu Cầu Con Người" cũng của Lê Xuân Nhị khiến trong người tôi bứt rứt, cố dằn lòng mông lung nghĩ vẩn vơ chờ hạ hỏa.

Nghĩ cho cùng, cứ coi như người mình nhắm tới để làm bàn đạp cũng như mình, lắm lầm lỗi, ham danh, ghen tương, đặt điều v.v... bởi họ là con người... ấy chỉ là giả sử vì mình thế nào mình nghĩ người khác thế ấy... thì đã chẳng có gì đáng nói. Ông bà mình đã thừa hiểu mà mình không thèm để ý đến nên không biết câu: "Chân mình thì lấm bết bê, tay cầm bó đuốc mà rê chân người." Dù nhận thức như thế nhưng cái tính chất ham danh dẫu chỉ là hão huyền để nổ cứ tiềm ẩn thôi thúc bừng bừng khiến bỏ thì thương mà vương thì tội cho dầu với chính mình chứ chưa nói tới làm phiền đến người khác. Thói đời chắc gì hay đã được khen và hèn bị chê mà thật ra còn nhiều bí ẩn chưa được bật mí nên đã xảy ra bao vụ "được lòng ta xót xa lòng người." Thật ra, ai không nhận thức được "Trâu lấm vẩy quàng" vì mình không bết bát sao lại chê bai xóc móc người khác. Như thế mình lấm trước thành ra nảy sinh sự việc đưa thiên hạ làm bình phong che lấp tính chất chẳng ra gì nơi mình hy vọng dùng họ làm bậc thang tạo danh dự giả tưởng cho mình. Xét như vậy, mình đã tự hạ giá bản thân bởi chẳng lẽ "Người dại cởi truồng, người khôn xấu mặt"? Cuộc đời này ai làm người ấy chịu, nào ai động đến lông chân mình đâu. Ai cũng muốn thái bình nhưng lại cứ gây hành động gieo gió nên gieo gió được thăng hoa thành ra "anh hùng tạo thời thế" vì lý do đâu ai muốn làm kẻ ngu si do đó làm sao có thái bình.

Thử đặt con tính gom góp những công lao sức lực nổ đã bao lâu nay, đàng nào cũng thế, "Mười voi không được bát nước xáo." Chân thành mà xét, hữu xạ tất tự nhiên hương; nào có ai tin rằng cứ khua môi múa mỏ cho nhiều là hay được đâu mà có chăng thùng rỗng thì lại kêu to là chuyện thường xảy ra nơi bất cứ đâu và ở bất cứ xã hội nào. Nhìn lại thực tế, ai không biết càng lắm thày thì lại càng thối ma. Tại sao "Lắm thày thối ma" trong khi "hợp quần gây sức mạnh"? Phải chăng lắm thày thối ma vì thày nào cũng cho rằng chỉ mình mới đáng được ăn trên ngồi trốc, được thiên hạ ngưỡng mộ hay chỉ tại thày "thùng rỗng"? Có một điều nghịch thường là càng những kẻ chẳng ra gì càng ham danh vọng, muốn được người khác để ý, trọng vọng nên sinh ra tâm bệnh dùng bất cứ ai làm bàn đạp cho mình thỏa mãn ý đồ thầm kín. Sự thường, "Bói ra ma, quét nhà ra rác;" trên đời này đâu ai là người vẹn toàn. Người mà không nhận thấy lỗi lầm nơi mình sẽ là người thế nào? Hơn nữa, kẻ mà không ai thấy lỗi lầm sơ xuất chỉ có thể là kẻ đại bịp. Tự bản chất con người đã không vẹn toàn, hai con mắt chẳng thèm giống nhau, hai bàn tay, hai bàn chân được sinh ra đối nghịch; lẽ đương nhiên những công việc được làm nên bởi con người thiếu sót sao có thể toàn hảo. Khua môi múa mỏ, nói thánh nói tướng, vạch lá tìm sâu thì dễ; xây dựng, khuyến khích và đóng góp cho đời đẹp hơn mới là chuyện khó. Ai không thích làm chuyện dễ dàng; ai dám lao mình nhận lãnh chuyện khó! Âu đó cũng là chuyện bình thường nơi mọi người vậy!

Tuy nhiên, khua môi múa mỏ, nói thánh nói tướng, vạch lá tìm sâu mấy đi chăng nữa thì cũng chỉ như "Bọ chó múa bấc" chẳng nên cơm cháo gì mà còn tệ hơn công dã tràng; tệ hơn vì làm nhụt nhuệ khí những người có tâm huyết bởi nào đâu ai muốn trở thành tâm điểm cho những mũi tên xấu miệng phóng tới. Dĩ nhiên, cuộc đời đâu thiếu người tâm huyết, tốt lành, muốn nâng cao một phần nào lẽ sống con người nhưng những gương trước mắt khiến họ rụt rè vì không muốn dây vào hủi; đụng đến những việc cần thanh minh thanh nga thì lại rơi vào cảnh đối diện kẻ càng làm đĩ càng già mồm. Thế nên càng những kẻ bất tài vô tướng càng ham danh bởi kẻ đã có đâu cần ham mà những người chẳng ra gì mới tha thiết miếng giữa làng. Miếng nào chẳng là miếng nhưng miếng giữa làng kéo theo cái danh dự dẫu thật hay hão huyền... Phải chăng đó là nguồn gốc của sự ham nổ? Có một điều đáng phục nơi những kẻ có thực tài, có khả năng là họ cứ bình chân như vại, coi những lời phê bình cay độc hoặc những vạ oan như rác như rơm. Có lẽ họ rành câu "Tránh voi không hổ mặt người;" bởi dù cho voi có khỏe, có to xác mấy đi chăng nữa thì cũng không phải là thứ đáng sợ, có tránh đi chẳng qua mình là người.

Nào ai lạ gì câu nói: "Suy bụng ta ra bụng người." Cái nhìn của mỗi người tùy thuộc vào kinh nghiệm, hiểu biết nơi chính mình. Ý hướng cá nhân ảnh hưởng sự nhận thức của một người cũng giống như những cặp kiếng ảnh hưởng sự nhận biết bằng cặp mắt. Cặp kiếng đen khiến mắt nhìn mọi vật đều có vẻ tối hơn; đại để như thế, người nào có ý hướng xấu, nhìn thấy mọi người chung quanh đều xấu. Xét suy kiểu này, chỉ những tên trộm mới có thể nghĩ giống những người ăn trộm. Kẻ luôn luôn rình rập châm biếm người khác sẽ thấy ai cũng nói cạnh nói khóe mình; thế nên cũng chẳng lạ gì, "Người làm sao chiêm bao làm vậy." Con người đã có ý đồ đớn hèn thì dù cho có dùng những danh từ đao to búa lớn cũng mang đầy tính chất đớn hèn bởi dầu sao ước mơ tỏ lộ phần nào hình bóng bản chất nội tại. Người công chính tất nhiên miệng nói lời khôn ngoan (TV. 37: 30); ngược lại kẻ mang ý đồ vô liêm xỉ thường hay xổ lời dèm pha, khích bác.

Kinh nghiệm sống minh chứng không phải cứ nói kẻ khác chẳng ra gì là họ bị xấu mà chính mình là người xấu trước. Những người ưa vạch lá tìm sâu tất nhiên trong lòng đã có điều không ưa và do đó cái nhìn thường bị thiên lệch theo tâm tư đã bị định hướng. Dĩ nhiên, nào ai lạ gì "Lươn ngắn lại chê trạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm." Thật ra đừng nghĩ rằng cứ lắm miệng bới móc người khác thiên hạ sẽ nghĩ rằng mình hay; có chăng, mình chỉ đang quảng cáo không công cho đối tượng và đồng thời cũng đang nói lên mình chẳng ra gì. Hơn nữa đâu phải cứ hùa nhau chê bai ai là người đó bị tai tiếng xấu! Kiểu theo đóm ăn tàn, ba bè bảy mối, chúng khẩu đồng từ chỉ đánh lừa được những người ngây ngô thích dùng tin vịt làm kiến thức nhất thời chạy đua theo lời thị phi xấp nổi. Cuộc đời này người nào khôn lắm thì dại nhiều; thời gian và việc làm cũng như cách sống sẽ chứng minh mình thế nào, chẳng ai bịt mắt được thiên hạ vì họ đâu có mù. Dĩ nhiên, "Làm giàu có số, ăn cỗ có phần" đồng thời có chí sẽ làm quan và có gan mới có thể làm giàu. Tuy nhiên chưa chắc cái khôn mình đang thực hiện đã là khôn mà có thể là cái dại, thế nên lo cải thiện mình trước rồi chuyện đến sẽ đến. Lời bình phẩm có chăng chỉ là những viên gạch lót đường cho những tâm hồn cầu tiến. Tranh qua đấu lại chẳng qua chuyện rỗi miệng vì "Lấp sông lấp giếng đâu ai lấp được miệng người." Do đó, cứ kiên nhẫn mà chờ, khi cháy nhà, chắc chắn sẽ lòi ra mặt chuột. Gẫm cho cùng, thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên.

CHỌNBẠNMÀCHƠI

Người xưa có câu "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy;" tuy thế, ai không "chọn bạn mà chơi!" Người nào thích nhậu sẽ cặp kè, đàn đúm với nhóm nhậu; kẻ ưng thơ từ thi phú hội họp với nhóm bạn văn chương. Dĩ nhiên, nếu đã đồng thanh thì tương ứng và đồng khí thì tương cầu hoặc đồng bệnh thì tương lân... Những người cùng sở thích, tâm trạng, xu hướng, tư tưởng hoặc nguyện vọng thường tự tìm đến nhau hay những người cùng cảnh khổ dễ thông cảm, đi lại với nhau; thiết nghĩ đó là sự thường tình và còn có thể nói một nhu cầu hướng ngoại của con người. Tuy nhiên, nếu đã chọn bạn mà chơi thì làm sao lại cần đến áo cà sa để đi với bụt hoặc áo giấy để đi với ma; mà một khi đã phải khoác những bộ áo cho giống với kẻ khác thì quả thực họ không phải là bạn với mình và mình cũng không phải là bạn của họ, có chăng chỉ là sự đóng kịch hình thức bên ngoài. Hơn nữa, người nào càng cố gắng khoác những bộ áo để làm bạn với mọi giới người có lẽ lại chẳng coi ai là bạn theo đúng nghĩa được gọi là bạn; đó chỉ là khuôn mẫu giao tế với một ý đồ thầm kín, nói cách khác, áp dụng đường lối con buôn "bán hàng chiều khách" trong cung cách đối xử hầu mong đạt được điều ước muốn của mình.

Xét như thế, những người quan niệm theo nghĩa đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy không được gọi là bạn mà chỉ được gọi là quen biết... Đại khái được hiểu theo nghĩa khác trong ý niệm: thêm bạn bớt thù. Thêm bạn bớt thù là điều nên nhưng tại sao phải thêm bạn bớt thù? Chẳng lẽ tự nhiên mọi người thù ghét mình hoặc nếu mình không làm bạn với mọi người họ đều là kẻ thù của mình! Nếu không thế sao lại phải bớt? Thực ra, nói rằng thêm bạn bớt thù chỉ mang ý nghĩa thêm nhiều người quen biết hoặc muốn cho mọi người biết mình. Ý nghĩ này, nói đúng hơn, ước muốn này đã tạo nên tính cách hùa theo, phải theo một cách thức, hình thức nào đó để quen người khác, để được chấp nhận nhập nhóm, nhập bọn... Không thế mà đã có người than "cô đơn giữa chốn đông người." Do đó, dù bất cứ dưới hình thức nào, dù cố gắng mặc áo cà sa để đi với bụt hay thêm bạn bớt thù hoặc vì sở thích đàn đúm với nhau hoặc kéo bè kéo đảng chưa chắc đã được gọi là bạn đúng nghĩa bởi còn tùy thuộc nơi ý đồ hay nhu cầu thầm kín của người trong cuộc.

Bạn, một tiếng đơn giản nhưng bao gồm nhiều khía cạnh, không thế mà được chia ra, theo kinh nghiệm, nhiều loại: bạn quen biết, bạn ăn nhậu, bạn đồng hành, đồng đội, đồng hương, bạn điền, bạn ghe, bạn tri âm... cả vài chục thứ; ai muốn biết thêm rở tự điển sẽ thấy... Tuy nhiên, trong nghĩa chọn bạn mà chơi thì chỉ có một nghĩa mà tự điển không thể nào nói lên được vì đặc tính của bạn "chọn" này đòi hỏi nhiều điều kiện không thể diễn tả, định nghĩa bằng một vài chữ đơn giản. Nhiều người cả đời kiếm vẫn không gặp ai có thể được gọi là bạn mặc dầu quen biết rất nhiều... và người nào may mắn có được thì loại tình bạn này lại trở thành rất nổi tiếng, được nhiều người biết tới.

Chọn bạn mà chơi không có nghĩa "thấy sang bắt quàng làm họ," nhưng vì tương đồng quan điểm về cuộc sống, tư tưởng và mục đích để tiến tới. Được gọi là bạn cần có tương đồng quan điểm về cuộc sống tất nhiên mình đã có quan niệm sống rõ ràng mới có thể kiếm được người có quan điểm tương đồng. Điều kiện này cần sự nhận thức về cuộc đời nơi chính mình vì nếu đã không biết mình sống để làm gì, sẽ đi về đâu mà cứ hay đâu chầu đấy, nay thế này, mai thế kia hoặc nay khoác áo cà sa, mai khoác áo giấy sao có thể kiếm được người tương đồng. Hơn nữa, sự tương đồng tư tưởng và mục đích của cuộc đời đóng vai trò quan trọng nơi sự liên kết giữa hai người. Bạn không có nghĩa hùa theo mà tương đồng, ngang hàng về kiến thức, tư tưởng, có thế mới có thể cùng nhận ra giá trị làm người của chính mình dẫn đến cùng mục đích cuộc sống. Người không biết mình sống để làm gì, không nhận ra giá trị con người mình thế nào, xấu, tốt ra sao, sao có thể nhận được giá trị người khác để có được bạn đúng nghĩa.

Thế nên, đã được gọi là bạn, dù chỉ một người trong cả cuộc đời đã quá đủ, kiếm thêm được người thứ hai là quá nhiều và ba người thật là họa hiếm nếu không nói là không thể có. Đối với người được gọi là bạn, mình "quí trọng họ như người hà tiện, keo kiệt thu thập tiền bạc của cải bởi vì tình bạn là sự cao cả lớn lao hơn tất cả những gì chúng ta có được do sự khôn ngoan." (The International Thesaurus of Quotations; Compiled by Rhoda T. Tripp; p. 232 #8) Tình bạn giữa hai người như một linh hồn sống nơi hai thân xác, là sự liên kết chân thành mạnh mẽ giữa hai người để khích lệ những điều tốt lành và hạnh phúc lẫn cho nhau. Chính vì thế, bạn bè cần điều kiện biết kính trọng danh dự lẫn nhau đến độ không ước muốn bất cứ điều gì từ bạn mình. Tuy nhiên, lòng chân thành của bạn bè lại biểu hiệu khi người kia gặp cảnh phiền hà rắc rối nhúng tay trợ giúp. Sự hỗ trợ này là đặc tính cơ bản của người bạn vì người ta thường chỉ về phe mình khi thành công còn lúc hoạn nạn thì nào đâu thấy ai! Bởi thế, bạn là người thân thiết nhất đối với mình; họ được coi như anh em ruột vì biết cảm thông; họ biết tất cả những điều hay lẽ xấu nơi mình mà vẫn thích và chấp nhận. Từ đó, lẽ công bằng giữa hai người không cần được nói đến vì luôn luôn họ ước muốn và làm điều tốt nhất cho mình. Người đã có tình bạn này ai cũng sợ mất nên sự đối xử cần chân thành mà e dè bởi sợ ngày nào đó bạn sẽ hận mình.

Với những đặc tính và điều kiện được gọi là bạn như thế, dĩ nhiên, không dễ chi có, mà muốn có được một người bạn đúng nghĩa phải cả một công trình tìm hiểu. Thế nên, chẳng lạ gì, bình thường một người quen biết thì nhiều mà bạn lại không có. Có chăng chỉ là dùng chữ bạn một cách chung chung mang nghĩa quen nhưng không thân, chẳng tin tưởng được. Nếu đã có được người gọi là bạn đúng nghĩa, mình không e sợ bị hiểu lầm, không cần đặt vấn đề hơn thiệt bởi dầu sao họ đã biết mình hết mọi sự, tốt cũng như xấu. Như vậy dù có muốn đóng kịch cũng bằng thừa, cũng chẳng thể che mắt bạn mình... Tiếng Việt gọi là bạn tri kỷ, có người dùng trệch qua bạn tri âm hay tri tâm. Trong Việt Nam Tự Điển của Lê Văn Đức, bạn tri kỷ được định nghĩa là "người bạn hiểu mình, hiểu cả chí hướng, tâm sự của mình và sẵn sàng với mình trong mọi việc." Phỏng ai là người sẵn sàng với mình trong mọi việc? Phỏng đó chỉ có thể là điều trong mộng ước hoặc lý tưởng? Người hiểu mình, hiểu cả chí hướng, tâm sự... chưa chắc đã chấp nhận mình... Chọn bạn mà chơi mang nghĩa kiếm bạn chấp nhận mình và mình chấp nhận họ điều tốt cũng như chẳng ra gì như thế bao gồm luôn cả tri âm và tri tâm. Tiếng bình dân có khi dùng "Bạn nối khố" một phần nào cũng mang nghĩa này...

Bình thường, mọi người dùng chữ bạn mà ít khi phân biệt bạn thể nào. Quen, gặp nhau vài lần hoặc chén tạc chén thù dăm ba bữa tưởng là bạn thân hay cho rằng người kia coi mình là bạn thân... trong khi chỉ mới thấy qua cái vỏ bên ngoài hoặc nghe đôi lời qua lại có thể là đúng có thể không đúng về người đó mà quên rằng những hình thức, lời ăn tiếng nói bên ngoài thường mang theo những ẩn ý không dễ gì nhận ra một sớm một chiều. Muốn có bạn đúng nghĩa cần đức tính "kén cá chọn canh" để tìm hiểu và nhận xét, so sánh, đồng thời tự hỏi mình có thể chấp nhận những gì mình không thích nơi người đó chăng! Chọn bạn quan trọng như lập gia đình; người trong cuộc thường có ý nghĩ mình sẽ thay đổi được người khác cho hợp với mình... Thế nhưng, ai không mang tính chất "ngựa quen đường cũ," có muốn thay đổi cần sự nhận thức ảnh hưởng quan niệm, lối sống... mới hy vọng phần nào sửa đổi, mà nào dễ chi! Kinh nghiệm cho thấy, chính mình có nhiều điều không ưa mà đã bao năm, đã bao lần tự hứa sửa đổi thế mà chẳng bao giờ đụng được tới chúng dù chỉ một phần nhỏ phương chi là sửa đổi người khác. Chấp nhận cá tính không ra gì của mình thì dễ, tuy nhiên, chấp nhận điều chẳng nên của người khác khó gấp trăm ngàn lần bởi tự tiềm thức, ai không muốn người khác hoàn hảo để bù đắp những thiếu sót nơi mình. Vấn đề này nghe ngược tai, nhưng xét về mặt tâm lý chẳng ai tránh khỏi. Người càng chẳng ra gì bao nhiêu càng muốn người khác phải hoàn hảo bấy nhiêu... Thế rồi sinh ra chê bai, dùng người khác làm bàn đạp để chứng tỏ mình ra gì!

Chọn bạn khó bởi khó kiếm người được gọi là bạn. Bình thường, nhân gian "Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai." Chẳng những thế mà còn tệ hơn vì đâu thiếu kẻ chờ cơ hội, "Dậu đổ bìm leo" để chứng tỏ ta thế này, ta thế kia mưu cầu thực hiện ý đồ nào đó do sự thèm khát được người khác chú ý hay những tiếng tăm hão huyền. Có thể rằng bởi tính chất ngang ngửa sóng gió này nơi mọi người nên lý thuyết "Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy" dễ trở thành khuôn mẫu cho nhiều người noi theo. Bao nhiêu gương trước mắt hoặc ít nhất trong đời một người tha thiết kiếm bạn đã vài lần đối diện với cảnh lấy ân làm oán, đem sự chân thành của mình đặt nhầm nơi kẻ lòng cá dạ chim để rồi ân hận mà chấp nhận kết quả cười ra nước mắt. Nếu ít nhất một lần, người nào đó đã than lên không muốn dây vào hủi, chắc chắn chuyện ngậm bồ hòn làm ngọt do lòng độ lượng bị xúc phạm còn đang hằn sâu nơi tâm não.

Chọn bạn mà chơi còn đòi hỏi sự "Chọn mặt gửi vàng." Xét theo nghĩa đen, chọn mặt không phải dễ vì lòng người nào tùy thuộc khuôn mặt bởi thường đã bị sửa sang uốn nắn để đi với bụt hoặc đi với ma. Hơn nữa, "Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng;" càng những kẻ lòng lang dạ thú thì lại càng cố gắng sơn mã bên ngoài sao cho ăn khách.

Muốn có người thực sự được coi là bạn đúng nghĩa phỏng có thể chấp nhận kẻ hôm nay mặc áo cà sa, mai mặc áo giấy?

VAITRÒ

Khi làm bất cứ việc gì chung với những người khác để thực hiện cho một chương trình nào đó, mỗi người đều có một vai trò. Vai trò đó ảnh hưởng đến toàn bộ công việc hoặc một phần nào của công việc tùy thuộc nhiệm vụ mà người đó chấp nhận để thực hiện. Có những vai trò làm nổi bật người thi hành nhiệm vụ như xướng ngôn viên trong một chương trình văn nghệ. Lại có những vai trò rất quan trọng mà người lãnh trách nhiệm thường bị lãng quên chẳng hạn làm đạo diễn cho cũng một chương trình văn nghệ.

Dĩ nhiên những vai trò có tầm mức quan trọng khác nhau và cũng đòi hỏi những khả năng khác nhau nơi những người thực hiện nó. Hơn nữa, làm việc là một nghệ thuật có thể học hỏi hay thực tập. Vấn đề là những người làm việc có bao giờ để ý đến những đặc tính của những vai trò để giúp cho công việc đem lại kết quả và lợi ích phù hợp với mục đích mình muốn đạt tới hay không.

Nói về mục đích của sự làm việc, ít nhất, ai cũng biết chính họ muốn gì khi chấp nhận một vai trò. Tùy mục đích họ nhắm tới mà vai trò họ đóng sẽ được thực hiện như thế nào. Tuy nhiên, thường thì chính những người đóng những vai trò đã thực hiện sai lệch vai trò của mình bởi mục đích họ muốn không phù hợp với vai trò họ chấp nhận thực hiện. Điều này có nghĩa họ chấp nhận một vai trò cho một mục đích được tuyên bố rõ ràng trong khi chính họ lại dùng vai trò này để mưu đồ cho ý đồ nào đó mà họ muốn đạt tới.

Thí dụ, người đạo diễn của một chương trình văn nghệ là người nắm hết chương trình và điều hành, sắp xếp để cho chương trình được liên tục. Họ sắp xếp diễn viên thực hiện chương trình chứ không thực hiện một vai trò nào của chương trình hoặc giỏi lắm chỉ có thể đóng góp một phần nhỏ phụ thuộc về diễn xuất mà thôi. Nhiệm vụ của họ là ở trong bóng tối điều hành. Nếu họ nhảy lên sân khấu ôm chiếc micro của xướng ngôn viên, nhất định chương trình sẽ bị gián đoạn bởi không ai điều hành và chuẩn bị cho những chương trình kế tiếp. Xướng ngôn viên cũng không phải anh hề trên sân khấu. Nếu họ cố tình làm hề, chương trình văn nghệ sẽ bị gián đoạn bởi đã đóng sai vai trò cũng như làm giảm giá trị của các tiết mục khác.

Ai cũng có thể bàn về vấn đề thực hiện những vai trò nhưng khi làm việc chung, thường thì ít có người tránh thoát sự muốn được chú ý hay ưng nổi của chính những người thực hiện. Xét thử một trường hợp trình diễn nhạc, ca sĩ muốn mọi người có thể nghe thấy tiếng ca của mình, đặt sát micro vào miệng, vặn âm thanh cho to trong khi các tay đờn cũng thế và tay trống ráng đập cho khỏe bởi cũng e rằng không ai nghe thấy tiếng đờn, tiếng trống của mình chăng. Bao nhiêu lần rồi bạn thấy những tiếng hú của dàn âm thanh như muốn chọc thủng màng tai? Bao nhiêu lần rồi bạn chỉ nghe thấy âm thanh của đờn và trống trong khi giọng ca của ca sĩ không thấy đâu! Bạn đề nghị họ chỉnh âm thanh, họ bỏ cuộc hoặc tệ hơn nữa, phá cho hư dàn máy hoặc vặn sai trệch giây đờn rồi bỏ đó làm phiền những người khác.

Nói rộng hơn, trong vấn đề làm việc chung, ai cũng ưng nổi; ai cũng muốn cho người khác chú ý tới mình; ai cũng thấy chỉ mình là quan trọng; ai cũng muốn mình làm chủ; đó là đầu mối của sự thất bại, của sự bể nát những chương trình tốt lành đã được đề ra thực hiện. Để có cái nhìn bao quát hơn, có lẽ nên thử xét qua những vai trò nào mà mọi người muốn đóng trong sự thực hiện những chương trình hay đối xử với những người khác. Người viết tạm dùng tiếng Mỹ để cho gọn trong giới hạn của bài viết: Ownership, Dictatorship, Messiah Complex, Partnership, Leadership, và Worker.

Khi thực hiện một công việc, chúng ta chỉ cần vai trò lãnh đạo và cộng sự viên nhưng thường chúng ta muốn trở thành chủ nhân, giám đốc, kẻ chỉ tay năm ngón ra lệnh cho người khác, hoặc cái gì cũng chỉ ý kiến và mệnh lệnh của chúng ta mới là đúng, là hay hơn hết (messiah complex). Chúng ta muốn người khác và bắt người khác theo ý của chúng ta: chúng ta muốn trở thành "dictator." Cuối cùng, sự đối xử của chúng ta đối với những người làm việc chung như một ông chủ và những người tay sai; chúng ta vô tình đóng vai ownership. Mặc dầu chúng ta chê trách những người có thái độ của ownership, dictatorship, hoặc messiah complex, nhưng có lẽ nên nhớ một điều, những gì chúng ta phê bình, chúng ta đang đóng vai trò đó vì cảm thấy họ đang nhảy xổm vào vai trò mình vô tình mắc phải. Con người, ai không thích đóng vai "giám đốc;" ngược lại, kẻ nào dám làm thì lại cần có cặp tai đặc biệt có thể biến thành thùng rác...

Đành rằng mọi công việc chung cần phải có người lãnh đạo, tuy nhiên, người lãnh đạo không phải là người ra lệnh cho kẻ khác làm việc mà chỉ sắp xếp cho công việc hợp lý và đem lại kết quả tốt đẹp nhất. Bạn đã bao giờ nghe người khác bảo bạn, hoặc chính bạn dùng câu nói: "Anh, chị làm việc này cho tôi..." và không giải thích chi hết. Thế nào là "làm việc này cho tôi?" Qua câu nói này, người nói nghĩ thế nào? Có phải công việc đó làm cho chính họ? Sự không giải thích làm người nghe có cảm giác bị trở thành một tay sai!

Hơn nữa, thường thì chúng ta hiểu lầm ý nghĩa chữ "đại diện" hoặc "chủ tịch". Người đại diện đâu phải là người dùng ý kiến riêng của họ làm ý kiến chung hay đâu phải là người ra lệnh cho người khác làm theo ý kiến mình. Chủ tịch đâu phải là người làm chủ để sai những người khác đâu! Đại diện hay chủ tịch chỉ là người nói lên những điều mà ban điều hành cho phép nói. Ý kiến của đại diện hay chủ tịch chỉ là ý kiến cá nhân mà thôi. Thế mà chính những vị đại diện hay chủ tịch lại có tư tưởng cho rằng họ là ông chủ ra lệnh cho những người khác làm.

Người lãnh đạo không phải là người ra lệnh cho kẻ khác làm mà là người thực hiện chương trình của ban điều hành đã đề nghị và chấp thuận. Người lãnh đạo là người khuyến khích, điều hành, kiếm người có khả năng phù hợp sao cho công việc đạt tới mục đích chứ không phải là người chỉ tay năm ngón. Người lãnh đạo cũng là người có khả năng làm cho người khác được chú ý chứ không phải là người cố gắng làm cho người khác chú ý đến mình.

Người xuất hiện trước công chúng chỉ là cái bia cho người lãnh đạo làm việc phía sau để thực hiện một chương trình chứ không phải người lãnh đạo là người đem cái bản mặt ra cho kẻ khác hoan hô. Những người được hoan hô không phải là người lãnh đạo. Những người này là những con cờ thí mà thôi; người lãnh đạo đang tính toán nước cờ sắp tới trong bóng tối.

Bạn ca tụng bài diễn văn của đức giáo hoàng, của tổng thống, nhưng bạn đâu có để ý rằng giáo hoàng hay tổng thống không có thì giờ soạn diễn văn. Giỏi lắm thì chỉ có thì giờ thực tập đọc bài diễn văn một hoặc hai lần trước khi xuất hiện nơi công chúng. Người soạn diễn văn mới là người quan trọng. Có ai để ý đến người soạn diễn văn bao giờ đâu; có ai ca tụng họ đâu, và cũng có ai biết đâu linh hồn của bài diễn văn không phải là người nói mà là người viết.

Thế cho nên, chúng ta muốn đóng vai trò lãnh đạo, chúng ta lại đóng vai trò anh hề múa rối và tưởng mình là người lãnh đạo. Người lãnh đạo luôn luôn hoạt động phía sau những màn ảnh phô diễn bên ngoài. Chỉ có những anh hề mới làm trò cười mua vui cho người khác và để được hoan hô.

Nhận định nhiệm vụ những vai trò như thế, bạn thấy rằng vai trò nào bạn đang thực hiện khi làm việc chung với những người khác. Bạn sẽ là anh hề ra múa rối cho thiên hạ vỗ tay hay nhà lãnh đạo sắp xếp và tính toán để thực hiện công việc trong bóng tối; có lẽ chính bạn biết rõ hơn. Nhà lãnh đạo thực sự, khó có người biết đến để ca tụng.

ĐƯỜNGTA, TACỨĐI

Nơi phần cuối của một lá thư, Sáu Thông (cũng chẳng hiểu tại sao lại gọi là Sáu Thông, thấy thiên hạ gọi thế nên tôi hùa theo), viết một câu: "Người đời thường mỉa mai kẻ khác và muốn toại nguyện những ước mơ của họ trên lời nói với kẻ khác." Tôi không hiểu lý do và hoàn cảnh nào đã khiến Sáu Thông viết câu này. Tôi cũng không hiểu Sáu Thông viết câu này với ý gì bởi nếu tìm sự liên hệ với những ý tưởng khác trong thơ, câu này có ý nhắc nhở tôi không nên để ý đến những lời bình phẩm của thiên hạ.

Đã bao nhiêu lần, tốn bao công lao tập luyện cộng với thời gian đằng đẵng gần mười năm trời chịu khó thâu thập những lời bình phẩm của kẻ khác về mình, tôi cố gắng chừa sửa những gì được người khác cho là không hợp, không hay. Tôi tập theo những khuôn mẫu có người đã nói cho biết là nên thế này, phải thế kia. Càng tập tành bao nhiêu, càng cố gắng sửa đổi bao niêu, tôi càng thấy còn nhiều điều phải sửa đổi bấy nhiêu. Mặc một cái áo màu vàng nhạt, có người nói màu vàng nhạt không hợp, phải xanh lơ mới đúng. Tôi thay áo màu xanh lơ, lại có kẻ nói phải là áo trắng. Tôi thay áo trắng, lại có người bảo phải áo màu đen. Tôi không có áo màu đen, đành lờ đi. Không lờ đi, tôi cũng không có áo màu đen để mặc cho hợp với nhãn quan của người khác.

Đó chỉ là ăn mặc; những kiểu cách đi đứng, nói năng cũng thế, tôi tập tành, sửa đổi, cố gắng tránh những gì đã bị thiên hạ phê bình. Mặc dầu thế, càng cố sửa đổi, tôi càng bị phê bình nhiều hơn. Có thể nói rằng tôi càng cố gắng sửa đổi những điều được cho là không nên của mình thì lại càng mọc ra nhiều điều chẳng nên khác, mà có lẽ, theo tôi nhận xét, cho đến chết, nếu tôi càng cố gắng sửa đổi, tôi sẽ không còn thì giờ để tập luyện, sửa đổi chính tôi nữa, có may ra, chỉ đủ giờ để nghe thiên hạ phê bình mà thôi bởi càng cố gắng sửa, càng thêm nhiều điều đáng từ bỏ. Nhiều lần tôi thầm nghĩ, hình như những điều tốt lành, nên theo dưới con mắt của người này lại là điều đáng từ bỏ đối với sự nhận xét của người khác.

Chuyện xảy ra là tôi đã bực mình với chính tôi. Tôi thường hay ôn lại những gì xảy ra trong ngày trước khi chìm vào giấc ngủ thế nên lắm lúc tôi cảm thấy sao mình lại ngu đến thế. Đáng lý phải nói thế này như lời khuyên của ông A, tôi lại nói thế khác. Điệu bộ phải tỏ ra đàng hoàng đứng đắn theo lời đề nghị của bà B thì tôi lại không thể ép mình vào phép tắc khôn ngoan ấy mà cứ phè cánh nhạn. Nói chuyện với người này phải tỏ ra khiêm tốn, tôi lại cứ phây phây; còn với người khác phải biểu diễn sự oai vệ của mình, tôi lại không oai vệ chút nào mà cứ tầm thường. Người ta bảo bình thường như thế làm mất giá trị con người của mình. Lắm đêm, tôi đã không thể ngủ được bởi cứ lo lắng bới móc những lỗi lầm đã vấp phạm vì không thực hiện đúng như những lời khuyên.

Rốt cuộc, tôi đã bị quá ư mệt mỏi với những sự theo đuổi, gồng mình sửa đổi cho phù hợp với những lời khôn ngoan đề nghị tốt lành nên chán nản đến cực độ sinh ra phản ứng không để ý gì đến những ý kiến tốt lành, đề nghị đứng đắn, thánh thiện của những người khác nữa. Ưng ăn dù chưa tới giờ, tôi đưa tay nhón thực phẩm đưa vào miệng. Thích nói giỡn, thế là tôi nói toáng lên. Không thể ngờ được, phép lạ xảy đến như chưa từng bao giờ thấy.

Chê thiên hạ, thiên hạ nói chê có duyên. Ăn bốc tứ lung tung, thiên hạ khen dễ tính. Nói giỡn ẩu tả, thiên hạ khen vui tính, đến nỗi bực mình nói tục mà có người cũng học theo. Thật là quái đản! Con người tự nhiên được coi là xấu xa như tôi đã nghĩ cũng không đến nỗi tệ, thế mà càng cố công thực tập trở thành đứng đắn theo lối dạy dỗ thày đời của những người khác thì lại càng trở nên bết bát hơn. Người xưa có câu, "Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê. Cao chê ngổng, thấp chê lùn, béo chê béo trục béo tròn, gầy chê xương sống xương sườn phơi ra." Cao có gì là xấu, thế mà thiên hạ nói cao ngổng. Lùn có gì mất thẩm mỹ, vậy mà bị chê thấp. Béo đâu có gì là tội, nào có bao giờ ăn tranh phần của ai mà cũng bị chê là trục, là tròn. Còn gầy, đâu ai cho miếng ăn nào bỏ vào bụng cho bớt còm cõi, thế cũng bị đem ra đàm tiếu. Từ những điểm này, một nhận định được soi sáng và đó là những lời đàm tiếu, phê bình, chỉ trích chẳng qua là những lời vô giá trị. Có tốt lành chăng người ta đã nói lên những điều không nên không phải của chính họ, đã tự sửa đổi cho cao hơn hoặc thấp hơn, béo hơn hoặc gầy hơn cho phù hợp với khuôn mẫu nhất định tạm gọi là trung bình, một người tuyệt vời, lý tưởng, ít nhất phải cao hai thước, nặng một trăm rưởi ký lô... Họ không thực hiện được điều này thì lời khuyên của họ cũng vô giá trị như những cố gắng cho thân xác đạt tiêu chuẩn... tuyệt vời ấy.

Nhận thức được điều này, tôi tức quá, xổ một bài thơ con cóc "Giác Ngộ." Bài thơ con cóc mang nặng tính chất cay cú, chính tôi cũng thấy nó thật sự "vô lễ," thế mà lại có kẻ thích. Ít nhất là năm người khoái cái tính chất cay cú, vô lễ xấu xa của tôi. Quả là một sự lạ lùng, chính những gì mà tôi chê, thấy không xứng thì lại có kẻ cho rằng tốt, hay. Do đó, tôi cảm thấy thích những tật xấu của mình. Những điều tốt tập tành theo lời khuyên thiên hạ thì bị phê bình, trái lại những tật xấu theo tôi nhận định thì được ca tụng. Tội gì thích những điều tốt thiên hạ đề nghị, chi bằng hãy giữ những điều tầm thường của mình thì ít ra hãy còn vài người khuyến khích và cho rằng đó là hay. Tôi gọi đó là những thói xấu dễ thương bởi chẳng cần biết người ta phỉnh mình hay không.

Cho đến giờ phút này, sau bao nhiêu đau khổ của sự tập tành để trở thành tốt hơn theo những quan điểm người khác dạy khôn, muốn tôi trở thành tốt hơn cho vừa cặp mắt khuôn mẫu của họ, tôi nghiệm ra rằng mình phải là mình trước. Thiên hạ muốn điều tốt cho mình nhưng điều tốt đó chỉ hợp với chính họ, chỉ họ mới cần sửa đổi vì dầu sao chăng nữa, những lời đề nghị là phản ảnh tự thân của người nói chứ không hợp với tôi mà còn làm hại hoặc làm cho tôi bối rối. Tôi không hiểu người ta có muốn toại nguyện ước mơ của họ trên lời nói mỉa mai kẻ khác hay không nhưng thấy Sáu Thông nói cũng đúng phần nào: "Người đời thường mỉa mai kẻ khác và muốn toại nguyện những ước mơ của họ trên lời nói với kẻ khác." Riêng tôi, mặc xác, ai muốn thế nào là quyền tự do của họ; riêng mình, dành giờ gẫm câu cổ nhân dạy: "Đường ta, ta cứ đi..."

GIÁC NGỘ

Tôi đã gặp những vị "thánh sống"

Họ dạy tôi phải sống thế nào

Không văng tục, nói phét, hoặc là tôi

Phải thế này, thế nọ, ôi thôi nào đủ chuyện.

Nghe như thế tôi giật mình cầu nguyện

Xin Chúa thương giúp sức để chuyển đời

Đổi người cũ, tăng thêm nguồn lực mới

Cho tôi sống sao đẹp với lời khuyên.

Tôi cố gắng ngày đêm lục điều xấu

Theo cái nhìn soi thấu của "lời vàng"

Cho đến nỗi tôi cảm thấy ngỡ ngàng

Cả thân tôi, đâu cũng mang điều dở.

Tháng ngày trôi, tôi bực mình e sợ

Bởi thấy mình lầm lỡ quá nhiều phen

Kiếm không ra dù một mống bạn hiền

Vì mình đã quá ư phiền thiên hạ.

Tôi mang nặng cô đơn hầu quị ngã

Thất vọng hoài bởi đã cố ngoi lên

Ngày theo ngày tôi càng thấy nhiều thêm

Điều lầm lỗi xem ra không chữa nổi.

Lúc cùng quẫn tìm phương sao tránh khỏi

Nỗi u sầu mong mỏi thánh thiện hơn

Tôi so sánh và suy nghĩ thiệt hơn

Về đời sống và lời khuyên thánh sống.

Ô sao lạ! Lòng tôi chừ khơi động

Người khuyên tôi sống không giống lờikhuyên

Họ dạy tôi những điều họ lãng quên

Để biến tôi trở nên một vị thánh.

Sự giác ngộ như vì sao lấp lánh

Bảo tôi rằng các vị thánh chỉ khuyên

Những "điều tốt" họ không hề thực hiện

Vì có chăng đã chẳng tốn lời khuyên.

THỰCTRẠNGLÃNGQUÊN

Khi bạn lái xe trong vùng nhiều người Việt sinh sống, đôi khi bạn cảm thấy hơi bực mình. Trẻ Việt Nam chơi ngoài đường, mang bóng ra khoảnh cỏ giữa hai con đường ngược chiều ném hoặc đá. Thanh thiếu niên tụm năm tụm ba ngồi trên đầu xe, đuôi xe nói chuyện. Để ý một chút, có lẽ bạn sẽ nhận ra những người trẻ đó mang gương mặt thật sáng sủa, rạng rỡ chứng tỏ điềm báo hiệu cho những khối óc thông minh, vui tươi. Nhất định họ sẽ có tương lai tươi sáng và mang trong mình những mơ ước tuyệt vời nào đó, và lẽ tất nhiên, sau này họ sẽ thực hiện những công việc mà bây giờ chúng ta không thể ngờ. Ông bà có câu "Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon" có lẽ đúng ở điểm này. Không hiểu bạn cảm thấy thế nào, nhưng riêng tôi, lớp trẻ Việt Nam báo hiệu một điểm bước quan trọng có thể đem đến những chuyện động trời không ai có thể tưởng tượng lúc này.

Nếu có lần nào vô tình hay hữu ý ghé qua những buổi dạ vũ, chắc chắn không còn chỗ cho bạn chen chân dù phải mua vé hay không. Những câu hỏi được nêu ra tại điểm này: Tại sao dạ vũ thì đông mà các hội đoàn chỉ lèo tèo dăm người? Có phải tại các hội đoàn không đủ sức hấp dẫn giới trẻ hay không đủ người lãnh đạo, hoặc giới lãnh đạo trong các hội đoàn không đủ uy tín để các bậc cha mẹ đặt niềm tin nơi họ mà khuyến khích con em gia nhập các đoàn thể. Một đặc tính nổi bật không ai không nhận thấy đó là người Việt Nam mang một nền luân lý gia đình và xã hội khá cao bởi sự liên hệ thân mật giữa những người Việt với nhau. Nhờ sự liên hệ, họ hiểu rõ về hoàn cảnh, giềng mối gia tộc, họ hàng... nhưng điều này coi chừng chỉ còn đang vương lại nơi thế hệ người lớn. Với cuộc sống mới, thế hệ thanh thiếu niên phỏng có còn cảm thấy sự liên hệ họ hàng là cần thiết và tiếp theo đó, sự liên hệ của con cái họ sau này sẽ ra sao. Phỏng đặc tính luân lý người Việt còn được phần nhỏ nào nơi họ để truyền lại cho con cháu sau này hay đang dần tàn lụi theo lớp người lớn. Nghĩ đến điểm này, đoàn thể quả là một nhu cầu cần thiết không những để thăng tiến giới trẻ mà còn bảo tồn những giá trị và đặc tính dân tộc.

Đành rằng với đặc tính và truyền thống người Việt, cha mẹ có ảnh hưởng rất lớn tới sự tham gia các đoàn thể của con cái; tuy nhiên, tự bản chất, giới trẻ đã mang những yếu tố quan trọng có thể coi như động lực của sự tham gia vào đoàn thể. Yếu tố này là tính chất thích linh động, cần sinh hoạt, đồng thời dễ chán những gì lập đi lập lại. Trong cuốn cẩm nang ngành trưởng của Hướng Đạo, một câu được coi là căn bản cho sự sinh hoạt với giới trẻ đó là, "Scouting is fun; if it is not fun, it is not scouting." Tổ chức Hướng Đạo có một thế đứng vững chắc và ảnh hưởng lớn đến giới trẻ trên thế giới bởi họ đã tìm ra nguyên tắc lôi cuốn và điều hành giới trẻ.

Lẽ đương nhiên, tham gia đoàn thể, bởi sinh hoạt chung với những người khác, người trẻ có được cái nhìn bao quát hơn và đồng thời cũng học thêm được nhiều điều bổ xung cho sự thiếu sót cá nhân, nhưng chính sự đào luyện giới trẻ đòi hỏi khả năng lãnh đạo của những người điều hành. Có thể coi giới trẻ như những tờ giấy trắng vương chút bụi bởi những cá tính riêng rẽ, đặc thù chưa được phát triển. Giới điều hành mang thiên chức tạo môi trường phát triển những cá tính riêng tư đồng thời huấn luyện cho giới trẻ trở nên những người hoàn bị và hữu ích hơn sau này cho xã hội.

Thực tế chứng minh, sinh hoạt giúp các đoàn thể trẻ chỉ là "ăn cơm nhà vác ngà voi." Giữ nhiệm vụ lãnh đạo, một người cần biết cách lãnh đạo, hiểu đặc tính giới trẻ, và tài xoay xở cho phù hợp với môi trường sinh hoạt của đoàn thể. Giới trẻ như những con ngựa bất kham, nhưng khi những con ngựa bất kham này được huấn luyện thuần thục, chúng sẽ trở thành những con ngựa quí giá và vô cùng hữu ích. Làm dùm cho người nào đó một việc gì thuộc khả năng của bạn là điều dễ dàng nhưng chỉ cho họ tự làm được việc đó quả không phải chuyện của một sớm một chiều. Lãnh đạo, điều hành các đoàn thể trẻ là giúp và chỉ dẫn họ làm việc chứ không phải ra lệnh cho họ, cũng không phải làm cho họ.

Có lẽ ai cũng mang niềm ước mơ lớp trẻ lớn lên sẽ làm rạng rỡ cho dân tộc hoặc chứng tỏ cho những chủng tộc khác nhận ra những giá trị của dân tộc Việt. Ước mơ này quả là khá lớn nhưng không phải là không thể thực hiện được. Ai cũng hiểu, nếu muốn có thành quả gì chúng ta phải thực hiện một chương trình nào đó. Đặt hy vọng vào giới trẻ mà không đầu tư nơi họ có lẽ chỉ gây thêm thất vọng và chán nản. Ai không nhìn thấy sự ảnh hưởng quá mạnh mẽ của lối sống cá nhân chủ nghĩa hiện đại quanh chúng ta. Bao nhiêu thanh thiếu niên đã không còn nhận ra giá trị của chính họ, của truyền thống, đặc tính người Việt khi chung đụng, liên hệ với những người chung quanh. Hiện trạng một số thanh thiếu niên không dám nhận mình là người Việt Nam, ăn bận, cử điệu, thái độ cố gắng tỏ ra sao cho giống những người bản xứ... Có phải được sinh ra nơi giòng giống Việt là một sự đày đọa hoặc là một sự trừng phạt cho họ hay là bởi họ không được hiểu biết về giá trị người Việt mặc dầu họ là con cháu Tiên Rồng, biết nói tiếng Việt. Thế hệ con cháu của giới trẻ sau này e rằng còn tệ hơn thế nữa nếu những người lớn chỉ đặt niềm hy vọng vào giới trẻ Việt Nam mà không làm gì cho họ. Không có hiện tượng nào rõ ràng hơn là giới trẻ đang bị lãng quên và trên đà lánh xa nguồn gốc Việt.

Tôi rất kính phục những người đã và đang dành thời giờ, tiền bạc để "ăn cơm nhà, vác ngà voi." Dù thế nào chăng nữa, thiện chí của họ cũng đáng được ca tụng. Nhưng xét lại, huấn luyện giới trẻ không phải là chuyện trẻ con chút nào bởi nếu sự hướng dẫn không hợp thời sẽ mang lại hậu quả thảm khốc, không phải ảnh hưởng cho một số người mà lan rộng đến nhiều người. Hậu quả này cũng không chỉ giới hạn trong một thời gian mà cả đời người và thế hệ tiếp nối. Đó cũng phần nào là lý do để rất nhiều người không dám tham gia những sinh hoạt đoàn thể trẻ. Thế nên, sinh hoạt đoàn thể trẻ cần sự nhận thức được tầm vóc quan trọng của vai trò lãnh đạo, huấn luyện giới trẻ, bởi chỉ những người mộng tưởng cũng như tin tưởng chắc chắn rằng mọi sự hiểu biết của họ là chân lý cuộc đời mới đi tới sai lầm; những người dám nhìn nhận tính chất thiếu sót cũng như sai lầm cá nhân sẽ tự cởi mở để học hỏi thêm từ bất cứ môi trường và hoàn cảnh nào. Chính sự cởi mở để học hỏi, lắng nghe này, họ nhìn ra được những gì cần và nên thực hiện cho giới trẻ và đồng thời nhận ra giới trẻ muốn gì. Không ai có thể nắm trong tay chân lý mà có chăng chỉ đang trong hành trình tìm kiếm chân lý; sự theo đuổi, kiếm tìm này đòi hỏi lòng kiên trì trong cả đời người. Nào có chi lạ, ai đã lên tới đỉnh núi, tất họ đang xuống dốc.

Giới trẻ qua thái độ im lặng, cách xa và có thể hơn đang mò mẫm bằng những bước bên lề tệ đoan xã hội báo hiệu cho mọi người điềm gì? Những đợt sóng ngầm càng kéo dài, lúc xuất hiện càng dữ dội. Hơn nữa, mất trộm mới lo rào dậu thì có được hàng dậu kiên cố mấy chăng nữa, vật cũng đã mất. Những hàng dậu muộn màng chỉ giữ được những dấu chân kẻ trộm như bằng chứng của sự đã mất.

Với những gương mặt sáng sủa, những ánh mắt tinh anh, giới trẻ đang biểu dương năng lực dời núi lấp sông sau này. Họ sẽ là những vị tướng uy hùng dẫn đưa thế hệ tương lai tới bến bờ không ai có thể mường tượng nơi thời điểm hiện tại. Bến bờ tương lai sẽ như thế nào tùy thuộc lò luyện tướng. Hoặc là họ sẽ trở thành những vị tướng quân công chính hay tướng cướp, đàng nào cũng là tướng.

THỰCTẠIVÀLƯƠNGTÂM

(Cảm nghĩ khi đọc bài viết "Thích Ứng Thực Tế hay Đồng Lõa, Một Vấn Đề Lương Tâm" của Nguyễn Đăng Trúc)

Nhân gian có câu: "Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn;" đồng thời thực tế chứng minh: "Có ở trong chăn mới biết chăn có rận." Thêm vào đó, đồng ý rằng người ngay chính nên nói sự thật nhưng không phải sự thật nào cũng nên nói bởi thực tại phũ phàng, há miệng mắc quai; đó có thể là lý do tại sao câu Kinh Thánh lững lờ "Người công chính nói lời khôn ngoan" đã trở thành châm ngôn hướng dẫn đường hướng, thái độ con người trong cuộc sống.

Ai chưa từng kinh nghiệm: "Có thực mới vực được đạo"? Phỏng một ngày một người dành ra được mấy phút, chỉ mấy phút thôi, để nâng tâm hồn mình lên gặp gỡ nguồn năng lực khôn ngoan dẫn đường chỉ lối sống cho xứng đạo làm người trong khi làm lụng, ăn uống, nghỉ ngơi, hưởng niềm vui cuộc đời, lo cho thân xác thì coi chừng bao nhiêu giờ cũng thiếu. Ngược lại, trong trường hợp bị trói lại chịu đòn, thời giờ càng kéo dài, người chịu đòn càng cảm thấy khốn khổ. Tại sao đã bao nhiêu người chịu cực hình lại không tự tử để rút ngắn thời gian đã bị hành xử, để giải thoát đau đớn thân xác? Phỏng trong trường hợp này, sống có phải là đồng lõa với cực hình? Chết có phải là sự giải thoát? Trường hợp cá nhân đã thế, nếu một người còn mang trách nhiệm trưởng gia đình với đàn con nheo nhóc, hoặc nghiệp đã buộc chặt vào một sự ảnh hưởng rộng lớn hơn để rồi có thể hành động, lời nói của họ vô tình gây họa thảm hình liên can đến biết bao người đơn sơ, chất phác thì sự chấp nhận chết bằng cách bị bôi nhọ, bị trở thành bung xung, con cờ cho những mưu gian lừa lọc phỏng được ích gì? Còn sống, dù bị hiểu lầm, vẫn còn cơ hội phần nào chu toàn lời mời gọi đã được khắc tận đáy tâm can, chìm trong vô thức. Chết để giải thoát cho chính mình dù cách nào chăng nữa cũng chỉ mang tính chất vị kỷ. Thực tế chứng minh, có những cái chết giá trị hơn sự sống, nhưng kẻ rơi vào tình trạng muốn chết để giải thoát cũng không chết được thì những ngày tháng lê thê kéo dài chỉ là những đoạn đường chất chồng khổ ải. Thế nên, người chưa có kinh nghiệm tù tội bao giờ không thể thực sự cảm nghiệm được câu: "Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại." Có đưa ra lời nhận định, chia sẻ, thông cảm nào chăng đối với những người chẳng may thì cũng không hơn gì những tiếng phèng la ồn ào chỉ gây náo động, chưa chắc có đã hơn không.

Nhận ra như thế, thực thể "lương tâm" không thể nào được hiểu theo một khuôn mẫu cố định nào đó. Đồng ý rằng lề luật đem lại lợi ích phục vụ con người nhưng lề luật không làm chủ con người và con người không được sinh ra để làm nô lệ cho lề luật. Bất cứ ý thức lề luật nào cũng đều lên án những hành động làm thiệt hại mạng sống của con người, nhưng trong trường hợp xả thân để bảo vệ quê hương chống quân xâm lăng, làm sao có thể tránh gây thiệt hại cho đám quân cướp nước. Lề luật nào cấm sự ngăn cản, chống lại kẻ ngoại xâm? Lề luật nào chỉ cho phép lạy lục và triều cống để không phải làm thiệt hại đến nhân mạng cũng như tài sản của đối phương? Hơn nữa, lương tâm con người được ý thức, nhận thức, lý trí, ý chí, ước muốn, kiến thức, kinh nghiệm... phụ giúp để điều khiển hành động, thái độ của con người trước một sự việc hoặc một lối sống. Nếu tin thực lời Kinh Thánh: "Ta sẽ ban luật điều của Ta xuống trí khôn chúng, và nơi lòng dạ chúng Ta sẽ khắc vào, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Hebrew 8:10b; 10:16b; Jer. 31:33b), ngoài Thiên Chúa ra, không ai có quyền quyết đoán, xét xử lương tâm một người nào; có chăng chỉ một chủ thể của hành động, thái độ, mới hiểu thấu những nguyên nhân và ảnh hưởng bí ẩn tạo nên những sự việc nào đó của họ. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta chỉ lên án hành động chứ không lên án con người mặc dầu con người tạo nên hành động. Chẳng những thế, sự nhận định của người khác về hành động của mình bao giờ cũng mang đầy thiếu sót và thiên vị. Ai không cảm thấy, người khác chỉ có thể nhìn sự việc xảy ra theo lăng kính cá nhân ở hoàn cảnh khác biệt bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố đặc thù kèm theo ý hướng, kiến thức cũng như tính chất cấu tạo thân xác và tâm não chẳng liên hệ đến những gì mình đang phải đối diện. Làm sao một người đang sống trong cảnh chăn ấm, nệm êm, ăn sung mặc sướng, tối nay dự dạ vũ này, mai đình đám khác có quyền hô ầm lên rằng "hỡi những người nghèo đói, hãy vui lên vì sự sung sướng vật chất này chẳng là gì; quí vị là người được chúc phúc vì không phải lo giữ của cải, không bị phiền hà bởi cá tính thấp hèn muốn tỏ ra mình sang trọng trước khi tham dự tiệc tùng, bận rộn điên đầu do không biết nên ăn mặc như thế nào cho mọi người kính nể hầu che dấu tính chất trưởng giả học làm sang." Đàng khác, "Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bịt miệng người thế gian." Người đời đâu cần tìm hiểu nguyên nhân, mà có chăng, dư luận thường chỉ xoi mói dựa trên lối nhìn phiếm diện đã được coi như chuyện bình thường ít ai để ý. Do đó, nào ai lạ gì, "Ở sao cho vừa lòng người, ở rộng người cười, ở hẹp người chê..." Xét như thế, sự phẩm bình, nhận định dù cho khách quan cách mấy vẫn chất chứa nhiều lầm lẫn. Hành động, thái độ, dẫu là sản phẩm của chủ thể nhưng không ai có quyền dùng chúng để định giá lương tâm bởi cuộc đời này ai không kinh nghiệm: "Cái khó bó cái khôn." Cho nên, nếu đã nhận thực những thiếu sót của mình khi nhận định về hành động hay thái độ của một người nào đó, không ai có quyền nhân danh bất cứ danh nghĩa nào để thẩm định lương tâm của bất cứ ai, và nếu ai vô tình xét xử lương tâm người khác, có lẽ chỉ đang chứng minh lương tâm của mình sai lệch. Ai đã không nhận thức được chỉ những tên trộm mới có thể suy nghĩ giống kẻ trộm, và người đeo kiếng râm tất nhiên nhìn thấy mọi sự vật đều mang một màu tối?

Bao lâu nay, hai chữ chính trị đã bị hiểu theo một ý nghĩa hạn hẹp để rồi có những nhận định không chính xác về ý nghĩa của nó. Nào ai lại gì, bất cứ cuộc nổi dậy nào dù tranh đấu cho lợi ích quần chúng thì cũng đã mang lại thiệt hại cho quần chúng trước. Lẽ đương nhiên, dẫu cho bất cứ sự thực hiện nào nhân danh chính trị thì cũng đều nằm trong hệ thống muốn loại trừ kẻ đối nghịch quan điểm. Do đó, làm chính trị xưa nay đều được quan niệm phải nói một đàng, làm một nẻo, phải ăn không nói có và ngược lại. Thực ra, tài nghệ chính trị là một khả năng nhận biết những gì sẽ xảy tới ngày mai, tuần tới, tháng tới hoặc năm tới, đồng thời cũng có khả năng để giải thích lý do những gì đã không xảy đến sau đó (Churchill). Có nhiệt tâm nhiệt huyết, hăng say hoạt động mà thiếu ý thức, kiến thức, bản lãnh... chỉ đem đến những hành động phá hoại. Bởi thế, không thể nào phân biệt giữa lối sống nhân bản và chính trị; đồng thời, bao giờ chẳng vậy, những người đặt vấn đề mới đều làm khó chịu những nhân vật chính trị vì họ phá đổ tất cả những gì đã được cẩn thận hệ thống hóa. Có lẽ đó cũng là lý do người làm chính trị chẳng bao giờ nghĩ đến mình làm chính trị mà chỉ kẻ không hiểu chính trị là gì mới ước mơ được gọi là nhà chính trị.

Thế nên, đặt vấn đề liên quan giữa chính trị và lương tâm phỏng có phải chỉ là công việc đập thùng rỗng để tưởng rằng tiếng kêu là thành quả. Dĩ nhiên, đập thì nó kêu, không kêu chẳng ai đập. Đạo đức, luân lý làm người chỉ là sự thể hiện chút nào đó phần hữu hình của lương tâm. Nếu một người có lương tâm ngay chính thì lối sống của họ chân thành; nói cách khác, họ làm chính trị bằng lối sống gương sáng bản thân. Khi đã đặt vấn đề: "...thực sự những cá nhân đó có được đào tạo để đem đời sống Kitô hữu vào trật tự trần thế không?" (Nguyễn Đăng Trúc) thì đây là vấn đề giáo dục chứ không phải chính trị, không phải vấn đề lương tâm mặc dầu lương tâm chịu ảnh hưởng của giáo dục, không phải lối sống nên thế nào để "đem đời sống Kytô hữu vào trật tự trần thế." Tông Huấn NTHGD, số 42, "Để đem đời sống Kytô hữu vào trật tự trần thế, tuyệt đối không thể từ chối tham gia vào chính trị, nghĩa là các hoạt động đa diện, kinh tế, xã hội, lập pháp, văn hóa, mục đích là phổ hiện công ích một cách quy mô thành cơ chế" nói lên quan niệm chính trị là "phổ hiện công ích một cách quy mô thành cơ chế". Một người nhân công cho một hãng xưởng, một người nông phu cuốc đất cấy khoai, một ngư phủ bắt tôm cá ngoài biển khơi, một chị thợ may, một người bán hàng... lương tâm tốt lành, công chính, làm sao "phổ hiện công ích một cách qui mô thành cơ chế"? Phỏng câu nói chính trị này dành cho giới nào, cho kẻ chân lấm tay bùn hai tay không vày lỗ miệng lại phải lo lắng chạy vạy cho đám con nheo nhóc, hoặc dành cho kẻ đang bị họng súng kề hông, dợm nhúc nhích là ăn đạn đồng?

Lấy bằng chứng nào để minh chứng đúng đắn "Giáo dân mặc nhiên chờ lệnh của các Giám mục, linh mục; và hàng giáo phẩm, giáo sĩ lại mặc nhiên cho đó là phận vụ của giáo dân" (N.Đ.Trúc). Hàng giáo phẩm nào ra lệnh cho giáo dân mở dạ vũ, nhảy đầm thâu đêm sao vẫn có giáo dân làm chuyện ấy? Giám mục, linh mục nào bảo người này phải bỏ ra hơn hai chục năm học làm bác sĩ, người kia kiếm vốn nhảy vào thương trường làm giàu nứt khố đổ vách...? Phỏng câu nói: "Muốn là đã không muốn" làm sáng tỏ phần nào ý nghĩa của sự chờ đợi trong lãnh vực này? Thế rồi, người có khả năng muốn làm bộ trưởng, tổng trưởng đã chắc gì được làm hay lại phải luồn lọt phe cánh nọ, bè phái kia để rồi khi có quyền lo làm tiền bù đắp công lao bợ đỡ, chạy chọt. Cuộc đời còn phũ phàng gấp mấy, kẻ lừa bịp thì chỉ có tài lừa bịp thế mà lắm người nghe theo và cho là thật trong khi kẻ có thực tài đem lợi ích lại mang đầy tự ái của người quân tử, không chấp nhận bưng bô, bợ đỡ bất cứ ai. Người nào đã bị phận số du vào cảnh, "Há miệng mắc quai," mới thấm thía được cảm nghiệm "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay" (Nguyễn Du). Thực "tránh trời không khỏi nắng" vì đàng nào cũng phiền "Nói ra tan cửa nát nhà, không nói lại bảo người ta ngu đần." Phỏng lời mời gọi của tông huấn cho hàng giáo phẩm hay cho hàng giáo dân? Giáo luật nào cho phép giáo sĩ đứng tên cơ sở thương mại? Giáo dân nào chấp nhận linh mục, tu sĩ làm bộ trưởng, tổng trưởng, hay tỉnh trưởng?

Con người được ban cho khả năng nhận định, trí tưởng tượng, nhưng không phải bất cứ gì mình cho là đúng, là nên thì bắt tay thực hiện không cần suy xét thiệt hơn. Nhìn vào quá khứ lịch sử, đã biết bao "cái nẩy xẩy cái ung," đồng thời lại cũng có những chuyện người đời cho là điên rồ, ngu xuẩn, đã đem lại biết bao lợi ích cho những thế hệ tiếp nối. Có những vấn đề chưa chắc thực hiện đã hơn mà có thể chỉ có hại. Thiện chí, lòng tốt, nhiệt tâm cũng cần có những điều kiện thiên thời, địa lợi, và nhân hòa, vì nếu không, chính lòng nhiệt thành nhưng thiếu hiểu biết, cân nhắc, thiếu cái nhìn bao quát cho viễn tượng tương lai không những chẳng mang lợi ích gì mà có thể trở thành mối họa trước mắt, hoặc tệ hơn nữa trở nên cái nẩy gây nguy cơ, khó khăn cho những thế hệ tiếp nối. Nguyễn Đăng Trúc trích từ Huấn thị về tự do Kitô giáo và giải phóng: "Vì tại các xứ này (chính quyền trong một số cơ chế dân chủ) một số lớn đang sống trong những điều kiện khó mà nói được là thích hợp với những đòi hỏi về nhân quyền..." và góp thêm ý kiến: "Nói như thế để thấy trong bất cứ xã hội nào cũng có những vi phạm nhân quyền" có lẽ vô tình ông đã tự đối nghịch với chính mình: "nhưng tất cả phải được lồng vào sinh hoạt cụ thể." Dĩ nhiên, ai cũng có thể là giám đốc nhưng rất hiếm người dám "lồng vào sinh hoạt cụ thể." Nhân gian kinh nghiệm: "Có bột mới gột nên hồ;" đến ngay những nước dân chủ mà "một số lớn đang sống trong những điều kiện khó mà nói được là thích hợp với những đòi hỏi về nhân quyền..." thì lấy gì làm điều kiện để "lồng vào sinh hoạt cụ thể" nơi mảnh rừng luật thú?

Khi đọc tới những cái "phải" mà tác giả đưa ra, "Phải lên tiếng... Phải lên tiếng vì Chân lý... Phải lên tiếng rõ ràng hơn nữa...," đưa tay rờ gáy, tôi "phải" thú nhận rất nhiều "cái phải" mà bao lâu nay tôi đã không bao giờ đụng tới hoặc có lần nào xét mình tự kiểm hầu mong có quyết tâm trở nên tốt lành hơn để đưa tới kết luận nhỏ nhoi phải đi ngủ đúng giờ, phải ăn uống điều độ, phải thêm giờ đọc sách v.v... thì mới buổi chiều hứng khởi ăn năn đó có đôi giây phút tưởng mình tốt lành, tối đến đã thấy rằng nếu đi ngủ sớm đời sống chẳng còn được bao lâu để mở mắt nhìn đời, mặc dầu chỉ nhìn cái trần nhà được quét vôi trắng. Hơn nữa, phải lên tiếng nói coi chừng hợp với lời Lão học nhận định: "Tri giả bất ngôn..." vì còn đang thiếu sót vấn đề giáo dục tác giả đã nêu lên. Thêm vào đó, lý do gì là động lực khiến Nguyễn Đăng Trúc đưa lên lời phát biểu: "Và tất cả đều bằng lòng một cách dễ chịu nhất: cầu nguyện, và nếu cần thì tuyên bố các nguyên tắc" khi nhận định về "thực trạng sinh hoạt Giáo hội chúng ta" để rồi tiếp theo đó sau ba cái phải lại trích thêm, "Những vị chăn dắt Giáo hội không nên trực tiếp vào việc xây dựng chính trị và tổ chức đời sống xã hội"? Ngộ thật, nói như vậy chẳng khác gì lập luận nơi truyện diễu về vị quan nhỏ ngày xưa... Có một người lính làng lẽo đẽo theo hầu một vị quan nhỏ nhưng tham bôi đi kiểm soát tình hình dân cư.

-"Mày coi tao như thằng ở dẫn đường cho ông chủ, phạt một hào." Không dám trả lời sao, người lính nộp phạt rồi đi lên phía trước.

-"Mày đi phía trước chẳng khác gì vị quan lớn bắt tao theo hầu, phạt một hào." Quá sợ, người lính đưa tiền đoạn đi ngang hàng.

-"Mày coi tao như thứ bằng vai phải lứa, lính không ra lính, quan không ra quan, phạt một hào." Tiền hết lại chẳng biết tính sao, người lính quýnh quáng lên tiếng,

-"Bẩm quan, con hết tiền rồi nhưng không biết hầu quan thế nào cho phải."

-"Mày hết tiền rồi thì đi thế nào cũng được."

Thân phận chẳng may bị vận số đẩy đưa vào thế cỡi cọp, động ho he, nhúc nhích sẽ bị ăn tươi nuốt sống. Một đàng huấn thị phán: "không nên trực tiếp can dự." (TD&GP, IV, 80) Đàng khác bị đòi hỏi: "nhưng tất cả phải được lồng vào sinh hoạt cụ thể" (N.Đ. Trúc), thật là cảnh cười ra nước mắt nơi vị thế gọng kìm, trên đe dưới búa thì dẫu bị kết án: "nhân danh một giá trị nào đó, một hoàn cảnh nào đó để nhân nhượng với điều ác hoặc làm thinh, chờ đợi... đề cao thái độ thích nghi thực tiễn" hoặc dẫu có bị phê bình hơn thế nữa thì cũng đành ráng gồng mình mà chịu bởi "há miệng mắc quai" hoặc có nói ra chỉ thêm tan cửa nát nhà; nói đã không được mà "không nói lại bảo người ta ngu đần."

Mề đay nào cũng có mặt trái; những hành vi tự bản chất là ác vẫn còn bị ảnh hưởng lương tâm kẻ thực hiện hành vi đó. Phá thai là điều kinh tởm thế sao trong trường hợp nếu vì sự sống của người mẹ không thể cứu vãn được trước khi bào thai trưởng thành thì bào thai phải bị hy sinh? Giáo dục được đặt lên hàng đầu nơi hành trình thăng tiến của xã hội há không phải do nhận thức ngăn ngừa những lương tâm bệnh hoạn? Sự chết là điều không ai muốn nhưng sao nó vẫn đến để rồi chỉ vì không biết cách nào trốn chạy, ai nấy đành chấp nhận! Và phỏng người ta sống mãi không chết thì sao? Thực ra, bản chất mọi sự không tốt không xấu, mà có chăng tốt xấu, thiện ác tùy chủ thể, môi trường. Theo luật Công Giáo, hai người dẫu không có gì ngăn trở, không phải là vợ chồng theo giáo luật, "ăn ở" với nhau dù hợp pháp hay không cũng là điều tội. Nào có gì đâu, gặp đấng bản quyền xin tuyên thệ giao ước hôn nhân thì chính những hành động mới vài giờ trước bị kết án là tội giờ trở thành không tội. Phỏng bí tích hôn nhân biến sự tội thành sự không tội? Bản chất của việc hai người ăn nằm với nhau ác hay không ác? Không ác sao có những trường hợp phá vỡ gia đình người ta? Không thiện sao tạo nên những gia đình đầm ấm mà không có nó bí tích hôn nhân không thành! Có lẽ câu Phúc Âm Mt. 7:21 bị viết thiếu. Thiển nghĩ nên được sửa lại: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: lạy Chúa, lạy Chúa và giữ luật không suy xét là sẽ vào được Nước Trời..." Đâu phải đơn giản mà Kinh Thánh có câu, "Ta sẽ ban luật điều của Ta xuống trí khôn chúng... và chúng sẽ là dân Ta..." (Hebrew 8:10b); trí khôn con người đâu phải cái máy chạy theo những quy luật nhất định vì trước khi có luật đã có sự xáo trộn đồng thời đã có luật tất nhiên có kẽ hở. Thế nên, để nhận định đúng đắn sao cho thái độ, lối sống đẹp lòng Chúa, được lòng người, luật điều lương tâm an giải để con người sống thuận ý trời và xây dựng nhân bản. Con người bao gồm những bản năng của sinh động vật và tâm linh quấn quyện không thể phân chia. Cho dù biện chứng cách nào hoặc chạy trốn, xóa bỏ cách mấy, con người không thể nào thoát được những phán quyết của lương tâm vì tiếng nói lương tâm là tiếng nói của Thượng Đế nơi mỗi tâm hồn. Tuy nhiên, vì con người không phải chỉ bị chi phối bởi tâm linh mà còn thân xác, lý trí, ý chí, v.v... cũng như điều kiện và môi trường hiện hữu ảnh hưởng tới sự phán quyết của lương tâm, sự giáo dục để có lý trí, ý chí, kiến thức, chiều hướng suy tư... ngay lành, đúng đắn, sẽ giúp lương tâm con người phê phán hướng thượng. Người đã hư bộ óc, lương tâm bệnh hoạn thì có kết án họ cũng chẳng giải quyết được gì, có chăng chỉ nghe thấy những chuyện kinh tởm sẽ xảy ra mà tác giả của những sự việc này là chính kẻ mang cái đầu lệch lạc ấy.

Dẫu biết rằng "Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi e sông" (Nguyễn Thái Học), nhưng đồng thời, "Nếu đường đời cứ bằng phẳng mãi, anh hùng hào kiệt có hơn ai," nói nghe thì dễ, làm giám đốc buông ý kiến oai phong ai cũng có thể thực hiện được, mà thực tế đâu ai muốn bước vào đường đi khó bởi ai cũng chỉ muốn lái xe trên đường bằng phẳng, cho mau "vinh thân phì gia" tưởng rằng chỉ nghĩ đến những điều tốt lành là đã anh hùng, quên mất lời cổ nhân để lại: "Vì sông nên phải lụy thuyền, chớ như đường liền ai phải lụy ai." Đối diện với một thực tại oái oăm mà những cái đầu quyền hành mang lương tâm lệch lạc thì những lời mình nói ngay cũng bị bắt quày làm eo, không mở miệng thì bị cho là miệt thị, lên tiếng nói, lối nào cũng bị kết án bởi quyền hành áp chế dưới ảnh hưởng của lương tâm sai lầm, thế tục. Sống nơi rừng sâu một mình, giữa những bầy ác thú, trong tay không tấc sắt làm vũ khí bảo vệ bản thân, cho dù khôn ngoan cách mấy, không trước thì sau cũng sẽ trở thành miếng mồi ngon cho dã thú ăn thịt. Có leo lên cây hy vọng vượt khỏi những nanh vuốt hãi hùng là đà nơi mặt đất, đã chắc gì tránh thoát cảnh làm mồi cho trăn độc và rắn rết bò theo? Có chắp tay lạy chúng thì chúng cũng chẳng nghe được tiếng người; sống hòa đồng với chúng có nghĩa chui vào những chiếc dạ dày khát máu. Lên trời không có lối, xuống đất chẳng đường đi thì nói gì tới tự do, tới nhân bản... chẳng bởi lý do, lý luận nào, mà chỉ vì chúng là dã thú, chúng không có lương tâm con người. Phỏng ai đã quen vuốt ve, vỗ về con chó nhà dễ thương, biết nghe lời chủ, dám vô rừng đến gần đàn chó sói dạy khôn chúng đừng ăn thịt mình? Lẽ đương nhiên, chó nào cũng là chó; tự do nào cũng là tự do; cá nào cũng là cá nếu chỉ xét theo bình diện ngôn từ; nhưng "Cá trong lờ đỏ hoe con mắt, cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô" (Ca Dao). Phỏng cá nào muốn vô nếu nó có tri thức phân định sự khác biệt giữa trong lờ và ngoài sông, nơi suối? Lẽ tất nhiên, loài cá có thể là loài thong manh nên không phân biệt được bên trong và bên ngoài cái lờ. Những con cá nào may mắn "vượt vũ môn" hóa rồng, nhìn lại đồng loại mình trong lờ chập hẹp đã vội quên cái may (hoặc cái hèn, bởi thánh nhân đãi kẻ khù khờ) của mình để rồi lên tiếng phê bình là ngu, là dại, là thế nào chăng nữa, thì có lẽ chỉ khiến cho vị thánh nhân hối hận mà chớ. Thực tại có những nỗi oái oăm không thể ngờ, không được phép nói thì ấm ức mà bị phải nói thì chỉ còn nước mếu.

Thực tại muôn mặt mà con người phải đối diện không đơn giản như lý thuyết hướng dẫn phương cách thực hiện một chiều hướng nào đó. Người ta khen Câu Tiễn kiên nhẫn nuôi chí phục thù nhưng có lẽ không ai dám chấp nhận nếm phân của kẻ thù như Câu Tiễn. Hơn nữa, lý thuyết kiên nhẫn chịu đựng chờ cơ hội chắc chắn không chấp nhận cho kẻ có liêm sỉ xử dụng phương tiện hèn hạ mang đầy tính chất mất nhân phẩm đó để gây niềm tin của kẻ thù. Ngược lại, Tiền Nhân dân Việt để lại câu lý thuyết: "Miếng ăn là miếng nhục," tại sao chính các ngài cũng như con cháu các ngài là chúng ta ai cũng chấp nhận sự nhục nhã này? Thế thì khi nào, ở hoàn cảnh nào miếng ăn là miếng nhục? Lý thuyết thuộc về nhận thức; sự thực hành, áp dụng thuộc về thực tại tùy thuộc kiến thức, nhận thức, ý thức con người đang phải đối diện chúng. Nếu lý thuyết không có hành động thực tiễn làm nền tảng thì chỉ được coi như đức tin không có việc làm, một thứ thùng rỗng có tiếng kêu dễ nghe, điều mà Lão học gọi là "Ngôn giả bất tri."

Chính những phương cách hành động thực tiễn khi đối diện với thực tại đa diện đã tạo nên kinh nghiệm. Nhiều kinh nghiệm tương đồng cho con người khái niệm xây dựng lý thuyết. Như vậy, chính cuộc sống đã tạo nên lý thuyết; nói cách khác, lý thuyết là sản phẩm của những hành động thực tiễn chứ không phải lý thuyết hướng dẫn hành động. Bất cứ lý thuyết nào đi trước hành động đều gặp phải sai lầm khi áp dụng vì thực tại cuộc đời không phải là niềm mơ. Mỗi người Việt đang sống nơi hải ngoại cảm thấy thế nào khi tưởng nghĩ đến thân phận bỏ nước ra đi, dùng lý thuyết nào để biện minh cho thân phận vong quốc do hành động trốn chạy không dám đối diện với thực tại phũ phàng? Cái nhục, cái hèn nào có thể chấp nhận để bào chữa cho danh dự? Phỏng câu thơ của thi sĩ Juvénal: "Tội ác tày trời là coi mạng sống mình trọng hơn danh dự" được áp dụng cho những người ở lại hay cho kẻ đã vắt giò lên cổ tránh thoát một thực tại chẳng đặng đừng? Ôi! "Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!"

NÉTNHÌNSƠLƯỢCVỀTHÁNH

Quí cụ học Nho ngày xưa hay dùng câu "Đọc sách thánh hiền." Sách thánh hiền gồm nhiều bộ, đại khái được chỉ về những sách luân lý, khuyên răn con người sống cho tốt lành như Tam Tự Kinh, Tứ Tự Kinh, Ngũ Tự Kinh, Đại Học, Luận Ngữ, Kinh Thi, Kinh Đường, v.v... Chữ thánh hiền theo nghĩa hẹp chỉ về những sách được cho là của Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử v.v... những người đã viết hoặc thâu thập những điều khôn ngoan trong dân gian trải qua từ đời nọ đến đời kia mà vẫn còn được hầu hết mọi người cho là đúng. Những điều khôn ngoan này trong các sách chữ nho, nếu xét theo lịch sử Trung Hoa đã được thử thách với thời gian nơi dân chúng qua các thời đại từ Tam Hoàng, Ngũ Đế, Hạ, Thương, Chu Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh... Hán Nho ảnh hưởng lớp trí thức Việt Nam thời trước rất mạnh do đó quí cụ dùng tiếng "Học chữ Hán." Những quan niệm, văn học Trung Hoa được chia ra tùy theo sự ảnh hưởng và triều đại vua chúa hoặc những nhân vật nổi tiếng có ảnh hưởng luân lý mạnh mẽ tới quần chúng chẳng hạn như quan niệm Tống Nho, Hán Nho, Đường Nho, Khổng Nho, Lão Nho. "Nho" có nghĩa là chữ Trung Hoa, nhưng nếu xét theo sự ảnh hưởng tới người khác, mang nghĩa quan niệm.

Những người nói lên hoặc chép lại những điều khôn ngoan được gọi là thánh hiền. "Hiền" mang nghĩa hiền đức, đức độ, khôn ngoan, tốt lành. Thánh hiền hay thánh nhân là người có cuộc sống đức độ, tốt lành, đó là theo Nho Học. Chúng ta còn gọi một số người khác với chữ "thánh" chẳng hạn Gandy, một người Ấn Độ chủ xướng và thực hiện chính sách bất bạo động, bất hợp tác với người Anh để chống lại chính sách thực dân Anh. Các vị giáo hoàng của giáo hội La Mã cũng được gọi là "đức thánh cha" dù khi các ngài còn sống. Têrêsa, một nữ tu Công giáo giúp người Ấn Độ trong những năm gần đây cũng được gọi là thánh sống... Nếu xét về phương diện sống, những người được gọi là thánh có công giúp đỡ, đem cả đời mình phục vụ cho những người khác đang sống trong khổ ải lầm than. Đây chỉ là những người được nhắc nhở tới nhiều, còn biết bao nhiêu "thánh" không ai biết đến, âm thầm giúp ích cho đời và những người chung quanh.

Do đó, bình thường mới nghe đến tiếng thánh, mọi người đã nghĩ ngay tới một con người nổi bật, đặc biệt, hoàn toàn tốt lành, một tâm hồn độ lượng, kiên nhẫn, khoan dung để rồi có cảm nghĩ mình chẳng ra gì, mình xấu xa, chấp nhận cuộc đời "phó thường dân," không dám đối diện mà an lòng tránh khỏi những cố gắng dầu chỉ bình thường (theo mình nghĩ) trong cuộc sống. Thật ra, nếu nói rằng nhiều người thì không đúng mà hầu hết mọi người đều mang tâm trạng thăng hoa thánh quá độ nên không dám dù chỉ mơ ước trở thành thánh. Thử nhìn ngược lại, có những người cho rằng mình sống đạt tới bậc thánh hoặc sống thánh thiện đến nỗi không bao giờ cảm thấy bị cám dỗ sống đúng với thân phận con người. Sống không bị cám dỗ, không dám sống như một con người có thể chỉ là thánh lập dị. Tâm lý mà xét, thánh nhân không ai gọi chính mình là thánh và nếu có vị thánh nhân thực sự nào gọi mình là thánh cũng đều bị đem đi đóng đanh, mổ xẻ mà chớ. Đọc trong lịch sử, những vị được tôn phong thánh đều xưng nhận là người lầm lỗi. Càng thánh vĩ đại, càng lỗi lầm nhiều, càng phải chiến đấu gay go mà lại còn mê man chiến đấu khiến người đọc phải ngạc nhiên tại sao họ có thể kiên trì, đam mê chiến đấu như thế. Hơn nữa, bởi các vị thánh đều có cuộc đời và cuộc đời các ngài là một con người do đó trước khi được phong thánh hoặc được gọi hay ca tụng là thánh, họ phải là con người với cả những năm tháng sống trên trái đất, chung đụng, giao tiếp cùng những người đồng thời của họ. Những vị thánh đã sống cuộc đời rồi mới được gọi là thánh thì những ai không dám sống như một con người có lẽ không thể thành thánh mà còn có thể là bất thường. Thế cho nên, quan niệm hoặc lối nhìn quá thăng hoa về thánh chỉ làm giảm giá trị con người chính mình hoặc để cố ý sống chẳng ra gì mà thôi.

Nếu nhìn lại cuộc đời các vị thánh theo khía cạnh vừa nêu trên, thật ra không nên đặt vấn đề thánh là những người hoàn toàn tốt lành suốt cuộc đời của họ mà nên đặt vấn đề họ là những người lỗi lầm như mọi người cho tới khi họ được chứng minh rằng tốt lành. Vì có cuộc sống, mà cuộc sống là phải có sự liên hệ tới những người chung quanh. Ai có thể làm hài lòng hết mọi người? "Ai nên khôn không khốn một lần?" Ai chưa bao giờ đụng tay vào lửa hoặc ở gần lửa mà đã biết lửa nóng? Ai không có kinh nghiệm tội lỗi đã biết tội lỗi là điều xấu xa? Những người không bao giờ gặp sai lầm đã chẳng bao giờ dám sống, dám có một sự chọn lựa trong cuộc sống hoặc không phải là người bình thường đúng nghĩa, mà chỉ có thể là con người máy, một người mất hết tự do, hoặc một người nô lệ bị bó buộc hay bị kềm hãm tâm trí bởi bất cứ một mãnh lực nào, cũng có thể rằng họ bị bất thường hoặc bệnh hoạn. Mà đã không có tự do để chọn lựa, quyết định cho cuộc đời mình, lối sống của mình, con người như thế không thể là thánh. Do đó, có thể nói, là con người, ai không có lỗi lầm, không thể trở nên thánh.

Bởi thế, nếu đặt vấn đề thánh phải là một người không có lỗi lầm thì thánh cũng lại là một vấn đề mà người ta phải tránh, phải tránh vì họ không phải là những người bình thường. Chính vì quan niệm sai lầm này về thánh, chúng ta đã không dám dù chỉ nghĩ đến mơ ước làm thánh. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm các vị thánh, thánh nhân cũng chỉ là con người lỗi lầm đã sửa đổi, đã chết, và được đề cập tới mà thôi. Có điều hình như những người viết sách về các vị thánh không đề cập đến những điều không nên không phải của các ngài trong khi chính các ngài lại hô ầm lên những lỗi lầm của mình. Nếu ai trong chúng ta không dám tìm hiểu những lỗi lầm của các vị thánh thì hãy còn tốt chán. Thực ra, nhiều ý tưởng tốt lành của thánh nhân bắt nguồn từ kinh nghiệm nơi con người lỗi lầm của các ngài. Nước không ngập lụt chẳng ai đặt vấn đề đắp đê! Ông bà ta có câu nghe ngược ngược: "Mất trộm mới lo rào dậu" mà gẫm kỹ ra chẳng ngược chút nào. Thánh nhân cũng vậy mà con người bình thường cũng thế, có ăn ớt mới biết ớt cay; có kinh nghiệm lỗi lầm mới biết thế nào là hạnh phúc của sự thiện hảo. Suy ra, chỉ có một điều khác biệt độc nhất giữa thánh nhân và con người tội lỗi là các vị thánh, vì đã chết, do đó chỉ có quá khứ, còn con người tội lỗi lại có cả một tương lai để sửa đổi. Thế cho nên, dám nhìn nhận chính mình như thế nào để sửa đổi lại là bước đầu tiên để trở nên thiện hảo, nên thánh. Hơn nữa, kinh nghiệm cho biết bất cứ hành động hoặc sự luyện tập nào cũng có thể trở thành thói quen, một đam mê, hay nói đúng hơn đôi khi trở thành sự cám dỗ. Bởi vậy, sự tập luyện trở nên thánh thiện hay đúng ra chính sự trở nên thánh thiện cũng có thể trở thành một sự cám dỗ, và do đó sự trở nên thánh thiện và toàn hảo cũng hấp dẫn con người không thua gì thói hư tật xấu. Câu "Nhân chi sơ, tính bản thiện" đúng được phần nào trong sự sống trung thực với chính con người của mình. Tự bản chất mình đã hướng thiện, được sinh ra trong đặc tính hướng thiện tất nhiên cuộc sống đã mang chiều hướng thánh. Như vậy, sống đúng với con người của mình cũng đang là thánh chứ không cần phải tìm tòi những điều khó khăn được thăng hoa quá độ để sợ không dám nghĩ về sự trở nên thánh hoặc thánh thiện. Chỉ một điều cần để ý là các thánh nhân tự chiều lòng hạ mình thực sự nhìn nhận là người tội lỗi và cố gắng thực hiện những hành động, lối sống tốt lành hơn. Dù đọc trong lịch sử các thánh, chẳng may có gặp thánh nào nhiều lỗi lầm mấy mặc lòng thì đặc tính liên lỉ nhận thực về mình để sửa đổi vẫn là điều kiện căn bản và thiết yếu nơi tính chất thánh của các ngài. Có thể nói, những cố gắng sống tốt lành hơn của mỗi người chúng ta là những tính chất thánh mà bình thường ít ai để ý đến.

Dĩ nhiên thánh xuất thân từ con người bình thường, được sinh ra với đặc tính bình thường "nhân chi sơ tính bản thiện," và luôn luôn thực hiện lối sống sao cho tốt lành hơn. Tuy nhiên, người ta chỉ xưng tụng người nào là thánh trong niềm tin vào Thượng Đế, Đấng Thiện Hảo duy nhất, vì nếu đặt vấn đề giả sử không có Thượng Đế, sẽ không có thánh. Như vậy, những người vô thần không bao giờ xưng tụng ai là thánh và những ai xưng tụng người nào là thánh, tự tiềm thức đã tin vào Thượng Đế. Theo đức tin Công Giáo, Thiên Chúa hay Thượng Đế là Đấng Chí Thánh, Toàn Thiện duy nhất. Albert Camus trong La Peste đặt vấn đề: "Ai có thể là thánh nếu không có Thiên Chúa; đây là trở ngại độc nhất của tôi (Camus) phải đương đầu."

Trong giáo hội Công Giáo, thánh là tước vị đặt cho những người công giáo được Giáo Hội Công Giáo Rôma nhìn nhận theo truyền thống hoặc bởi sự phong thánh, được tin rằng đang ở thiên đàng và xứng đáng được ca tụng. Ý niệm nơi Kinh Thánh về lời giao ước được đặt làm nền tảng cho sự tìm hiểu về bản chất của sự thánh thiện trong tính chất thánh. Ý niệm này nhấn mạnh trước tiên, Thiên Chúa là Đấng Thánh Thiện, qua Chúa Kitô, nhịp cầu cho con người bước tới sự thánh thiện của Thiên Chúa. Thứ đến, sự thánh thiện của tạo vật bao gồm chuyên nhất trong việc phụng sự Thiên Chúa như việc phụng thờ, giữ những điều luật. Trong thời kỳ giáo hội sơ khai, tiếng thánh được dùng để chỉ những ai đã được hưởng dung nhan Chúa trên trời, những ai "đã chết" có thể "cầu bầu" (cầu xin và bầu cử, giúp đỡ) cho những điều cần thiết cho Giáo Hội trần gian và giúp hay thực hiện cho những điều này. Thánh cũng được coi là những người được dân chúng kính trọng và được nhìn nhận bởi Giáo Hội qua nghi thức tuyên phong. Vai trò thánh trong giáo hội Công Giáo thời sơ khai thường được nói tới những người tử vì đạo trong thời kỳ Giáo Hội bị bách hại. Cho tới thời bình trong triều đại Constantine vào thế kỷ thứ 4, nghi thức, sự trọng kính các thánh là nghi thức sùng kính các vị tử vì đạo. Ngày nay, theo giáo hội Công Giáo Rôma, thánh là những người đã chết được Giáo Hội tuyên phong và nhìn nhận có cuộc sống đạo đức thánh thiện tốt lành hoặc tử đạo, đáng làm gương cho những người Công Giáo noi theo. Như thế, thánh là những người đã phục vụ để thể hiện ước muốn theo gương cuộc đời Chúa Kitô. Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng thánh như những người gương mẫu đạo đức và sẵn lòng hướng dẫn những ai còn đang trên đường tìm lối sống đạo đức tốt lành.

Tiếng Latin dùng chữ "Santus" nói lên đặc tính của một người thánh thiện. Theo Kinh Thánh, Thiên Chúa là đấng tự tỏ mình và được ca tụng là Đấng Thánh, Thiện Toàn: "Thánh, Thánh, Thánh, Yavê Thiên Chúa các cơ binh, khắp trái đất đầy tràn vinh quang Người." (Is. 6:3) Chữ thánh chỉ con người trong Kinh Thánh được dùng để nói lên người trung thành với Thiên Chúa dù sống trước thời Chúa Kitô: "... mồ mả mở toang ra, và xác của nhiều thánh đã yên nghỉ được sống lại.." (Mt. 27:52); những người thuộc về Đức Kitô (sống trong Đức Kitô), thuộc về giao ước mới: "Các thánh ở Côlôsê, những anh em thành tín trong Đức Kitô." (Phil. 1:1), và tổng quát hơn, chỉ chung tất cả Kitô hữu như trong lời chào mở đầu của thư Phaolô gửi đến giáo đoàn Rôma: "Kính gửi anh em hết thảy ở Rôma, những người được Thiên Ckhúa yêu mến, chư thánh được người hiệu triệu." (Rom. 1:7), hoặc trong thư thứ nhất cho Corinthô: "Kính gửi hội thánh của Thiên Chúa tại Corinthô, những người đã được tác thánh trong Đức Kitô, chư thánh đã được Thiên Chúa hiệu triệu..." (1Cor. 1:2), hay: "Kính gửi hội thánh của Thiên Chúa tại Corinthô, làm một với hết thảy các thánh trong toàn hạt Akhaia." (2Cor. 1:16), và nơi thư Êphêsô: "Kính gửi các thánh "ở Êphêsô" cũng là những người thành tín trong Đức Kitô" (Eph. 1:1).

Vì Thiên Chúa là Đấng Chí Thánh, sự ảnh hưởng của lời giao ước với dân Israel đưa dân Chúa đến với Ngài và như thế được chia sự thánh thiện của Ngài, "Còn các ngươi, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế cho ta, một dân thánh..." (Ex. 19: 6). Từ đó họ được thanh tẩy, được thánh hóa, được liên kết với Thiên Chúa bởi tuân giữ lề luật để thờ phụng Ngài: "Vì chính ta là Yavê Chúa các ngươi; các ngươi sẽ ở như người thánh và các ngươi hãy là thánh, vì Ta là Thánh..." (Lv. 11:44); "Hãy là thánh vì Ta là Thánh..." (Lv. 19:2; 20: 7, 26). Trong sách Daniel, dân Chúa cũng được gọi là "chư thánh của đấng tối cao" (Dn. 7:18).

Theo Tân Ước, quốc gia thánh thiện trở thành giáo hội như trong thư thứ nhất của thánh Phêrô: "Còn anh em, giòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn làm sở hữu" (1Phêrô 1:9). Nguyên do đầu tiên để Kitô hữu được gọi là thánh bởi Chúa Giêsu: "Ngài là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (Mt. 1:24; Lk. 4:34) hay "Đấng Thánh, Đấng Công Chính" (Act. 3:14). Qua sự hợp nhất với Ngài, Kitô hữu chia trong Ngài sự thánh thiện (1Phêrô 1:15). Lời mời gọi dân Chúa trở nên thiện toàn giống Chúa là lời mời gọi con người sống tốt lành về đạo đức cũng như luân lý: "Và phàm ai đặt hy vọng vào Người (Đức Kitô) thì lo cho mình nên thanh sạch..." (1Gioan 3:2) hay "Nhưng xứng với Đấng đã kêu gọi anh em, một Đấng Thánh, cả anh em nữa, hãy nên thánh trong tất cả hạnh kiểm" (1Phêrô 1:15). Sự thánh thiện này đưa tới sự chiêm ngưỡng dung nhan Chúa (Mt. 5:8; 1Gioan 3:2) và sống lại với Đức Kitô (Gioan 6: 35-39). Sự hợp nhất với Đức Kitô được thiết lập qua bí tích rửa tội, sự thánh hóa cho việc phụng thờ Thiên Chúa. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi những cố gắng tuân giữ lề luật, luân lý vì lề luật được đặt ra để giữ gìn và cải tiến con người nên hoàn hảo. Hơn nữa, tuân theo lề luật được coi là phục vụ trong tình yêu.

Phục vụ trong Đức Kitô được toàn hảo trong sự liên kết thánh thiện với Ngài và trong sự hợp nhất của lòng bác ái, đó là một hồng ân của Thiên Chúa. Hồng ân này hỗ trợ Kitô hữu mà không xóa bỏ những nhiệm vụ căn bản của tạo vật đối với Thiên Chúa. Theo thánh Thomas Aquinas, sự thánh thiện được bao gồm nơi sự tuân giữ lề luật tôn giáo không phải chỉ đơn giản trong việc thờ phượng mà còn hướng dẫn hành động, thái độ của con người hướng về sự phụng thờ Thiên Chúa. Hơn nữa, đức tin (tin vào Thiên Chúa và sống liên kết với Đức Kitô) hướng dẫn và nâng đỡ việc phụng thờ Thiên Chúa tới việc phục vụ đồng loại. Chỉ tôn giáo dưới sự hướng dẫn của đức tin mới có thể tiến tới sự toàn hảo của Thiên Chúa. Công Đồng Vatican II cũng nói lên vai trò đặc biệt của thánh trong sự sống vĩnh cửu, trong sự tưởng nhớ và kêu cầu sự giúp đỡ của các thánh khi kitô hữu làm việc phụng thờ. Chúng ta tin chắc trong đức tin với ơn cứu độ của Chúa Kitô, và đồng thời bày tỏ niềm tin tưởng rằng Giáo Hội không phải chỉ là những thành phần được qui tụ ở trần gian mà thôi nhưng là một thành phần của thực tại vĩnh cửa, một thành phần của các thánh và được gọi là thông công với các thánh hoặc các thánh thông công. Theo nghĩa này, ý nghĩa thâm sâu nhất của "thánh" được tự nói lên trong lời nguyện thánh thể 2: "Hưởng sự sống đời đời cùng với đức trinh nữ Maria mẹ Thiên Chúa, các thánh tông đồ và toàn thể các thánh đã sống đẹp lòng Chúa khi ở trần gian." Sống đẹp lòng Chúa khi ở trần gian tất nhiên là thánh. Sống đẹp lòng Chúa tức là tiến tới sự thánh thiện toàn hảo.

Kilmer Myer viết trong tờ New York Time tháng ba, số 19 năm 1962, tạm dịch: Chúng ta mặc nhiên chấp nhận đặt tượng thánh Phanxicô Assisi đứng giữa bồn nước chim tắm và để tất cả sự nghiệp của ngài chỉ ở nơi đó. Chúng ta trọng kính các thánh không phải chỉ vì thông phần với các ngài mà chính những nhân đức của các ngài ít nhất đã khuyến khích và nêu gương cho chúng ta trung thành với Phúc Âm. Noi gương các vị thánh không phải chờ cơ hội xảy ra để làm giống những chuyện các ngài đã làm mà áp dụng những sự tốt lành của các ngài nơi đời sống chính mình. Nếu không, cách thánh chỉ được coi như món đồ trang sức chết ngắc được đặt mọi nơi mọi xó làm đẹp chốn mình cư ngụ. Ngược lại, theo Kinh Thánh, những người trung thành với Thiên Chúa được gọi là thánh, danh hiệu thánh không phải chỉ được dùng giới hạn để chỉ những người siêu việt mà thôi.

Thử nhìn lại sự biến chuyển nơi quan niệm tu đức về ước muốn sống thánh thiện theo thời gian. Khi việc bắt đạo không còn nữa, tính chất thánh trong việc tử đạo đã biến thể bằng việc tử đạo nơi cuộc sống như ăn chay, đánh tội, lên rừng hành xác. Điều này cho thấy thay vì người khác hành hạ mình vì mình tin vào Thiên Chúa thì chính mình lại tự hành hạ mình vì đức tin. Đặt vấn đề kỹ hơn chút nữa, sự khác biệt giữa tử đạo và hành hạ thân xác mình nói lên điểm trái ngược. Người khác hành hạ mình vì mình tin vào Thiên Chúa, vào ơn cứu độ của Ngài tức là mình dâng hiến mạng sống mình vì đức tin, vì Thiên Chúa. Tự hành hạ mình để kiếm ơn cứu độ có nghĩa mình không cần ơn cứu độ của Thiên Chúa. Thế nên, tưởng là việc tốt lành lại trở thành sự từ chối khinh chê. Do đó những quan niệm ngày xưa cần được đặt vấn đề không những một lần mà nhiều lần.

Quan niệm thánh cũng thế, Thiên Chúa là Đấng Thánh; ân sủng của Ngài là sự thánh; do đó ai sống trong ân sủng của Ngài đương nhiên là thánh bởi "những người thành tín trong Đức Kitô" được gọi là thánh (Eph. 1:1). Hơn nữa, chúng ta dùng chữ "Hội Thánh" có nghĩa hội của những người thánh, những người chứng nhân của Đấng Thánh. Vấn đề còn lại chỉ là cuộc sống của chúng ta có đang chứng tỏ mình là nhân chứng của Đấng Thánh, mình đã được cứu độ hoặc "sống đẹp lòng Chúa khi ở trần gian hay không." Nơi mức độ này, Giáo Hội Công Giáo nhìn nhận danh hiệu "thánh" cho những ai có cuộc sống trong ân sủng để rồi cuộc đời họ được hướng dẫn bởi sự hòa hợp những điều luật đạo đức trong tôn giáo. Chỉ một điều đơn giản còn sót lại và đó là những người chấp nhận và nói rằng mình là người tội lỗi mà không thấy, không nhận thực được lỗi lầm của mình như thế nào để sửa đổi, đó chỉ là người đánh lừa chính họ và đánh lừa luôn cả Thiên Chúa bởi những người nhận thực và chấp nhận được lỗi lầm của mình để sửa đổi đã bắt đầu bước vào con đường thánh thiện. Bước vào con đường thánh thiện đương nhiên là thánh.

CHỨNGTÁĐỨCTIN

Theo nghĩa thông thường, tin tưởng một điều gì hay tin tưởng một người nào, sự tin tưởng này mang tính chất được cho là thật. Tính chất của sự tin tưởng hay niềm tin bao gồm nhiều khía cạnh cũng như điều kiện đồng thời nguyên nhân tạo nên niềm tin lại có nhiều dáng, lắm vẻ khác nhau. Nếu một sự việc nào đó tùy thuộc vào kinh nghiệm cá nhân trong trường hợp và điều kiện, môi trường riêng tư tạo nên niềm tin nơi một người thì niềm tin này chưa chắc hẳn đã là đúng hoặc khó có thể áp dụng trong những trường hợp, hoàn cảnh khác; do đó chẳng lạ gì biết bao nhiêu trường hợp bé cái lầm đã xảy ra: "Bởi nghe nên mắc, bởi tin nên lầm" (Ca Dao). Những sự tin tưởng được kiến tạo do kinh nghiệm nếu đã được nghiệm chứng bởi nhiều người mang giá trị đáng tin cậy hơn: "Thừa tiền thì đem mà cho, đừng đi coi bói thêm lo vào mình" (Ca Dao). Tuy nhiên, cũng có những điều nhiều người cho là thật nhưng lại khó có thể kiểm chứng như trường hợp "Tin ma ma bắt, tin cọp cọp tha" (Ca Dao). Tùy theo trường hợp, niềm tin mang hai tính chất đối nghịch: cậy trông, chờ đợi chuyện xảy đến hoặc sợ hãi, muốn tránh thoát hậu quả có thể xảy ra. Tất nhiên, những điều gì được cho là lợi ích phù hợp với ước mơ con người thì niềm tin này chất chứa sự trông cậy, chờ đợi, ngược lại, nếu bất lợi hoặc được coi là tai họa, chắc chắn chẳng ai dám ước mong mà có chăng chỉ cầu sao cho tránh thoát.

Đức tin là niềm tin tưởng thần linh nơi một Thượng Đế, tin vào Phúc Âm, tin vào Đức Kitô đã hiện diện nơi trái đất này, đã chết, đã sống lại, và những lời Ngài hứa. Đức tin Công Giáo mang tính chất tin cậy, trông cậy vào Đức Kitô mà không sợ bị sai lầm hay mất mát, thiệt thòi. Như thế, đức tin mang ý nghĩa chấp nhận con người mỏng dòn cần nương tựa vào sự quan phòng của Chúa nên trao phó tất cả cuộc đời, vận mạng của mình nơi sự hướng đẫn của Ngài. Chính nhờ sự nhận thức về thân phận yếu hèn này của mình, con người mới có thể nhận thực được tất cả những gì mình có là hồng ân của Thiên Chúa. Cũng do đức tin, con người tránh thoát sự tự tôn, tự cho mình là toàn hảo mà biết nương tựa, cậy trông vào Thiên Chúa chứ không kiêu ngạo, tự mãn với chính mình. Từ đó, con người thần phục Ngài trong niềm tin tưởng cứu độ của Thiên Chúa để rồi trao phó tất cả vận mạng nơi sự quan phòng của Ngài.

Qua Kinh Thánh, đức tin được nhận biết bởi nhiều khía cạnh không những về tâm linh mà cả lý trí, tâm hồn hay tấm lòng. Cựu Ước nói về đức tin được diễn tả bằng một tâm hồn hoàn toàn phó thác vào lời hứa của Thiên Chúa. Lẽ đương nhiên, sự phó thác này bắt nguồn từ niềm tin có một Thượng Đế, một Thiên Chúa, Đấng tạo dựng và điều hành vạn vật. Số phận con người tùy thuộc vào Ngài vì Ngài hiện diện che chở và dẫn dắt loài người. Cựu Ước đưa ra câu chuyện Abraham vâng lệnh Thiên Chúa, đem đứa con độc nhất là Isaac định giết dùng làm lễ vật để chứng tỏ lòng tin của mình vào Thiên Chúa nhưng Ngài đã can thiệp không cho ông giết con. Chính sự tin tưởng tuyệt đối này Abraham được gọi là "Người cha của những kẻ đặt niềm tin vào Thượng Đế." Sách Xuất Hành nói lên việc Thiên Chúa đã giữ lời hứa với Môi Sen đưa dân Do Thái ra khỏi đất Ai Cập. Trải qua những thăng trầm của hành trình nơi sa mạc, dân Do Thái đã nhận thực ra và tin tưởng vào Thiên Chúa, Đấng dùng Môi Sen trực tiếp dẫn dắt dân Ngài. Từ những kinh nghiệm truyền lại này, đức tin mang tính chất tin tưởng chắc chắn rằng có một Thiên Chúa, còn được gọi là Thượng Đế, là Đấng Toàn Năng tạo dựng vũ trụ; Ngài luôn hiện diện với con người, thông hiểu và che chở cũng như nâng đỡ con người. Như thế con người cần và nên đặt niềm tin tưởng và tôn thờ Ngài, nhận Ngài là Chúa tể cuộc đời mình.

Đức tin theo Tân Ước mang nghĩa chấp nhận lời Đức Kitô như chính Ngài đã rao giảng và đặt hoàn toàn tin tưởng cũng như trông cậy nơi Ngài. Với niềm tin tuyệt đối nơi Đức Kitô để nhân danh Ngài để làm bất cứ chuyện gì vì vinh danh Thiên Chúa thì cũng đều được thành tựu. Đức Kitô đến rao giảng về Nước Trời, nói cho mọi người biết Thiên Chúa đang hoạt động và ở giữa loài người, nơi từng người. Ngài cũng nói cho mọi người biết chỉ qua Ngài mới đến được với Thiên Chúa. Tuy nhiên, con người, qua bản năng tiềm ẩn được ban sẵn lòng khát khao Thượng Đế, thường mang một hình ảnh Thượng Đế sẵn có được kiến tạo bởi kinh nghiệm tâm linh hòa nhập với cuộc sống gom góp lại lập thành khuôn mẫu luân lý sống do đó thay vì tìm hiểu, nhận biết Thiên Chúa qua sự giảng dạy của Đức Kitô, lại đem ráp Đức Kitô vào hình ảnh Thiên Chúa mình đã sẵn có.

Từ những việc rao giảng của Đức Kitô ghi lại nơi Tân Ước, chúng ta có đức tin Công Giáo; kinh tuyên xưng đức tin này được gọi là Kinh Tin Kính. Như thế, người sống theo đức tin, áp dụng những điều đức tin Công Giáo tuyên xưng vào cuộc sống thường ngày được gọi là chứng nhân Nước Trời hay chứng tá đức tin. Xét như vậy, nói rằng có đức tin chưa chắc đã là tin mà đức tin thật sự là một lối sống thể hiện những điều mình tin tưởng trong cuộc đời thường ngày.

CHẾT, ĐIỀUKIỆNCHUYỂNTIẾPSỰSỐNG

Sự sống giữ vai trò quan trọng chẳng những bậc nhất mà còn là căn bản của cuộc đời vì nếu không có sự sống, chẳng có gì đáng được đặt ra bởi sẽ không có nhận thức, không sự tốt lành nào có thể được đếm xỉa tới. Thế nên đã có câu nói: "Con chó sống còn hơn con sư tử chết" (GV 9:4). Sự sống con người chất chứa đầy những bí nhiệm của nó vì mặc dầu xác thân mỗi người được sinh ra từ cha mẹ nhưng họ lại không thuộc về cha mẹ. Sự sống không phải là món quà hoặc thành quả của tình yêu đôi lứa mà đôi lứa chỉ là phương tiện cho sự sống xác thân được truyền lại nơi mỗi con người. Chính Thiên Chúa, Đấng Tối Thượng ban phát sự sống (2Mc 7:22f) và cũng chính Ngài nắm giữ vận mạng con người (Dt. 32:39; 1S 2:6). Bình thường, sự sống được hiểu theo nghĩa có sự hiện hữu nơi cuộc đời ở trái đất, hoặc một hành tinh nào khác. Xét về mặt siêu nhiên, sự sống chính là sự vĩnh hữu của linh hồn; linh hồn này được hiện hữu cùng với thân xác nơi trần thế một giai đoạn thời gian và nối tiếp bằng cái chết của xác thân để trở về cõi vô hình, vĩnh cửu, hưởng phần gia nghiệp Chúa dành sẵn cho những ai sống chứng nhân Nước Trời, sống đức tin, sống rao giảng Chúa Kitô Đấng Cứu Độ nhân loại: "Và phàm ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương, vì danh Ta, thì sẽ lĩnh hơn gấp bội và được sự sống đời đời làm cơ nghiệp" (Mt. 19:29).

Một điều hơi lạ là Kinh Thánh nói về Thiên Chúa hiện diện nơi mỗi người, Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài (KN. 1:27), nhưng trong kinh Tin Kính, kinh tuyên xưng đức tin thì không thấy nói rõ ràng điều này, mà lại tuyên xưng Thiên Chúa tạo dựng muôn vật hữu hình và vô hình, một cách bao quát hơn. Nơi các tôn giáo khác cũng nói về một Thượng Đế hiện diện nơi con người, khác chăng chỉ tùy lối diễn tả. Chẳng hạn, Ấn Giáo quan niệm rằng Đại Ngã (Thượng Đế) bao gồm tất cả mọi người và mỗi người đều thuộc về Đại Ngã. Nhận ra bản ngã để từ đó trở về trạng thái nguyên thủy, phần tử của Đại Ngã tức là vô vi, hợp làm một cùng Đại Ngã, con người trở nên thần thông như Hóa Công. Phật Giáo nhìn sự hiện hữu của xác thân con người như chiếc bóng, cuộc sống hiện thực nơi trái đất này chỉ là những ảo ảnh giống như ảo giác của thể vía, vô ngã. Khi con người nhận ra thực thể vô ngã của mình đó là ngộ, phát hiện tâm Chân Như, tâm Phật, tất nhiên trở nên Phật, có nghĩa lúc đó tự giải thoát được những khổ ải sinh, bệnh, lão, tử, tham, sân, si nơi cuộc đời, trạng thái này được gọi là Niết Bàn. Lão Giáo cũng cùng mục đích muốn đưa con người tìm về bản thể tự nhiên bằng cách thực hiện trong lối sống vô vi vì "Theo Lão Tử thì phải để cho con người trở về với cái sống tự nhiên giản dị của họ..." (Lão Tử Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Sống Mới, Fort Smith, AR. USA; tr. 200). Trở về với "cái sống tự nhiên" là vô vi, là không bị những kinh nghiệm thế tục, những ham muốn, những rắc rối của cuộc đời ảnh hưởng, ràng buộc. Nói tóm lại, niềm tin chung về sự giác ngộ của con người có thân xác hiện hữu là dẫu sống nơi thế giới này nhưng họ không thuộc về thế giới này mà họ sống cho một thực thể siêu nhiên bởi vì con người thuộc về thực thể siêu nhiên tối thượng là Thượng Đế, dẫu được gọi khác tên do những kinh nghiệm tâm linh khác nhau. Xét thế, các ngành đạo học, dẫu bày tỏ những quan niệm khác nhau, đều nhắm về mục đích đưa con người trở về với nguyên bản tạo thành; điều khác nhau là lối nhìn về Thượng Đế và nghi thức cũng như niềm tin của con người, chẳng khác gì mấy người con có những kinh nghiệm, sự am hiểu khác nhau về một người mẹ để rồi không ai muốn chấp nhận ý kiến hoặc lối nhìn của anh chị em mình nên sinh ra bất bình đến độ nhiều khi có những thái độ quá khích. Hơn nữa, kinh nghiệm sống cũng cho thấy, người nào có sự hiểu biết càng nông cạn, hẹp hòi bao nhiêu thì lại càng tự cho mình là khuôn mẫu bấy nhiêu. Những người càng không tin ở mình bao nhiêu lại càng đặt ra những điều lệ khó khăn để bảo vệ và che lấp sự nông cạn của mình bấy nhiêu.

Nhận định như vậy, hai lối nhìn khác nhau về giá trị sự sống thường hay bị hiểu lẫn lộn, một đàng nhìn cuộc đời con người với chiều hướng tâm linh, và đàng khác, nhìn cuộc đời qua giá trị chỉ là sự hiện hữu của xác thân dầu được biện minh bằng những lý lẽ liên quan đến thần linh. Trước hết, nếu quan niệm hoặc tin thực rằng sự sống thay đổi chứ không mất đi thì giai đoạn hiện hữu của xác thân chỉ được coi như một phương tiện cho một mục đích cao cả hơn và như vậy dù sống hay chết, chẳng có gì đáng cho con người phải e ngại; những danh vọng, chức quyền v.v... đều là phù du nơi trạm hiện thân của phần tâm linh được thể hiện bằng sự hiện hữu của thân xác con người. Nếu chỉ cho rằng chết là hết nên sự sống của thân xác cao cả hơn hết mọi sự như con đẻ của cái nhìn một chiều về ý niệm "Con chó sống còn hơn con sư tử chết" (GV 9:4) thì con người trở thành nô lệ cho cuộc sống xác thân dẫu chối từ vô thần, và như vậy tiền tài, danh vọng, chức quyền mới có giá trị và vị thế tuyệt đối nơi cuộc đời con người. Phỏng câu Phúc Âm "Không ai có thể làm tôi hai chủ..." (Mt. 6:24; Lc. 16:13) đắc thế theo lối nhìn này?

Mọi người, dù sang, hèn, giầu, nghèo cũng nhận thấy mình mang một giá trị bắt nguồn từ sự hiện hữu của xác thân, và nỗi thao thức về ý nghĩa cuộc đời đã được ban cho luôn là khát vọng thúc đẩy con người tìm kiếm. Niềm thao thức này là điểm đầu mối cho triết lý, và sự khát vọng tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời là cội nguồn cho tôn giáo. Tuy nhiên, môi trường sống ảnh hưởng tâm trí cũng như quan niệm của con người để tạo nên những nhận định khác nhau. Bằng chứng hiển nhiên ai cũng có thể nhận thấy là những dân tộc khác nhau có những ngôn ngữ khác nhau. Chính vì quan niệm và nhận định khác nhau, người ta có phản ứng hoặc cách sống khác nhau để rồi từ đó phát sinh nhiều chiều hướng cách biệt. Có lẽ ngày nay không ai thấy sự khác biệt giữa những tiếng gọi hoặc chữ viết Chúa, God, Thượng Đế, Dieu, Dei, Thượng Chủ, Hóa Công, v.v..., nhưng khi đặt vấn đề quan niệm về Thượng Đế thế nào thì chắc chắn hai người cùng tôn giáo sẽ có ít nhất vài điểm bất đồng. Chẳng hạn quan niệm về Chúa, Cha Nhân Từ, thật khó lòng được chấp nhận đối với một người đã phải trải qua những kinh nghiệm khốn khổ trong thời đã qua vì bị người bố đẻ lạm dụng... Chính vì vậy, biết bao lối nhìn và quan niệm khác nhau đã được đưa ra làm mẫu mực cho cùng một mục đích bởi bị tùy thuộc kinh nghiệm sống, và cũng từ đó nhiều đường hướng tiến về một nguồn gốc phát sinh đã mang những tính chất đối nghịch do ảnh hưởng quan niệm khác biệt. Hơn nữa, những ý niệm, quan niệm, hay niềm tin thường hay bị hiểu lầm do "ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý." Chẳng hạn người ngoài Công Giáo, và nhiều khi chính ngay người Công Giáo đều thắc mắc về tước vị được tuyên xưng Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Do không hiểu biết ý nghĩa, người ta chỉ đặt vấn đề Thiên Chúa là đấng tối thượng, vô thủy vô chung, tự trước vô cùng, sao có thể gọi là Mẹ Thiên Chúa? Có thể đó cũng là lý do mà Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô đệ II lấy tiêu đề "Mother of the Redeemer" cho thư chung dùng Kinh Thánh nói về Đức Maria của ngài. Những kinh nghiệm đơn giản này chứng tỏ phần nào tại sao có nhiều quan niệm khác biệt về giá trị cuộc sống con người mặc dầu nhận thức chung vẫn là sự sống con người có giá trị riêng không lệ thuộc ý muốn người được sinh ra và mang mục đích tối thượng là tiến dần về điểm hòa nhập với Thượng Đế. Tuy thế, cũng phải nói thêm một khía cạnh và đó là càng những người không nhận ra giá trị và mục đích của cuộc sống thì lại càng tha thiết với sự hiện hữu của xác thân có lẽ vì cho rằng chết đi là hết và mất tất cả những gì thuộc về mình.

Xét như vậy, không lạ gì câu nói của thánh Phao Lô trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô "Ngài đã chết vì mọi người, để ai sống thì đừng còn sống cho mình nữa, nhưng là cho đấng chết và sống lại vì họ" (2Côr. 5:15) bày tỏ đặc tính chứng nhân thiết yếu của Kitô hữu. Đối với người Công Giáo, sự sống thể xác là hồng ân Chúa ban cho để làm vinh danh Ngài và chết là trở về với Ngài. Với sức riêng thuộc về bản ngã yếu hèn, con người không tự cứu để thoát khỏi những tham, sân, si, nguy hại cho bản thể đích thực của mình dẫu nhận biết hay không... được gọi tắt bằng tội tổ tông, Đức Kitô đã đến để cứu thoát con người khỏi ách thống trị này. Đức Kitô rao giảng sự sống thần linh cho con người do đó con người sống theo lời giảng dạy của Ngài tức là được sống "nhờ, với, và trong Đức Kitô." Vì thế, Kitô hữu còn được gọi là chết cùng Đức Kitô phần bản ngã yếu hèn của mình để được chia sẻ sự sống thần linh của Đức Kitô trong đức tin nơi Ngài, và như vậy, Kitô hữu sống trong sự sống của Đức Kitô như lời thánh Phao Lô: "Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi. Đời sống của tôi lúc này trong thân xác, tôi sống nó trong lòng tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và phó nộp mình vì tôi" (Galat 2:20). Vì thế, Kitô hữu sống cho Chúa trong Đức Kitô (Roma 6:11; 1Cor 15:22; Eph 4:18; 2Tm 1:1; Tt 2:12); sống trong Đức Kitô là cuộc đời của họ (Côlôsê 3:4). Nói như thế có nghĩa cuộc sống của Đức Kitô phải được thể hiện nơi cuộc đời của Kitô hữu, "Mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong thân mình chúng tôi cuộc tử nạn của Đức Giêsu, ngõ hầu sự sống của Đức Giêsu cũng được hiện tỏ nơi mình chúng tôi" (2Côr. 4:10).

Hòa nhập với sự sống thần linh, sự sống xác thân sẽ được nhận rõ không phải là cùng đích cuộc đời bởi ai không phải qua cửa tử mà sự chết đã không phải là giới hạn của đời sống tâm linh, nhưng ngược lại, nó chính là bước chuyển tiếp cho cuộc sống vĩnh hằng. Con người có thể chết vì tiếng tăm, danh vọng, tiền tài thì chết vì đức tin không phải là chuyện khó. Vấn đề còn lại chỉ là sự thực hiện cuộc sống đức tin. Phỏng con người có tin nơi Chúa bằng tin vào sức mạnh của tiền tài danh vọng hay không?

THÁNHNỮ

Đọc tiểu sử nữ thánh Anê Lê Thị Thành (thường được gọi là bà thánh Đê) nhắc nhở tôi nhận ra mình đã gặp khá nhiều vị thánh nữ trong cuộc sống hằng ngày, có thể nói họ là những vị hiển thánh sống động nhưng không được mấy ai để ý tới. Thánh nữ Lê Thị Thành là người mẹ gương mẫu, chăm lo việc giáo dục con cái, dạy con học chữ Việt và giáo lý, khuyến khích con cái tham gia việc đạo đức như dự Thánh Lễ, xưng tội, và rước lễ, thúc đẩy con cái gia nhập hội đoàn Công Giáo tiến hành như hội Con Đức Mẹ hoặc hội Thưa Kinh Nhà Thờ. Thánh nữ khuyên bảo con cái những lời tốt lành, biết chấp nhận những sự khó, những nghịch cảnh, và sống vươn lên coi đó như những hồng ân Chúa gửi đến trong cuộc đời để thánh hóa bản thân. Cuộc đời thánh nữ nêu cao gương bác ái và giúp đỡ các linh mục trong lúc khốn khó... Và rồi, mặc dầu trong tù ngục bị tra tấn, chính thánh nữ đã nhìn những vết máu loang lổ vấy lên quần áo như là những bông hồng dâng cho Chúa Giêsu mà vui lòng chấp nhận.

Tôi biết một số người tật nguyền nhưng không bao giờ kêu ca mà trái lại thái độ, cách ăn nói của họ vui tươi chấp nhận, không cau có, không phàn nàn... Khi nghe một người bạn than phiền về bệnh tật, đớn đau, người nằm liệt giường trả lời: Chị còn có tuổi trẻ, em không biết tuổi trẻ là gì. Tôi biết nhiều bà mẹ suốt ngày quần quật với những công việc đồng áng, chân lấm tay bùn, bếp núc vất vả mà cả đời chỉ quần đen áo vải không biết ăn diện là gì vì lo lắng chăm chút cho con cái ăn học nên người... đến nỗi nhiều khi bị chê là quê mùa. Tôi biết nhiều bà mẹ chịu khó thúc dục con cái tham gia dự Thánh Lễ nhưng đã bị chính những người con cảm thấy bực mình nhiều lúc trả lời bất xứng. Tôi biết những bà cụ chăm chỉ lau chùi nhà thờ, quét dọn khuôn viên thánh đường không bao giờ được nhận một lời cảm ơn... Tôi biết nhiều bà cụ vong vóng một mình, cô đơn hơn những người tội phạm nơi các nhà giam. Tôi biết một vài phụ nữ thỉnh thoảng mang vết bầm tím nơi mặt vì những hành động vũ phu của người chồng hoang đàng nhưng đã cố tình che dấu. Tôi biết khá nhiều người vợ cố che giấu tâm tư phiền muộn vì hoàn cảnh đau lòng, khắc khoải nơi cuộc sống gia đình khó tìm phương giải quyết nhưng bề ngoài vẫn phải tỏ ra niềm nở, vui tươi...

Theo Kinh Tạ Ơn II, các thánh là "những người sống đẹp lòng Chúa qua mọi thời đại" thì biết bao vị hiển thánh đã bị đi vào lãng quên, không ai để ý. Ai cũng có thể nhận thấy, không vị thánh nào tuyên xưng mình là thánh mà người khác gọi họ là thánh. Nếu sự thật đúng như "Có thờ có thiêng, có kiêng có lành" thì sự thiếu sót nảy sinh do người đời không biết cũng như không để ý hoặc là đã bao lâu nay quan niệm về thánh đã bị hiểu một cách sai lầm. Một thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu nào đâu phải chân lấm tay bùn, dầm sương giãi nắng, nào đâu biết chi đến những nỗi khổ ải của một đời làm vợ, làm mẹ, sao hiểu được tâm trạng khó khăn của cảnh nhà nghèo lúc tiền hết gạo không, con cái nheo nhóc, sao cảm được "Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ," hoặc cảnh nợ đòi hay lâm vào tình thế "giật gấu vá vai" dẫu có than thở cũng không ai biết đến. Thánh nữ Têrêsa Hài Đồng biết chấp nhận những cơ hội khó chịu nho nhỏ dâng lên Chúa vì lòng yêu mến và cầu nguyện cho các nhà truyền giáo mà được tuyên dương hiển thánh... Những vị hiển thánh sống động đã và đang bị lãng quên có cả muôn ngàn gian lao dâng lên Chúa để cầu cho những người con hoang đàng ăn năn trở lại, cho các linh hồn qua đời còn vướng mắc, cho Nước Chúa trị đến, cho những kẻ khốn cùng...

Tôi biết và tôi đã gặp hằng ngày những vị thánh nữ của dân tộc tôi đang sống chung quanh mình. Họ đang sống đẹp lòng Chúa khi ở trần gian; họ đang chăm sóc dạy dỗ con cái, đào tạo thêm những người Công Giáo tốt lành cho Giáo Hội tương lai; họ đang góp tay xây dựng quê hương, nối tiếp truyền thống dân Việt nơi những người con, giúp chúng trở nên tốt lành, làm rạng rỡ giống nòi cha ông và cho tương lai dân tộc bằng cách dạy con tôn trọng lễ giáo, biết trên kính dưới nhường, biết vâng lời ngoan ngoãn giúp việc gia đình; họ đang chung tay đào tạo một thế hệ mới cho xã hội bằng những công việc hằng ngày, bằng cách khuyến khích con cái học hành chăm chỉ, biết tôn trọng người khác, biết sống ý thức hơn, và biết nhận định những điều nên hoặc không nên, lẽ phải trái trong cách đối xử giữa người với người.

Những vị thánh nữ sống động này của dân tộc tôi là những bà mẹ Việt Nam đang sống đẹp lòng Chúa, đang sống được lòng người, biết chăm lo gia đình sao cho trên thuận dưới hòa, biết khuyến khích chồng con sống sao cho xứng đáng là thành viên của một gia đình có bà mẹ thánh.

TỬĐẠOTRONGCUỘCĐỜI

"Thiên Chúa sai Con Một Ngài đến không phải để xét xử thế giới, nhưng để thế giới nhờ Ngài mà được cứu rỗi" (Gioan 3:17). Câu Phúc Âm khiến tôi cảm thấy mình đã bị rối đạo từ bao lâu nay bởi được dạy dỗ và tin vào những sự giải thích thế tục của hai chữ cứu rỗi. Ừ thì chân thành nhìn nhận một cách không thể sai lầm rằng tôi là con người, mà đã là con người bình thường tất nhiên tội lỗi từ "tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót," thì những lỗi lầm này được nhìn nhận như thế nào trong tương quan cuộc sống trong khi "Ta đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu thế gian" (Gio. 12:47). Xét như thế, từ bao lâu nay tôi đã rối đạo thật sự chứ không chỉ mới cảm thấy bị rối đạo. Tôi được cứu rỗi từ tình trạng nào, đó là phần phụ thuộc, nhưng Chúa không đến để xét xử tôi vậy ai là người có quyền xét xử tôi bởi lời Phúc Âm cũng đã khuyên: "Đừng xét đoán, để khỏi bị đoán xét. Các ngươi xét đoán cách nào, thì sẽ bị đoán xét cách ấy" (Mt. 7:1; Lc. 6:37; Gio. 7:24). Đồng thời Phúc Âm cũng đặt nguyên tắc lề luật: "Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế: Lề luật và các tiên tri là thế" (Mt. 7:12), và cội nguồn xét xử chính là Lời Chúa: "Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lãnh chịu các lời của Ta, ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết" (Gio. 12:48).

Xét như thế, tôi là người đã được cứu rỗi vậy những kiểu cách ăn năn đánh tội, những hy sinh được đặt ra để làm gì. Để chuộc tội chính mình? Vô ích vì thừa, vì tìm thú vui trong cái khổ giống như gãi ghẻ, càng ngứa càng gãi, càng gãi càng sướng, càng sướng càng ngứa, và càng ngứa càng gãi. Hơn nữa, thực hiện bất cứ một hình thức tự cứu nào tức là từ chối ơn cứu độ của Chúa vì Chúa là tình yêu (1Gio. 4: 8, 16), vì Chúa không độc ác đến độ tạo dựng nên con người để chịu khổ ải, và vì mọi sự Chúa tạo dựng nên đều tốt lành (KN. 1:25), và cũng vì Chúa là Đấng Thiện Hảo nên không thể tạo dựng điều xấu. Bởi vậy, "Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô tử nạn Thập Giá: Đức Kitô, trong mầu nhiệm phục sinh, đã chứng minh Ngài là mãnh lực và sự khôn ngoan của Thiên Chúa" (1Cor. 1:23-24) vì "Ai tuyên xưng danh ta trước mắt trần gian, Ta sẽ tuyên danh họ trước mặt Cha Ta trên trời" (Mt. 10:32). Xét như vậy, các Thánh Tử Đạo đã không chết vì tội lỗi của họ nhưng chết vì đức tin vào Đức Kitô, chết vì tuyên xưng một Đức Kitô đã thực sự chết, đã sống lại khải hoàn vì "Ta là sự sáng đã đến trong thế gian để phàm ai tin vào Ta, thì khỏi phải lưu lại trong tối tăm" (Gio. 12:46). Các Thánh Tử đạo đã nhờ cái chết vì đức tin để đi về với sự sáng là chính Chúa. Những sự bắt bớ, hoàn cảnh khó khăn, bị nghi ngờ vì phản quốc v.v... cũng chỉ là phương tiện bởi nếu không có chúng, không có cơ hội cho các ngài tuyên xưng đức tin vào Chúa Kitô một cách công khai và để làm gương sáng đức tin cho những người khác.

Dĩ nhiên, nếu đã tin rằng Thiên Chúa quan phòng cho con người thì đồng thời cũng nhận thực được rõ ràng Chúa không gửi đến con người những gì quá sức chịu đựng bởi: "Vì thế Ta bảo các ngươi: Chớ lo cho mạng sống mình: các ngươi ăn gì; hay về thân xác: các ngươi mặc gì. Há mạng sống không hơn của ăn, và thân xác không hơn áo mặc sao?" Và lúc chuyện không thể tránh thoát xảy ra, "Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì: vì ngày giờ đó, sẽ cho các ngươi biết phải nói gì..." Mt. 10:19; Mc. 13:11; Lc. 12:11). Vấn đề còn lại chỉ là sự xử dụng quyền tự do của con người để chấp nhận hoặc từ chối hay kiếm một đường hướng nào khác theo ý mình khi đối diện thực tại. Chúa không bắt các thánh chịu tử đạo mà chỉ giúp sức cho các ngài chịu đựng bởi đâu phải thánh nào cũng có cơ hội tử đạo. Hơn nữa, đã có không ít thì nhiều người chối đạo trong thời kỳ bách hại đạo Công Giáo. Chúa tôn trọng tự do của con người. Tuy nhiên, có nhiều loại tử đạo, "một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời," nói theo kiểu Cao Bá Quát, mặc dầu ai cũng sợ, nhưng coi bộ nhẹ nhàng hơn bị tùng xẻo, bị trở thành cây đuốc sống, hoặc trường kỳ đòn vọt tra tấn. Thêm vào đó, có những thử thách do khổ hình thì cũng có những thử thách trường kỳ khó nhận biết nhưng cần lòng kiên trung và một đức tin vững mạnh để đương đầu. Đó là những thử thách nơi cuộc sống thường ngày, "Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với ta" (Mt. 10:38; 16:24; Mc. 8:34; Lc. 9:23; 14:27).

Cuộc sống gia đình là một trong những loại trường kỳ tử đạo. Dù cho đôi vợ chồng nào thuận hòa cách mấy, dù cho cặp hôn nhân nào lý tưởng đến đâu, dù "Vợ chồng một tuổi nằm duỗi mà ăn," dù cả hai được sinh ra trong phận số bọc điều thì cũng không thể nào tránh thoát đôi khi xảy ra cảnh chén bát đụng nhau. Hơn nữa, dẫu "Yêu nhau muôn sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng" (Ca Dao) thì lại vẫn còn chỗ lệch thứ một trăm lẻ một. Chả thế mà có lời thật: khi chưa cưới, em nói anh nghe; sau khi cưới, anh nói em nghe, và sáu tháng hoặc một năm kế tiếp, hai ta cùng nói hàng xóm nghe; ấy là chưa dám nghĩ về những cảnh thượng cẳng chân, hạ cẳng tay hoặc trong khi nóng giận, những lời nói chẳng nên được xử dụng cay nghiệt hay thô lỗ đến tối đa để rồi nếu ăn năn thì sự thực đau lòng đã trở thành vết thương muôn đời hằn mang dấu vết dẫu hoàn toàn được chữa lành. Đời là bể khổ, không thế sao có đức Phật; tình là giây oan bởi nếu không có giây oan làm gì có câu: "Không sơn mà gắn mới hèo, Không bùa không thuốc mà theo mới tình." Thế nên chẳng lạ gì: "Gái có chồng như gông đeo cổ, Trai có vợ như rợ buộc chân." Tuy nhiên, người đời nào ai suy tính giống ai, nhưng ai cũng muốn người khác phải theo ý mình để rồi: "Không nghe tan cửa, hại nhà, Nghe thì hai bảy, mười ba cực lòng." Hơn nữa, còn gì cay cú hơn: "Khuyên anh cờ bạc thời chừa, Rược chè, trai gái say sưa mặc lòng." Như vậy, phỏng câu, "Tránh trời không khỏi nắng" là phận số của mọi người nên vô phương đào thoát vì thế ai cũng cảm thấy cuộc đời trầm luân trong bể khổ?

Được sinh vào kiếp mày râu dẫu không biết gì đến nỗi "ông lấy vợ cho bố, bố lấy vợ cho tôi" chăng nữa thì cũng thuộc lòng những "thành ngữ" chồng người ta thế này, con người ta thế kia, hoặc nhà ông nọ mua xe mới, vợ ông kia vừa sắm mảnh hột xoàn tám ly..., hoặc đã ông nào chưa bao giờ nghĩ như Nietzche: "Lầm lỗi thứ nhì của Thượng Đế là đã tạo dựng đàn bà." Riêng phần nữ giới, có bà nào không thấy gia đình mình lắm phiền hà hơn bất cứ nơi nao tựa Euripides đã nhận xét: "Đối với các bà, còn gì lầm lỗi hơn ngoài gia đình của họ." Hơn nữa, mặc dầu chấp nhận "một túp lều tranh hai trái tim vàng" nhưng nào kiếm đâu ra túp lều tranh yên ổn giữa một cuộc đời cạnh tranh, giành sống, thế nên để có một cuộc sống tạm đủ cũng phải bon chen, lo lắng trăm chiều. Không nói ngoa, may mắn có được chút của ăn của để lại cần có tí danh cho bằng mày bằng mặt với đời, có vẻ ông nọ bà kia chứ nếu không, thân phận "bố cu mẹ đĩ" tạo lắm điều mặc cảm.

Gánh nặng gia đình nào chỉ bấy nhiêu, sinh con, nuôi dưỡng cho con khôn lớn là chuyện nhỏ; giáo dục cho con cái nên người mới là chuyện khó nơi mọi thời, mọi chốn. Ấy là chỉ nói về điều kiện của một gia đình may mắn... Những lúc bất thường... vợ đẻ chồng đau, con dại cái mang, rồi khi cơm chẳng lành canh không ngọt thì còn hỏa ngục nào tệ hại hơn chốn trần gian này nữa? Đối diện với một cuộc sống quay mòng mòng trong vòng quĩ đạo không bề thoát khỏi, chúng ta đang đối diện với cuộc bách hại đức tin lớn lao với nhiều thử thách khó lòng tránh khỏi. Lắm khi những chuyện khốn cùng xảy đến, cầu nguyện mà vẫn thấy Chúa làm ngơ. Nào sở đuổi, vợ con nheo nhóc, nào đã nghèo lại lắm cái eo đeo đẳng, những áp lực cuộc đời dồn ép khiến con người trong vị thế chẳng khác gì Chúa giang tay trên thập giá đón chờ một phép lạ giải thoát mà vẫn phải hứng chịu.

Xét như vậy, đương đầu với những khó khăn trong cuộc sống sao cho thuận đời đẹp đạo đòi hỏi một năng lực siêu phàm. Làm nhân chứng đức tin tất nhiên đòi hỏi sự kiên trì, thuần nhẫn, và do đó, có được một gia đình hòa thuận, trên kính dưới nhường, con cái hiếu thảo, vợ chồng thương yêu nhau phải được gọi là gia đình thánh. Thử hỏi, nếu không thánh mà có thể chịu đựng được những cơn phong ba, thử thách đe dọa trăm chiều và lắm lúc muốn thổi bay cả đức tin đi sao? Phỏng nếu không bền vững trong đức tin, đối diện với cuộc đời chan chứa những kẻ gian tham, ma giáo ngay trước mắt, hằng ngày mình gặp lại có cuộc sống phây phây, phè phỡn, đầy vẻ sung sướng, giầu có trong khi mình cố gắng ăn ở mực thước, tốt lành thì cứ bị trần ai cực khổ, lấy gì làm căn bản cho lòng bền vững và nền tảng để sống tốt lành? Những thử thách đức tin đầy quyến rũ ào ạt đến từ mọi nơi, mọi lúc: "trời phù kẻ ác" lắm lúc cũng làm lung lay chiều hướng tốt lành xưa nay cố giữ. Cuộc sống cả là một chiến trường thử thách đức tin, và con người luôn luôn phải đối diện với những áp lực thế tục mang đầy vẻ đam mê, quyến rũ nên, kinh nghiệm sống cho thấy, nếu không có ơn Chúa phù trợ không ai có đủ năng lực tránh thoát dù chỉ một thử thách cỏn con.

Ơn Chúa dẫu luôn luôn tràn đầy nhưng chấp nhận hay không lại tùy thuộc quyền tự do chọn lựa của con người khi đối diện với cuộc đời. Cũng như thời kỳ cấm đạo, được tử đạo hay không tùy sự chọn lựa cá nhân chứ Chúa không hề bắt buộc. Xét cho cùng, sức người và sự hiểu biết của con người về Thiên Chúa đều có giới hạn nên nào dễ chi hiểu được lời Kinh Thánh: "Cái điên rồ nơi Thiên Chúa còn khôn ngoan hơn cả sự khôn ngoan người đời, và yếu hèn nơi Thiên Chúa còn mạnh hơn cả sức lực phàm nhân" (1cor. 1:25); bởi thế, giữ vững đức tin giữa một thế giới đầy ham muốn vật chất, tiền tài, danh vọng cám dỗ không dễ chi; do đó sự chọn lựa, theo đuổi sao cho có được một gia đình đầm ấm, tuân giữ đạo Chúa cả là một cuộc hành trình trường kỳ tử đạo.

Tuy nhiên, kinh nghiệm sống cũng chứng minh một điều là khi con người bị cuộc đời dồn vào ngõ bí vô phương tránh thoát để rồi chỉ biết chân thành dâng lên Chúa tình trạng thực tại khó khăn do không còn phương pháp giải quyết nào hơn thì một cách nào đó, dường như một bàn tay bí mật được sai đến, dùng những phương tiện trần gian giải tỏa những đầu mối khó khăn. Đây là kinh nghiệm đức tin mà bất cứ ai cũng có những cơ hội cảm nghiệm như lời thánh thư: "Vậy tôi rất đỗi vui sướng mà vinh vang nơi các sự yếu đuối của tôi, để quyền năng của Đức Kitô đậu lại trên tôi... Vì khi tôi yếu, thì chính bấy giờ tôi mạnh" (2Cor. 12:9b,10b). Như vậy, nếu vì đức tin mà phải đương đầu với những khó khăn cuộc sống thì cũng vì đức tin mà chúng ta đang sống tử đạo. Sống đức tin tức là đang chọn lựa: "Tôi vui chịu mọi đau khổ, mọi xỉ nhục, mọi gian nan, mọi bắt bớ, mọi cơ cực vì Chúa Kitô" (2Cor. 12:9) bởi "Nếu chúng con thuộc về thế gian thì thế gian đã quý mến chúng con... Nếu thế gian thù ghét chúng con thì chúng con hãy nhớ rằng, thế gian đã thù ghét thày trước" (Gio. 15:18,19). Sống đức tin, tạo dựng một gia đình tốt lành, đó là hành trình trường kỳ tử đạo của mọi nơi mọi thời.

ĐỨCTINVÀTỬĐẠO

Khi nói đến hai chữ "tử đạo," người ta đều nghĩ ngay tới ý nghĩa chết vì đạo giáo mặc dầu chữ "tử" có những nghĩa khác hoặc "tử đạo" cũng có nghĩa là đạo làm con đối với cha mẹ. Xét theo nghĩa này, tử đạo mang nghĩa khá rộng lớn vì bao gồm những người đã dùng cả cuộc đời của mình nêu gương sáng và làm việc với mục đích phát triển đạo giáo. Tuy nhiên, "tử đạo" theo nghĩa hạn hẹp thông thường được dùng để chỉ những người đã bị kết án vào tội đáng chết vì niềm tin của mình. Nói như vậy cũng hãy còn quá rộng vì biết bao người đã bị tử hình vì không chấp nhận những lý thuyết, tư tưởng của những người trong thế kẻ mạnh đã xử mình nào có ai gọi là tử đạo. Qua nhận định thực tế như thế, "tử đạo" chỉ ý nghĩa hẹp hơn và đó là sự chết vì tuyên xưng niềm tin vào thế giới linh tâm. Trong Giáo Hội Công Giáo, tử đạo mang nghĩa chết vì không chối bỏ đức tin giữa chốn công cộng khi bị đe dọa, áp lực phải từ bỏ, chết vì đức tin nơi Thiên Chúa, chết vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô.

Qua những sách viết về các Thánh Tử Đạo Việt Nam, thời điểm của lịch sử được ghi lại mang đầy những diễn biến đau thương của dân tộc Việt dưới nanh vuốt thực dân cướp nước. Những người theo đạo Công Giáo bị hiểu lầm là làm tay sai cho giặc vì đạo Công Giáo bị các nhà cầm quyền Việt Nam thời ấy cho rằng đã là lò đào luyện những quân phản quốc; theo đạo Công Giáo là theo đạo phản quốc. Thế nên, dẫu Giáo Hội Công Giáo tuyên dương các TTĐVN đã chết vì đức tin vào Chúa Kitô thì dưới con mắt nhà cầm quyền thời ấy, các TTĐVN cũng chỉ là những tên chối bỏ quê hương dân tộc mà chạy theo lý thuyết ngoại lai trở nên những mối đe dọa cho triều đình nước Việt. Dĩ nhiên, người khác có quyền nghĩ sai về mình miễn không đụng chạm đến sự tự do hoặc không làm phiền hà gì mình. Nói như thế, nếu lên án triều thần Việt Nam thời đó là mù quáng hoặc lầm lẫn thì cũng nên thử đặt mình vào vị thế của họ cảm nghiệm mối đe dọa Tây Phương cướp phá quê hương yêu dấu cha ông dân Việt đã tổn biết bao nhiêu xương máu gây dựng và gìn giữ để lại cho con cháu. Chắc chắn rằng sự nhận định hạn hẹp từ vị thế này, Kitô hữu thời đó được coi như bè lũ tay sai cho bọn Tây Dương và những người cương nghị, thà mất mạng sống để tuyên xưng niềm tin vào Đức Kitô, vào Thiên Chúa của Tây Phương chỉ được coi là những người phản quốc, cứng đầu, đáng tội chết. Thử nghĩ, đe dọa, chém đầu làm gương, dùng cực hình tra tấn, tùng xẻo, phanh thây giữa chốn công cộng để ngăn cản đừng theo bè lũ cướp nước chỉ vì muốn bảo vệ quê hương khỏi nanh vuốt Tây Dương mà đám dân mê muội cứ như con thiêu thân nhào vô xung phong chết, xin được chết, nhất định không bước qua dù chỉ là hình ảnh đơn sơ của cây thập giá được vẽ bằng hai gạch chéo trên đất, triều đình Việt Nam thời đó đã cảm thấy mối đe dọa của sự mất nước đến độ nào. Quân Tây Phương có thể đã bỏ bùa mê thuốc lú cho dân chúng hết rồi... Theo đạo Gia Tô tất nhiên đáng tội chết, tội phản quốc dưới con mắt nhà cầm quyền Việt Nam thời đó dẫu đã có những trường hợp đánh giặc thì đánh chứ nhất quyết không bỏ đạo.

Tại sao Ấn Giáo, Phật Giáo không gặp sự chống đối của nhà cầm quyền khi những giáo phái này truyền bá niềm tin của họ nơi dân Việt? Đặt câu hỏi như thế, câu giải đáp sẽ gồm những yếu tố liên quan đến điều kiện lịch sử, phương cách truyền đạo, và tâm tình cũng như quan niệm của những nhà truyền giáo. Hơn kém tám trăm năm Trung Hoa đô hộ, không một người Việt nào chết vì tuyên xưng niềm tin vào Phật pháp. Phỏng đó là kết quả của sự nhận thực Phật tại tâm? Phỏng lý thuyết Công Giáo không dạy Thiên Chúa ngự trị nơi lòng mỗi người? Phỏng người ta không lên án những ai tin tưởng Phật pháp vì Phật pháp không làm hại gì đến văn hóa và truyền thống dân Việt, không lên án những người không tin vào Phật pháp là ma quỉ, không đập phá nơi thờ tự của người khác? Hoặc vì Phật pháp biết tôn trọng con người, tôn trọng sự khác biệt của người khác và tôn trọng niềm tin của bất cứ ai? Hơn nữa, giả sử nếu không có điều kiện xâm lăng đất Việt của Tây Phương phỏng có tử đạo? Như vậy, ý nghĩa của hai chữ "tử đạo" cần được xét lại như thế nào?

Ngoại trừ Đức Kitô, không một nhà sáng lập đạo nào đã có những lời tiên đoán về những sự bắt bớ, khổ ải của những môn đồ, tín hữu của đạo mình. Kinh nghiệm sống cho thấy, những người gặp nhiều chống đối, bị lên án, đều rơi vào trường hợp thiếu hay thất nhân hòa. Phỏng Đức Kitô đã biết trước rằng đạo Công Giáo là đạo thiếu nhân hòa? Đồng ý rằng, chiều theo điều chẳng nên thì dễ và hấp dẫn, thực hiện và sống những điều tốt lành chẳng những khó mà còn cảm thấy phần nào ngại ngùng vì không thỏa mãn ý hướng phàm ngã con người nên "Với đồng loại của mình, con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng" (Lc. 16:8). Thế nhưng, thử đọc Phúc Âm để tìm lại những điều kiện mà một người thực sự có đức tin vào Chúa Kitô phải có. Nếu chỉ hiểu đơn thuần theo nghĩa đen, muốn theo Đức Giêsu, điều kiện đầu tiên là bỏ hết tiền tài, giàu có: "Phàm ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình đi hết thảy thì không thể làm môn đồ của Ta" (Lc. 14:33; 18:22 Mt. 19:21; Mc. 10:21), coi cha mẹ, vợ con hơn Chúa cũng không được, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với ta" (Mt. 10:37). Đến nỗi bố chết cũng không nên để ý thì còn gì để nói: "Một môn đồ kác thưa Ngài: 'Lạy Ngài, xin cho phép tôi lui về trước đã để chôn cất cha tôi.' Nhưng Đức Giêsu bảo người ấy: 'Cứ theo Ta, và để kẻ chết chôn cất người chết của chúng'" (Mt. 8:21-22; Lc. 9:59-60). Tiền bạc, của cải, danh vọng, con cái, cha mẹ, tất cả đều không là gì với đức tin thì quốc gia, dân tộc còn có nghĩa chi dưới con mắt đức tin.

Vậy lý do thực sự nào đã đưa đến sự bắt bớ, lên án người tin vào Đức Kitô? Vì danh của Ngài: "Anh em sẽ nộp nhau để bị giết; cha nộp con; con cái đối địch với cha mẹ trước tòa, và ra tử hình cho họ. Và các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta" (Mt. 10:21-22; Mc. 13:13). Vì được Chúa dùng để làm chứng nhân: "Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua chúa để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại" (Mt. 10:18).

Có lẽ dùng chữ "tử đạo" sẽ bị hiểu là chết vì đạo, nhưng thực ra, tử đạo mang nghĩa chết vì đức tin vào Chúa Giêsu Kitô. Đó cũng là lý do những người không tin vào Đức Kitô không đặt vấn đề tử đạo.

Tuy nhiên, chết vì niềm tin vào Đức Kitô hay chết vì nhận thực lời Ngài rao giảng trong cuộc đời mình hoặc chết vì niềm tin của mình lại là những vấn đề rắc rối cần nhiều nhận thức.

PHỎNGKHICONNGƯỜITRỞLẠI. . .

Đã từ lâu, tôi cố tình chạy trốn những khúc mắc vô tình chợt đến do thầm nghĩ dẫu sao mình cũng chỉ là con người với đầy giới hạn chẳng những về phương diện hiểu biết tâm linh mà ngay cả sinh hoạt hữu hình xảy ra nơi cuộc sống thực tại nên đành chấp nhận ngoảnh mặt làm ngơ... dẫu hơi cảm thấy nhức nhối, giao động, khi chúng đến, tuy nhiên, dần dà để mặc chúng tự ý ra đi... chìm vào quên lãng. Không ai lạ gì sự kiện này, bởi chẳng ít thì nhiều, mọi người đều kinh nghiệm làm lơ bất cứ những gì bất lợi đụng tới mình hầu mong bám víu nỗi an bình tâm tưởng sẵn có... Nói cách khác, không ai muốn bị phiền hà, mà có chăng, những gì có thể gây rắc rối dù chỉ trong ý nghĩ, con người đều tìm cách tránh thoát. Hơn nữa, ai cũng đều khôn ngoan có thừa nên áp dụng câu "Thiên hạ đa sự, người ngu tự quấy nhiễu mà nên" một cách hiền hòa, êm đẹp, trong sự nhận thức những chuyện rắc rối, hơn thua, hay hoặc dở, tất nhiên tự chúng sẽ chìm vào quá khứ... ngoại trừ cái dằm đâm vào chân hoặc hạt bụi lọt vô tròng mắt.

Tôi bị hạt bụi lọt vô mắt và hạt bụi đó là câu Kinh Thánh: "Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?" (Luca 18:8b Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn). Câu hỏi khiến tôi nghi ngờ chính lòng tin của mình; chẳng những thế, nó có sức mạnh lay chuyển cả nền tảng được gọi là đức tin xưa nay tôi hằng chấp nhận, an phận tin tưởng theo truyền thống trao lại từ những đời trước. Bao nhiêu lần đọc để rồi bấy nhiêu lần cố lãng quên mà câu hỏi vẫn không buông tha, trái lại, cứ liên miên ám ảnh. Chính vì vậy, tôi tìm cách trốn thoát sự trả lời bằng cách tạm cho rằng dịch giả dùng sai chữ hoặc lối chấm câu. Tuy thế, khi cố quên lại chỉ càng nhớ thêm, đã kiếm được lý lẽ để khỏi bị phiền hà mà sự khúc mắc cứ bám theo, tôi đành lật cuốn Kinh Thánh Oxford (1977) hầu minh chứng lý lẽ của mình là đúng mong cho yên chuyện, thì lại thấy: "Nevertheless, when the Son of man comes, will he find faith o­n earth?" Với giới hạn ngôn ngữ của mình, tôi tạm dịch: "Ngoài ra, phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa không?" Tránh gò phải mả, những cố gắng để chạy trốn mối đe dọa lại là phương tiện hữu hiệu nhất dẫn con người đối diện với chúng; tôi càng tìm cách lánh xa, càng đâm đầu vào tường; tôi càng cố gắng lãng quên mối đe dọa chỉ càng khiến cho áp lực ưu tư, lo lắng càng ngày càng tăng trưởng chốn tâm tư. Đâu ai lạ gì, Nguyễn Thế Thuấn dùng chữ "lòng tin" cũng chỉ mang nghĩa đức tin mọi người thường dùng. Lý luận rằng Đức Kitô đặt Phêrô làm đầu Hội Thánh "Và Ta, Ta bảo ngươi: Ngươi là Đá và trên đá ấy, Ta sẽ xây Hội Thánh của Ta, và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi..." (Mt. 16:18) có nghĩa là Hội Thánh dưới sự bảo trợ của Đức Kitô sẽ tồn tại cho tới khi Ngài trở lại. Hội Thánh tồn tại tất nhiên đức tin của Hội Thánh tồn tại... vậy tại sao Phúc Âm đặt vấn đề nghi ngờ "có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa không?" Đức tin tôi đã được dạy dỗ, truyền lại từ hai ngàn năm nay như thế nào? Lý do, điều kiện, hoặc chuyện gì đã được tiên liệu sẽ xảy ra có thể xóa bỏ được đức tin của Hội Thánh đến nỗi sự nghi ngờ được đặt ra? Vậy đức tin mà Nguyễn Thế Thuấn gọi là "lòng tin" theo Phúc Âm như thế nào? Có sự gì khác biệt hoặc tương đồng giữa đức tin của Hội Thánh và lòng tin nơi Phúc Âm không?

Thực ra, chính ước muốn tránh thoát sự thực không đường trốn chạy chỉ tăng thêm áp lực đày ải khiến tôi càng cố gắng tránh thoát, càng phải đối diện những câu hỏi khó khăn rắc rối hơn. Nhận thức này dẫn tôi tới một thực tại không ai muốn đương đầu, và đó là người nào càng cố gắng tránh thoát một sự thật nào đó càng nhận ra mình nhiều thiếu sót vì đã không dám đối diện với sự thật để nhận biết điều mình đang trốn chạy. Tuy nhiên, dẫu người công chính không sợ sự thực của sự tìm tòi, hiểu biết và nghĩ rằng sự thật đem lại an bình cho con người, tôi vẫn cảm thấy e ngại khi đặt vấn đề về một thực thể mà hai ngàn năm nay trường tồn ngự trị nơi tâm trí Kitô hữu. Tôi sợ vô tình bị gán cho cái danh hiệu rối đạo thì tàn đời thân phận Công Giáo của mình. Hơn nữa, mặc dầu nhận ra điều khôn ngoan thường tình, người ta đã không muốn phải đối diện với ngõ bí sự thực vì chính sự thực này sẽ làm họ ăn không ngon, ngủ không yên nên tìm những lý lẽ hoặc câu trả lời dễ dàng chấp nhận hầu tránh thoát mối nhức nhối do khát vọng hướng thượng luôn luôn dằn vặt, tôi đã chẳng kiếm được câu trả lời nào tạm ổn để ru ngủ tâm tư. Bởi vậy, tự an ủi mình với ý nghĩ sự an bình tâm tưởng không đến từ sự trốn tránh mà do chính sự đối diện với những khó khăn không thể tránh thoát, và dù gặp kết quả thế nào, đối diện với sự thực không đường tránh thoát là thái độ khiêm tốn và khôn ngoan nhất của con người, tôi đành chấp nhận mắt đã lỡ dính hạt bụi thì đành ráng mà lục lọi đẩy nó ra. Tôi phải đẩy hạt bụi ra bằng lối thoát tìm cách trả lời cho câu hỏi chẳng ngờ nơi Phúc Âm, dẫu thế nào chăng nữa.

Đức tin hay lòng tin (N.T.Thuấn) cùng mang một ý nghĩa nhưng tôi muốn dùng hai chữ khác nhau cho dễ phân biệt, Đức Tin Công Giáo và lòng tin theo Phúc Âm. Ai cũng biết nằm lòng, Đức Tin Công Giáo được tóm gọn trong kinh Tin Kính. Tin rằng tự thuở đời đời có một Thiên Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Cha, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình. Thiên Chúa Con là Đức Giêsu Kitô, nhập thể làm người cứu chuộc nhân loại, được sinh bởi Đức Maria đồng trinh. Thiên Chúa Thánh Thần còn gọi là Thánh Linh, Ngôi Ba, Đấng ban sự sống, bởi Đức Chúa Cha và Đức Chúa Con mà ra. Tin rằng Hội Thánh bao gồm trên trời dưới đất thông công và Hội Thánh này được trao quyền tha tội vạ cho con người, và cuộc sống tạm gửi của con người nơi trần gian này tận cùng bằng sự chết không phải là hết mà còn có đời sau cũng như xác loài người ta sẽ được sống lại mai này trong cuộc sống đời đời.

Xưa nay tôi vẫn tin như vậy, có bao giờ chối đâu. Tôi còn tin cả những tín điều Giáo Hội Công Giáo dạy, tin Chúa quan phòng, tin phép tha tội, tin phép Thánh Thể. Bao nhiêu người Công Giáo, ngay cả những tín đồ Anh giáo đều nhận thực những điều tuyên xưng trên là đức tin của mình, chẳng ai có ý kiến là sai hoặc đúng. Bởi xét thử, nói rằng tin mà trong lòng nghi ngờ hay không tin cũng thế, ngược lại thực sự tin tưởng như vậy cũng chẳng sao, không gì xảy đến. Không đi nhà thờ, lỡ khi có chuyện cưới hỏi, cố đạo không chịu làm lễ để cho bằng mày bằng mặt với họ hàng bà con lối xóm chung quanh chắc chắn là điều đáng lo ngại, chứ đi nhà thờ, miệng đọc kinh, lòng nghĩ mông lung, không cần biết Chúa ba hay bốn hoặc một triệu ngôi thì nào đâu có chi thay đổi. Thực tâm suy tưởng, dẫu cho người nào đó tuyên xưng rằng vô thần thì cũng chẳng thể nào chấp nhận được mọi sự tự nhiên hiện hữu, nhất định phải có nguyên nhân tạo thành mọi vật. Nói như vậy, nơi tâm hồn mỗi người đã tự có một niềm tin rằng trời đất, vũ trụ bao la này phải do một Đấng tạo thành. Đấng ấy tên gì, như thế nào, v.v... không thuộc về niềm tin, đức tin mà là kiến thức thần học. Đức Mẹ đồng trinh hay không đâu ảnh hưởng gì tới cuộc sống con người thường ngày vì vấn đề quan trọng là Đức Mẹ đã sinh ra Đức Kitô nào ai chối cãi. Có sự sống đời sau, dẫu tin hay không, chết sẽ biết liền, cần chi bàn soạn. Đàng khác, Đức Tin được tuyên xưng nơi Kinh Tin Kính là những điều được lấy ra từ Phúc Âm; ai đọc, để ý sẽ nhận ra chứ không phải là lý thuyết mà Giáo Hội Công Giáo đặt ra. Những điều tuyên xưng này là sự thực Phúc Âm và những vấn đề liên hệ, giải thích về đức tin lại là kiến thức thần học. Dĩ nhiên, tin rằng có Thiên Chúa hay không chẳng làm cho Ngài vinh quang hơn, chẳng giúp trái đất này quay chậm hơn để có ngày dài hơn vì không có con người thì vinh quang của Ngài đã sẵn có, nhưng nếu đức tin không giúp con người sống hướng thượng hơn thì lại tùy thuộc chính con người. Thử hỏi, những ai dám sống thật với lòng mình tự trả lời xem đức tin mình tuyên xưng nơi Kinh Tin Kính ảnh hưởng thế nào về cách sống, lề lối suy tư, chiều hướng tâm linh, cũng như đem lại kết quả thực tiễn gì trong cuộc đời mình. Nếu lòng trí mình, cách ăn nết ở không minh chứng được chút nào tính chất của người có đức tin tất nhiên mình đang thuộc về một trong hai trường hợp, hoặc là mình chẳng có đức tin dẫu nói rằng tin, hoặc là mình đang ấp ủ một đức tin không năng lực hoạt động nên không đem lại ảnh hưởng nơi cuộc đời của mình.

Nghĩ đến đây, tôi cảm thấy thực sự e sợ, sợ vì bị trở thành bung xung sẽ được kẻ nào đó đội cho chiếc mũ rối đạo để khỏa lấp cõi lòng không mang đức tin của họ hoặc vì nói lên thực trạng tâm hồn những người muốn trốn tránh có thể làm giao động tâm tư, ép buộc họ phải tỉnh thức trong mối lo sợ thay vì âm thầm tảng lờ hầu bám víu nơi sự an bình giả tạo cho rằng chỉ cần nói lên mình tin là đủ. Nhưng không sao, chỉ những kẻ rối mới nhìn thấy người khác rối; kẻ tin tất nhiên cần cơ hội tìm hiểu về đức tin của mình dẫu có khi đã tin vào điều vô tưởng, vì thực ra, mỗi người mang một thực trạng đáng được tôn trọng trước mặt Thượng Đế ngay cả khi thực trạng này đem niềm khổ ải cho chính người đó.

Tại sao có tình trạng e sợ này? Tôi e sợ vì bị cho là rối; người khác e sợ bởi có thể nhận ra đã không thực sự tin điều mình cho là đáng tin và được dạy dỗ phải tin. Có lẽ đây là nguyên nhân tạo nên câu hỏi Phúc Âm đã bao lâu nay bị lãng quên. Phỏng rằng những điều phải tin ấy không ai có thể nghiệm chứng được trong cuộc sống nên đành chấp nhận cho giống với những người khác vì đã lỡ cho rằng không tin thì sẽ bị phạt sa hỏa ngục nên đành nhắm mắt, bịt tai, không dám suy nghĩ vì có suy nghĩ cũng chẳng hiểu thêm được chi? Nói rằng Chúa Ba Ngôi thì không sao nhưng nếu ai lỡ mồm lỡ miệng hô lên Chúa hơn kém ba ngôi sẽ bị lên án rối đạo; xét thế, đâu phải một mình tôi e sợ bị cho là rối! Thực ra, tin rằng có một Thiên Chúa, nói cách khác, một Đấng Chủ Tể tạo dựng vũ trụ, là nguồn hiện hữu của mọi vật mọi loài thì đạo nào cũng tin như vậy. Tin đơn giản có một Thượng Đế, không biết Ngài thế nào, chỉ không thuộc về Công Giáo chứ không ai có quyền nói rằng tin như thế sẽ bị phạt sa hỏa ngục, hoặc nói như thế là rối đạo bởi rối đối với đạo này, chưa chắc đã rối với đạo kia vì những gì mình cho là thực ngày hôm nay cũng có thể là ảo tưởng ở ngày mai. Những hành động nguy hại cho con người mới bị lên án chứ không ai có quyền lên án niềm tin tưởng của con người. Nhận thực như thế, câu hỏi, "Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa không?" hàm chứa sự thách đố tâm linh không phương trốn chạy đối với những người tin tưởng vào Phúc Âm. Nơi Phúc Âm, Đức Kitô đã nói gì về lòng tin? Lòng tin ấy thế nào? Con người đã thực hiện lòng tin ấy ra sao? Lấy gì để minh chứng lòng tin? Và lòng tin ấy ảnh hưởng con người về phương diện chi?

Đã bao lâu, do ảnh hưởng thuyết nhân quả "Gieo gió, gặt bão," người ta gán ép cho Thượng Đế, Thiên Chúa, một tính chất tầm thường hơn con người nên đã loan truyền câu "Chúa phạt." Đức Kitô đến rao giảng về một Thiên Chúa yêu thương nên không những Ngài đã trở thành tâm điểm cho bao người ngày xưa chống đối mà ngay thời cuối thế kỷ 20, đầu 21 này, người ta vẫn còn đang tuyên truyền ngược lại lời dạy của Đức Kitô. Người ta đã gán ép Đức Kitô vào khuôn của một Thiên Chúa theo ý họ nghĩ. Đức Kitô không nói lên điều người ta muốn nghe mà rao giảng trái nghịch lại, rao giảng điều người ta cho là phạm thượng. Qua câu truyện sáng tạo nơi sách Sáng Thế Ký, người ta cho rằng, hành động bất trái cấm của bà Evà, ăn, và san sẻ cho Ađam là biểu tượng ám chỉ lòng kiêu ngạo của con người muốn được cao trọng bằng Thiên Chúa nên đã bị lên án như một sự trừng phạt: "Ta sẽ gia tăng đau khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi... đất đai hãy là đồ chúc dữ vì cớ ngươi, có đau khổ ngươi mới nhờ được nó mà ăn mọi ngày đời ngươi" (Kn. 3: 16-17). Như vậy, sự suy nghĩ này đã được cho là đầu mối của mọi đau khổ trên trần đời. Đức Kitô rao giảng Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người, "Ai mến Ta thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng ta sẽ đến với nó, và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó. (Gioan 14:23). Phỏng có phải vì Đức Kitô vạch ra vị thế rất cao trọng của con người: ngai tòa của Đấng Tối Cao, nên bị cho là lộng ngôn bởi đã không thuận với lối nhìn mù lòa thế tục của con người về Thiên Chúa? Nơi Phúc Âm qua thư Phaolô, thân xác con người là ngai tòa của Thánh Thần, "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em, anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa, và anh em không còn thuộc về mình nữa" (1Cor. 6:19), phỏng có được nhận ra, nói cách khác, mình với Thiên Chúa là một, hay vẫn cố trốn tránh sự thực này để dễ bề mở lối cho những ham muốn thế tục hướng dẫn cuộc đời bằng cách đẩy Thiên Chúa lên chín tầng trời xa thẳm cách biệt hẳn thế giới loài người, gán cho Ngài những tính chất tuyệt hảo nhưng ngu ngơ làm phương tiện cho con người lạm dụng dẫu với chủ đích nào chăng nữa?

Phỏng sự tuyên xưng một Thiên Chúa nhân từ, yêu thương vô bờ bến (Gioan 3:16-17), mà lại có thể chấp nhận được Ngài phạt, không yêu thương dân Ngài bằng những bậc cha mẹ, những con người thiếu sót, lỗi lầm, tầm thường, có thể đứng vững được ư? Chỉ một điểm căn bản ấy đã không được người ta chấp nhận thì phỏng những điều khác nơi Phúc Âm sao có thể được để ý tới; và như vậy, sự kết án người khác theo ý riêng bởi họ không nghĩ theo ý mình đem lại giá trị gì? Đức Kitô loan truyền tin mừng Nước Trời; Nước Thiên Chúa đã đến (Lc. 10:9; 11; Mt. 12:28; Lc. 17:20). Ngài dạy, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, rồi mọi sự khác sẽ được ban cho" (Mt. 6:33). Ngược lại, con người cứ trầm trồ khen ngợi những phép lạ, quyền năng của Ngài để lơ đi chủ điểm Ngài rao giảng là Nước Thiên Chúa, Nước Trời, và có lẽ cũng để trốn tránh khỏi phải đối diện với một thực trạng: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được 'này ở đây' hay 'ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21).

Đức Kitô đã nói gì về đức tin mà N.T.Thuấn gọi là lòng tin? Những phép lạ Ngài làm do quyền lực nào? Nói rằng vì Ngài là Thiên Chúa uy linh, quyền năng, nên có quyền lực làm những "phép lạ" mà con người không đụng đến được có thể chỉ là một sự tảng lờ, nói đúng hơn, một sự không chấp nhận lời Ngài dẫn giải trong Kinh Thánh. Khi viên bách quản gặp Đức Kitô về việc người đầy tớ bị bịnh, Ngài đã trả lời: "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13). Đối với người phụ nữ bị bệnh loạn huyết, Ngài nói: "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48). Con gái người phụ nữ xứ Canaan được cứu sống cũng được Ngài giải thích vì lòng tin, "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28). Đối với người mù thành Yêricô, Đức Kitô bảo: "Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Mc. 10:52). Chẳng những thế, Đức Kitô còn giải thích thêm về năng lực tha tội của lòng tin trong trường hợp của người phụ nữ thống hối, "Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Hãy đi bằng yên!" (Lc. 7:49). Khi người bị phung hủi xin chữa lành cũng thế, Đức Kitô nói cho người được lành bệnh biết chính lòng tin là động lực chữa lành: "Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 17:19). Trái lại, khi điều nên xảy đến đã không được như lòng mong muốn, Đức Kitô giải thích rõ bởi vì yếu lòng tin: "Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi, và phải chịu đựng các ngươi?" (Lc. 9:41; Mt. 17:17).

Những gì được gọi là phép lạ xảy ra, Đức Kitô đã rõ ràng giải thích đó là kết quả của lòng tin. Điều này chứng tỏ lòng tin Đức Kitô nói tới nơi Phúc Âm là một năng lực hoạt động vượt hẳn mọi quyền hành thế tục hữu hình này, "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12). Đồng thời Ngài cũng hứa: "Và điều gì các ngươi xin nhân danh Ta, Ta sẽ làm... Và nếu các ngươi xin gì với Ta, nhân danh Ta, Ta sẽ làm" (Gioan 14:13); "Điều gì các ngươi xin cùng Cha, thì Người sẽ ban cho nhân danh Ta" (Gioan 16:23). Điều kiện của lòng tin này chỉ là sự không nghi ngại nhưng tin chắc chắn rằng điều mình muốn sẽ được toại nguyện như trong truyện cây vả bị chết khô: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22). Marcô đặt vào miệng Đức Kitô lời giải thích rõ ràng hơn: "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22). Tiếp theo đó, Đức Kitô nhấn mạnh về nguyên tắc hay phương cách đạt được lòng tin cho các môn đồ: "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Thế nên, sau vụ khiển trách về yếu lòng tin, Phúc Âm Matthêô bày tỏ sự đoan chắc của Đức Kitô về lòng tin: "Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó, nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20). Chẳng những thế, lòng tin nơi Phúc Âm còn mang năng lực chiến thắng cả sự chết, "Phục sinh và sự sống chính là Ta. Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; và mọi kẻ đang sống tin vào ta sẽ không phải chết bao giờ" (Gioan 11:25-26).

Dùng hạt cải là vật hữu hình để so sánh với mức độ lòng tin thuộc về tâm linh đồng thời biểu tượng sức mạnh của lòng tin, dẫu chỉ bé mọn như thế, bằng sự di chuyển một ngọn núi đối với sự nhận thức hữu hình quả là một thách đố ngoài sự tưởng tượng của con người mắt thịt. Bởi không thể nào giải thích tại sao và có thể bởi không tin những lời Phúc Âm này là thật, người ta đã chuyển dịch sang những ngọn núi tưởng tượng khác để đem áp dụng chẳng hạn núi trắc trở, khó khăn trong cuộc sống thường ngày, núi đau khổ, tai bay vạ gió, làm ăn kém may mắn. Phúc Âm dùng những hình ảnh núi bằng đất, đá... và biển... lại cũng nói rõ, "Ai không đón nhận lấy Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ thì sẽ không vào được trong đó" (Mc. 10:15) vì "Nước Thiên Chúa thuộc về những người như thế" (Mc. 10:14). Phỏng trẻ nhỏ khi nghe đến ngọn núi có thể tưởng tượng ra sao? Phỏng vì không tin những lời minh xác của Đức Kitô về lòng tin là sự thật nên con người đã không có được lòng tin mang năng lực hoạt động vô biên như Đức Kitô rao giảng? Vậy nếu tin những lời Phúc Âm này là thật, phương cách nào con người có thể thực hiện để đạt được lòng tin như trong Phúc Âm?

Thử đặt câu hỏi, tại sao Đức Giêsu lại dùng hạt cải, loại nhỏ nhất trong các loại hạt giống (Mt. 13:31; Mc. 4:31) làm biểu tượng mà không dùng hạt nào khác như hạt lúa miến, hạt chà là v.v... Nơi Phúc Âm Matthêô, trước khi xác quyết năng lực của đức tin bằng hạt cải, Đức Kitô đã phải than lên: "Ôi! thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi; cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!" (Mt. 17:14). Thế rồi khi môn đồ đến gặp riêng hỏi tại sao họ không trừ được quỉ, Ngài thẳng thắn trả lời: "Vì lòng yếu tin của các ngươi" (Mt. 17:20). Phúc Âm Marcô nói đến mãnh lực của đức tin dẫu chỉ nhỏ bằng hạt cải sau khi các môn đồ nhìn thấy cây vả không sinh quả trái mùa và bị chúc dữ chết khô (Mc. 11:20). Tin Mừng Luca đặt vấn đề có lòng tin bằng hạt cải sau khi môn đồ thưa với Đức Kitô: "Xin thêm lòng tin cho chúng tôi" (Lc. 17:5-6).

Qua cơ cấu và vị trí câu trả lời dùng hạt cải để ám chỉ thể chất hữu hình của lòng tin, câu hỏi đã bao lâu nay bị lãng quên "Phỏng khi Con Người trở lại có còn thấy được lòng tin trên mặt đất nữa không?" đã được trả lời. Xét thử ý nghĩa câu "Nếu các người có lòng tin bằng hạt cải..." khi các môn đồ xin Đức Kitô thêm lòng tin cho họ... Theo ám nghĩa nơi dụ ngôn "Người Phú Hộ và Lazarô Ăn Mày" chỉ sự không tin tưởng nơi lời nói của kẻ chết trở về, "Nếu chúng không nghe Môsê và các tiên tri, thì dẫu có ai sống lại từ cõi chết, chúng cũng chẳng ngả lẽ đâu" (Lc. 16:31), chữ thêm nơi câu "Xin thêm lòng tin cho chúng tôi" mang nghĩa bổ túc, làm tăng trưởng, tăng thêm. Các bản dịch tiếng Anh dùng chữ "increase" (Oxford, Holy, New American Bible) cũng đồng nghĩa này... tạo cho câu trả lời lòng tin bằng hạt cải phảng phất tính chất: "Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất" (Mt. 13:12; 25:29; Mc.4:25; Lc. 8:18; 19:26). Lòng tin chỉ bằng hạt cải bé nhỏ như thế mà đã có năng lực khiến cho cây dâu vâng lời bứng rễ xuống mọc dưới biển (Lc. 17:6) thì cần gì phải xin tăng thêm; ngược lại, đã không có chút lòng tin nào thì lấy gì để tăng. Xét thế, "Nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải" mang nghĩa: các ngươi không có chút lòng tin nào hết. Bởi đó, chẳng lạ gì Đức Kitô đã phải than lên: "Ôi! thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi; cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!" (Mt. 17:14). Nói cách khác, Ngài trả lời, "Vì lòng yếu tin của các ngươi" (Mt. 17:20) khi các môn đồ hỏi lý do tại sao họ không trừ được quỉ kể ra quá kiên nhẫn, chịu đựng vì "Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các người sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Hơn nữa, câu nói mang điều kiện "nếu... có" tự nó đã mang nghĩa không có; "nếu đã có" tức là đã chẳng có gì. "Nếu tôi bay được như con chim..." chứng thực rằng tôi không bay... Xét như vậy, theo Phúc Âm, lòng tin mang tính chất dứt khoát hoặc là có hoặc là không chứ không phải là nhiều hay ít, mạnh hoặc yếu. Tin, mọi sự thành, "không bất lực trước một điều gì" và nguyên tắc ắt có và đủ chỉ là "hãy tin là đã được." Không tin, chẳng có gì để nói dù nhân danh thần thánh nào hoặc dùng lý lẽ biện luận, bào chữa cách chi chăng nữa.

Suy luận đến đây, mối e sợ trở thành rối đạo tự biến đâu mất, ngược lại, tôi cảm thấy sung sướng, an tâm vì nhận ra mình không có lòng tin như Phúc Âm nói, và đã không có lòng tin thì sao có thể e sợ bị rối! Phỏng có tâm tình nào an bình, thảnh thơi hơn trạng thái nhận ra thực trạng của mình? Thay vì lo âu trốn lánh mối nghi ngại bị sai lầm, cho rằng mình có lòng tin mà không dám đoan quyết chắc chắn tin hay không, sản phẩm của hiện trạng lòng chất chứa đầy mơ ước mà không biết mình sẽ đạt được những gì, tôi đã có thể nắm vững kết quả chẳng gì xảy đến nên an tâm, không bị mối xốn xang e sợ trật vuột ảnh hưởng. Dĩ nhiên, không có lòng tin sẽ không gì có thể xảy đến thì đâu cần mơ ước hão huyền, biết mình không có đôi cánh của loài chim, nào ai đặt vấn đề tìm tòi, mong muốn làm sao để bay nhẩy, chuyền từ cây nọ sang cây kia của loài cầm thú, và lẽ tất nhiên, đã không mong muốn một sự gì thì chẳng có gì đáng cho mình bị phiền toái. Phỏng thực trạng này Lão học gọi là vô vi? Thiền gọi là nhận chân phàm ngã con người, ngưỡng cửa đầu tiên thực sự bước vào hành trình tâm linh thay vì đi vòng vo, ngơ ngẩn bởi không nhận thực được chính mình?

Có lòng tin theo Phúc Âm tất nhiên điều mình muốn có thì đã được, và như vậy, không có lòng tin, cầu nguyện sẽ không hòng gì thị kiến, ấy là chưa nói đến đạt được những điều thực tâm mong ước. Đối diện với thực tại tâm hồn trống rỗng này, tôi cảm thấy mình như vừa thua một canh bài quá nặng... chẳng khác gì một diễn viên tập sự ôm đầy mộng ước danh vọng sẽ đến qua vai trò sắp trình diễn, mới vừa mặc thử áo quần giả mạo thì vở kịch đã bị bay tuồng. Bám víu vào đâu, cậy nhờ gốc rễ nào... trong khi lời Phúc Âm vẫn cứ như một thách đố: "Sao! Nếu có thể!... Mọi sự đều là có thể cho người tin!" (Mc. 9:23). Nhận ra mình không có lòng tin thì lại càng không hiểu lòng tin theo Phúc Âm mang nghĩa gì. Tệ hơn nữa, không hiểu nghĩa của lòng tin, không biết dù chỉ mù mờ đích mình nhắm tới thì còn nói chi đến phương cách và điều kiện có thể giúp tôi có lòng tin này. Nghĩ rằng tin để rồi tránh đối diện với lòng nên vẫn bám víu vào điều vô tưởng, khi dám lấy lòng chân thành nhìn vào thực trạng tâm hồn, trạng thái trống lổn, mất cả chì lẫn chài, đã khiến tôi thực sự chới với. Phỏng lòng rỗng không này là điểm đến được gọi là đạo trống của vô vi và cũng là "vật cùng" theo Lão Trang? "Vật cùng tắc biến," tôi chẳng biết biến về đâu đành chấp nhận tâm trạng người cha của em bé bị kinh phong: "Tôi tin! Nhưng xin hãy đáp cứu lòng yếu tin của tôi!" Tuy nhiên, hiểu đúng nghĩa câu nói theo bản dịch N.T. Thuấn hãy còn thấy chút hy vọng viễn vông, cho rằng tôi còn có lòng tin, vẫn ấp ủ phần nào niềm cao ngạo, lòng muốn trống vẫn chưa thực sự trống, chưa phải là "vật cùng." Bản dịch tiếng Anh (Oxford, Catholic, New American Bible) viết: "Help my unbelief!" (Xin cứu chữa lòng không tin của tôi!) thực sự lột trần tới tận đáy tâm can..., bao nhiêu ngày tháng rồi, tôi tưởng vậy, tưởng mình có lòng tin, nhưng không phải vậy! Xét về lý do tại sao nghĩ, tưởng mình có lòng tin thì lại thấy lòng tin hình như chỉ là mốc điểm mù mờ được bám víu, hy vọng mỗi khi gặp nước bí để xoa dịu nỗi âu lo phải đối diện với thực trạng không muốn chấp nhận.

Khi diễn tiến cuộc sống may xuôi, lòng tin dường như chìm vào quên lãng, có chăng, được nhắc đến với tâm tình cảm nhận giống lá bùa xua đuổi xui xẻo hoặc một thứ danh dự mông lung nào đó hầu chứng tỏ mình là con người tốt lành nên được chúc phúc ngay tại đời này theo nguyên lý nhân quả. Lòng tin được nhận diện rõ ràng hơn khi con người đối diện với khó khăn, trắc trở, hoặc với mong ước khó đạt thành. Nhưng sao bao nhiêu sự việc đã chẳng thành dẫu nhiều trường hợp con người bị dồn vào cảnh khốn quẫn không phương xoay xở. Điều kiện đạt thành những sự việc nơi Phúc Âm chỉ là "Nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22) hoặc "Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Phỏng đã bao lâu nay không ai nói đến điều kiện của lòng tin vì vẫn nghi ngại, và như vậy không một ai có lòng tin?

Lẽ thường, muốn tin thì đã không tin. Muốn có lòng tin tất nhiên đã nghi ngờ. Muốn tìm hiểu lòng tin lại càng cần đặt mình vào trạng thái dửng dưng cho dễ bề nhận định; thế nên, tôi đang lao vào cõi tối tăm tuyệt đối. Nếu lời Phúc Âm: "Không nghi ngại, bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển thì sự cũng sẽ xảy ra" không mang tính chất tối tăm đối với con người thì đã có muôn vàn những sự lạ lùng xảy đến ngoài sự tưởng tượng của bất cứ ai trên trần đời. Nếu "Các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" mà không là câu nói từ chốn tối tăm tuyệt đối cho đầu óc nhân gian thì thế giới này đã không như ngày nay. Như vậy, phỏng lòng tin là sự tối tăm không ai có thể chấp nhận? Phỏng "cứ tin là đã được thì sự việc sẽ xảy đến" mang nghĩa tương đồng với quyền năng của Thiên Chúa, chỉ cần một lời phán, mọi sự đạt thành bởi nhưng không? Phỏng lý luận như thế có phải là lộng ngôn, phạm thượng, dám cho rằng con người nắm giữ quyền năng của Đấng Tối Cao? Nhưng Phúc Âm dạy thế... Phỏng tin theo Phúc Âm sẽ đi vào chốn tối tăm nếu không muốn nói là rối đạo vì có lòng tin sẽ nắm trong tay quyền năng rời núi lấp sông, làm được mọi chuyện mà xưa nay mọi người nghĩ rằng chỉ có Thiên Chúa mới thực hiện nổi? "Không nghi ngại,... hãy tin là đã được thì sự sẽ thành" (Mt. 21:21; Lc. 17:6), ôi câu nói ngoài trí tưởng tượng của loài người! Tôi có dám nghĩ được đây là một thực thể có thể áp dụng nơi hành trình tâm linh của tôi không? Phỏng lòng tin có phải là lòng không nghi ngại, nhắm mắt lao mình vào chốn tối tăm thì mọi sự sẽ tự động thành đạt? Tất nhiên, dưới mắt người đời, kẻ có lòng tin như thế sẽ được gọi là ngu. Phỏng với lý luận bình thường của lý trí, tôi có thể chấp nhận mình trở thành mù, thành ngu? Phỏng lòng tin nếu đem so sánh với lý trí sẽ trở thành điều không tưởng? Phỏng lý do gì đã tạo nên câu Phúc Âm Luca 18:8b?

Nơi phần cuối cuốn Awareness, tác giả Anthony de Mello, S.J. kể câu truyện: Có một người phát minh ra cách tạo thành lửa trong thời tiền sử. Ông ta mang đồ nghề đến một bộ lạc ở miền bắc lạnh lẽo, giá buốt và dạy người ta cách lấy lửa khiến mọi người vô cùng hoan hỉ. Tiếp theo đó, ông dạy con người nấu nướng và cách sưởi ấm trong những mùa đông tháng giá. Người dân nơi ấy biết ơn ông lão vô cùng nhưng đến khi họ họp nhau tổ chức một buổi lễ chứng tỏ lòng thành và ghi ơn đối với ông thì ông đã bỏ đi tự bao giờ bởi không cảm thấy sự biết ơn của họ là cần thiết mà mục đích chính, giúp họ có cuộc sống dễ chịu hơn đã hoàn thành và như vậy là quá đủ. Thế rồi ông đi đến một bộ lạc khác cũng dạy cho họ cách tạo thành lửa, dùng lửa để sưởi ấm và nấu nướng. Dân chúng vô cùng biết ơn, không ngớt lời ca tụng sáng kiến cũng như lòng tốt của ông đến nỗi khiến cho một số trưởng lão của bộ lạc cảm thấy e sợ một ngày nào đó dân chúng sẽ theo ông và như thế họ sẽ mất ảnh hưởng, mất quyền lợi được cung cấp từ dân chúng; cho nên, họ họp nhau lại bàn kế hoạch khử trừ ông lão chỉ cách lấy lửa. Họ kiếm lý do giết ông lão, đóng đanh trên thập tự, nhưng họ đồng thời e sợ dân chúng nổi loạn chống đối do đó đã hội họp, bày mưu cho tạc tượng ông lão đặt trên bệ thờ nơi đình làng. Đồ nghề lấy lửa được đặt dưới chân tượng; các trưởng lão rao truyền mệnh lệnh rằng mọi người phải đến cúi lạy trước bệ thờ ông lão để tỏ lòng tôn kính và biết ơn đồng thời ghi nhớ nằm lòng phương pháp lấy lửa. Thế là nghi thức thờ phượng ông lão và tôn kính đồ nghề lấy lửa được phát sinh và loan truyền từ đó, tiếp tục từ đời nọ sang đời kia; tuy nhiên, bộ lạc nơi miền giá buốt ấy từ ngày đó tới nay đã chẳng bao giờ có lửa.

HỒNGÂNVÀCONNGƯỜI

Mặc dầu ai cũng là người nhưng chỉ mới nói đến tiếng "người" đã thấy muôn sự rắc rối gợi lại từ kinh nghiệm, nhận thức về chính mình cũng như người khác; đồng thời giới hạn của ngôn từ đã tạo nên nơi tâm trí, nhận thức, sự nhận định nghèo nàn, eo hẹp dễ dẫn đưa tới lầm lẫn thiếu trung thực. Kinh nghiệm sống cho thấy đâu ai giống ai về thân xác cũng như tâm tính, tâm linh. Nào môi trường sống, giáo dục, những biến cố thất thường xảy đến trong cuộc đời mỗi người đã tạo nên những tính chất cá biệt không điểm chung. Hơn nữa, dẫu xét trong phạm vi nhỏ hẹp và rõ ràng hơn, chẳng hạn, ông A hoặc bà B, sự nhận thức về một người cũng vẫn bị rơi vào nhiều khiếm khuyết. Trước hết, thử đặt vấn đề tạm gọi là nhận thức hay nhận định khách quan về một người. Không ai có thể đưa ra được nhận định đúng đắn về một người vì tất cả những gì người khác có thể nhận thấy nơi họ chỉ là những tính chất, cá tính, thái độ đã được khuôn mẫu hóa, nói cách khác, thói quen do ảnh hưởng của môi trường sống, nhận thức, ý thức hòa hợp với bản ngã của một người. Đại khái, chúng ta chỉ có thể nhận định về một người một cách quá ư phiếm diện trong lãnh vực con người xã hội đã bị nhiều chiều hướng, kinh nghiệm, quan niệm, cũng như thói quen, phong tục, tập quán và ước vọng, tham vọng ảnh hưởng.

Không nói về người khác, thử xét ngay chính mình. Phỏng đã ai có thể trả lời câu hỏi "Tôi là ai?" một cách chính xác chưa? Những câu trả lời đại khái tôi là một kỹ sư, một thợ tiện, một luật sư, bác sĩ, một người Công Giáo, một thống đốc, những danh hiệu này thay đổi trong khi tận đáy tâm hồn cái tôi vẫn là một bí nhiệm không dễ chi nhận định. Sống tại vùng Đông Nam Hoa Kỳ, tôi chỉ cảm thấy rúng động chút chút khi nghe tin những trận động đất kinh khủng xảy ra tại California hoặc Nhật Bản nhưng tâm hồn thật xốn xang khó chịu lúc nghe ai đó nói chẳng ra gì về mình, không phải chỉ một lúc mà nhiều khi sự xốn xang này vẫn bừng bừng nổi dậy mỗi khi tôi nghĩ tới nó. Tại sao sự tàn phá, chết chóc kinh khiếp của thiên tai ảnh hưởng đến tôi không bằng một vài lời nói chạm tự ái của người khác? Tính chất an bình, bất cần đến rửng rưng từ nguồn gốc nào và sự xốn xang khó chịu xảy đến tự nơi đâu? Tính chất nào hoặc phần tử nào trong con người của tôi đã kiến tạo nên những giao động này qua sự liên hệ với thế giới bên ngoài? Dường như tôi được tổng hợp bởi hai con người khác biệt luôn luôn đối nghịch, một đàng chạy theo lề lối, hình thức liên đới xã hội, đam mê, đàng khác nói lên sự nhận chân thực sự con người mình tạo nên cuộc chiến dằng co dai dẳng nội tâm. Như vậy, những danh hiệu chỉ nói lên được một phần nhỏ về cái tôi phiếm diện nơi thời điểm và môi trường nào đó. Những danh hiệu này chỉ về con người xã hội được gọi là phàm ngã, thế tục, thế gian, nhân gian, thân xác. Nhìn về cá tính, thái độ, nói rằng tôi nóng tính, tôi dễ thương, dịu dàng hay nhiều đàn ông tính, cộng thêm nhiều ước vọng, tham, sân, si, đó chỉ là một phần nào tính chất của tôi, những tính chất thuộc về bản ngã. Phàm ngã và bản ngã thay đổi tùy theo mức độ nhận thức, khả năng của mình liên quan đến xã hội như quần áo chúng ta mặc. Thế nên, khi tôi mặc bộ đồ xanh không thể nói được rằng tôi xanh, hoặc khi tôi mặc bộ đồ đắt tiền không thể cho rằng tôi có giá trị theo đồng tiền quí giá. Cái tôi không thay đổi, con người đích thực không thay đổi được gọi là chân ngã nơi Thiền học, Công Giáo gọi là linh hồn, phần mà Nho học nói lên: "Nhân chi sơ, tính bổn thiện" thật khó lòng nhận ra bởi đã bị bản ngã và phàm ngã biến chuyển theo tiến trình con người xã hội che lấp. Nói như vậy, theo nhận xét bình thường dẫu là tự nhận định hay khách quan, một người chỉ được nhận ra qua lớp vỏ bên ngoài của phàm ngã và bản ngã, sự thể hiện đã bị ảnh hưởng bởi thể chất, giáo dục, văn hóa, thói quen, những quan niệm, chiều hướng sống v.v...

Con người được sinh ra, có đời sống, rồi sẽ đi về đâu? Tôi là ai? Đó là cùng điểm mà bất cứ ai cũng cảm thấy khát khao muốn biết, muốn tìm cho ra nhưng thường bị cuộc sống tràn lấp để rồi muôn lý thuyết được đề xướng nào duy tâm, duy vật, duy linh, và rõ ràng nhất là duy tiền bởi "Có tiền mua tiên cũng được," đồng tiền mang tính cách thực tiễn và cần thiết để đương đầu với thực tại cuộc sống, đồng thời phần nào biến thành chủ đích cho con người theo đuổi che mất nỗi khát vọng tìm về nguồn cội, tránh né sự nhận ra thực thể con người mình bởi không biết dùng phương cách nào nhận chân căn gốc đích thực. Theo Lão học, con người tìm về Đạo (Thượng Đế, không phải tôn giáo), nguyên nhân và nắm giữ luật quân bình tự nhiên. Thiền học khuyến khích trở về với chân ngã để hòa hợp với Đại Ngã. Thượng Đế học nói rằng Thượng Đế tạo dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài, khuyến khích cầu nguyện, chiêm niệm nhưng chỉ phân biệt con người gồm hai phần thân xác và linh hồn chứ không đặt vấn đề đối diện giữa thân xác và linh hồn để tìm hiểu sự liên hệ giữa hai thực thể này vì cho rằng linh hồn sau khi lìa khỏi xác trở về với Thượng Đế.

Nơi Kinh Thánh, sách Sáng Thế Ký (Khởi Nguyên) viết, con người được tạo dựng từ bụi đất, "Yavê Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người đã hà hơi sống vào mũi nó và người đã thành mạng sống" (KN. 2:7). Như vậy, Thiên Chúa Giáo quan niệm con người gồm hai phần: thân xác từ bụi đất và linh hồn do hơi thở sự sống của Thiên Chúa; vì thế giải thích rằng con người được tạo dựng theo hình ảnh của Ngài nên chẳng những cao trọng hơn mọi loài tạo vật mà còn cai quản muôn loài (KN. 1:26). Con người sa ngã nên phải chết; đây là giới hạn nhân sinh không ai tránh khỏi (KN. 3), và chết là ngưỡng cửa bước vào thế giới vĩnh cửu, trở về với Thiên Chúa. Đạo học Đông Phương dùng tiếng chân ngã đồng nghĩa với linh hồn. Ấn Giáo mệnh danh Thượng Đế là Đại Ngã, và chân ngã là một phần tử của Đại Ngã. Con người thật, cái tôi đích thực là chân ngã; nhận thức được chân ngã sẽ gặp gỡ Đại Ngã, Thượng Đế, và mục đích tối thượng của sự luyện tập thiền là tìm về chân ngã, gặp gỡ Thượng Đế.

Xưa nay, sự mường tượng về Thiên Chúa, Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa đã là bước ngăn trở đầu tiên của con người muốn tìm về Ngài. Dĩ nhiên, con người có ngôn ngữ khác biệt, suy tư và nhận thức lại bị ảnh hưởng bởi muôn chiều hướng cùng với thực tại trong cuộc sống; đồng thời với con mắt thịt, con người khó tránh khỏi sự tưởng tượng cho rằng Đấng Tạo Hóa mang hình ảnh con người, hoặc cao hơn nữa thì gắn thêm cho đôi cánh của loài chim, một biểu tượng của sự di chuyển không cần nhờ đến đôi chân hay những phương tiện trần thế. Thế nên người ta đặt tên cho Đấng Tạo Hóa là Thiên Chúa, là Hóa Công, là Thượng Đế, là Trời... để rồi đã có trường hợp như trong Mười Giới Răn có ghi: "Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ," mà quên rằng, tự nguồn gốc theo quan niệm Do Thái, Thiên Chúa không có tên vì người đặt tên có quyền trên kẻ bị đặt tên. Thomas Aquinas đã phải tuyên xưng ngay đầu sách của ông: Thiên Chúa là Đấng Không Thể Dò Thấu. Người ta chỉ có thể nói về những gì không phải là Chúa nhưng không thể nói bất cứ gì về Chúa. Ngược lại, không thiếu hình vẽ biểu tượng Thượng Đế bằng một ông lão đầu tóc bạc phơ trong thế đưa tay tạo thành vũ trụ. Có lẽ hình vẽ này bị ảnh hưởng quan niệm gọi Đấng Tạo Hóa là Cha tạo dựng muôn loài theo Kinh Thánh.

Gọi Thiên Chúa là Cha và dùng hình ảnh con người để biểu tượng về Ngài tất nhiên đã cô lập Thiên Chúa nơi cõi vô cùng được biểu hiệu bằng mường tượng chốn chín tầng trời xa thẳm, mang đầy tính chất giới hạn như mình, và thế là con người có cảm tưởng Chúa chẳng có gì đáng liên hệ với cuộc sống trần thế. Bởi vậy, ý niệm Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và con người thường bị đặt sang bên lề cuộc sống. Chẳng những thế, dùng hình ảnh con người cho Đấng Hóa Công, người ta lại thêm thắt những tính chất phàm nhân phần nào sinh động hóa ý niệm được dùng làm phương tiện diễn giải về Chúa cho dễ hiểu đối với trí óc loài người. Do đó, chẳng lạ gì khi nghe những lời ca tụng: Chúa là vua uy quyền, vinh hiển, Thượng Đế công minh, thẳng tay trừng trị những kẻ làm ác, hoặc "Trời nào có phụ ai đâu...," hay "Ông Trời có mắt" v.v... Nói chung, con người đã nhân cách hóa Thượng Đế để rồi tất cả những gì suy diễn tìm về Ngài đã bị chính ý niệm này khống chế đưa vào ngõ lầy, càng vẫy vùng tìm lối thoát thì lại càng chìm dần vào chốn bế tắc. Ngược lại, vì mang tính chất con người bao gồm phàm ngã, bản ngã, người ta không dám nhìn nhận thực trạng không thể hiểu được về Thượng Đế nên có thể đã đặt thành hàng rào danh xưng. Ai ngoi ngóp trong quan niệm giống mình thì thuộc về mình nhưng ai không quan niệm giống mình thì bị kết án không được Thượng Đế cứu độ.

Những câu hỏi coi bộ trẻ con chẳng hạn con gà có trước hay trái trứng có trước đã làm người ta bí tịt không biết trả lời sao vì nếu quả trứng có trước thì khi nở ra con gà, hoặc là trống hoặc là mái, cũng không thể nào có được trứng nở tiếp tục những con gà khác. Nói rằng con gà có trước lại cũng bị rơi vào lý luận cần một con gà khác phái. Nghĩ xa hơn, thử hỏi vì sợ con bò chết đói nên Thượng Đế tạo dựng cỏ hay vì sợ cỏ mọc nhiều quá phải tạo dựng những con bò, voi, hươu, nai, trâu, hoãng v.v...? Mưa nắng giúp cho hoa trái tốt tươi trong vườn đồng thời cũng khiến những gai nhọn phát triển nơi bụi gai, nấm độc giết người mọc lên mọi chốn. Nếu Thiên Chúa công bình, chính trực theo khuôn mẫu luân lý con người đặt ra để rồi quan niệm Ngài thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ thì phạt trước hay sau, nơi cõi đời này hay sau khi chết, đàng nào không là phạt; thế sao Kinh Thánh có câu: "Các con hãy biết thương xót như Cha các con trên trời là Đấng thương xót" (Lc. 6:36). Và lý do gì Phúc Âm Mathêu được viết: "Ta bảo các ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác. Vì nếu các ngươi mến yêu những kẻ yêu mến các người thì các ngươi có công gì?... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các người trên trời là Đấng trọn lành" (5:44-48). Xét như vậy, quan niệm về Thượng Đế phải được đặt vấn đề như thế nào để tránh bị ảnh hưởng do đặc tính nhân cách hóa Ngài? Tất nhiên, dùng bất cứ hàng rào nào đó để bảo vệ chính mình cũng tự cô lập chính mình và chỉ nói lên sự e sợ vấp ngã. E sợ vấp ngã có lẽ bởi biết chắc mình đi không vững. Như vậy, nếu chỉ có một Đấng Tạo Hóa, dù cho khác quan niệm, khác ngôn ngữ, v.v... mọi ý niệm chỉ về Ngài đều qui về một mối bởi Ngài là độc nhất và mọi sự qui về một mình Ngài, và từ đó, mọi quan niệm về tạo dựng và về sự liên hệ giữa con người với Tạo Hóa mới có thể được tiếp tục nhận định.

Thượng Đế, Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, Đại Ngã, Đạo v.v... những danh từ chỉ cùng về một cội nguồn quyền lực tác tạo và chi phối thứ tự của tất cả mọi sự hiện hữu vô hình cũng như hữu hình thường đã khiến con người có sự tưởng tượng một hình ảnh sai lầm về thực thể của quyền lực này. Kinh Thánh nói rõ Thiên Chúa không có tên, không ai có quyền đặt tên cho Ngài nơi câu chuyện Môi Sen đối diện với Thiên Chúa hiện ra dưới hình thức ngọn lửa giữa bụi gai được trả lời "Ta là Đấng Tự hữu" (XH. 3:14); Nguyễn Thế Thuấn dịch là "Ta có sao Ta có vậy," tương tự lối diễn tả của Aquinas: không cách nào dò thấu. Đại khái, Kinh Thánh nói về Đấng Tự Hữu được nhận biết qua kinh nghiệm sống của con người, một quyền lực không ai có thể hiểu thấu chi phối toàn bộ vũ trụ đồng thời lại cũng quá gần và quá thân thiết với con người, với từng cá nhân, từng trường hợp mọi môi trường sống, ngaynơi tâm hồn mỗi người, "Ta sẽ đặt lề luật của ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng, và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng, chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn, mỗi người, phải dạy bảo nhau, mỗi người phải nói với anh em mình: 'Hãy biết Yavê!' vì hết thảy chúng đều biết Ta, từ bé đến người lớn" (Jr. 31:33-34). Hoặc nơi sách Joel "Ta sẽ đổ Thần khí của Ta trên mọi xác phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ tuyên sấm. Kẻ già nua sẽ chiêm điềm mộng. Trai tráng các ngươi sẽ thấy thị kiến" (3:1; CV. 2:17).

Người Do Thái gọi Thượng Đế là Elohim, Eloah, El-Elohim, Yahweh, sau này gọi chung Yahweh Elohim. Dùng những tiếng Elohim, Eloah, để chỉ về Thiên Chúa được khởi nguồn từ chữ El mang nghĩa người thân thiết nhất, khi mình gặp cảnh chẳng may, tù tội, đã kiếm đủ cách để giải thoát cho mình. Cách gọi này bắt nguồn từ cảm nghiệm Thiên Chúa đang hoạt động giữa loài người, luôn luôn để ý và che chở cho con người. Vì vậy, các sách tiên tri, được coi là tiếng nói của Thượng Đế, rao giảng ý muốn của Ngài qua ngôn ngữ loài người được đặt tên bao gồm chữ El, chẳng hạn Ezekiel, Samuel, Daniel, Yoel. Tuy nhiên, Elohim mặc dầu mang nghĩa quyền lực vượt khỏi thế giới hữu hình lại phần nào mang thêm nghĩa đa thần nên đã được ráp thành El-Elohim để chỉ thần cao cả nhất. Chữ Yahweh được phiên dịch từ cách đọc của chữ YHWH, chỉ sự độc nhất tránh ý niệm đa thần, có lối phiên dịch khác nơi Anh ngữ thành Jehovah có nghĩa Đấng Tự Hữu (XH. 3:14) bao hàm ý chỉ Nguồn Ban Sự Hiện Hữu Cho Tất Cả Mọi Sự Hiện Hữu. Chữ này nói lên đặc tính độc thần, cao cả nhất, không có thần nào ngang bằng hoặc có thể hơn. Chỉ một mình Yahweh là đấng độc nhất, vô nhị, không giống bất cứ gì nơi cõi hữu hình, không ai có thể tưởng tượng được về Ngài; một cách tuyệt đối, Ngài là cội nguồn sự sống, của mọi quyền lực hiện hữu. Tên các tiên tri vì thế bao gồm chữ "ah" chẳng hạn Nehemiah, Isaiah, Tobiah, Jeremiah, Jonah, Micah, Jephaniah, Zechariah. Sau này để thống nhất, Thượng Đế được gọi Yahweh-Elohim; Anh ngữ dịch Lord-God; trong ngôn từ tiếng Việt gọi là Thiên Chúa.

Qua lối diễn tả này, Kinh Thánh nói lên con người đã cảm nghiệm được một Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa, thực sự hoạt động nơi họ, rất gần gũi, sống động qua từng hơi thở của con người trái ngược với những khuynh hướng tìm kiếm Thượng Đế nơi bất cứ cõi xa xăm nào. Thượng Đế hiện diện ngay nơi con người và khi thân xác chết, linh hồn con người trở về với Ngài ở trạng thái vô hình. Đức Kitô là gạch nối giữa con người và Thiên Chúa, và đây là con đường duy để con người liên lạc với Thượng Đế.

Lão học dùng "Đạo" để ám chỉ quyền năng tối thượng. Đối với Lão học, nguyên lý tuyệt đối, tột cùng, của vũ trụ, đã có từ trước được gọi là Đạo. Đạo là nguồn gốc sinh ra trời đất, là nguyên lý của vô hình và hữu hình; tuy nhiên, "Đạo khả đạo phi thường Đạo," không thể dùng bất cứ danh xưng nào để chỉ được, không thể dùng lý trí mà có thể hiểu nổi. Đạo chi phối toàn bộ những biến đổi của luật tự nhiên được gọi là luật "Thường" hay lưới trời. Bởi con người qua kinh nghiệm sống bị cái nhìn nhị nguyên ảnh hưởng nên khó nhận ra quan niệm nhất nguyên về Đạo của Lão học. Điều mà Lão học gọi là "vô," tuyệt đối không có gì mang nghĩa chưa lộ hình dưới con mắt phàm. Thế nên, cái bản thể vô nơi Lão học lại là vô hình, là có. Như vậy, Lão học thay vì dùng danh từ Thượng Đế đã dùng chữ Đạo để gọi Đấng vô thủy vô chung, tạo dựng mọi vật mọi loài bao gồm hữu hình và vô hình và cũng là đấng không ai có thể hiểu nổi nhưng lại nắm giữ định luật biến chuyển của sự hiện hữu. Muốn được Đạo chỉ khi nào chính mình thực hiện nơi bản thân chứ không thể nào chỉ nghe người khác nói mà hiểu được. Con người cũng như mọi vật đều quy về một mối là Đạo. Khi con người bỏ được cái nhìn nhị nguyên, bỏ được sự phân biệt, tách rời mình với vũ trụ hữu vi tức là trở về với Đạo, về nhất nguyên, trở nên huyền đồng, trở về với đời sống giản dị, tự nhiên, trở về với chân tánh của chính mình tức là "ngộ Đạo," và khi đạt đến trình độ này thì "Tri giả bất ngôn."

Theo Trang Tử con người tự nhiên toàn hảo nhất; không ai có thể giúp mình bởi không có sự hoàn thiện nào có thể là mẫu mực cho mọi người. Con người được sinh ra với "cái đức" riêng mà không gì có thể thay thế. Đức được gọi là "Tánh" của mỗi người, mỗi vật; đó là bản sắc cá biệt, cái thiện mỹ không phải không quấy. Chẳng hạn cái đức, cái tánh, cái bản sắc, thiện mỹ, của cây hồng là cho nở những bông hồng chứ không phải bông huệ. Bất cứ những hình thức, lề luật, sự cải biến nào để cây hồng triển nở bông cúc hay bông huệ đều làm rối mục đích tận thiện tận mỹ của cây hồng. Chính vì lý do này, bất cứ phương pháp, tổ chức, lề luật, khuôn mẫu, gượng ép, áp chế con người vào một lề lối nào đó đều đã đụng chạm, nếu không nói là làm hư mục đích tận thiện, tận mỹ của một người, chỉ biến người đó trở thành nô lệ, tạo nên sự đau khổ, cướp mất tự do, hạnh phúc con người. Thế nên, phải, quấy chẳng qua do cái nhìn nhị nguyên thiếu sót về người và vật theo những khuôn mẫu lệch lạc. Trong trời đất chỉ có một nguyên lý sống. Nguyên lý này không có sanh cũng không có tử vì sanh tử chỉ là những hình thức biến hóa của nguyên lý sống. Sự hiện hữu chỉ là hình thức trong giai đoạn; hình thức mất đi, cái sống đi về chỗ khác tiếp nối nhau mãi; chỉ có chân thể không thay đổi. Chân thể này hòa làm một cùng với Tạo Hóa trong cuộc biến hóa vô cùng. Bởi vậy, sống và chết cũng như nhau. Được sinh ra tức là đi từ cõi vô hình vào hữu hình, và chết là đi từ cõi hữu hình vào vô hình. Sống và chết chẳng qua là hình thức của một vật tồn tại nầy chuyển sang hình thức một vật tồn tại khác. Do đó, mỗi vật đều có cái giá trị riêng của nó, không cái nào cao trọng hơn cái nào mà tất cả bằng nhau. Chính lòng tham dục theo ngoại vật làm phiền não con người vì còn muốn trở thành bất cứ gì thì chỉ tự làm lệch lạc cái tánh, cái đức tự nhiên của mình trong sự hòa hợp và chuyển biến của tạo vật.

Theo lối nhìn nhất nguyên của Lão Trang, tinh thần và vật chất, nội ngoại của một con người nương nhau mà có; cả hai đều là một. Tinh thần cần điều kiện vật chất nhưng điều kiện sống không nên ảnh hưởng bản tánh của một người mặc dầu tinh thần bị hạn chế trong điều kiện sinh hoạt hữu hình của con người. Phận sự của con người là thực hiện cách nào để đưa cuộc đời mình đến chỗ chí thiện, chí mỹ, tức là cái đức, cái tánh, cái sống vô cùng đồng với trời đất đang ẩn núp trong đáy lòng, cái mầm sống toàn năng, toàn lực, toàn thiện, toàn mỹ đã thọ được tự nguyên thủy.

Ấn học gọi Thượng Đế là Đại Ngã. Đại Ngã chia sẻ sự hiện hữu vô hình cũng như hữu hình cho muôn vật; Đại Ngã hiện thể nơi muôn vật, mọi loài, do đó có quan niệm mọi tạo vật đều là một phần tử của Đại Ngã. Con người bao gồm chân ngã bất biến, phàm ngã và bản ngã thay đổi tạo nên cá tính và khuynh hướng của con người xã hội. Tìm gặp Đại Ngã tức là nhận ra chân ngã của mình, nhận ra thực sự mình là ai, bản thể mình như thế nào. Như vậy, Thượng Đế bao trùm con người từng hơi thở, ở mọi nơi, mọi chốn, nơi tất cả những gì mà con người thường gặp hằng ngày nhưng chẳng nhận biết. Con người sống trong Thượng Đế như con cá sống nơi đại dương mà Thượng Đế được ví như nước biển và những gì thuộc về đại dương. Bởi đó, khi con người để lòng thanh tịnh, không bị chi phối bởi bất cứ ảnh hưởng, quan niệm, ký ức, v.v... của phàm ngã và bản ngã, sẽ nhận ra chân ngã, một phần của Thượng Đế nơi mình. Nhận chân mình với Thượng Đế là một sẽ có được sự khôn ngoan, nhận thức tuyệt đối của Hóa Công và xử dụng được quyền lực của Ngài đã đặt sẵn nơi mình.

Phật học đặt trên nền tảng chữ "Vô." Chữ vô này vừa mang nghĩa là không và cũng mang nghĩa là có bao gồm Vô Thường và Vô Ngã. Vô thường chỉ về một Thực Tại không thể hình dung, không thể suy tư, không thể đo lường, không thể dùng nhận thức mà hiểu hết, biết hết được, không thể đặt tên được nhưng tạm gọi là Chân Như, không thể nào nhận định được trạng thái vì bản thể của Thực Tại này là bản nguyên không trạng thái. Chân Như có định luật vô thường, nơi toàn thể vũ trụ không có gì là thường trụ, bất biến mà luôn luôn lưu chuyển, biến dịch, thay đổi, từng giây từng phút, được sinh ra, trở thành hữu hình dưới con mắt vô minh của thế nhân rồi biến thể. Định luật thay đổi không thể đo lường được này gọi là chân lý Vô Thường có tính chất biến động nơi bản thể mà Chân Như, bản thể Thực Tại lại bất biến. Vũ trụ, Chân Như là một toàn thể bất biến nhưng thuộc về vũ trụ là vạn vật liên lạc mật thiết với nhau luân chuyển theo định luật vô thường. Có thể nói, Vô Thường là chân lý về tính chất biến động trong Thực Tại bất biến. Thực Tại Siêu Việt là sản phẩm chung của Tâm và Vật biến tướng lẫn nhau; Tâm sinh Vật và Vật sinh Tâm. Thực Tại Siêu Việt, Chân Như được quan niệm như "Đạo" nơi Lão học, chốn mà nói ra được không còn tính chất thường nữa, và cũng như Thomas Aquinas nêu lên: chỉ có thể nói về những gì không phải là Thượng Đế.

Nhân thế vô minh nên cho rằng sự vật hiện hữu là có thật nhưng thực ra, sự vật được nhận ra tùy thuộc nhận thức của con người qua giới hạn của giác quan. Bởi đó, nếu giác quan không có thì sự nhận thức của con người cũng không có. Do vậy, Thực Tại Siêu Việt, Chân Như không thay đổi, bất biến mà vì kinh nghiệm nhận thức qua giác quan của con người nên bị cho là biến; cái biến nằm trong bất biến. Chữ "vô" trong vô minh lại cũng mang nghĩa có và không, có nhận thức tùy theo giác quan và không nhìn nhận ra tính chất bất biến của bản thể Chân Như.

Cái tâm thường trụ bất biến và bao trùm vũ trụ đồng bản thể với Chân Như nên không có sự phân chia, chỉ có một, không có hai, không nhĩ, ngã, hoặc nội, ngoại, nghĩa là không có gì phân biệt là của ta hay của người được gọi là Tâm Chân Như, Phật Tánh. Như vậy, Phật học quan niệm người và ta là một, ta và vũ trụ là một, Phật tánh ở nơi mọi người. Tất cả đã là một nên những gì được gọi thiện, ác theo lối nhìn vô minh, bản ngã, đều cũng nằm trong khối nhất nguyên, vạn vật nhất thể. Cái thực mà ta gọi là Ta tức là Chân Tánh, Chân Thể, Vô Ngã; ngã là những gì qua nhận thức giác quan con người cho rằng thuộc về mình như vợ con, nhà cửa, xe cộ. Những nhận thức theo giác quan này là nguồn gốc của mê lầm, đau khổ; bởi vậy, muốn diệt khổ tức là diệt tính chất mê lầm này, diệt ngã chấp. Như thế, Vô Ngã cũng bao gồm có và không; "có" là Phật tánh, Chân tánh, Chân thể, cái Ta đích thực hòa hợp làm một với Chân Như, với bản thể Thực Tại Siêu Việt; "không" là cái ta ngã chấp, mê lầm, không thật, nhận thức theo giác quan của con người.

Mặc dầu Phật học cho rằng Thực Tại Siêu Việt, Bản Thể của Vũ Trụ là sản phẩm chung của Tâm và Vật biến tướng lẫn nhau, Tâm sinh Vật và Vật sinh Tâm, đồng thời chân lý vô thường luân chuyển biến hóa khiến nhận thức vô minh của nhân loại không thể nào đo lường được, câu hỏi được đặt ra vậy đâu là động lực điều hành định luật Vô Thường? Hơn nữa, căn bản để có nhận thức về tâm thường trụ bất biến của vũ trụ, bản thể của vũ trụ, về vô ngã, vô thường được nhận thức từ đâu khi cho rằng sự nhận biết qua giác quan chỉ là giả, ảo ảnh. Phỏng sự nhận thức cũng là giả vì không có bộ óc sẽ không có nhận thức thì tâm thường trụ bất biến của vũ trụ, bản thể của vũ trụ, vô ngã, vô thường, nói chung, đối tượng của nhận thức cũng chỉ là giả tưởng? Đàng khác, nếu nói rằng vũ trụ là kết quả những cộng nghiệp của chúng sinh thì chúng sinh từ đâu có hay bởi ngẫu nhiên? Và nếu thiện ác là một vì cùng nằm trong biến chuyển, biến tướng vô thường thuộc về nhất nguyên thì sao có thể tạo nghiệp nếu nghiệp thuộc về ngã, giả tưởng, mê lầm. Như vậy, phỏng Thực Tại Siêu Việt, Tâm Chân Như là cội nguồn của những Phật tánh nơi chúng sinh biến tướng theo định luật Vô Thường của Chân Như mà thành vũ trụ bao gồm vô hình và hữu hình thì Thực Tại Siêu Việt, Tâm Chân Như là cội nguồn của mọi biến tướng?

Lược qua một vài nhận thức của Thượng Đế học, Lão Trang, Ấn học, Phật học, điểm chung được nêu lên đó là có một Động Lực Vô Hạn Cội Nguồn mọi sự hiện hữu, căn nguyên cho tất cả những sự hiện hữu vô hình cũng như hữu hình được gọi bằng những tên khác nhau tùy theo sự nhận thức và cảm nghiệm của mỗi nhóm đạo học. Động lực này mang bản thể nhất nguyên và nắm giữ định luật biến dịch, luân chuyển của mọi sự hiện hữu nơi vũ trụ. Định luật hiện hữu này vượt quá sức suy đoán lý trí và nhận thức của con người. Mỗi nhóm đạo học nêu lên nhận thức về một vài khía cạnh của định luật biến dịch tùy thuộc cảm nghiệm của mình nên đã có những tông phái khác nhau.

Điểm chung thứ hai nói lên tính chất nhất nguyên của Động Lực Căn Nguyên. Tất cả mọi sự luân chuyển, biến dịch của mọi thành phần nơi vũ trụ thuộc về sự biến dịch nội tại của Động Lực Căn Nguyên. Những sự thay đổi, nhận thức của con người về tâm linh cũng như về vật chất... đều nằm trong sự biến dịch nội tại này. Sự phân chia thiện, ác, đúng, sai, chỉ tùy thuộc nhận thức của con người trong giới hạn hữu hình và cuộc đời của một người là sự thể hiện sự hiện hữu hữu hình của Động Lực Căn Nguyên trong gian đoạn nào đó thuộc về vô hạn, vĩnh cửu. Thế nên, sinh là biến dịch từ thế giới vô hình vào hữu hình và tử là biến dịch từ hữu hình vào vô hình vì sự hiện hữu luân chuyển qua những biến thái chứ không mất đi.

Điểm chung thứ ba của các nhóm đạo học là Động Lực Căn Nguyên của sự hiện hữu hiện thể chan hòa, bao trùm, tất cả mọi phần tử hữu hình và vô hình của vũ trụ, nơi mỗi người và mỗi vật, từ những thành phần siêu vi như phân tử, nguyên tử, đến những thành phần vĩ đại vượt quá sự nhận thức thông thường của con người về vũ trụ chẳng hạn hệ thống giải ngân hà, tất cả đều được sắp xếp theo những cơ cấu rắc rối riêng liên tục biến chuyển theo định luật biến dịch phức tạp. Chính vì sự hiện thể của Động Lực Căn Nguyên sự hiện hữu này nơi con người nên con người tìm hiểu và kiếm cách liên lạc với cội nguồn hiện hữu của mình. Nói cách khác, Động Lực Căn Nguyên của sự hiện hữu chia sẻ sự hiện hữu vô hạn cho mọi vật mọi loài do đó mọi vật mọi loài có năng lực hiện hữu tùy theo giới loại và điều kiện của sự hiện hữu.

Năng lực mà con người có được ngay từ khi sinh ra chính là năng lực của sự hiện hữu trong biến trình hiện thể của Động Lực Căn Nguyên nơi giai đoạn hiện hữu hữu hình. Động Lực này nơi Phật học gọi là Chân Lý Vô Thường, Thực Tại Siêu Việt hay Chân Như, Ấn học gọi Đại Ngã, Đạo nơi Lão Trang, Thượng Đế, Thiên Chúa nơi Thượng Đế học, giới văn chương dùng những danh từ Con Tạo, Hóa Công, Tạo Hóa, Ông Xanh v.v... Nơi con người, năng lực hiện hữu được chia sẻ và bày tỏ qua những khả năng. Một người có nhiều khả năng nhưng chỉ một phần nào được nhận ra và phát triển thành tài năng. Theo lối nhìn tôn giáo, những khả năng này là hồng ân của Thượng Đế ban cho con người.

Dĩ nhiên, mỗi vật được tạo thành đều có mục đích riêng. Chẳng hạn, một chiếc lá cây mang nhiệm vụ thật phức tạp, nhận khí carbonic, nhả oxigen và ngược lại, nhận ánh sáng hòa hợp nhựa sống và ngược lại v.v... Những côn trùng coi bộ thừa thãi trên mặt đất, chẳng hạn con kiến, bọ dủi, có nhiệm vụ khá quan trọng tiêu hóa những xác chết của các sinh vật làm sạch mặt đất. Tương tự suy diễn, những khả năng mà một người có được đều kèm theo trách nhiệm tùy thuộc môi trường sống không những đối với mình mà còn đối với những người chung quanh do tính chất nhất nguyên của đạo học. Phát triển và xử dụng khả năng đem lại lợi ích, giúp con người sống vươn lên tức là tạo cơ hội cho mình và cho con người kiếm tìm về cội nguồn tâm linh.

Cảm nghiệm về sự hiện diện của Động Lực Căn Nguyên hiện hữu trong cuộc sống thế nhân là nguồn gốc phát sinh tôn giáo. Sự thực hành tôn giáo vì thế được nhấn mạnh nơi lối sống liên hệ giữa con người và Động Lực Căn Nguyên này do nhận thức giới hạn của con người hữu hình hướng về cội rễ vĩnh cửu. Hơn nữa, chính vì tôn giáo mang tính chất diễn giải tinh hoa đạo học cho mọi người, đồng thời chen vào đó những tham vọng phát triển tôn giáo rộng lớn hơn ảnh hưởng nặng nề trên con người tôn giáo nên thường tôn giáo đã làm giảm tính chất tinh túy của đạo học bởi sự giải thích phải được thêm thắt những kinh nghiệm sống thế tục sao cho những tầng lớp bình dân dễ dàng chấp nhận; vì thế đạo học đã bị hiểu sai lệch mang đầy tính chất con người khi áp dụng nơi tôn giáo.

Thế nên tôn giáo là sản phẩm của chủ thuyết nhận thức về Động Lực Căn Nguyên áp dụng nơi cuộc sống của con người trong lãnh vực đại chúng chứ không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện dẫn con người tới ngưỡng cửa tâm linh. Mỗi người là một tiểu vũ trụ, từng tế bào chất chứa sự hiện hữu của Thượng Đế, mang những năng lực của sự hiện hữu như những phương tiện cho cuộc hành trình thăng tiến sức sống tâm linh nơi giai đoạn hiện hữu hữu hình. Nhận ra hay không hoặc chấp thuận, tìm hiểu phương cách phát triển khả năng tâm linh hay không tùy thuộc nhận thức tâm linh nơi mỗi người. Nhận thức này dẫn đến nhận thức lòng tin và đó là Thượng Đế ở nơi mọi người; quyền năng của Thượng Đế có sẵn nơi con người. Xử dụng được quyền năng, năng lực của sự hiện hữu hay không tùy thuộc chính mình. "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12).

LÒNGTIN

(Những câu Kinh Thánh trích từ bản dịch

của LM Nguyễn Thế Thuấn, DCCT.)

Có câu nói, "Bất cứ ý tưởng lớn lao nào thuở ban đầu đều bị coi là phạm thượng." Dĩ nhiên, câu nói này không có nghĩa ngược lại vì những câu nói phạm thượng không thể nào trở thành ý tưởng vĩ đại. Có thể những ý tưởng lớn lao thuở ban đầu được cho là phạm thượng bởi đại đa số con người vào thời điểm ấy chưa thể hiểu nổi do tâm trí hay nhận thức chưa mở rộng đủ để chấp nhận, hoặc ý tưởng đó phần nào đe dọa có thể làm mất vị thế của một số người đang được những quan niệm, những hệ thống luân lý, giáo điều, xưa nay đã và đang ủng hộ. Cũng có thể vì e ngại ý tưởng ấy mở rộng chiều hướng nhận thức giúp con người thay đổi nhãn quan khi đối diện thực tại tạo nên ảnh hưởng làm thiệt hại những mối lợi thế tục của một số thành phần còn đang cố bám víu vào nhãn quan hạn hẹp đầy thành kiến, lỗi thời, nên e rằng sẽ bị thua thiệt, do đó đã lạm dụng vị thế hầu cả vú lấp miệng em mà lên án. Cũng có thể ý tưởng ấy thách đố sự thay đổi tất cả mọi chiều hướng tư duy, đe dọa làm đảo lộn hoặc phá bỏ lề lối suy tư cũ để thay thế vào đó những viễn ảnh mới đòi hỏi con người mở rộng cửa lòng dấn bước vào tiến trình hoàn toàn xa lạ, tạo nơi tâm tưởng mối e ngại mất gốc, chẳng có gì quen thuộc hòng nương tựa nên ngại ngùng đành chấp nhận chối bỏ mong có được nỗi an bình ru ngủ mà lòng thực sự chấp nhận sự trốn chạy đối diện với những thách đố thăng tiến tâm tư. Nếu chân thành nhìn nhận thực tại thẳm sâu nơi cõi lòng, càng ù lỳ không chịu cải thiện, càng trốn tránh đối diện với những phiền hà thao thức cần nhiều cố gắng tư duy, hoặc lạm dụng điều chẳng nên đang được chấp nhận như kết quả của vô minh nơi nhân thế, con người lại càng cảm thấy ray rứt, giẫy dụa vì thèm khát thoát khỏi hiện trạng cố tình che dấu hay cố tình chấp nhận cho qua do áp lực huyền nhiệm nào đó không ngừng nghỉ khuyến khích thức tỉnh, lột bỏ mặt nạ để nhận thực trạng huống bẽ bàng do đối diện sự thấp hèn nơi lòng mình như bước khởi đầu cho tiến trình thăng hóa tâm linh đang mời gọi. Còn lại là phần đông những tâm hồn không dám suy nghĩ, tránh nhận thức vì e ngại bị cho là sai lầm, chỉ miễn sao sống cho qua kiếp người thế nên chấp nhận hùa theo đại đa số một cách hình thức giống kiểu theo đóm ăn tàn, người ta sao mình vậy cho yên thân, nói rằng tin tưởng nơi một Đấng quyền năng nào đó nhưng thực sự vô thần bởi e sợ, kinh khiếp sự luận phạt chứ không cần biết mình là ai và tại sao phải chấp nhận những khuôn mẫu được vạch sẵn để rồi mu mơ cảm thấy mình sống cũng như chết do sự chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống, sống vương vất cho qua ngày đoạn tháng, chấp nhận yêu đời mà sống lâu dần rồi cũng thành quen, một thói quen khổ ải thấm nhập tận xương tủy không có không thể sống nổi.

Con người nhận biết sự vật và sự việc chung quanh qua ngũ quan; sự nhận biết này dẫn đến nhận thức tùy thuộc kinh nghiệm để kiến tạo ý thức đồng thời phát sinh phản ứng trong mỗi trường hợp. Những sự kiện ghi lại nơi tâm trí kinh nghiệm và nhiều kinh nghiệm được tích trữ dần dần chuyển biến thành tiềm thức điều khiển thái độ và phản ứng của con người khi đối diện với những sự kiện xảy ra nơi các trường hợp khác nhau tiếp diễn trong cuộc sống. Như vậy, qua sự giao tiếp với ngoại vật, con người tự thiết lập cho mình hệ thống nhận thức, một phương cách tổng hợp và chọn lựa sự liên hệ của những dữ kiện tùy thuộc trường hợp và điều kiện để phát sinh ý thức, nhận định, quyết định, và phản ứng, v.v... lệ thuộc phần nào vào tiềm thức. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng sự nhận thức của con người, và lẽ đương nhiên, yếu tố đầu tiên dễ nhận biết là ngũ quan. Không ai có thể nhờ các cảm quan giải thích cho một người mù từ thuở sơ sanh cảm nhận và phân biệt được thế nào là màu xanh hay màu đỏ hoặc thông đạt cho người bị câm và điếc lúc mới lọt lòng mẹ cảm nhận được sự hòa hợp và nét quyến rũ tuyệt vời của âm nhạc. Thiếu yếu tố giác quan, con người không thể liên lạc với thế giới chung quanh; đồng thời, thiếu sự liên lạc này, con người không thể có ý niệm tạo nhận thức. Chẳng những thế, nếu ngũ quan nào đó bị sai lệch cũng ảnh hưởng sự cảm nhận về phương diện ấy và có khi gây thêm ảnh hưởng liên hệ đến toàn bộ nhận thức của con người.

Hơn nữa, sự nhận thức còn bị ảnh hưởng bởi bản chất cá nhân, những ý niệm, quan niệm, kinh nghiệm, giáo dục nơi xã hội v.v... Hầu hết ai cũng sợ rắn vì đã nghe về sự độc hại của nọc rắn mặc dầu có những loại rắn không có nọc độc mà chỉ giúp ích cho con người như king snake, màu đen dài thoòng trông thật đáng sợ ở Mississippi chỉ ăn chuột bọ và tiêu diệt các loại rắn khác có nọc độc. Đối với những người đã nếm mùi cay đắng, đau khổ vì tình phụ, thật khó lòng cho họ có lại được tình yêu đơn thuần, trọn vẹn với người khác phái, hay những người sinh trưởng trong một môi trường xã hội chèn ép, vô luân, và man rợ, không dễ chi giúp họ có được lòng tin tưởng nơi sự tốt lành của những người chung quanh. Xét về phương diện tâm lý, sự nhận xét, phán đoán thái độ, ý nghĩ của người khác, thường lại là phản ứng, ý nghĩ nơi chính bản thân mình vì thực ra những nhận xét này là kết quả tổng hợp phản ảnh được tạo nên do ảnh hưởng tâm lý, kinh nghiệm, điều kiện môi trường, của người nhận xét. Lẽ dĩ nhiên, đối tượng mang bản chất khác, có kinh nghiệm, tâm lý khác, được giáo dục, mang những ý niệm khác, nên dẫu bên ngoài có thái độ tương tự theo nhãn quan nhận xét của mình, chắc chắn không mang tâm tình như mình nghĩ.

Ngoài ảnh hưởng của ngũ quan, con người còn bị ảnh hưởng bởi ý niệm, quan niệm, cùng với dữ kiện tạo nên những nhận thức khác nhau; chính vì vậy, không ai lạ gì đã có những chủ thuyết duy tâm, duy vật, duy lý, duy sinh, duy linh, duy tịnh... Những chủ thuyết này đặt yếu tố nào đó làm căn bản, phân tích và biện chứng những ảnh hưởng của yếu tố ấy đến những cơ cấu khác nơi con người để rồi cho rằng con người chỉ lệ thuộc một yếu tố căn bản ấy mà thôi do đó mang nặng tính chất thiên kiến, không đạt tới được sự nhận thức toàn bộ. Con người đâu phải chỉ đơn giản có cuộc sống xác thân và chết là hết như duy vật chủ trương. Dẫu thế, chính ước muốn minh chứng con người thuộc duy vật đã không duy vật chút nào. Nhìn một cách bao quát, con người mang tính chất "duy đủ thứ," và tùy môi trường xã hội ảnh hưởng thể chất, tâm linh nên có khuynh hướng thiên nhiều về một duy nào đó hơn các duy khác. Như vậy, đã duy đủ thứ thì lại chẳng thể nào gọi là duy vì càng duy chỉ càng không thấy tính chất người.

Ảnh hưởng giáo dục, thói quen, phong tục tập quán lề lối của môi trường sống trong xã hội, đóng một vai trò lớn lao không những nơi tiến trình nhận thức của con người mà còn khuôn mẫu lề lối suy tư, cách ăn nết ở, và ngay cả tâm tính, phản ứng, trước một số sự kiện xảy đến theo những mô thức nhất định tùy thuộc thời gian và không gian mà tập đoàn con người tại thời điểm ấy chấp nhận được gọi là quy luật xã hội, sự bó buộc mọi người nơi xã hội ấy phải tuân theo như một định luật của sự sống còn nếu cá nhân muốn được hội nhập và chấp nhận, dẫu những quy luật này bắt nguồn vì bất cứ lý do nào hoặc bị một thiểu số lạm dụng hoặc vì lợi ích chung cho sự sinh hoạt hòa hợp của tất cả. Lý do gì khiến người Do Thái cho rằng heo là con vật nhơ uế? Tại sao một số dân Ấn thờ bò? Quyền lực nào ép buộc dân Việt có quan niệm môn đăng hộ đối nơi vấn đề hôn nhân của con cái, những nghi thức phải thế nọ, phải thế kia trong đình đám, tang ma?

Cuộc sống hữu hình tạo thành thói quen, khuôn mẫu quan niệm, và ảnh hưởng sự nhận thức nơi con người, đồng thời thiết lập những hàng rào ngăn cản nếu không muốn nói là giới hạn sự phát triển tri thức trong khuôn khổ nào đó. Thế nên, bất cứ ai dám nói lên những ý tưởng hoặc sống không phù hợp theo thói quen suy nghĩ và nhận định của đa số sẽ khó được chấp nhận và có thể nhiều khi bị lên án. Một thí dụ đơn giản, đi chân trần làm ruộng, rẫy, nơi đồng quê Việt Nam hoặc nơi buôn làng người Thượng là điều rất bình thường, ngược lại, nơi những tiệm ăn sang trọng, nào ai chấp nhận cho kẻ đi chân không bước vào! Cuộc sống ảnh hưởng sự khuôn mẫu hóa nhận thức, gò ép con người không dám suy nghĩ tự nhiên mà phải chấp nhận những gì mọi người chung quanh chấp nhận làm căn bản. Bởi dựa trên những nhận thức khuôn mẫu, sự suy tư của con người đã bị uốn nắn, ngăn chận, nên làm lệch lạc tiến trình nhận định thực thể sự việc. Chính vì vậy, chẳng lạ gì hầu hết mọi người đều không biết mình sống để làm gì, không thể nhận định rõ ràng mục đích của cuộc sống thân xác đã được sinh ra, và càng không thể hiểu nổi thực sự mình là ai. Nói cách khác, đầu óc con người đã bị khuôn mẫu hóa tạo nên kết quả là những ưu tư, u uất, khắc khoải trong sự chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống mà không biết sống để làm gì nên cố tìm kiếm những niềm vui thế tục như mục đích của đời người. Chẳng lạ gì, con người đích thực đã bị những khuôn mẫu thế tục bao vây, và con đường đi tới đã bị lấp kín nên được tưởng chừng như xa xôi diệu vợi.

Thử đặt vấn đề, thân xác con người gồm đầu óc, tay chân, thân mình, tim, gan, phèo, phổi. Tuy được phân biệt như thế nhưng tất cả chỉ là một; không ai có thể cắt trái tim bỏ lên bàn mà thân xác và trái tim có thể sống tách biệt; tương tự như vậy, bộ óc, gan, phổi v.v... đối với thân xác cũng chỉ là một. Một người ngồi trước bữa ăn thịnh soạn gồm có những đĩa thịt quay, cá nướng, tôm kho, rau xào, mùi vị hấp dẫn. Những món ăn tuyệt hảo ấy được gắp bỏ vô miệng thưởng thức nhưng thay vì nuốt qua cổ họng xuống dạ dày, người ấy nhổ miếng ăn vừa nhai xong vào một chiếc chén khác. Chắc chắn rằng chính người đó không dám ăn lại miếng ăn vừa được nhổ ra vì cho là dơ, bẩn. Tại sao gọi là dơ bẩn, không ai giải thích được lý do. Thế nên nhận thức dơ bẩn này chỉ là kết quả của sự quen thói quan niệm vì miếng ăn dù nuốt xuống hay nhổ ra cũng chỉ là một... nuốt xuống được cho là sạch, tốt lành, mà vừa nhổ ra đã bị coi là dơ. Thời gian được chia thành ngày và đêm theo kinh nghiệm hiển nhiên; nhận thức thực tại này ai cũng có; ban ngày thì sáng bởi có ánh mặt trời; ban đêm thì tối bởi không có ánh mặt trời chiếu sáng. Giả sử một người dùng phi thuyền bay vào không gian cách xa trái đất... Nơi không gian vô tận, mặt trời luôn luôn chiếu sáng; trái đất quay vẫn quay... và sự phân biệt giới hạn ngày đêm không có trong vũ trụ vì lúc nào cũng như thế...

Qua ba mẫu dữ kiện thực tại đơn giản luôn luôn xảy ra trước mắt mọi người bất cứ lúc nào, phỏng ai dám nghĩ rằng những nhận thức về thực tại của mình luôn luôn đúng? Có lẽ phải nghĩ ngược lại! Những dữ kiện trước mắt mà con người đã nhận thức khác biệt với thực thể thực tại thì phỏng nhận thức suy tư lấy giá trị gốc gác nào làm căn bản. Dữ kiện đem đến nhận thức tạo thành và hỗ tương với tri thức để sinh ra ý thức đưa đến quyết định rồi được phản ứng. Nếu sự nhận thức đã không đạt tới thực thể dữ kiện, tất cả hành trình kiến tạo phản ứng, nói cách khác, sự nhận thức hòa hợp liên đới của con người và tạo vật chắc chắn sẽ càng ngày càng chỉ là khoảng cách lớn lao, tách biệt con người với thực thể vạn vật. Có thể nói, đây là cội rễ của nét buồn muôn thuở do lòng khát khao vô tận tìm về bản thể đích thực của con người nơi kiếp sống hữu hình bởi nhận thức về thực tại qua ngũ quan thiếu trung thực. Tất nhiên, nếu sự nhận thức đã thiếu trung thực, ý niệm, ý thức, nhận định, óc sáng tạo, v.v... sẽ bị ảnh hưởng dây chuyền đưa đến những chủ thuyết, quan niệm không đúng đắn dẫn dắt tâm tưởng càng ngày càng đi vào lầm lạc xa dần sự nhận biết bản thể đích thực của mình.

Xưa nay, ai không nghĩ rằng câu nói: "Được chim quên ná, được cá quên nơm..." nơi tục ngữ nói lên tính chất của những kẻ vô ơn đồng thời ám chỉ lời khuyên luân lý mang nghĩa răn dạy người đời nên biết ơn những ai đã giúp mình. Tuy nhiên, nếu qua sông không rời đò để tiếp tục quãng đường còn lại sao một người có thể đi tới điểm định? Nếu đã nhận thức được ý tưởng mà còn lệ thuộc vào ngôn từ, cách diễn giải, để rồi giới hạn ý nghĩa của ngụ ngôn hoặc câu chuyện trong khuôn khổ hạn hẹp, gò bó, con người đã tự đóng tai, bịt mắt không chấp nhận những gì bị cho rằng không phù hợp theo quan điểm của mình, nói cách khác, đã không muốn tìm hiểu để thăng tiến. Bắn được chim, bắt được cá mà vẫn cứ khư khư ôm ấp cái ná, cái nơm thì sao có được bữa ăn hấp dẫn với món chim quay hay cá nướng? Thế nên, người được chim quên ná chưa chắc đã tỏ ra vô ơn với cái ná, và được cá quên nơm lại chính là điều nên không những trong lãnh vực thực tế mà còn được áp dụng trong lãnh vực suy tư.

Nhìn tổng quát hơn về thân phận con người, ai không thấy câu, "Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro" là thực trạng của mọi sự vật trong tiến trình biến hóa của tạo vật. Dẫu cho bất cứ ai sống bao lâu chăng nữa cũng không thoát khỏi sự chết để rồi thân xác tan rã trở thành bụi đất, hoặc nếu thân xác ấy được đem tẩm liệm cách nào đó để giữ hình hài khỏi bị hư thối thì cũng chỉ là một thân xác vô tri, vô giác, bất động, không cảm nhận. Dẫu sự vật nào đó mang tính chất bền vững cách mấy thì cũng có ngày tan biến thành hư không, chẳng để lại hình hài dưới bất cứ dạng thức nào con mắt trần có thể nhìn thấy. Thế nên, nhận thức thực trạng con người được sinh ra có một thân xác chóng qua, có hình hài trong quãng thời gian giới hạn để rồi lại tan biến vào hư không đã tạo nên câu nói "con người là bụi tro và sẽ trở về tro bụi." Tuy nhiên, nếu chấp nhận đơn giản thực trạng như thế, con người đã thiếu sót hoặc quên không nhận định đầy đủ về con người. Chẳng hạn, con mắt nào được dùng để nhìn trong giấc mơ khi một người ngủ, lúc ấy đôi mắt thịt hoàn toàn ngưng hoạt động và đến ngay cả thân xác con người cũng bị tạm quên, không được nhận thức? Khoa tâm lý học, tâm lý bệnh học, trả lời đó là hiện tượng di ảnh của tiềm thức, gợi lại những sự việc đã qua nơi trí não. Nói như thế câu hỏi được đặt ra qua kinh nghiệm, ai cũng có một vài giấc mơ không lệ thuộc tiềm thức mà mãi một vài năm hoặc cả một thời gian ít chục năm sau sự kiện đã được mơ mới xảy đến khiến người mơ ngạc nhiên cảm thấy hình như đã thực sự gặp sự kiện này trong quá khứ; vậy sự nhìn thấy những hình ảnh trước khi xảy ra do con mắt nào? Hơn nữa, xét theo kinh nghiệm, con người chỉ có thể hiểu được hoặc cảm nhận được những sự kiện đối tượng như hiện tượng phản chiếu những dữ kiện đã trải qua trong quá khứ, nằm sâu nơi tiềm thức. Nói cách khác, những gì con người có thể nhận thức được thì đã được biết sẵn hoặc đã kinh nghiệm; những diễn tiến thực tại, những nhận thức có thể chỉ là sự "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu." Tuy nhiên, có những nhận thức một người chưa bao giờ có kinh nghiệm hoặc được học hỏi làm sao có thể coi được là đồng khí tương cầu? Câu trả lời dẫn con người tới ngưỡng cửa một thế giới lạ lùng vô thức, kho tàng huyền nhiệm chất chứa sẵn những tri thức ít được để ý nếu không muốn nói hầu hết không ai để ý. Từ những nhận định này, câu nói: "Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro" đã chỉ mang ý nghĩa: hỡi người, hãy nhớ thân xác mình là tro bụi và nó sẽ trở về bụi tro. Con người không phải chỉ là xác thân chóng qua mà còn bao gồm một thực thể siêu linh có con mắt nhìn trong giấc mơ mà Phật học gọi là huệ nhãn hay tuệ nhãn; thực thể siêu linh này hàm chứa kho tàng vô thức, sự hiểu biết con người tự có sẵn làm căn bản cho những sự nhận thức nơi cuộc sống hữu hình.

Những nhận định trên minh chứng con người từ bản chất xác thân đến tri thức đã bị giới hạn do sự nhận thức không trung thực qua ngũ quan đối với thực tại hiện hữu, hữu hình và vô hình, cũng như thiếu sự nhận thực về bản thể đích thực của mình. Thực tại hữu hình minh chứng, con người không thể sống dưới nước như loài thủy tộc, không thể di chuyển tự do như loài chim muông trên bầu trời, và cũng chẳng có sức mạnh bản chất chống chọi với sự thay đổi của thời tiết, thiên nhiên bằng thú vật. Sự tự do nơi cuộc sống của con người bị giới hạn như con cá trong hồ, tha hồ vẫy vùng dưới nước, loanh quanh luẩn quẩn giữa sự bao vây của những bức thành không cho nước thoát, và khi nước hết, cá phải chết. Giới hạn thời gian của cuộc sống đã là nguồn gốc cho không biết bao nhiêu cố gắng của nhân sinh chống chọi với thần chết từ tâm tưởng đến hành vi. Bao nhiêu người chấp nhận sự chết như một lẽ thường, đã sinh ra thì phải chết! Bao nhiêu người e sợ cái chết để rồi đã trở thành công cụ của những tội ác làm hại nhân sinh, phải tuân theo những mệnh lệnh chính mình không muốn thực hiện. Tuy nhiên, dù cố gắng cách nào để kéo dài cuộc sống thì cuối cùng mọi người cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết của xác thân. Phỏng con người được sinh ra để rồi chết? Phỏng sự chết là cùng đích của cuộc sống hay chỉ là phương tiện cho con người thăng tiến, phương tiện cho con người bước vào thế giới vô hình? Phỏng những người nghĩ rằng con người có tự do tuyệt đối với thân xác của mình có thể kéo dài thêm cuộc sống để chống đối sự tàn rữa của xác thân sau khi chết? Nếu chưa ai có thể nhân danh tự do tuyệt đối của con người đối với xác thân để có thể kéo dài thêm cuộc đời thì có lẽ sự tự do tuyệt đối nơi thân xác chỉ là sự tự do chấp nhận con người hữu hình giới hạn vì dẫu không chấp nhận, việc đến cũng sẽ đến, không đường tránh thoát.

Xét về giới hạn tư tưởng, tâm linh, tự do tư tưởng nếu chỉ được hiểu muốn nghĩ gì thì nghĩ, mơ ước chi thì mơ, chắc chắn vẫn còn bị lệ thuộc bởi những bản chất, tâm tính, nhận thức cá nhân, quan niệm, học thức do giáo dục đồng thời với sự ảnh hưởng của môi trường và điều kiện sống đã tạo nên thực thể là chính người suy tư. Điều đơn giản nhất ai cũng có thể nhận thấy, đó là ý thích hay lối nhìn đã ảnh hưởng khiến nhận định về cùng một sự kiện của hai người khác nhau. Có đôi vợ chồng xồn xồn thăm sở thú lộ thiên, thấy một chú nai xinh xinh đang ngơ ngác nhìn khách lãng du dạo bước, chị vợ cảm ứng nói với chồng, "Coi kìa anh, con nai vàng ngơ ngác dễ thương quá." Người chồng nhìn thấy con nai chợt buột miệng, "Ồ, con nai đó mà thái tái thì tuyệt" khiến chị vợ đang cảm nhận khung cảnh thơ mộng bị cụt hứng tức cảnh sinh tình...

Khi nhận thức đã bị ảnh hưởng bởi nhiều điều kiện sống, quan niệm, ý niệm, tư tưởng của con người cũng không tránh khỏi những sự ảnh hưởng này; như thế tư tưởng đã không còn được hoàn toàn tự do. Vì vậy, muốn thực sự có nhận thức, tư tưởng hoàn toàn tự do, mọi đầu mối ảnh hưởng, mọi quan niệm đã được nhồi sọ do giáo dục, do môi trường sống nơi xã hội cũng cần phải được gạt bỏ hầu con người tiếp nhận sự nhận thức thực tại không lệ thuộc bất cứ khuynh hướng, thành kiến, hay ý thích, ý niệm nào đã và đang ảnh hưởng tạo nên những cặp mắt kiếng kinh nghiệm khiến sự nhận thức bị thiên lệch. Lý do gì đã tạo nên hai phản ứng đối nghịch về chỉ một trái ớt. Người này cho rằng có ớt nhậu ngon hơn, món ăn trở thành đậm đà hơn, và kẻ khác lại không hề dám nhúng đũa nếu món ăn nào đó đã được thêm ớt cho cay. Vì đâu cũng cùng một câu truyện, người cho là ý vị, kẻ nói rằng vô duyên. Màu nào không là màu mà kẻ thích áo màu này, người không bao giờ mặc áo màu kia? Vì lý do gì đa số tín đồ tôn giáo đều cùng cho rằng Đấng Tạo Hóa mình tôn thờ là độc nhất mà Đấng Tạo Hóa độc nhất của tôn giáo này lại quan niệm không giống Đấng Tạo Hóa độc nhất của tôn giáo kia? Tại sao lại có những quan niệm cho rằng con người chỉ là duy tâm hoặc duy vật hoặc duy linh? Nhìn tổng quan, những ảnh hưởng do thể chất xác thân hoặc bất cứ quan niệm, ý niệm, chiều hướng, ước muốn nào đến sự nhận thức đều làm sai lệch tiến trình tâm linh, hành trình tìm về bản thể đích thực của con người. Nói cách khác, con người có tự do nhận thức thực sự chỉ khi nào không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào sẵn có dù nội hay ngoại tại của chủ thể suy tư. Một người còn đang đầm mình nơi vũng lầy bùn xình nếu muốn được sạch, chỉ có một phương cách sao cho thoát ra khỏi vũng lầy mới không bị ảnh hưởng vương bùn bẩn thỉu.

Đâu là câu trả lời về con người là gì, như thế nào, có sự liên hệ với thế giới chung quanh, với vũ trụ ra sao? Tôi là ai? Vị thế, liên hệ, bản thể đích thực của tôi là gì? Tại sao tôi được sinh ra, có cuộc sống hữu hình và khi xác thân này chết, tan rã thành bụi đất hoặc được thiêu đốt trở thành làn khí hòa lẫn vào không gian tôi còn lại gì, đi về đâu? Từ những dữ kiện có thể cảm nhận được, tiên vàn, tôi có một thân xác hữu hình, sống động. Hòa hợp với thân xác này, tôi cũng có những khả năng vô hình như lý trí, nhận thức, suy tư, học vấn, kinh nghiệm, ước muốn, v.v... đồng thời có thêm những khả năng chuyển biến suy tư vô hình thành hữu hình chẳng hạn dùng bút để vẽ ý niệm hình sao bẩy cánh không đều nhau có thể nhìn thấy hoặc dùng ngôn ngữ để diễn đạt và truyền thông phần nào tư tưởng, ý nghĩ của mình cho người khác. Như vậy, tôi bao gồm phần hữu hình là xác thân hòa hợp với phần vô hình là tư tưởng có mối liên hệ không thể tách rời ra khỏi cuộc đời trong thời gian hữu hình. Mỗi phần dù hữu hình hay vô hình cũng gồm có nhiều thành phần khác liên kết lại và tất cả tổng hợp thành một thực thể phức tạp có cuộc sống.

Có định luật cao siêu nào đó sắp xếp và điều hành sự hòa hợp toàn bộ con người tôi. Điều lạ lùng nhưng lại xảy ra rất thường, định luật này cũng được áp dụng và điều hành sự hòa hợp nơi những con người khác. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt xảy ra vì lý do nào đó, mọi người đều có cặp mắt, một cái mũi, miệng, trong miệng có răng và lưỡi, phía dưới miệng là cằm... hai tai thì ở hai bên đầu đúng vị trí tương đồng trên mặt, v.v... hòa hợp với cơ thể bao gồm những thành phần khác biệt được cấu tạo quá ư phức tạp, mang những nhiệm vụ khác nhau mà tựu trung tất cả được xếp đặt hợp lý, hợp tình, tạo nên một cơ cấu hữu hình khó lòng hiểu nổi. Quyền lực hay định luật nào đã ảnh hưởng để mỗi phần của cơ thể được xếp đặt đúng vị trí trong sự liên hợp phức tạp tạo thành thân xác con người? Mỗi chi thể mang một nhiệm vụ và có cơ cấu riêng mà những chi thể khác không thể thay thế thay vì bổ túc. Tại sao cặp mắt không mọc ở sau lưng và cái miệng nơi đầu gối hoặc cái mũi nằm trên đỉnh đầu, mà mọi người, dẫu khác biệt màu da, ánh mắt, hoặc cơ thể lớn nhỏ không cùng cỡ, đều có thân xác rập theo một khuôn mẫu mặc dầu được sinh ra từ những người mẹ riêng biệt. Quyền lực này ảnh hưởng mọi thứ tự nơi thân xác trong cả cuộc đời của tôi vì da mặt không trở nên dày như da chân, cặp môi không bao giờ sinh móng như những ngón tay, hoặc cái lưỡi nếu mà mọc tóc thì có lẽ đã tạo nên lắm chuyện rắc rối. Cơ quan nào trong thân thể chu toàn nhiệm vụ ấy theo một thứ tự lạ kỳ khó mà hiểu nổi.

Không phải chỉ ở con người mới có định luật huyền nhiệm bao bọc mà nơi loài chim muông, thú vật, cũng như cây cỏ đều chứng tỏ có một động lực siêu việt nào đó sắp xếp theo mọi thứ tự tùy thuộc mỗi loài, mỗi nơi. Một con chim, con gà, đẻ trứng, và chỉ sau hơn kém hai mươi ngày ấp, chiếc trứng nở ra con chim, con gà, nhỏ bé có đầy đủ bộ phận sinh sống, cùng một khuôn mẫu thuộc loại của nó. Ít bữa sau, nó biết bay, biết hót, biết kêu quang quác... Con chim không kêu giống như con gà nhưng biết hót; nào có ai dạy nó hót đâu, thế mà âm thanh từ cái cổ bé chút xíu phát ra líu lo những cung nhạc của đồng loại. Tiếng chim hót khác biệt hẳn tiếng gà kêu, và con chó sủa lại khác loài bò rống. Điều lạ lùng ai cũng có thể nhận thấy đó là loài chó không bao giờ sinh ra con bò cũng như chưa con bò nào đẻ ra con cọp hay sư tử hoặc ngược lại.

Nhiều thế giới không kém lạ lùng là loài cây cỏ, côn trùng, cơ cấu và sự sống của những sinh vật dưới biển, vi khuẩn, đất đá, nguyên tử, phân tử, v.v... Dĩ nhiên, không thể nào do vô tình hoặc chẳng ngờ mà những cây cối cùng loại có cơ cấu giống nhau và sự sinh trưởng, truyền giống tùy thuộc điều kiện như nhau. Gỗ, da, lá, hoa, quả, của cây bằng lăng không giống gỗ, da, lá, hoa, quả, của cây ổi. Có những loài cá sinh con, không bao giờ đẻ trứng; ngược lại, có những loại cá chỉ đẻ trứng và không bao giờ sinh con. Loại cá hồi cứ tới mùa tự biết bơi ngược dòng sông tìm về nguồn nước ngọt để sinh sản mặc dầu phải vượt qua biết bao ghềnh thác trong khi suốt quãng đời của nó lớn lên ở biển cả. Những nhà nghiên cứu sinh vật còn chứng minh các loại nhệch nước mặn cho dù thuộc Á Châu, Âu Châu, Úc Châu, Phi Châu, hay Mỹ Châu, có tính chất và hình dạng hơi khác nhau đều được sinh sản tại quần đảo Bermuda. Các con nhệch nhỏ bé sinh ra tại đây không biết gì quê quán của cha mẹ chúng thế mà đã có thể bơi một mạch về đúng nơi đúng chỗ, giống nào về danh địa giống đó. Người ta không thể tìm thấy một con nhệch vùng biển, hồ, Việt Nam ở bất cứ nơi nào khác trên thế giới, và ngược lại, không bao giờ có loại nhệch Pháp lạc loài nơi vùng Đông Nam Á.

Trong thế giới loài vật, côn trùng, loài nào giống ấy có hình thể và cơ cấu riêng, và chỉ những loại cùng giống mới có thể hòa hợp cho lai giống. Những loại động vật hoặc côn trùng sinh sản rất mau lẹ nhưng lại bị một định luật nào đó giới hạn qua cơ cấu thân thể trong khuôn khổ nhất định nên đã không phát triển quá mức đến độ tràn lan khắpmặt đất. Máu thú vật không thể hòa hợp với máu con người cũng như nhiễm sắc thể nơi con người hoàn toàn khác biệt với con vật nên không thể nào có chuyện pha giống giữa người và thú vật hoặc giữa loài vật này với loài vật kia khác giống.

Các nhà nghiên cứu về vật lý nói rằng cơ cấu của một nguyên tử nhỏ đến độ con mắt trần không sao nhìn thấy bao gồm một dương điện tử ở trung tâm và những âm điện tử chạy chung quanh tương tự như cơ cấu lớn lao của hệ thống mặt trời hoặc cơ cấu của toàn thể vũ trụ bao la con người không sao dò thấu dù với những phương tiện kỹ thuật tân tiến nhất của khoa học ngày nay. Phỏng sự tương đồng cơ cấu này có thể được gọi là ngẫu nhiên? Quyền năng siêu việt nào đã kiến tạo vạn vật và an bài chúng chuyển biến tùy thuộc định luật huyền nhiệm quá sức tưởng tượng của trí óc loài người như thế? Phỏng vũ trụ, thái dương hệ, trái đất, ngẫu nhiên mà có, và rồi lại cũng ngẫu nhiên cây chanh không sinh trái hồng, hoặc cây mít không sinh ra bông mướp? Nếu ngẫu nhiên mà có được những sự cả thể từ nhỏ đến vĩ đại đối với con mắt loài người, chắc chắn sẽ có không biết bao cây chanh sinh trái mướp và những cây mướp cũng ngẫu nhiên sinh những trái chanh; con mắt sẽ ở lỗ tai và những cái mũi mọc nơi đỉnh đầu. Từ sự biến chuyển của nguyên tử hòa hợp thành đất đá, mây mưa, sự sống của vi khuẩn, cây cỏ, chim trời, cá biển, thú vật, con người, những hành tinh, định tinh luân chuyển nơi vũ trụ bao la đến không khí, ánh sáng, ý nghĩ, ý niệm, óc tưởng tượng... minh chứng có một Nguồn Động Lực Siêu Việt chan hòa nơi muôn vật muôn loài hữu hình cũng như vô hình. Nguồn Động Lực Siêu Việt này bao gồm tất cả và hiện thể nơi tất cả, từ sự chuyển động của các âm điện tử tới hành trình vận chuyển của các hành tinh. Động Lực này khiến chim biết hót; loài lươn biển biết tìm về quê quán của cha mẹ chúng; loài cá hồi biết trở về nguồn nước để sanh đẻ; lá cây có năng lực hấp thụ khí carbonic để tổng hợp nhựa sống, nhả khí oxygen và ngược lại; con người biết suy tư, nhận thức, v.v... Như vậy, Nguồn Động Lực Siêu Việt tràn ngập xác thân tôi, từ nơi những nguyên tử tạo thành các tế bào, sự sinh sản, hoạt động của chúng đến sự cấu tạo của các tế bào khác biệt tạo thành tim, óc, xương, thịt, da, tóc, tai, mặt, mũi, những phần hữu hình và cả những thành phần vô hình như tư tưởng, ý nghĩ nơi tôi. Nguồn Động Lực Siêu Việt này khiến con tim đập tự nó mặc dầu nhiều khi chịu ảnh hưởng tùy thuộc tâm tình của tôi không những đối với tâm lý, cảm tình, mà còn ngay nơi những giấc mơ, khiến mọi cơ phận nơi thân thể sinh hoạt hòa hợp và chịu sự sai khiến của bộ óc hay những phản ứng của các trung tâm thần kinh v.v... Nguồn Động Lực Siêu Việt chính là sự sống nơi tôi; sự sống này vĩnh cửu và biến thể. Khi sự sống lìa bỏ thân xác đó là lúc tôi chết và sự sống tiếp tục đi vào cõi vô hình... Vì thế, nỗi thao thức, khát vọng thầm kín nơi tôi, nơi mọi người, chính là lòng ước ao nhận ra bản thể đích thực của mình, nhận ra Sự Sống, Động Lực Siêu Việt, linh hồn, chân ngã, nơi mình. Nói cách khác, sự sống nơi tôi là một với Nguồn Động Lực Siêu Việt. Thế nên, tôi với toàn thể vũ trụ là một không thể tách rời. Thân xác tôi chính là sự sống hiện thể hữu hình ở một giai đoạn thời gian trong diễn tiến biến chuyển của Nguồn Động Lực, Sức Sống Vĩnh Cửu.

Lão học, Trang Tử, gọi Động Lực này là Đạo, Phật học gọi Thực Tại Siêu Việt; Ấn học gọi Đại Ngã, Thượng Đế học gọi là Thượng Đế, Hóa Công, Chủ Tể Vạn Vật, v.v... Thiên Chúa Giáo gọi Động Lực này là Thiên Chúa và thành quả chiêm nghiệm về sự liên lạc của con người với Nguồn Động Lực Siêu Việt được viết thành cuốn Kinh Thánh; phần đặc biệt nhất nói về quyền năng của Thiên Chúa nơi con người là bốn cuốn Phúc Âm. Phúc Âm gọi quyền năng này là lòng tin theo bản dịch của LM Nguyễn Thế Thuấn. Người Công Giáo thường gọi là đức tin. Theo Phúc Âm, đức tin, lòng tin, là quyền lực của Thiên Chúa, của Thượng Đế, của Đại Ngã, của Thực Tại Siêu Việt, hiện thể ở con người nơi ý nghĩ, ước muốn. Nhờ có quyền lực, lòng tin này, con người mới có thể thăng tiến trên hành trình tâm linh để trở nên tốt lành, toàn hảo, rồi trở về với cội nguồn bản thể đích thực của mình là Thượng Đế. Chính vì con người ẩn chứa quyền lực của Thượng Đế, Đức Kitô đã mời gọi mọi người: "Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48) và "Các ngươi hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:36). Đối với bản chất yếu hèn của thân xác trong kiếp nhân sinh, con người nhận thức sự vật qua giác quan nên lầm tưởng rằng mình chỉ là thân xác thành ra bị sự sinh sống xác thân, thế tục, lôi cuốn do đó dễ sa ngã, chiều theo những cảm giác chóng qua và tâm tình hòa hợp nơi xác thân, tiền tài, danh vọng, để rồi nhận chúng như những mục đích của cuộc đời. Chẳng những thế, bả vinh hoa, giầu sang, còn khiến con người tranh giành, mưu mô, lừa lọc, vì đối với cuộc sống, luật mạnh được yếu thua là lẽ thường tình. Với tính chất yếu hèn, đam mê, kèm theo sự cổ võ bởi những quan niệm và lối nhìn thế tục, làm sao con người có thể trở nên "như" Thượng Đế nếu không mang phần nào bản thể của Ngài. Nhận thức này ai cũng có thể kinh nghiệm vì dẫu cho người ta có thể tập luyện cho một con khỉ đánh đàn dương cầm tới mức tuyệt vời thì con khỉ cũng không thể nào trở nên một nhạc sĩ. Muốn trở nên trọn lành và biết thương xót như Thượng Đế phải có bản tính của Ngài nơi mình. Lòng tin chính là sự nhận thức thực sự quyền lực của Thượng Đế ở nơi con người.

Có câu nói: "Muốn là đã được một nửa." Tự ý định, ước mơ đã mang một năng lực kiến tạo hữu thể. Không ai lạ gì, những ý nghĩ, ý định ảnh hưởng tâm tưởng cũng như cảm giác của con người; những ý niệm không trung thực về sự vật dẫn suy luận đến những kết quả sai lầm; những ước muốn mạnh mẽ dẫn dắt con người đạt tới thành quả mau hơn. Nơi Phúc Âm Mathêu có viết: "Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi, phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng" (Mt. 5:27-28). Câu này nói lên năng lực của ý nghĩ. Ý nghĩ xấu đã tự kiến tạo một sự hiện hữu được gọi là sự xấu, một hữu thể vô hình, "Vì tự trong lòng thì xuất ra những suy tính xấu xa: những là giết người, ngoại tình, dâm bôn, trộm cắp, chứng dối, gièm pha. Đó là những điều làm người ta ra nhơ uế" (Mt. 15:19-20; Mc. 7:20-23). Tương tự, ý nghĩ tốt lành cũng đã tự kiến tạo hữu thể tốt lành, "Phúc cho những kẻ có tinh thần khó nghèo, vì nước trời là của họ. Phúc cho những kẻ hiền lành, vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp. Phúc cho những kẻ ưu phiền, vì họ sẽ được an ủi. Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được no đầy. Phúc cho những kẻ biết thương xót, vì họ sẽ được thương xót. Phúc cho những ai tinh sạch trong lòng, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa..." (Mt. 5:3-8; Lc. 6:20-23). Hơn nữa, theo Phúc Âm, ý định của một người cho dù đối với ai đều kiến tạo một thực thể vô hình ảnh hưởng chính mình, "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ những điều các ngươi sai lỗi" (Mt. 6:14-15). Chẳng những thế, ý định của mình còn có năng lực ảnh hưởng tới người khác: "Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Phúc Âm không nói sự cầm buộc bằng lề luật của một số người đặt ra mà nói "các ngươi," mang ý nghĩa từng người. Xét như trên, ý định, ước mơ, điều mong muốn đã tự có quyền lực tạo thành hữu thể vô hình ảnh hưởng đến con người. Nói cách khác, lòng tin, đức tin, chính là quyền lực của ý định, ước muốn nơi con người.

Quyền lực của lòng tin được Đức Kitô nói rất rõ nơi Phúc Âm trong trường hợp viên bách quản đến gặp Ngài xin cứu chữa người đầy tớ bị bịnh; Ngài nói, "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13). Trường hợp con gái của người phụ nữ xứ Canaan được cứu sống Phúc Âm dùng "ước muốn" đồng nghĩa với lòng tin: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28). Câu trả lời của Đức Kitô mang tính cách xác định nguyên nhân đã tạo nên sự kiện người đầy tớ viên bách quản được khỏi bịnh và con người phụ nữ xứ Canaan được cứu sống, và nguyên nhân này là lòng tin, là ước muốn. Tại sao Phúc Âm không đặt vào miệng Đức Kitô câu nói "Ông đã tin vào tôi hay tin vào Thiên Chúa thì đầy tớ của ông được lành bịnh" hoặc "Vì bà tin nơi quyền năng của Thiên Chúa nên Ngài cứu sống hoặc tôi cứu sống con bà," hay "Hãy cầu xin Chúa chữa con ông, Chúa cứu con bà," mà chỉ ghi "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy," và "Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" Phỏng cho rằng tin sao, muốn sao, thì được như vậy mang tính chất vô thần vì không cần nhờ đến quyền năng của thần thánh nào giúp? Nếu cho rằng lối nói này mang tính chất không cần nhờ thần thánh nào giúp thì đồng thời chấp nhận điều hiển nhiên chính Đức Kitô chứng minh rõ ràng quyền năng tối cao của Thượng Đế đang có sẵn nơi con người nên không cần nhờ cậy đến bất cứ quyền lực nào khác. Phỏng vì thế có thể nói, lòng tin, ước muốn nơi tâm trí tự có quyền lực tạo thành sự việc? Và phỏng đây chính là điều mà Phật học gọi là "tâm sinh vật và vật sinh tâm?" Cho dù đặt ra những nghi vấn nào thì cũng dẫn tới nhận thức về lòng tin, ý định, hay ước muốn của con người tự có quyền lực kiến tạo thành quả, sự kiện nào đó.

Theo Phúc Âm, lòng tin còn mang năng lực chữa lành những bệnh tật thân xác cũng như sự đau khổ tâm hồn. Trong câu truyện người phụ nữ bị bệnh loạn huyết, Phúc Âm ghi rõ, người đàn bà nghĩ nếu chỉ chạm tới được áo của Đức Kitô thì sẽ khỏi bịnh và bà đã được chữa lành. Chẳng những thế, lòng tin của bà còn có tác động khiến Đức Kitô nhận ra đã có người chủ ý đụng đến mình. Khi bà thú nhận, Đức Kitô lại tuyên bố: "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22; Mc. 5:34; Lc. 8:48). Cùng một lối phát biểu ấy, Ngài bảo người mù thành Giêricô: "Hãy đi! Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Mc. 10:52). Phúc Âm Luca cũng ghi lại giống như Phúc Âm Marcô trong câu truyện người phung hủi xin chữa lành. Đức Kitô nói cho người được lành bệnh biết chính lòng tin là động lực cứu chữa anh ta, "Hãy chỗi dậy mà đi về; lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi" (Lc. 17:19). Đức Kitô không những tuyên bố cho mọi người biết đức tin có năng lực chữa lành các bệnh tật thân xác mà ngay cả đến nỗi đau khổ tâm hồn của người thống hối, lòng tin cũng là động lực giải thoát con người như trong trường hợp người phụ nữ ăn năn vì đã có cuộc sống chẳng nên, "Lòng tin của ngươi đã cứu chữa ngươi. Hãy đi bằng yên!" (Lc. 7:49).

Điều đáng ngạc nhiên, đó là những câu truyện chữa lành này xưa nay thường được gọi là phép lạ Đức Kitô thực hiện thì Phúc Âm lại cứ đặt vào miệng Đức Kitô những lời giải thích rằng đó là kết quả của lòng tin nơi những người được chữa lành. Tại sao những chuyện xảy ra không được nói rõ là chỉ Đức Kitô mới có thể làm được hoặc Đức Kitô xác nhận Ngài làm phép lạ? Ngược lại, tất cả kết quả của mọi trường hợp dù đạt thành hay không, Đức Kitô đều nói tùy thuộc chính lòng tin của con người, và còn rõ ràng hơn, Ngài nói nếu ai tin, có thể thực hiện mọi chuyện Ngài đã làm hoặc làm những chuyện lớn lao hơn (Gioan 14:12). Lòng tin mạnh mẽ, chắc chắn khiến điều muốn xảy ra và khi những việc định thực hiện nhưng không được đều bị Đức Kitô cho là yếu lòng tin chẳng hạn câu truyện Phêrô rớt xuống nước vì nghi ngờ (Mt. 14:28-31). Phỏng như vậy, theo Phúc Âm, Đức Kitô muốn rao giảng cho mọi người nhận ra năng lực của điều mà Ngài gọi là lòng tin nơi bất cứ ai; năng lực này vượt hẳn mọi quyền lực thế tụcmà ít người nhận ra? Phỏng dùng chữ "phép lạ" mang nghĩa những điều con người không thể thực hiện nổi để gán cho Đức Kitô có thể biểu hiệu sự từ chối không tin vào lời Đức Kitô giảng dạy, hoặc cho rằng Đức Kitô không nói đúng sự thật? Bao nhiêu người tuyên xưng tin vào Đức Kitô đã có thể thực hiện câu nói nơi Phúc Âm Gioan: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (14:12). Phúc Âm Gioan đặt nơi miệng Đức Kitô câu nói rõ ràng, minh bạch, ai đọc cũng hiểu; thế nhưng, những ai đã có thể thực hiện được và lý do tại sao? Phỏng thực trạng không ai có thể áp dụng câu nói này nơi cuộc sống chứng minh con người không tin điều Phúc Âm ghi chép, hoặc không tin vào Đức Kitô, hay không hiểu lòng tin mà Ngài rao giảng là gì và phương cách thực tiễn nào để thực hiện? Những ai đặt câu hỏi hoặc dám suy nghĩ tất nhiên đã tự có câu trả lời mình ở trạng thái nào.

Dĩ nhiên, dù một ý niệm đến nơi tâm trí con người đều được nhận thức tùy thuộc những ý niệm, quan niệm mà con người đã sẵn có. Chẳng những thế, ý niệm được thực hiện hay không lại tùy thuộc người mang ý niệm, hoặc muốn biến ý nghĩ, nhận thức, thành kết quả nào đó, hoặc biết chỉ để trau dồi kiến thức, biết để mà biết. Cũng một sự kiện, chẳng hạn có một căn nhà đề bảng bán đối với một người đang cần nhà ở và người khác đang sống ấm êm nơi một tòa lâu đài tiện nghi. Người đang sống nơi lâu đài biết có căn nhà đề bảng bán chỉ để mà biết vì không cần cũng như không có ý định mua thêm. Đàng khác, người đang cần nhà ở sẽ tìm hiểu và có những hành động cân nhắc hơn thiệt về giá cả cũng như điều kiện nơi chốn tùy thuộc nhu cầu sinh sống sao cho đạt được ý định đồng thời giải quyết nhu cầu cần nhà. Tương tự, trạng thái "tin" có một sự kiện nào, tin về chuyện gì, hoặc tin tưởng nơi ai, v.v... cũng có nhiều tâm trạng, mức độ, khác nhau. Tin có một Thượng Đế toàn năng, thông biết mọi sự, để ý đến mình, thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, v.v... đồng thời kinh nghiệm những sự kiện xảy ra trong cuộc sống và thấy lắm kẻ "xấu" chẳng những vẫn sống phây phây mà còn có phần khấm khá hơn lối sống theo khuôn phép hòng được thưởng sau này của mình... lâu dần sự tin tưởng trở thành niềm an ủi mỗi khi chẳng may hoặc cảm nghĩ phấn khởi khi gặp chuyện theo ý muốn, thái độ tin này chỉ đem lại niềm hy vọng yêu đời mà sống, lâu dần rồi cũng quen.

Câu nói, "Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm," mang nghĩa đòi hỏi hành động thực hiện sự việc chứ không phải chỉ tin theo nghĩa biết để mà biết hoặc tin để tự trấn an. Kẻ tin vào Đức Kitô, kẻ có lòng tin như Ngài rao giảng, kẻ thực hiện những điều Ngài chỉ dạy sẽ làm được những chuyện Ngài đã làm. Phúc Âm không nói chỉ mình Đức Kitô mới có thể làm được những điều được ghi lại mà bất cứ ai có lòng tin, bất cứ ai thực thi điều Ngài rao giảng sẽ làm được mọi điều người ấy muốn như Ngài đã đoan chắc "Mọi sự đều là có thể cho người tin" (Mc. 9:23). Thế nên, có sự khác biệt rõ ràng giữa lòng tin và điều mà chúng ta thường dùng được gọi là "tin." Chỉ tin rằng Đức Kitô có quyền phép không có nghĩa mình thực hiện được quyền phép đó. Tin rằng ông A, bà B, giầu có không có nghĩa mình giầu có như họ hoặc có tài năng làm tiền như họ. Ngược lại, ai có lòng tin như Đức Kitô nói sẽ thực hiện những sự được coi là phép lạ như Ngài đã làm. Như vậy, lòng tin Đức Kitô nói đến nơi Phúc Âm là quyền lực đạt thành bất cứ gì. Người có lòng tin sẽ thực hiện được những điều lạ lùng: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22), và nguyên tắc để quyền lực lòng tin hoạt động chỉ là không nghi ngại mà hãy nghĩ là đã được, "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24). Có lòng tin là mọi chuyện đều có thể chứ không phải tin nhiều hay ít, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó! nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt. 17:20). Nếu đức tin chỉ bằng hạt cải nhỏ bé mà đã mang quyền lực như thế thì sự khác biệt để sự việc thành hay không lại chỉ là có lòng tin hay không. Đến đây, vấn đề được đặt ra đó là những điều kiện nào Đức Kitô đã rao giảng phải có để đạt được lòng tin, và lý do tại sao lòng tin có quyền lực?

Ngay lúc bắt đầu thời kỳ rao giảng sau khi Gioan Tẩy Giả bị nộp, Đức Kitô khuyến cáo: "Thời buổi đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng" (Mc. 1:15). Sau đó khi người Biệt Phái thỉnh vấn, Ngài nói rõ: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay 'Ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:20-21). Ngôn ngữ chỉ diễn tả được phần nào ý nghĩa điều muốn nói; chẳng hạn trong trường hợp chữ "hối cải" dùng nơi Mc. 1:15. Bình thường, chữ hối cải muốn nói về hối lỗi và cải thiện sao cho con người sống tốt lành hơn. Tuy nhiên, chữ hối cải ở đây mang nghĩa hoàn toàn khác biệt mà lại phù hợp tương đồng với nghi thức thanh tẩy Gioan đã thực hiện nơi sông Yordan. Hối cải hoặc thanh tẩy chỉ sự xóa bỏ hết những gì không thuộc về mình. Ý nghĩa của hành động này cũng được Đức Kitô mạnh mẽ minh xác về tâm tình và thái độ cần phải dứt khoát với những ý niệm, quan niệm, và những ảnh hưởng tâm tư của con người qua những dụ ngôn nói về bỏ cha mẹ, vợ con, hoặc cầm cày không quay trở lại. Theo Phúc Âm, Đức Kitô quyết đoán con người không được ly dị, "Ai rẫy vợ mình và cưới người khác là phạm tội ngoại tình, và ai cưới người vợ bị chồng rẫy cũng phạm tội ngoại tình" (Lc. 16:18). Thế nên câu Phúc Âm Lc. 14:26, "Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ, con cái, anh chị em mình và cả mạng sống nữa, ắt không thể làm môn đồ của Ta," hoặc Mt. 10:37, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, ắt không xứng đáng với ta. Kẻ Yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng đáng với Ta," hay "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lại sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:62)... mang ý nghĩa bất cứ những gì dẫu thân thiết cách mấy nhưng làm cản trở hay ảnh hưởng con người về nhận thức tâm linh đều cần phải được thanh tẩy, cần phải cải thiện hoặc vứt bỏ. Ai cầm cày còn quay trở lại; ai đã nghe theo lời rao giảng của Đức Kitô mà còn vương vấn những ý niệm, quan niệm, sản phẩm của những bộ óc thế tục không thể nào nhận thức được Tin Mừng. Muốn am hiểu Tin Mừng, con người cần có tự do tư tưởng hoàn toàn, không bị lệ thuộc hay ảnh hưởng bởi bất cứ chiều hướng nào làm áp lực bắt con người phải suy nghĩ theo một lề lối riêng vì tư tưởng con người chỉ chân chính khi họ giải thoát khỏi ảnh hưởng bởi thành kiến và điều kiện bên ngoài. Nhận định này có thể được dùng làm căn bản để giải thích câu Phúc Âm, "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi không hoán cải mà nên như trẻ nhỏ, các ngươi sẽ không vào được Nước Trời" (Mt. 18:3), hoặc "Lạy Cha là Chúa trời đất, Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà đã mạc khải ra cho những kẻ bé mọn. Vâng lạy Cha, vì đó là quyết ý của Cha!" (Mt. 11:25). Trẻ em còn non nớt, bé mọn, chưa có kinh nghiệm sống, chưa được giáo dục theo bất cứ truyền thống đạo đức, văn hóa thế tục nên không bị ảnh hưởng bởi bất cứ thành kiến, điều kiện và lề lối suy tư nào. Vì vậy, con người cần được thanh tẩy khỏi mọi ảnh hưởng tâm trí để có thể nhận thức đúng đắn về tâm linh do Đức Kitô rao giảng.

Không bị ảnh hưởng những quan niệm, ý niệm thế tục, con người mới có thể nhận ra "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21); nói cách khác, "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên" (Mc. 1:15). Nước Thiên Chúa chính là quyền lực của Thượng Đế xưa nay đã không được đích thực nhận ra. Con người có suy nghĩ, nhận thức khác biệt tùy theo ảnh hưởng của môi trường cuộc sống v.v... do đó đã có những quan niệm về Thượng Đế khác nhau. Những quan niệm này lệ thuộc cảm nghiệm liên hệ giữa con người và Thượng Đế. Cựu Ước, qua cảm nghiệm của dân Do Thái đã trình bày một Thiên Chúa mang đầy tính chất nhân sinh như hỉ, nộ, ái, ố... hòa hợp với quan niệm sống của dân Do Thái hơn hai ngàn năm về trước; một Thiên Chúa của riêng người Do Thái, chỉ chấp nhận và bênh vực họ, đứng về phe họ và đối nghịch với tất cả các dân tộc khác, thưởng kẻ lành và phạt kẻ dữ. Cựu Ước, theo lối nhìn của người Do Thái, chấp nhận có một Thiên Chúa tạo dựng muôn loài; mọi loài thoạt mới được tạo dựng đều tốt lành, nhưng con người chỉ vì kiêu ngạo muốn trở thành quyền năng như Thiên Chúa nên đã bị phạt. Hình phạt này được thể hiện nơi cuộc sống trần gian, "Ta sẽ gia tăng đau khổ cho ngươi trong việc thai nghén của ngươi! Trong đau đớn, ngươi sẽ sinh con đẻ cái. Với chồng ngươi, ngươi hăm hở đon đả. Nhưng nó, nó sẽ thống trị ngươi" (Kn. 3:16). Và, "Vì ngươi nghe theo tiếng vợ mà ăn cây Ta đã truyền cho ngươi rằng: Ngươi không được ăn, thì đất đai hãy là đồ chúc dữ vì cớ ngươi, có đau khổ ngươi mới nhờ được nó mà ăn mọi ngày đời ngươi" (Kn. 3:17).

Đức Kitô không những rao giảng một Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, cả kẻ lành lẫn người dữ, mà còn dạy nhân thế nên yêu thương hết mọi người, ngay cả kẻ thù của mình hầu trở nên trọn lành như Thiên Chúa là Đấng trọn lành: "Các ngươi đã nghe bảo: Hãy mến yêu thân nhân và hãy ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: hãy mến yêu thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi; ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:43-45,48). Tiến xa hơn nữa, Đức Kitô còn dạy không nên xét đoán: "Đừng xét đoán, để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1), hoặc "Các ngươi chỉ bằng vào xác thịt mà xét; phần Ta, Ta không xét xử ai" (Gioan 8:15). Chính ngay thái độ đối xử với con người, Ngài đã chẳng bao giờ lên án ai theo luân lý thế gian ngoại trừ những kẻ cố tình bám víu vào những lề lối thế tục, không chịu mở rộng lòng đón nhận con đường tâm linh (Mt. 23:13,15,25,26,29; Mc. 7:10-15; Lc. 11:42,43,52). Đối với Đức Kitô, kẻ khác luôn trổi vượt và cao quí hơn những gì mà người đương thời gán cho họ. Ngài không nói người phụ nữ Samaritan bên giếng Giacóp là người nhẹ dạ, ngu ngốc mà đến xin một bát nước và nói chuyện với bà ta (Gioan 4:7-9). Ngài không nói người phụ nữ tội lỗi là một loại gái hư đốn mất nết mà nói bà có nhiều may mắn để vào Nước Trời hơn những kẻ huênh hoang về nhân đức và hiểu biết của mình (Mt. 26:7-13; Mc. 14:3-9; Lc. 7:37-50). Ngài không lên án người phụ nữ ngoại tình mà chỉ nói: Ta không lên án con, hãy đi về và đừng phạm tội nữa (Gioan 8:3-11). Ngài không coi khinh các con trẻ ít hiểu biết mà yêu cầu để trẻ đến gần Ngài (Mt. 19:14; Mc. 10:14; Lc. 18:16) đồng thời khuyên mọi người nên bắt chước và trở nên như trẻ nhỏ trong phương diện đón nhận lời Ngài rao giảng (Mt. 11:25; 18:3)...

Thực ra, con người lỗi lầm chưa chắc đã vì lười biếng, có ý xấu, hay luôn hướng chiều về đường tội lỗi, mà vì vô tri về con đường tâm linh nên bất mộ, không nhận biết hoặc hiểu lầm, hoặc được dạy dỗ sai lầm nên bị mù lòa khi nhận thức do đó không nhận ra bản thể đích thực của mình. Do hiểu không đúng, không rõ hoặc được dạy dỗ sai, con người đã làm điều sai một cách vô ý thức, đã bóp méo, làm lệch lạc sự nhận thức thực thể sự việc và biến ý thức, nhận định thành chiếc máy nhai đi nhai lại những quan niệm hoặc nhận thức thế tục được cho rằng tốt lành hoặc đáng được cỗ võ theo đa số từ xưa đến nay. Chính vì vậy người ta đã chỉ chú trọng tới hình thức bên ngoài theo quan niệm xã hội. Hơn nữa, đa số con người hành động không ý thức nên chịu ảnh hưởng ngoại cảnh do đó luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính mình thành thử khó nhận ra con đường phù hợp đáng theo vì vậy đành chấp thuận sống theo một lề lối, khuôn khổ không thích hợp. Hơn nữa, thực hiện những sự tốt lành đều phải chấp nhận thiệt thòi, nên người nói điều ngay chính đều bị chống đối bởi nhiều luận điệu, sản phẩm của những đầu óc vị kỷ. Lâu dần thành quen, con người cổ võ sáng kiến bới móc, vạch lá tìm sâu, và từ đó mang nặng óc chỉ trích. Thực ra, với óc chỉ trích, con người công kích tất cả, họ sẵn sàng bôi nhọ mọi đức hạnh, tìm sự sai quấy ở khắp mọi người để tưởng rằng mình tốt lành hoặc mong che giấu cá tính kiêu căng, tự phụ, một hình thức mù lòa do không nhận biết chính mình. Thực tế chứng minh, người ta không thể dậy bảo điều gì cho những cá nhân kiêu căng tự phụ bởi họ đóng mắt bịt tai khi đối diện với những điều phương hại cho hành trình thăng tiến tâm linh; từ đó họ dần dần tạo nên một tâm hồn chết nơi thân xác biết cử động để rồi chỉ làm gương mù bởi rập theo những khuôn mẫu được thế tục cổ võ. Dĩ nhiên, thái độ, hình thức bên ngoài cũng cần nhưng điều cần hơn lại là bề trong. Đọc kinh, đi nhà thờ, chưa chắc đã thực sự có lòng tin mà có thể vì khiếp sợ sa hỏa ngục, như thế chưa chắc đã chứng tỏ đủ là hữu thần. Theo tôn giáo, giữ những khuôn mẫu đạo hạnh tùy thuộc quan niệm người đời, sống đạo hình thức, có thể chỉ làm ý thức hành đạo lụt dần.

Từ nhận thức trên, không lạ gì khi thấy nơi Phúc Âm Đức Kitô đã minh xác: "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21) đồng thời Ngài lại thường xuyên nhắc nhở: "Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông" (Mt. 3:2; 4:17; 10:17; 12:28; Lc. 10:9,11; 11:20) mà lại còn phải kêu gọi: "Vậy các ngươi chớ lo mà rằng: Ta sẽ ăn gì? ta sẽ uống gì? ta sẽ lấy gì mà mặc? Các điều đó, dân ngoại kiếm tìm. Nhưng Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, biết rõ các ngươi cần các điều ấy. Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi" (Mt. 6:31-33). Đoạn Phúc Âm này nói lên điều ít ai để ý đó là có một động lực huyền nhiệm nào đó tự nơi con người liên hệ mật thiết với quyền lực của Thiên Chúa, của Nước Trời, bao trùm tất cả đến nỗi ngay những nhu cầu thiết yếu cho sự sinh sống hữu hình là của ăn và quần áo mặc đều thuộc thành phần thứ yếu. Động lực này chính là quyền lực của lòng tin, "Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13), hoặc "Lòng tin của bà lớn thật! Bà muốn sao thì hãy được như vậy!" (Mt. 15:28). Với sự nhận thức hữu vi của thế nhân, ai có thể chấp nhận ăn mặc là điều thứ yếu nơi cuộc sống hữu hình? Có lẽ chính vì vậy, đoạn Phúc Âm (Mt. 6:31-33) này đã bị nhận thức không được đúng đắn với ý nghĩa thực sự của nó để rồi bị coi thường hay giải nghĩa một cách sai lệch.

Nguyên nhân tạo nên quyền lực của lòng tin chính là quyền lực của Thiên Chúa ở nơi con người, nơi mỗi người được giải thích bằng lối nói: "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" hay "Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông." Có thể danh hiệu Emmanuel "Thiên Chúa ở cùng chúng tôi" (Mt. 1:23) đã bị hiểu lầm bởi người Thiên Chúa Giáo thường gọi Đức Kitô là Thiên Chúa nên cho rằng danh hiệu này chỉ về sự hiện diện hữu hình của chính Ngài nơi trần thế. Hiểu như vậy có phần nào không phù hợp với thời điểm này, năm 1996, đã gần hai ngàn năm Ngài không hiện diện bằng xương bằng thịt như chúng ta. Đức Kitô rao giảng về lòng tin và đó là sự nhận thức thực sự Thiên Chúa, Thượng Đế, ở nơi mọi người, ở trong mọi người, Thiên Chúa ở cùng chúng ta; con người ở trong Thượng Đế; con người, mọi vật đều mang sự sống nên là một trong Thượng Đế bởi tất cả cùng được chia sẻ sự hiện hữu, sự sống, là chính bản thể của Thượng Đế. Chính sự sống, bản thể này là quyền lực của lòng tin nơi con người, quyền lực của ý định, ước muốn, của sự tin tưởng. Con người dùng quyền lực này áp dụng vào ý nghĩ xấu tạo nên tội, áp dụng vào ý nghĩ tốt tạo nên phúc, ảnh hưởng hành trình tâm linh, hành trình trở nên thiện toàn như Thượng Đế của con người.

Con người là một với Thượng Đế, là một với vũ trụ, vạn vật, có cuộc sống bao gồm thân xác hữu hình và những thành phần vô hình phù hợp thân xác cùng với sự sống vĩnh cửu được chia sẻ do chính bản thể của Thượng Đế; từ đó suy ra, cuộc sống hữu hình này là một giai đoạn hiện thể trong sự biến dịch của sự sống vĩnh cửu nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin, lòng tin, để trở nên thiện toàn. Thân xác con người được sinh ra khởi đầu cho cuộc sống hữu hình và sự chết của xác thân là thời điểm để sự sống trở về thế giới vô hình. Như vậy, cuộc sống vô hình tiếp nối cuộc sống hữu hình thường được gọi là trời; cuộc sống hữu hình được gọi là đất... Xét thế, với quan điểm sự sống vĩnh cửu, đất và trời là một; tâm trí con người nơi cuộc sống hữu hình thế nào thì ở cõi vô hình cũng thế; nói cách khác, lòng tin, sức mạnh của tâm trí, ý định, luôn mang quyền lực ảnh hưởng con người, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Sự cầm buộc này là ước muốn, khát vọng, nơi con người bởi sự ao ước của con người ở nơi nào thì lòng dạ đều đặt vào đó. Chính những khát vọng, ước muốn của con người áp đặt chủ thể trở nên đối tượng mình muốn trở thành. Hơn nữa, mọi người là một với Thượng Đế, với vũ trụ không thể phân ly, và như vậy, những ước muốn cho mình cũng là ước muốn cho người do người với ta là một; cái nhìn về người là cái nhìn về chính mình; sự cầm buộc người khác cũng là sự cầm buộc chính mình, tạo hạnh phúc cho người cũng tạo hạnh phúc cho mình. Do đó, câu "Vì nếu các ngươi tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho các ngươi; nhược bằng các ngươi không tha thứ cho người ta, thì Cha các ngươi cũng sẽ không tha thứ những điều các ngươi sai lỗi" (Mt. 6:14-15) nói lên ý nghĩa rõ ràng của sự hợp nhất và ảnh hưởng của lòng tin, của quyền lực ý định, ước muốn, nơi mỗi người đối với thế nhân.

Điều hiển nhiên, bản chất con người bao gồm hữu hình và vô hình nhưng sự nhận thức lại bị ảnh hưởng quá nhiều bởi thành phần thân xác hữu hình sinh ra lối nhìn sai biệt đối với thực thể sự kiện. Nhân sinh thường quá quen với sự phân chia sự kiện thành hai phần đối nghịch như đúng với sai, phải với trái, tốt xấu... Thường gì những gì xảy ra phù hợp với lề lối suy tư, kinh nghiệm hoặc giống với quan niệm đại đa số đều được cho là đúng và những gì không giống hay khác thường với thói quen nhận định của con người dẫu chưa được đắn đo nhận thức đã bị vội cho là sai. Thực ra, trong cuộc sống đâu thiếu gì cảnh "thấy đỏ tưởng chín," và nhiều trường hợp, những điều tốt cho mình chưa chắc đã tốt cho người cũng như những việc được mọi người ngưỡng mộ lại chính là điều khổ ải cho mình. Thế nên, sự nhìn nhận thiếu đúng đắn sự việc đã là điều cản trở đầu tiên cho sự nhận thức của con người. Xét về mặt tâm linh, những điều tốt lành con người xưa nay ước mơ chưa chắc đã thực sự đem lại lợi ích cho hành trình thăng tiến nhân sinh. Ai không ngạc nhiên đối với câu Phúc Âm: "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Đàng" (Mc. 10:25; Mc. 19:23-24; Lc. 18:24-25). Cũng có thể vì lý do ngôn ngữ thay đổi ý nghĩa tùy thời và tùy nơi nên câu Phúc Âm này có thể mang ý nghĩa "lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn là người đam mê giàu có của cải trần gian vào được nước thiên đàng" vì ước muốn của con người ở đâu thì lòng dạ của họ ở đó. Ai không muốn có cuộc đời thảnh thơi, nhàn hạ, hơn là cày sâu cuốc bẫm, tối mặt quần quật suốt ngày làm việc. Lại nữa, sự giàu có là phương tiện cho con người muốn gì được nấy nơi cuộc sống hữu hình, vật chất, mọi chốn mọi thời luôn luôn hiển hiện khiến con người qua sự nhận thức ngũ quan với ước muốn cải tiến cuộc sống nghĩ rằng nhân sinh chỉ bao gồm những sự việc hữu hình nên không để ý đến nhận thức và hành trình tâm linh do đó mọi nỗ lực đều được dành cho sự kiếm tìm hạnh phúc tùy thuộc vật chất đời này. Từ nhận thức hạn hẹp của ngũ quan được giới hạn trong vòng sinh sống thế tục, mọi ước muốn, ý định, đều lệ thuộc lối nhìn hữu vi, vật chất, vì vậy cuộc sống đời sau tiếp nối sẽ không được để ý, đó chính là cội nguồn của chủ thuyết duy vật... và như thế, quyền lực lòng tin, ý định, đã bị đóng kín, không còn cơ hội phát huy dẫn dắt tìm đường thăng tiến tâm linh. Nước thiên đàng đã bị chặn lối bởi lòng ham muốn sự giàu có thế tục qua nhiều hình thức.

Nhãn quan hữu vi chẳng những dẫn con người lầm lạc về giá trị và mục đích đời người mà còn ảnh hưởng sai lệch nhận thức về giá trị và hành động cũng như bản tính của con người do đó lề lối, tập tục, thói quen, giáo dục, v.v... được phát triển hòng khuôn mẫu hóa mọi người cho dễ bề nhận định, dễ phân biệt phải trái, đúng sai, hòa hợp, hay mâu thuẫn, dần dần biến con người thành bộ phận máy móc của xã hội; dẫu thế nào chăng nữa, ai không lệ thuộc vào hệ thống máy móc ấy đều bị lên án hoặc nghiền nát. Những hệ thống luân lý, văn hóa, giáo dục xã hội đã trở nên các lò đúc hoặc tay thợ tài ba chiết cây, ghép cành để có cây chanh sinh trái cam hoặc cây hoa hồng sinh bông huệ không cần biết thân huệ chẳng thể ráp vào cành hồng. Thế nên, thay vì tìm điều thiện nơi mọi người để nhận ra mọi sự phải có lý riêng của nó được điều động do sự thánh thiện và toàn hảo tuyệt đối của Thượng Đế, lối nhìn hữu vi, thế tục, đã rập theo những khuôn mẫu sẵn có để xét xử các thành phần nhân sinh. Bởi đó chẳng lạ gì, câu Phúc Âm "Đừng xét đoán để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1; Lc. 6:37) mang giá trị tuyệt đối nơi hành trình tâm linh. Người với ta là một thì xét đoán người tất nhiên dùng quyền lực của ý định tự trói buộc mình trong vòng luận xử luẩn quẩn theo nhận định thế tục.

Làm thế nào để có nhận thức chính trực và đâu là khởi điểm cho hành trình tâm linh con người có thể nhận biết? Câu trả lời sơ khởi đương nhiên phải là sự nhận biết chính mình bởi không nhận ra con người mình thế nào sao có thể hiểu thực thể tạo vật chung quanh. Như vậy, tìm lại bản thể đích thực của con người chính là mục đích, là khát vọng vượt không gian và thời gian, âm ỉ nung nấu tâm hồn nhưng ít khi được để ý đến. Khát vọng này cũng chính là nguồn hạnh phúc con người ước mơ, nguồn hạnh phúc tìm về nguồn cội, tìm về Tạo Hóa. Từ đó, lề lối tư duy, hành trình tâm linh kiếm lại bản thể trở thành sự xóa bỏ dần dần những gì không thuộc về thực thể của mình, những ảnh hưởng thế tục vây bọc nhận thức để thoát khỏi sự lệ thuộc, để khỏi bị che khuất. Điểm khởi đầu này được Lão học đề xướng bớt và bớt, càng ngày càng bớt cho tới khi không còn gì để bớt. Không còn gì che khuất hoặc ảnh hưởng nhận thức, bản thể đích thực sẽ lộ ra và đó là sự sống nguyên thủy của Thượng Đế nơi con người, "Và Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh của Thiên Chúa, Người đã dựng nên nó là nam là nữ" (Kn. 1:27). Ước mơ, lòng khát vọng hướng thượng, muốn trở nên toàn hảo, âm ỉ tự đáy tâm tư có thể là nguyên thể của tiếng nói lương tâm, là động lực thúc đẩy con người thăng tiến trên hành trình tâm linh: "Ta sẽ đặt luật của Ta vào bên trong chúng và Ta sẽ viết trên tim lòng chúng; và Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng, chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn, mỗi người, phải dạy bảo nhau, mỗi người phải nói với anh em mình: 'Hãy biết Yavê!' Vì hết thảy chúng đều biết Ta" (Jer. 31:33-34). Quyền lực của ước muốn trở nên toàn hảo để trở về nguyên cội cũng chính là lòng tin nơi mọi người ở mọi thời. Nói cách khác, sự trở nên toàn hảo chính là mục đích của hành trình tâm linh, hành trình thực hiện lòng tin, là mục đích của cuộc đời con người nhưng ít được nhận ra.

Dĩ nhiên, nơi cuộc sống thế nhân, mỗi người được sinh ra với bản chất riêng biệt, được nuôi dưỡng trong những môi trường không giống nhau, cũng như tùy thuộc ảnh hưởng cơ thể cá nhân nên hấp thụ giáo dục chẳng đồng đều do đó tâm tính, chiều hướng suy tư, nhận thức sự việc lại càng không tương đồng, vì thế mỗi người có khuynh hướng, phương cách, và lề lối riêng biệt nơi hành trình tâm linh để tiến tới sự toàn hảo. Tất nhiên, cá biển không thể sống được nơi nước ngọt, hoặc cây cối không thể mọc trong vùng băng tuyết giá lạnh của bắc cực hay nam cực. Mỗi môi trường gồm có những điều kiện dành cho sự phát triển riêng biệt nào đó thì con người không thể bị đồng hóa theo bất cứ khuôn mẫu nào trên hành trình thăng tiến tâm linh bởi không ai có thể truyền bá cho bất cứ ai nhận thức cảm nghiệm về Thượng Đế cũng như không ai có thể học hỏi từ người khác về bản thể của mình vì sự nhận thức này đòi hỏi cảm nghiệm cá nhân và sự liên hệ tâm linh trực tiếp với Thượng Đế. Sự truyền bá, phổ biến chỉ là kiến thức, sản phẩm của nhận thức, kinh nghiệm, được giãi bày bằng luận lý qua ngôn ngữ trong khi ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý. Sự cảm nghiệm tâm linh phải do chính chủ thể chứ không do sự học hỏi bởi không ai cảm nghiệm về một sự việc giống ai hoặc không ai có thể trung thực diễn giải cảm nghiệm của mình do "Đạo khả đạo phi thường Đạo" (Lão Học), hay "Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Người ta chỉ có thể nói về những gì không phải là Thiên Chúa; còn những gì thuộc về bản thể Ngài, không ai có thể nói lên được" (Thomas Aquinas).

Kiếm tìm về nguồn cội, đạt tới mục đích của hành trình tâm linh, nhận ra mình là ai, đó là sự nhận biết bản thể đích thực của mình; đó cũng là đối diện với Đạo tại tâm, đối diện với Thượng Đế nơi cung lòng mình. Như vậy, cuộc sống hữu hình là cơ hội cho con người thực hiện hành trình tâm linh để trở nên thiện hảo; vì khi đã đối diện với Thượng Đế nơi nhận thức, con người thực sự nhận ra bản thể nhất nguyên, mình là một với Thượng Đế, nhận ra nguồn quyền lực của lòng tin, quyền lực của sự hiện hữu, sự sống. Xét thế, nguồn gốc của tất cả những sự nguy hại cho hành trình tâm linh chính là sự mù lòa của nhận thức do ngũ quan thân xác hoặc tham vọng che lấp nên không nhận biết về bản thể đích thực của con người, không nhận biết Thượng Đế nơi mình để rồi phân biệt mình với người, với Thượng Đế, và với vạn vật là những thực thể riêng biệt. Thế nên, không nhận biết quyền lực của lòng tin, của ước muốn, ý định, v.v... lại do chính sự không nhận ra "Đạo tại tâm," không nhận ra Thượng Đế và quyền lực của Ngài nơi con người.

Đức Kitô rao giảng một Thiên Chúa yêu thương mọi người không phân biệt giai cấp hay thiện ác, "Ngõ hầu các ngươi nên những người con của Cha các ngươi, Đấng ở trên trời, vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác... Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:45,48). Đấng trọn lành Đức Kitô gọi là Cha không xét kẻ này thiện hoặc kẻ kia ác mà làm tốt cho tất cả, yêu thương tất cả. Phỏng như vậy, một người "Đừng xét đoán, để khỏi bị đoán xét" (Mt. 7:1) không nhận xét những điều xấu theo con mắt thế nhân, không phân biệt thiện ác như mọi người chung quanh, và không nhận thức theo những quy luật xã hội nơi con người sinh sống, mà coi mọi sự như nhau, mỗi người được sinh ra có hành trình tâm linh riêng để đạt tới sự thiện toàn? Điều hiển nhiên, đã được sinh vào thế giới hữu hình thì sự chết của xác thân cũng là một thực thể không thể thiếu bởi giả sử tỷ năm, triệu năm về trước tới nay nếu không ai chết, phỏng còn khoảng trống nào cho một người đi đứng? Phỏng có thể nói, Thượng Đế cho con người có sự hiện hữu hữu hình thì lại cũng phải cất con người đi để cho hành trình biến dịch tiếp tục? Nhìn theo con mắt thế nhân, phỏng sinh được coi là thiện và chết được coi là ác vì không ai muốn, thì như vậy thiện ác nơi con mắt không xét đoán sẽ như nhau? Phỏng sự đúng, sai, phải, trái, nơi con người cần được đặt vấn đề lại để có nhãn quan phù hợp cho sự thăng tiến hành trình tâm linh? Phỏng nên lên án những con beo, hổ, sư tử, vì chúng giết và ăn thịt các con thú khác dẫu chúng không được sinh ra với những bộ phận tiêu hóa cỏ? Hơn nữa, nếu đặt vấn đề ngược lại, những điều được cho là tốt lành theo nhãn quan nhân thế phỏng đã thực sự tốt lành theo nhận xét tâm linh? Phỏng lửa không nóng thì lấy gì nấu thức ăn, và rượu uống không say liệu ai tốn tiền chuốc lấy? Mỗi sự vật đều có tính chất riêng; có thể nói đó là sự thiện toàn vì nó được sinh ra, được tạo dựng để trở thành tính chất ấy.

Riêng con người, Đức Kitô xác định rõ, "Vậy các ngươi hãy nên trọn lành, như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành" (Mt. 5:48), và "Các ngươi hãy biết thương xót, như Cha các ngươi là Đấng thương xót" (Lc. 6:36). Vì có thể chất khác biệt hòa hợp với những ảnh hưởng tâm trí không đồng đều nên không thể có một khuôn mẫu chung để nhận định thực sự tâm hồn một người trên hành trình trở nên thiện toàn, trọn lành, theo hình thức, phong cách, và thái độ, bề ngoài; do đó con người cần chú trọng đến nhận thức tâm linh tùy thuộc bản chất riêng mình. Sự nhận thức tâm linh này ảnh hưởng chứ không bị lệ thuộc hình thức bên ngoài; có thể đó là lý do tại sao câu "Đạo tại tâm" bao gồm hai nghĩa, Thượng Đế ngự nơi chính mình, và hành trình trở nên trọn lành như Ngài phải được xuất phát tự tâm hồn chứ không phải là sự bắt chước hình thức một cách máy móc, "Nhưng giờ sẽ đến, và là ngay bây giờ, những kẻ thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật vì Cha chỉ muốn gặp thấy những kẻ thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật" (Gioan 4:23-24). Dẫu phần nào ảnh hưởng, hoặc khơi động tâm tình hướng thượng, hoặc giảm bớt lòng mộ mến, hình thức, cách sống bên ngoài chỉ một phần nào biểu lộ chiều hướng, lòng thành, nội tâm. Nói cách khác, nội tâm kiến tạo hình thức ngoại tại mà nghi thức bên ngoài không thể là nguồn gốc cho lòng mộ mến bên trong. Nội tâm và hình thức được so sánh tựa tình yêu và thể xác; tình yêu phát sinh tự tấm lòng, yêu và muốn được hòa hợp với sự sống nơi con người chứ không ai muốn cưới một xác chết dẫu yêu thương đến cách mấy. Nơi hành trình tâm linh, Đức Kitô rao giảng lòng thành yêu thương tự tâm khảm dẫn dắt mọi thái độ trong sinh hoạt cuộc sống, "Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế: Lề luật và các tiên tri là thế" (Mt. 7:12; Lc. 6:36). Dĩ nhiên, ai không yêu thương chính mình không thể yêu thương bất cứ người nào khác; đồng thời, kẻ nào kinh tởm, hận thù chính họ cũng kinh tởm hận thù mọi người. Mặc dầu thế, xét trên phương diện cuộc sống, những gì tốt cho mình chưa chắc đã tốt cho người; cho nên, những gì mình nghĩ là tốt cho người chưa chắc đã phù hợp với họ, chẳng hạn trong việc ép duyên con cái. Lời mời gọi hãy làm cho người ta mọi điều mình muốn phải được đặt trên căn bản vị thế đối tượng chứ không phải chỉ nghĩ là sự việc nào đó tốt cho họ mà thôi.

Đức Kitô trình bày một Thiên Chúa hiện hữu mọi nơi, mọi lúc, không phân biệt đất, trời, vì đất trời là một, "Nước Thiên Chúa ở trong các ông" (Lc. 17:21), "Nước Thiên Chúa đã đến trên các ông" (Mt. 3:2; 4:17; 10:17; 12:28; Lc. 10:9,11; 11:20); đời này và đời sau cũng chỉ là một; sự tha thứ, kết án của con người tự có quyền lực ảnh hưởng chính mình (Mt. 6:14-15; 18:18) nên Ngài đã dạy các môn đồ: "Vậy các ngươi hãy cầu nguyện thế này: Lạy Cha chúng tôi, Đấng ngự trên trời, ước gì danh Cha hiển thánh, nước Cha trị đến, ý Cha thành sự dưới đất cũng như trên trời..." (Mt. 6:9-10). Nước Thiên Chúa đã đến và đang ở nơi con người thì "nước Cha trị đến, ý Cha thành sự dưới đất cũng như trên trời..." lại cũng chỉ tùy thuộc chính ý định, ý muốn, của con người. Như vậy, đời sau là cuộc sống vô hình tiếp nối cuộc sống hữu hình đời này; nói cách khác, đời này có ý định, ước muốn thế nào thì đời sau sẽ được tiếp diễn như vậy vì quyền lực của ý định, ước muốn, vẫn tồn tại và ảnh hưởng toàn bộ sự hiện hữu con người cho dù ở đời nào, "Mọi điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời" (Mt. 18:18). Suy rộng hơn, người nào nơi cuộc sống hữu hình chỉ ước mơ của cải vật chất thì sau khi chết, hồn cũng chỉ luẩn quẩn với sự thèm khát vật chất chưa được thỏa mãn nên khó bề giải thoát; ai đặt ý định, ước muốn nơi tiến trình thăng hóa tâm linh, cuộc sống sau này sẽ không bị lệ thuộc vào khát vọng vật chất hữu hình. Phỏng nhận định này có thể diễn giải câu Phúc Âm, "Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Đàng" (Mc. 10:25; Mc. 19:23-24; Lc. 18:24-25)?

Xét thế, ý Cha, ý Chúa, ý định của Thượng Đế, trên phương diện lòng tin, là cùng đích, là sự trở nên toàn hảo, toàn thiện, của con người tùy thuộc ý định, ước muốn của chính con người... Phỏng xét theo nghĩa này câu "Ý dân là ý Trời" mang đầy đủ mãnh lực của ước muốn con người xưa nay? Và như vậy, con người có cả một gia tài quyền lực lòng tin nhưng không được nhận biết, không được tìm hiểu phương cách phát triển để xử dụng. Lẽ đương nhiên, ngoại trừ trường hợp bị ép buộc hay có bộ óc bất bình thường, mọi hành động đều tùy thuộc ý định, ước muốn của một người. Thế nên, tâm ý đóng vai trò quan trọng nơi hành trình tâm linh, "Lòng ứa đầy những gì, thì miệng nói ra. Người lành tự kho lành mà kéo ra điều lành; còn kẻ ác tự kho ác mà kéo ra điều ác" (Mt. 12:34-35; 15:19; Mc. 7:19-21; Lc. 6:45). Bởi vậy, Đức Kitô rao giảng về luật yêu mến Thiên Chúa và yêu thương con người cũng chỉ là một, "Ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi, hết lòng ngươi, hết linh hồn ngươi và hết trí khôn ngươi! Đó là giới răn lớn, giới răn đệ nhất. Thứ đến cũng giống như điều ấy: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình ngươi. Toàn thể lề luật cùng các tiên tri đều qui vào hai giới răn ấy" (Mt. 22:37; Mc. 12:30; Lc. 10:27). Sự bác ái và tha thứ đối với tha nhân phải tự đáy lòng, "Cũng vậy, Cha Ta, Đấng ngự trên trời sẽ xử với các ngươi, nếu các ngươi mỗi người không thật lòng tha cho anh em" (Mt. 18:35). Vì thực ra, tha thứ cho người là tự giải thoát chính mình khỏi sự ràng buộc bởi ý định không tha thứ, cầm buộc: "Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án; ai mắng anh em là "đồ ngốc' thì can án trước công nghị; và ai mắng là 'đồ khùng' thì can án hỏa ngục lửa thiêu" (Mt. 5:21-22). Đức Kitô nhấn mạnh về tâm ý vì ý định phát sinh quyền lực và hành động; sống lệ thuộc hình thức hay lời nói buông trôi cho qua không mang lại giá trị tâm linh bởi không phát xuất tự tâm hồn nên chỉ là giả dối: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là sẽ vào được nước trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời..." (Mt. 7:21-22). Chính tâm ý con người thế nào thì cuộc sống, hành động của họ sẽ theo chiều hướng ấy. Thế nên kẻ thực hành điều Ngài giảng dạy, mang tâm ý, mang lòng tin trở nên thiện toàn thì mới có thể thăng tiến trong hành trình tâm linh, "Tại sao các ngươi kêu với Ta: Lạy Chúa, lạy Chúa, mà điều Ta nói, các ngươi lại không làm?" (Lc. 6:46). Như vậy, lòng tin Đức Kitô rao giảng đòi hỏi tâm ý hướng chiều toàn thiện để dẫn dắt thái độ, hành động con người chứ không phải lời nói suông rằng tin thế này, tin thế kia cho qua. Nói cách khác, đó là lối sống thực hiện lòng tin, lối sống chứng nhân Thiên Chúa, Thượng Đế đang ngự trị nơi chính mình.

Thực hiện, giữ luật bác ái, yêu thương, không phải cứ làm bừa những gì không cấm nơi Mười Điều Răn nhưng tất cả những gì có hại cho hành trình thăng tiến tâm linh đều cần được tránh; bất cứ thái độ, cử chỉ, lời ăn tiếng nói chất chứa những điều bất lợi cho người khác đều mang quyền lực tự trói buộc mình. Có thể vị luật sĩ và vị tư tế đã làm ngơ đối với người bị cướp đánh gần chết bên đường (Lc. 30-37) vì họ tuân giữ đúng điều đã được dạy bảo và bởi trong Mười Điều Răn đã không có luật nào nói rằng không cứu người là có tội? Đức Kitô xác định rõ Ngài đến để kiện toàn lề luật, "Đừng tưởng Ta đến để bãi bỏ lề luật hay các tiên tri; Ta đến không phải để bãi bỏ, mà là để làm trọn" (Mt. 5:17). Thật ra, giữ không làm điều xấu dễ, giữ tâm không nghĩ điều xấu mới khó, vì đòi hỏi nỗ lực; hơn nữa, thấy điều nên và cố gắng thực hiện lại càng khó hơn. Đây chính là luật bác ái, là sự thực thi hành động giải thích câu Phúc Âm: "Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế: Lề luật và các tiên tri là thế" (Mt. 7:12; Lc. 6:36). Được sinh ra với bản tính con người nhưng sự thăng tiến tâm linh sẽ như thế nào lại tùy thuộc sự thực hiện ý định, ước muốn, lòng tin, nơi chính mình. Như vậy, phỏng nói rằng Chúa định phải chăng chứng tỏ sự thiếu ý thức hoặc không nhận biết quyền năng hay đã chẳng sống lòng tin nơi mình? Tin rằng Đức Kitô cứu mình nhưng không thực thi điều Ngài giảng dạy, Ngài chỉ lối mà không dấn bước thì con đường cứu rỗi có rộng mở, kẻ tin suông cũng chẳng tiến tới đâu!

Nhận thức Thiên Chúa ngự trị nơi mình, từ những thành phần tạo nên tế bào để cấu tạo các bộ phận xác thân cho tới toàn thể con người bao gồm ý định, tư tưởng, và những sự liên hệ trong cuộc sống, đồng thời cũng nhận thực quyền lực huyền nhiệm của Thiên Chúa ở ngay chính mình, con người sẽ nhận ra vai trò của mình trong cuộc sống và mục đích của sự hiện hữu hữu hình nơi trần thế. Nhận thức này dẫn đến ý thức mình với Thiên Chúa là một, với tạo vật là một, và với mọi người là một vì tất cả đều là một trong Thiên Chúa. Quyền lực nơi ý định ước muốn của con người, do đó, chính là quyền lực của Thiên Chúa ẩn tàng dẫn dắt con người trong hành trình tâm linh được gọi là lòng tin để trở nên toàn thiện. Bởi đó, luật yêu thương, bao gồm kính mến Chúa và yêu thương người như chính bản thân mình là lẽ đương nhiên, và dựa trên lẽ tự nhiên này, xét đoán người trở thành trói buộc mình, có ý định cầm buộc hay tha thứ người tức là cầm buộc hay tha thứ mình. Sự cầm buộc hay tha thứ có quyền lực ảnh hưởng không những đời này và đời sau bởi đời sau chỉ là sự kéo dài cuộc sống đời này trong thế giới vô hình. Như vậy, sống và chết thuộc về lẽ biến đổi của sự sống, bản thể đích thực của con người làm một với Thiên Chúa, dưới dạng hữu hình hay vô hình trong diễn tiến của hành trình tâm linh để trở nên thiện toàn.

Đức Kitô không những giải thích về năng lực của lòng tin mà còn chỉ cho mọi người biết phương cách đạt được lòng tin này; những ai có lòng tin đều có thể làm được những điều Ngài đã thực hiện, "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa" (Gioan 14:12), và điều kiện đó chính là sự không nghi ngờ về ý muốn, ý định của mình; nói như vậy có nghĩa điều mình mong muốn thực sự cần thiết, không có không được. Điều kiện để có lòng tin đòi hỏi sự tin chắc chắn rằng điều mình muốn sẽ được toại nguyện như trong câu truyện cây vả bị chết khô: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này 'xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22). Kinh nghiệm sống cho thấy, nếu ai thực sự muốn đạt tới điều gì, họ sẽ dùng mọi năng lực có thể để hoàn thành sự việc chẳng kíp thì chầy. Tuy nhiên, biết bao người muốn giầu có đồng thời lại thích thú tiêu pha hoang phí, hoặc vừa muốn có tiền vừa muốn có danh. Nếu người nào đó thực sự chỉ muốn có nhiều tiền, họ sẽ dùng mọi phương cách để có tiền dẫu rằng chấp nhận cuộc sống thiếu thốn, ăn chắt để dành, không se sua, ganh đua, thèm khát xe mắc tiền, nhà cao cửa rộng, quần áo cho sang trọng mong được nở mày nở mặt do người khác nghĩ mình cũng thuộc loại tài giỏi, v.v... Và người nào thực sự muốn có danh tất nhiên họ dùng mọi tài cán, tiền bạc, nhiều khi phải bợ đỡ, luồn cúi nếu không có thực tài hầu cho người khác biết đến mình. Dĩ nhiên, có những người nức danh thơm thì cũng có những kẻ nổi tiếng xấu, nhưng thực sự muốn và không nghi ngại ý định trong lòng, họ sẽ đạt được điều ước mơ.

Nơi Phúc Âm Marcô ghi lại, Đức Kitô không những giải thích rõ ràng mà còn nhấn mạnh về tính chất của lòng tin đó là sự không nghi ngại khi mình thực sự muốn điều gì: "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22). Tại sao nói "Tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra" trong khi đã đưa ra điều kiện "Mà trong lòng không nghi ngại"?Phỏng Đức Kitô biết rõ mọi người đều nghi ngờ những điều Ngài rao giảng? Hai ngàn năm trước đây người ta đã cho rằng Đức Kitô phạm thượng vì nói về quyền lực của Thiên Chúa ở nơi con người; cho tới ngày nay, vẫn chưa thấy ai làm được những điều Ngài đã thực hiện; thực tại này là bằng chứng rõ ràng chẳng ai có lòng tin như lời Ngài đã được ghi chép lại trong Kinh Thánh. Phỏng con người đã hiểu lầm lòng tin, đức tin, Ngài rao giảng? Phỏng nói rằng chỉ cần tin có Thiên Chúa, có Thượng Đế, v.v... thì đã được Ngài nhắc nhở: "Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là sẽ vào được nước trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời..." (Mt. 7:21-22)? Nếu chỉ cần nói rằng tin là đủ, tại sao Đức Kitô còn phải giải thích: "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:24)? Lý do gì Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Kitô câu nói: "Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi, và phải chịu đựng các ngươi?" (Lc. 9:41; Mt. 17:17).

Kitô hữu nào không tuyên xưng tin vào Đức Kitô, tin vào Thiên Chúa? Những người theo Đức Kitô ngày đó sống gần gũi với Ngài, chứng kiến những sự việc Ngài làm, nghe tận môi miệng Ngài những lời rao giảng phỏng họ không tin hoặc phỏng họ tin kém những người sau này trong suốt gần hai ngàn năm? Như vậy, phỏng câu Kinh Thánh "Các ngươi có nghe cho lắm mà cũng không hiểu, các ngươi cố nhìn lấy nhìn để, mà cũng không thấy. Vì lòng dân này đã ra chai lại: chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà trở lại, và Ta lại chữa chúng lành" (Mt. 13:14; Mc. 4:12) ám chỉ sự mù lòa nhận thức của con người đã bao lâu nay? Vì lý do gì câu nói giống như ngớ ngẩn theo sự hiểu biết nơi trí óc loài người: "Ai có tai thì hãy nghe!" (Mt. 11:15; 13:9,44; Mc. 4:9,23; Lc. 8:8; 14:35) lại được Phúc Âm nhiều lần nhắc nhở bằng cách đặt vào miệng Đức Kitô? Ai là người không có tai để nghe mà còn cố tình thêm "thì hãy nghe"! Thử hỏi, ai có thể tin được câu nói: "Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin bằng hạt cải, thì các ngươi có bảo núi này: Hãy bỏ đây qua đó, nó cũng sẽ chuyển qua, và các ngươi sẽ không bất lực trước một điều gì" (Mt.17:20) là sự thật có thể thực hiện? Ai có thể xử dụng được câu nói này trong cuộc đời? Phỏng có lòng tin sẽ không bất lực trước một điều gì chứng tỏ quyền năng siêu việt nào đó nơi con người được gọi là lòng tin? Những ai nói có lòng tin, có đức tin dám thử cảm nghiệm để minh chứng câu Phúc Âm này là sự thật trong cuộc đời mình?

Nơi Phúc Âm, Đức Kitô cũng đã hứa: "Và điều gì các ngươi xin nhân danh Ta, Ta sẽ làm... Và nếu các ngươi xin gì với Ta, nhân danh Ta, Ta sẽ làm" (Gioan 14:13); "Điều gì các ngươi xin cùng Cha, thì Người sẽ ban cho nhân danh Ta" (Gioan 16:23).Chẳng những thế, Đức Kitô nói rằng lòng tin mang năng lực chiến thắng cả sự chết, "Phục sinh và sự sống chính là Ta. Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống; và mọi kẻ đang sống tin vào ta sẽ không phải chết bao giờ" (Gioan 11:25-26). Có lẽ, phải thêm nơi đây, "Ai có tai thì hãy nghe!" Kinh nghiệm chứng minh, ai cũng có tính tò mò muốn biết. Tuy nhiên, thực hành mới quan trọng chứ biết để làm gì!

Lòng tin, đức tin, không phải là vấn đề cho rằng hoặc tin rằng có Chúa hay không vì dù tin hay không tin có Chúa thì Chúa vẫn có. Chúa là thực thể vô hình, thần linh, cội nguồn của mọi năng lực hiện hữu, là chính sự sống nơi mỗi người. Lòng tin cũng không chỉ đơn giản nói lên tin có Đức Kitô thực sự hay không vì theo Phúc Âm, Đức Kitô không đòi hỏi phải nói tin Ngài là Thiên Chúa mà thực hiện những gì Ngài giảng dạy. Lòng tin chính là quyền lực sự sống, quyền lực ý định, ước muốn nơi mỗi người.

"Sao! Nếu có thể!... Mọi sự đều là có thể cho người tin!" (Mc. 9:23).

(Ghi chú: "Lòng Tin" được viết từ cảm nghiệm cá nhân; người viết chờ đợi ngày nào đó trong tương lai quyền lực này sẽ được chứng nghiệm do quí độc giả thức ngộ.)



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả