Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]


Thế nhưng, cái chữ nhưng kỳ quái phát xuất từ sự e sợ bị phạt, bị quăng xuống hỏa ngục cứ ngày đêm, từng giờ từng phút ám ảnh tâm trí. Cũng những ngày còn nhỏ, có ma soeur dạy rằng, ngay nơi cửa lớn hỏa ngục có chiếc đồng hồ khổng lồ liên tục kêu tích tắc đời đời, đời đời tích tắc nên chúng ta phải ăn ngay ở lành, sống đạo đức mới được Chúa chuộc tội cho. Có lẽ ma soeur cho rằng ơn cứu độ của Chúa phải trả bằng cuộc sống tốt lành chăng. Tuy nhiên, nếu đã sống tốt lành thì lấy gì để Chúa cứu chuộc, mà không có gì lầm lỗi để Chúa cứu chuộc có phải là khinh chê ơn cứu độ của Chúa! Suy nghĩ như thế thì những em nhỏ mới lọt lòng mẹ hoặc mới bốn hoặc năm tuổi chưa có cơ hội lầm lỗi đều mắc thêm tội khinh chê ơn cứu độ của Chúa. Ôi cái vòng luẩn quẩn suy tư đã khiến tâm trí ThyLoan khắc khoải bao lâu nay. Ý nghĩ này cứ như hạt bụi bay vô mắt dụi thế nào cũng không lọt ra ngoài cho đỡ nhức nhối. Thế nên, đành liều vậy bởi ThyLoan cũng như bao người, cho rằng đã biết Tin Mừng Nước Trời nhưng không giải thích được maø nghĩ rằng chỉ cần tin những điều được dạy dỗ và tuân theo các lề luật Công Giáo là đủ cho phần rỗi linh hồn vì nơi kinh đọc ngày chủ nhật rằng, "Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn, mà linh hồn là tính thiêng liêng." Thôi thì bắt cá hai tay cho chắc, dẫu tốn ít công sức nơi thế trần này mà ngày sau không bị mất linh hồn thì lời chán. Và giả sử không phải vậy thì cũng chẳng thiệt thòi là bao bởi lỡ ra không thông công vào hội thánh mà mất linh hồn thì lỗ to, mất cả chì lẫn chài; ở đời này đã khốn khổ, nhiều thứ không vừa lòng, chẳng đẹp ý, đúng, lỡ ra lỗ muôn đời muôn kiếp, chả dại gì. Ôi, quả là đáng sợ! Nhưng sao lòng ruột vẫn thấy e ngại gì đâu ấy do cứ áy náy, lỡ ra thì sao, cho nên gặp được câu hỏi Tin Mừng Nước Trời là gì, ThyLoan cũng đành nhắm mắt uống thuốc liều, thử lật Phúc Âm xem sao. Nghe hơi ngồi chõ để rồi tin theo khiến lòng dạ bất ổn bao nhiêu năm tháng qua, đúng là chỉ vì lười nên sinh ra muôn thứ tội mà gốc gác lại do thiếu tự học hỏi, suy tư. Nghe giảng giải của các đấng thì lúc này các ngài phán rằng Thiên Chúa yêu thương con người quá đỗi nên hy sinh, bắt tội Con Một Ngài chịu khổ hình chết nhục nhã trên thập giá, bị thiên hạ nhạo cười. Khi khác, cũng các đấng ấy lại dạy phải ăn năn đánh tội, phải hy sinh hãm mình, phải tham dự lễ chủ nhật, phải xưng tội, rước lễ, dốc lòng chừa không được phạm tội. Ơ hay, Chúa đã chết cho tội lỗi của mình từ ngàn xưa, tất nhiên mình đã được ơn cứu chuộc sao lại cứ phải thế nọ, phải thế kia. Mình sạch ngay từ ngày Chúa chết cơ mà. Đàng khác, không có gì cho Chúa chuộc, Chúa cứu, có phải là khinh chê ơn cứu chuộc chăng? Quả là bối rối như bố vợ bị đấm!

Có điều kỳ lạ là khi lật Phúc Âm, rõ ràng như một cộng một là hai, mục đích cuộc đời của Đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa. Sự thể này được chứng thực nơi Luca "4:42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 4:43 Nhưng Người nói với họ: "Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó" Nơi Phúc Âm Marcô cũng ghi, "1:35 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. 1:36 Ông Si-mon và các bạn kéo nhau đi tìm. 1:37 Khi gặp Người, các ông thưa: "Mọi người đang tìm Thầy đấy!" 1:38 Người bảo các ông: "Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." 1:39 Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ. " . Chẳng những chính Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, (Lc. 8:1; Mt. 4:23; 9:35).Ngài cũng sai các môn đồ ra đi rao giảng Tin Mừng, (Lc. 9:2).

Một điều hiếm thấy các đấng rao giảng nhắc tới đó là đối với Đức Giêsu, công việc tìm kiếm Nước Trời, Nước Thiên Chúa phải là điều quan trọng nhất, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài và các sự khác sẽ được ban cho các ngươi" (Mt. 6:33; Lc. 12:31). Sự tìm kiếm, nhận biết về Nước Trời quan trọng hơn cả việc tang ma cha mẹ, "Và Chúa Giêsu nói với anh ta, hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; còn ngươi, hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:60). Nơi Phúc Âm còn đưa ra một loạt điều kiện để nhận biết Nước Trời; ai muốn biết, chịu khó lật Phúc Âm, ThyLoan chỉ nhớ, vì lười nên không ghi đoạn và câu cũng như Phúc Âm nào. "Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ... Chẳng ai lấy vải mới vá áo cũ... Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa... Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta... Kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta... Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi... Nếu tay, chân các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi... Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng, còn ngươi đi rao giảng Nước Thiên Chúa... Dụ ngôn mười nàng trinh nữ, năm nàng không suy nghĩ, bảo sao nghe vậy bị cho là ngu muội; năm nàng suy nghĩ, tính toaùn trước việc có thể xảy đến được gọi là khôn ngoan. Ba người làm công được trao 5 nén, 2 nén, và một nén vàng. Người e sợ lỡ ra thất bại bị kết án là lười biếng.

Vậy Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì mà Chúa Giêsu được sai đến để rao giảng? Đức Giêsu dùng các dụ ngôn để ám chỉ sự tự lớn mạnh của Nước Trời (Mt. 13:31). Nước Trời giống như hạt cải nhỏ bé, và sẽ phát triển sau này đến nỗi chim trời có thể làm tổ nơi cành lá; hoặc như men dậy nơi bột (Mt. 13:33); hay như hạt giống được gieo nơi ruộng, chủ ruộng chỉ biết chuẩn bị đất đai và hạt giống sẽ tự chúng mọc lên và sinh sôi nảy nở (Mt. 4:26; 13:24; Mc. 4:26). Ngài so sánh giá trị của Nước Trời đối với loài người quí giá như kho tàng dưới đất, ai đó biết được thì dốc sức dồn hết tài sản để tậu thửa đất ấy cho được (Mt. 13:44), hoặc như viên ngọc quí mà người buôn ngọc nhận biết nên bán hết mọi sự mình có để mua cho được (Mt. 13:45). Ngài cũng nêu lên thái độ của những người không nhận biết giá trị của Nước Trời nên thờ ơ, không để ý (Mt. 13:19), hoặc chỉ chuyên chú vào những sự việc thế tục thành ra lỡ tầu (Mt. 22:2), hay vì lý do gì, hoặc e sợ, hoặc coi thường (Mt. 25:24-26); cũng thế những người không chịu suy nghĩ mà chỉ biết bảo sao làm vậy sẽ không thể nào nhận biết được Nước Trời (Mt. 25:1).

Dùng nhiều dụ ngôn để ám chỉ về Nước Trời nhưng khi được hỏi thời điểm nào Nước Trời xuất hiện, Đức Giêsu đoan chắc nơi Phúc Âm Luca, "17:20 Người Pha-ri-sêu hỏi Đức Giê-su bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Người trả lời: "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. 17:21 Và người ta sẽ không nói: "Ở đây này!" hay "Ở kia kìa!", vì này Triều Đại, Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông". Những câu khác nơi Phúc Âm được ghi lại gần bên (Mt. 3:2; 4:17; 10:7; Mc. 1:15). Đọc nơi bản dịch New American Bible, gần bên được dịch là "at hand" có nghĩa ngay tại, sẵn tại nơi mình. Đồng thời, Ngài lên án rất nặng đối vớinhững ai vì lý do hay ý đồ nào đó qua bất cứ hình thức nào ngăn cản người ta nhận biết Nước Trời, "Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Chẳng những các ngươi không vào mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản" (Mt. 23:13). Thử hỏi còn lời lên án nào nặng hơn chăng?

Lật Phúc Âm mà lòng ruột cứ rối tung lên vì Phúc Âm ghi lại Đức Giêsu nói Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông, nơi thì ở trên các ông, lúc lại ở trong các ông, ở tại các ông, ThyLoan đành ngưng lật, suy nghĩ thử xem ở trên, ở trong, ở tại là thế nào. Nước Trời, Nước Thiên Chúa, nơi bản dịch Kinh Thánh Tân Ước của 14 soạn giả ở Sài Gòn dịch là Triều Đại Thiên Chúa đã ở nơi mình thì phải tính sao đây? Chẳng lẽ vô nhà thương nhờ bác sĩ, y tá mổ xẻ lung tung để tìm cho ra Nước Thiên Chúa chốn nào nơi thân xác mình ư! Coi chừng lại bò meï chửi đồ ngu! Thì ngu thật! Nước Thiên Chúa nơi mình mà không biết thì tìm kiếm chỗ mô! Người nào, kinh sách nào, lời giảng giải nào chỉ rõ được chốn nào nơi cơ thể mình? Vậy mà Đức Giêsu lại phán cũng nơi Phúc Âm, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa," lại còn bật mí, "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền." Ah! Không nhìn thấy được, thì cũng không cần mổ, khỏi phải xẻ. Bác sĩ, y tá không có công ăn việc làm nơi sự việc tìm kiếm Nước Trời. Cho họ thất nghiệp với Nước Chúa! Ha ha, đỡ tốn tiền lại không đau đớn, chắc ăn; bởi lỡ họ bỏ quên con dao, cái kéo trong người e xấu lão đi thì biết ăn nói sao với mẹ. Tự diễu vậy cho vui! Mấy người dịch truyện Tầu gọi là tự sướng. Ồ, nghe tục tằn xấu cả mặt! Nhưng, thế nào là "at hand," thế nào là ở trong, ở trên, ở tại, cứ như là nói lặp. Tức lây cả tới Ha Thanh Nguyen đã cả gan nêu lên câu hỏi. Bí dzồi, đồng bào ơi! Đành chấp nhận, ThyLoan đi cầu nguyện xin Thánh Thần soi sáng. Nếu Thánh Thần chẳng thèm soi thì cam chịu tối um. (Sẽ viết tiếp sau khi may ra được Thánh Thần soi sáng. Nếu không, bí! Ôi! Nước Trời, Nước Thiên Chúa, Triều Đại Thiên Chúa. Ấy, lại còn Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa! Không biết Nước Thiên Chúa là gì sao có thể biết Tin Mừng Nước Trời, Tin Mừng Nước Thiên Chúa!

2/Không hiểu sao Kinh Thánh Tân Ước 1994 dịch câu Lc. 17:20-21, "Nước Thiên Chúa không đến như một điều có thể quan sát được. 17:21 Và người ta sẽ không nói: "Ở đây này!" hay "Ở kia kìa!", vì này Triều Đại, Nước Thiên Chúa đang ở giữa các ông," trong khi bản dịch của linh mục Nguyễn Thế Thuấn lại viết, "Biệt Phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến. Ngài đáp lời và nói: "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, Người ta sẽ không nói được, 'Này ở đây' hay 'Ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông." Dẫu biết rằng "Được ý quên lời,"nhưng "ở giữa các ông" và "ở trong các ông" có sự sai biệt lớn lao nơi ý nghĩa. Ý nghĩa "Ở trong các ông" dẫn đến mức độ nào đó đồng ý nghĩa với câu nói nơi thư thứ nhất thánh Phao Lô gửi tín hữu Corintho, "Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em? Ai hủy hoại đền thờ Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ hủy hoại người ấy. Vì đề thờ Thiên Chúa là vật thánh. Và đền thờ ấy chính là anh em!" (1.Cor. 3:16-17). Rõ ràng hơn, Phao Lô minh định, "Anh em không biết sao? Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em; anh em đã chịu lấy tự Thiên Chúa và anh em không còn thuộc về mình nữa" (1Cor. 6:19-20). Lật cuốn Holy Bible cổ lỗ sĩ, có lẽ tuổi của nó gấp đôi ThyLoan, cuốn này được viết nơi Luca 17:20, "And being asked by the Pharisees when the kingdom of God should come, he answering them and said: The kingdom of God cometh not with observation. 17:21 Neither shall they say: Behold here, or behold there. For lo, the kingdom of God is within you." Ngó đến cuốn New American Bible, câu này dùng chữ "Among you" có nghĩa ở giữa các ông giống bản KTTU 1994. Thử xem nơi cuốn The New Oxford Annotated Bible được in năm 1977 thì lại được viết, "Being asked by the Pharisees when the kingdom of God was coming, he answered them, "The kingdom of God is not coming with signs to be observed; nor will they say, 'Lo, here it is!' or 'There!' for behold, the kingdom of God is in the midst of you." Dẫu thế, nơi thư thứ nhất gửi Corintho, hai bản New American Bible và The New Oxford Annotated Bible dùng cùng hai chữ "within you" được dịch là ở trong các ông. Nước Trời, Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Anh em không biết sao! Thân mình anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em! Thiên Chúa ở nơi mình; Thần Khí Chúa nơi mỗi người; Quyền Lực Tối Thượng ở nơi mình; Quyền Lực Sự Sống ở nơi mình; Thượng Đế nơi mọi người; Phật Tính, Phật Tâm. Có sự gì nhào lộn lung tung nơi những ngôn từ, những phát biểu này đã bao ngàn năm.

Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật. Nước Thiên Chúa, Nước Trời, nước Thần Khí. Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nước Thiên Chúa nơi mọi người. Thiên Chúa ở khắpmọi nơi. Quyền lực hiện hữu nơi mọi người; Quyền lực hiện hữu ở khắp mọi nơi. Nước Trời ở giữa các ông. Nước Trời ở trong các ông. Nước Trời, Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền và người ta không nói được này ở đây hay ở đó vì này, Nước Thiên Chúa ở giữa các ông; Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Nước Quyền Lực Hiện Hữu ở trong các ông. Thiên Chúa ở khắpmọi nơi; Quyền Lực Hiện Hữu ở khắp mọi nơi. Ah! Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu thì Nước Trời, Nước Thiên Chúa là chính Ngài; vì Ngài ở khắp mọi nơi nên Ngài ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel! Ở đâu nơi Phúc Âm?

3/ "Nước Trời không đến một cách nhãn tiền" thì dứt khoaùt tin mừng Nước Trời sẽ không đá động chi tới những chuyện hữu vi. Thế sao Phúc Âm Marcô được viết, "Sau khi Gioan bị nộp, thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng.'" Câu Phúc Âm kỳ cục. Một đàng thì giới thiệu, nói về Đức Giêsu, "Đến xứ Galilê giảng Tin Mừng của Thiên Chúa," đàng khác lại ghi Đức Giêsu nói, "Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng." Vậy tin mừng Đức Giêsu muốn nói tới là gì? Phúc Âm nói Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng; Đức Giêsu giảng hãy tin vào Tin Mừng! Ối giời! Giống như nói lặp; vác bùn đổ sang ao, rồi lại đào ao lấy bùn để rồi lại đem bùn đổ sang ao, chẳng khác chi nhân gian nói chuyện gãi ghẻ, càng gãi càng raùt, càng rát càng sướng, càng sướng càng gãi.

Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên, ở trong các ông, ở giữa các ông, ở trên các ông. Ôh la la! Nước Thiên Chúa gần bên, ở trong các ông, ở giữa các ông. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông; thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa! Phúc Âm Matthêu có câu, "Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng, 'Này trinh nữ sẽ thụ thai và sinh con và gười ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta'" (Mt. 1:22-23). Người con trai được sinh ra từ trinh nữ có tên là Giêsu, người ta gọi Ngài là Emmanuel? Như vậy Emmanuel là danh hiệu của Đức Giêsu. Dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Nước Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Có sự gì loanh quanh luẩn quẩn, rắc rối, lôi thôi như rợ vào rừng nơi sự liên hệ của những phát ngôn này?

Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nước Thiên Chúa ở trong các ông. Thiên Chúa ở trong các ông. Thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa. Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, ở trong các ông, hãy hối cải. Đức Giêsu rao giảng, "Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải." Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải; Thiên Chúa ở trong các ông, hãy hối cải! Tại sao Thiên Chúa ở trong mà còn hối cải? Hối cải điều gì, sự gì?

Kinh Thánh Tân Ước 1994 có lời chú giải về hối cải. Hối cải được dịch từ tiếng Hy Lạp, "Metanoia." "Từ Hy lạp metanoia theo nghĩa gốc là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận" (KTTƯ Giáo Phận TP. HCM; VN; 1994; tr. 184). Như vậy có thể nói, Đức Giêsu rao giảng, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy nghĩ khác trước, hãy đổi ý, hãy thay đổi tâm tình, thay đổi não trạng và tin vào lời ta nói. Và cũng có thể nói cách khác, Thiên Chúa ở trong các ông, hãy suy nghĩ khác trước. Tại sao phải suy nghĩa khác trước? Khác về điều gì, quan niệm nào, chủ trương ra sao, hoặc điều luật nào?

Nơi Cựu Ước, Thiên Chúa bênh vực đám dân Do Thái "Sớm đầu tối phản" mà trừng phạt bất cứ kẻ nào dám đụng đến họ. Họ phải giữ muôn thứ điều luật, phải giữ ngày Sabbat, luật nhơ uế. Đức Giêsu bị họ lên tiếng phản đối vì chữa lành trong ngày Sabbat và Ngài trả lời, ngày Sabbat được lập ra cho con người, không phải con người được sinh ra vì ngày Sabbat. Nơi dụ ngôn người Samaritanô tốt lành Ngài chỉ trích vị tư tế và vị giáo luật đã vì luật nhơ uế nên không dám nhúng tay cứu giúp người sắp chết mà phải đi tránh qua bên kia đường. Người ta kết án Ngài phạm thượng vì dám gọi Thiên Chúa là Cha! "Làm sao các ông lại bảo tôi: 'Ông nói phạm thượng!' vì tôi đã nói: 'Tôi là Con Thiên Chúa'? 10:37 Nếu tôi không làm các việc của Cha tôi, thì các ông đừng tin tôi. 10:38 Còn nếu tôi làm các việc đó, thì dù các ông không tin tôi, ít ra cũng hãy tin các việc đó. Như vậy, các ông sẽ biết và ngày càng biết thêm rằng Chúa Cha ở trong tôi và tôi ở trong Chúa Cha" (Gioan 10:36-38). Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa ở trong các ông, Nước Trời ở trong các ông; hãy suy nghĩ khác trước! Hãy thay đổi não trạng và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng, Nước Trời đã gần bên, ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel. Ngưng, chuẩn bị đi lễ.

4/ Chẳng biết tìm hiểu Tin Mừng Nước Trời được lợi lộc gì mà cái đầu ThyLoan cứ quay quay như đứa ngớ ngẩn; xuýt nữa khóa cửa khi xe còn đang nổ máy và chùm chìa khóa còn ở trong xe. May quá, mãi suy nghĩ mấy câu Phúc Âm, ThyLoan phải thắng gấp bởi chiếc xe phía trước bất chợt thắng vội để quẹo, thêm một lần vượt đèn đỏ, và một lần không dừng tại bảng stop, may không có ông bà bạn dân nào quanh đấy. Giờ lại gần như khóa chốt và giập cửa xe trong khi xe đang còn nổ máy. Mà sao mấy câu Phúc Âm cứ luẩn quẩn nhai đi nhai lại trong đầu óc làm phiền hà tâm tư. Còn một chuyện nữa quên khuấy đi mất, không bỏ gói thịt ra ngoài cho tan đá đợi khi lễ về sẽ kho tộ. Đã định bụng từ sáng mà rồi tâm trí cứ quanh quẩn nơi mấy câu Phúc Âm thành ra lắm sự lỡ làng.

Hôm nay nhà thờ có cha khách về giảng phòng mùa chay nên người tham dự khá đông. Giáo dân lần hạt, đọc kinh từ 6giờ 30 chiều, bẩy giờ rưỡi cha bắt đầu giảng, rồi lễ, rồi chầu mình thánh, có về tới nhà cũng 9 rưỡi, 10 giờ đêm. Trưa đã gặm đại bánh mì và miếng chả thành ra bây giờ thấy đói mà mấy câu Phúc Âm thì cứ lung tung, rối tùng phèng. Lên net tìm mấy bài giảng của các đấng lại thấy càng lung tung. Ai đời nào lại cho rằng Tin Mừng Nước Trời là lòng thương yêu, nhân hậu của Thiên Chúa Cha trong khi Phúc Âm nói, "Thời buổi đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải." Lòng thương yêu của Chúa Cha nào ở lời công bố này? Đúng là “lấy râu ông cắm cằm bà” thay vì lấy dâu ông ném tằm bà! Nước Thiên Chúa đã gần bên Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông; hãy ăn năn hối cải, hãy suy nghĩ khác thường; hãy thay đổi suy tư. Thay đổi suy tư thế nào để nhận ra được Tin Mừng. Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa; tiên vàn hãy nhận biết Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở trong các ông. Tìm kiếm Nước Trời, Nước Thiên Chúa ở trong các ông là nhận biết sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, được dịch là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ở trong các ông.

Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy hối cải, hãy thay đổi suy tư, thay đổi não trạng và tin vào Tin Mừng. Tin Mừng là gì mà phải thay đổi suy tư, thay đổi não trạng mới nhận biết được. Nước Thiên Chúa đã gần bên; Nước Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa đã gần bên; Thiên Chúa ở trong các ông; Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Emmanuel. Thân xác anh em là đền thờ Thiên Chúa; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. The Kingdom of God is at hand; God is at hand; God is with us. Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thầm nghĩ, có lẽ ThyLoan khùng rồi. Mấy câu Phúc Âm làm tâm trí ThyLoan rối loạn nên cứ luẩn quẩn như người điên. Có lẽ cũng mấy câu này khiến những người quyền hành của đám dân Do Thái hai ngàn năm trước phát khùng nên chúng giết Đức Giêsu cho lòng thanh thản bởi ăn không ngon, ngủ không yên, lúc nào mấy câu nói thần thánh này cũng cứ khiến tâm trí họ luẩn quẩn. "Thôøi bui đaõ maõn, Nưôùc Thieân Chuùa đaõ gaàn beân, haõy hi ci."

Cha giảng gì chẳng biết vì tâm trí ThyLoan vẫn còn bị quay mòng mòng với mấy câu Phúc Âm "Thiên Chúa ở cùng chúng ta," và hối cải, thay đổi não trạng, thay đổi suy tư. Đức Giêsu rao giảng một Thiên Chúa hầu như hoàn toàn đối nghịch lại với quan niệm của dân chúng thời đó. Người ta nghĩ rằng, cho rằng Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ; Ngài rao giảng Thiên Chúa yêu thương, "Cho mặt trời mọc soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ, và làm mưa trên kẻ ngay cũng như người ác." Người ta theo luật mắt đền mắt, răng đền răng. Ngài rao giảng hãy yêu mến kẻ thù và cầu nguyện cho những ai làm khốn mình. Người ta chăm chăm chú chú giữ luật ngày Sabbat, không dám dẫu nhóm bếp nấu ăn vì làm như thế là phạm luật; Ngài nói, ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được sinh ra vì ngày Sabbat. Ah! Quả là ngang ngược trước mắt người đời! Dám chống báng những quan niệm, truyền thống của cả một dân tộc ưu đãi của Thiên Chúa mà lại cả gan xưng mình là Con Thiên Chúa. Con mà ngang bướng tuyên truyền chống báng điều luật dân của Cha tuân giữ? Nhưng, ThyLoan theo Đức Giêsu hay theo người Do Thái? Mới tự đặt câu hỏi để trả lời, ThyLoan cảm thấy hình như mình cũng ngang ngạnh giống Đức Giêsu; lại nghĩ đến nếu dám cả gan tuyên truyền, chắc thiên hạ quăng vào cối xay bột mì xay nghiến ra chứ không thèm đóng đanh. Như vậy, Đức Giêsu còn may mắn hơn trong khi lỳ hơn. Đức Giêsu may mắn hơn vì ngày ấy chưa có máy móc tối tân xay bột mì tự động như ngày nay nên không thể xay Đức Giêsu được. Đức Giêsu lỳ hơn ThyLoan vì Ngài dám đương đường rao giảng điều chống nghịch với truyền thống, giáo lý, luân lý, quan niệm của dân Do Thái thời ấy. Nơi thế kỷ 21 bây giờ, nếu ThyLoan dám nói lên quan điểm hay nhận định chứ chưa dám nói đến nhận thức tâm linh của mình, coi chừng nát nước, yên nghỉ ngàn thu dưới ba tấc đất đã từ lâu. Nếu đem so sánh thì ThyLoan thua đậm, Đức Giêsu thắng lớn, nhưng chưa chắc thắng đã hay hoặc thua đã dở. Đức Giêsu thắng lớn nên chúng đóng đinh Ngài trên thập giá cho thiên hạ nhạo cười. ThyLoan thua đậm nên còn cơ hội gõ bàn phím computer lúc này. Thế mà Tin Mừng Nước Trời chưa biết, ôi quả nhục nhã.

Cha ngưng giảng lúc nào ThyLoan cũng không biết, chỉ bị giật mình khi tiếng chuông vang lên cắt đứt ý nghĩ. Thế ra mình đến nhà thờ để suy nghĩ chứ không phải đi nghe giảng, ThyLoan tự nhận định. Thôi, dành cho Chúa đôi phút, tỉnh táo lại tham dự thánh lễ. Và bài hát được cất lên khi tiếng chuông thông báo. Cha giảng phòng bái quỳ, tiến lên hôn bàn thờ, đoạn làm dấu "Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần.... và đưa hai tay như chào hỏi, cất tiếng, Chúa ở cùng anh chị em..." và mọi người thưa, "Và ở cùng cha."Chợt tim ThyLoan như ngừng đập; một cảm giác nào đó bùng lên; nhà thờ chợt như bừng sáng. ThyLoan thầm kêu, lạy Chúa tôi, đoạn hai bàn tay bụm chặt lấy mặt cố nén tiếng khóc. ThyLoan thèm khóc; ThyLoan sợ quá; ThyLoan sợ Chúa của ThyLoan. Ôi! Ngài cao cả và huyền nhiệm, đầy bí ẩn, tại sao, tại sao. ThyLoan không nghĩ được gì nữa, lòng cứ thổn thức muốn khóc.

5/Chúa ở cùng anh chị em, và ở cùng cha. Thiên Chúa ở cùng chúng ta! ThyLoan ráng sức đè nén tâm tư để khỏi bật lên tiếng khóc trong khi lòng ruột vô cùng thổn thức. Một cảm giác lạ kỳ như có dòng điện tràn ngập toàn thân và hình như có động lực nào đó áp đặt lên cơ thể đè xuống bắt phải quỳ, nhưng ThyLoan nín thở dứt khoát không cử động vì mọi người đang đứng đọc kinh cáo mình mà quỳ coi chừng xảy ra điều tiếng chẳng nên chăng do bởi thái độ của mình không giống người chung quanh. Phải đè nén tâm tư trong khi hai tay bụm mặt quả là khó chịu. Một đàng phải cố nín thở, gồng người tránh những cử động thất thường, đàng khác, đầu óc phải đối diện với một khung trời dày đặc những câu Phúc Âm, những nhận thức khôn ngoan được ghi trong sách vở ThyLoan vô tình hay hữu ý đặt vấn đề. Tất cả chúng lần lượt hiện về, câu nọ móc nối câu kia lộn xộn, không theo bất cứ thứ tự suy diễn nào.

Chúa ở cùng anh chị em, và ở cùng cha. Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nước Trời không đến một cách nhãn tiền, và người ta không nói được này ở đây, hay ở đó, vì này, Nước Trời ở trong, ở giữa các ông. Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng. Và người ta sẽ gọi Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa là Thần Khí nên những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật. Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa sao? Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Thiên Chúa là nghệ sĩ tuyệt vời, Ngài đóng vai trò của mình nơi tạo vật ngài đã dựng nên. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Tất cả những gì chúng ta nói về Chúa đều là tưởng tượng. Mọi sự, mọi vật đều là hiện thể của Quyền Lực Tối Thượng, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống qua những dạng thức khác nhau. Con người là hiện thể của Thượng Đế nơi dạng thức nhân sinh. Tội lỗi bởi sự ngu dốt, thiếu suy nghĩ, thiếu hiểu biết mà ra. Thiên Địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Tâm Phật, Tính Phật. Ngươi hãy nhìn lên đám mây to lớn kia xem thế nào nhưng cũng không thể so sánh được với sự bao la của Tâm Phật nơi ngươi. Con người không phải thánh, chẳng phải thú nhưng đáng thương thay, những ai muốn làm thánh lại biến thành thú. Muốn nhìn cho rõ, hãy nhắm mắt lại. Muốn nghe cho rõ, hãy bịt tai lại. “You are much more than all that you can think of yourself.” Những kẻ tin vào Ta thì làm được những việc ta đã làm và còn làm được những việc lớn lao hơn thế nữa. Khốn cho các ngươi, Biệt Phái và ký lục, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết; các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản. Cho nó nhìn mà không thấy, nghe mà không hiểu e rằng nó nhìn mà thấy, nghe mà hiểu và nó ăn năn trở lại, ta sẽ cứu nó. Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã! Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. Metanoia, suy nghĩ khác thường, thay đổi não trạng, thay đổi chiều hướng suy tư. Cái bóng của Thượng Đế là quỉ vương. Thượng Đế và quỉ vương là một. Thượng Đế nơi mảnh sành vỡ. Thượng Đế nơi đống phân trâu. Ai có tai để nghe thì hãy nghe. Kiến tính thành phật. Thiên Chúa không kiến tạo sự chết. Nơi Thiên Chúa không có sự chết. Ta và Cha Ta là một.

Lấy câu "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" làm trung tâm, hình như có sợi giây liên hệ nào đó ràng buộc, nối kết những câu thaùch thöùc thức ngộ mang đầy tính chất ngang ngược xoay vòng vòng. Tâm trí ThyLoan chìm nơi viễn ảnh này và tất cả như một đám mây vần vũ được ánh sáng cảm nhận chiếu lên từng câu, từng lời phát biểu soi rõ ẩn ý chứa đựng nơi chúng. Có câu nói nào đó gợi về, niềm vui của kẻ trí làm bực mình người ngu, nhưng niềm vui của người ngu khiến kẻ trí xót thương, ngược lại, câu Phúc Âm trờ tới, "Hãy biết thương xót như Cha các ngươi trên trời là Đấng hay thương xót vì Người cho mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ và làm mưa rơi trên kẻ ngay cũng như người ác.”

Tiếng chuông rung báo hiệu đến lúc truyền phép kéo tâm trí ThyLoan thoát khỏi đám mây những câu nói nhận thức ngang ngược. Thiên Chúa ở cùng chúng ta; ThyLoan chợt nhận thấy tất cả mọi sự, mọi nơi, mọi lúc đều chỉ là tiến trình biến chuyển của thực thể Tin Mừng Nước Trời. Cha dâng mình thánh mà tâm trí ThyLoan đâu đâu để rồi ý tưởng, Thiên Chúa làm người được nhận biết rộng rãi hơn. Ai cũng là hiện thể của Thiên Chúa nơi dạng thức nhân sinh; ai cũng là Thiên Chúa làm người. Một Thiên Chúa hoạt động nơi Đức Giêsu cũng chính là Thiên Chúa hoạt động nơi mọi người, và cũng chính là Thiên Chúa đang hiện thể nơi vũ trụ, nơi từng gốc cây, ngọn cỏ, nơi từng viên sỏi, hạt bụi. Ôi! Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Hai ngàn năm qua, bao công sứcrao giảng, bao mồ hôi nước mắt hy sinh, bao tiền của công đức mà Tin Mừng Nước Trời vẫn như một mầu nhiệm, mầu nhiệm vì thiếu suy tư. Bao người đã ra đi! Bao hồn vẫn triền miên khắc khoải theo đuổi những tin buồn muôn thuở.

Thánh lễ đã hoàn tất, mọi người lĩnh phép lành mà ra về lòng dạ Thy Loan vẫn mông lung.

 

 

15/ KHÔNG BIẾT NÓI SAO

Câu hỏi này được gửi đến từ“Nguyen, Maria (M.T.)" hơn kém mười năm về trước. Thấy nhiều vấn đề cần được minh định nên ThyLoan ngại ngùng cứ lần lữa đình lại để suy nghĩ cũng như thu thập tài liệu đồng thời mong ước gặp được bài viết nào đó thảy đại lên trả lời cho qua. Giời! Nó cứ như là hòn sỏi nhỏ lọt vô chiếc giầy trong khi ThyLoan lại cứ lỳ lợm coi nó như một thách đố suy nghĩ may ra có thể nhìn rõ sự vật, sự việc cho thỏa lòng khát vọng hầu phần nào quán triệt suy tư hơn một chút. Nào ngờ, hơn kém mười năm trôi qua, thôi cũng đành nhắm mắt đưa chân giải thoát nỗi nhức nhối tâm tư.

Thiển nghĩ, câu hỏi bao gồm nhận thức về ít nhất mấy vấn đề,

-Tại sao tin vào Thiên Chúa

-Phát biểu, Thiên Chúa tạo dựng

-Thieân Chuùa chuộc tội thiên hạ

-Không có bằng chứng tạo dựng

-Họ tin vào thuyết tiến hóa (evolution)

-Không biết nói sao

1/ Tin, mang nghĩa thế nào nơi tâm trí con người.

Chúng ta thường nghĩ / nói, tin mặt trời soi sáng. Vậy nếu nói rằng không tin mặt trời soi sáng thì mặt trời có trở nên tối đen hay chăng? Như thế, theo nghĩa bình thường, nói rằng tin hay không tin nơi thực thể hiển nhiên không mang nghĩa nào hết, chẳng ảnh hưởng chi đến người nói, không thay đổi bất cứ gì nơi thực tại, họa chăng chỉ để người nghĩ rằng mình tin may ra được yên lòng.

Bình thường, khi nói đến tin có nghĩa cho rằng điều gì đúng, hiện thực, dẫu mình thích, đồng ý hay e sợ, hoặc chán ghét cho dù mình đã có kinh nghiệm về sự việc đó hay không. Thế nên nói rằng tin mặt trời soi sáng có nghĩa nghiệm chứng, chứng thực qua kinh nghiệm cuộc sống của mình sự thể mặt trời soi sáng, mà đã thực chứng mặt trời soi sáng thì đâu cần tin hay không. Tuy nhiên, nói tin một người nào đó là người tốt khi chưa có cơ hội giao tiếp, hiểu biết về người đó cũng chỉ mang nghĩa nghĩ rằng, cho rằng đó là người tốt bởi nghe, hoặc đọc về người đó. Học được điều gì lợi ích hoặc chẳng nên từ người đó để áp dụng nơi cuộc đời mình lại tùy thuộc chính mình. Tin theo nghĩa này thường được chấp nhận một cách rộng rãi. Nơi trường hợp khác, chẳng hạn khi phải đối diện với mối thất lợi hoặc sự e sợ nào đó mà lòng mình không muốn, hoặc ước mong chuyện đó không xảy đến với mình, hoặc chuyện, sự việc nào đó mình ước muốn nên cầu mong tất nhiên mình cố gắng, dùng mọi phương cách, cơ hội, từ ý nghĩ, tính toán đến hành động, thái độ để đạt được hoặc tránh né điều mình e sợ, loại tin này thực sự ảnh hưởng tùy theo mức độ của lòng mình thế nào. Xét thế, chỉ một chữ “Tin,” tùy người, tùy trường hợp, lại tùy tâm tính, điều kiện, căn cơ của người đó được áp dụng hoặc giãi bày như thế nào.

Câu hỏi tại sao tin vào Thiên Chúa có thể ẩn chứa tâm trạng nào đó của người hỏi, hoặc là bày tỏ nỗi khát khao như một bẩm sinh nơi mọi người muốn nhận biết về thực thể chính mình, những liên hệ của mình với thực tại hữu hình cũng như vô hình. Nếu ai đó đã vô tình có lần nghĩ đến sự thể, sự việc nào đó dẫu chưa bao giờ đối diện có thể xảy ra hoặc một tư tưởng nghịch thường đối với quan niệm bình thường của những người đương thời để rồi e sợ đôi khi khiến ăn không ngon, ngủ không yên, sẽ nhận biết rõ ràng nỗi khát vọng nhận biết chính mình, tại sao mình được sinh ra đời vào thời điểm này mà không được sinh ra ngàn năm trước hay ngàn năm sau; mình sẽ đi về đâu sau khi chết; mục đích cuộc đời mình là gì; trước khi được sinh ra mình thế nào v.v...

Thiển nghĩ, có lẽ nên đặt vấn đề tin vào Thiên Chúa như thế nào; như vậy cần biết Thiên Chúa ra sao, mình cảm nhận hoặc nghiệm chứng được những gì, thực thể được gọi là Thiên Chúa có liên hệ gì với con người trước khi giải nghiệm sự thể “tin vào Thiên Chúa.” ThyLoan đặt vấn đề đến đây chẳng khác gì bới bèo ra bọ nhưng không bới lại cứ khơi khơi ù xọa, nói, quan niệm điều mình không biết, chưa nghiệm chứng cho qua chỉ khiến lòng dạ thêm bối rối, nhức nhối. Chân thành hồi tâm nghiệm chứng lòng dạ nơi mình mới thấy thẳng thắng đối diện với nhưng khúc mắc, từng vấn đề được nêu lên hoặc nghĩ tới chưa được rõ ràng, phân định mới là lối giải quyết tuyệt vời nhất. Những thao thức chẳng khác gì hạt bụi lọt vô tròng mắt hoặc viên sỏi chui vô trong giầy, không giải quyết chúng, không bới chúng ra, muôn đời khắc khoải để rồi chúng đeo đẳng khiến mình chỉ còn nước sống để dạ, chết đem đi như bao người đã qua, có cuộc đời, đến gần cuối cuộc sống lại sợ chết, cố bám víu vào hy vọng kéo dài thời điểm chết được giây phút nào hay giây phút ấy dẫu muôn vàn khốn khổ đang đè nặng nơi thân xác và lòng ruột triền miên e sợ bởi chẳng biết mình rồi sẽ ra sao sau khi thân xác qua đi.

Tại sao nói đến yên lòng? Điều gì khiến con người e ngại đến nỗi lý thuyết, chủ thuyết có thể lay động tâm hồn khiến họ cảm thấy bất an. Tại sao sợ chết dẫu biết rõ đã được sinh ra thì phải chết, vừa được sinh ra đã mang án tử. Chưa cần biết tại sao mình được sinh ra thì đã sợ chết. Một cuộc đời bao gồm thời gian sáu, bẩy mươi năm, có khi tới hơn kém trăm năm để làm gì đến nỗi chưa chết đã e sợ không biết mình sẽ ra sao? Đã được sinh ra thì phải sống, cũng như đã được sinh ra thì phải chết, có e sợ cũng phải chết thì e sợ mang lại ích lợi gì, có chăng chỉ làm mất vui cuộc sống; mà cuộc sống đã chắc gì vui, thế nên cứ khắc khoải tại sao tin vào Thiên Chúa bởi nghi ngờ tất cả những gì mình có thể bám víu có thể là hoang tưởng dẫu chỉ trong tâm tưởng, và bởi thấy chẳng còn gì để bám víu đành tuyên xưng mình vô thần, tin vào thuyết tiến hóa để có thể tạm gọi là có niềm tin nhưng lại chẳng có gì để tin. Nếu thuyết tiến hóa là một thực thể đang diễn tiến thì đâu cần gì phải tin. Dĩ nhiên, theo thuyết tiến hóa, dòng sinh mệnh đào thải, thoái hóa những gì không cần thiết và phát triển những gì ít nhất có phần nào tiếp tục thăng tiến. Như thế những ai còn tay chân, còn miệng mũi chưa tiến hoùa mấy. Những người tiến hóa chỉ cần cái đầu to đùng, may ra chỉ cần có hai ngón tay để chọc những nút điện tử. Mới phác họa như thế, ThyLoan đã không dám nghĩ đến tiến hóa nữa nhưng nghĩ thà chết sớm đỡ sợ hơn tiến hóa thành quái thai không chân, không mình mẩy chỉ có hai ngón để chọc nút này, ấn nút nọ.

Bình thường, mỗi khi nghe thấy ai đó nói tin thế này, không tin thế kia, ThyLoan cảm thấy hình như họ dùng sai ngôn từ bởi nhận ra hoặc họ nghĩ rằng, cho rằng sự việc đã, sẽ thế này hoặc thế kia dẫu có bằng chứng hay không. Nếu có một phần nào minh chứng thì phải dùng ngôn từ, noùi leânnhững lý do, sự kiện nào đó, sự thể tiếp nối sẽ xảy ra thế này hay thế nọ. Trường hợp này có nghĩa nghĩ rằng, cho rằng suy luận để nhận thức về sự vật sự việc được phát biểu thành “Tin” dẫu ảnh hưởng hoặc không đến người nói. Nơi trường hợp điều gì mang mối đe dọa nào đó tới người nói khiến họ e sợ sẽ xảy đến có lẽ nên dùng tiếng “E ngại,” nhưng lại cũng dùng chữ tin. Ai cũng thế, trong lòng đều có niềm ước mơ, thao thức, hoặc e ngại về bất cứ việc hay vấn đề nào. Thế nên ai cũng nhận thấy câu nói, “Không thể sống mà không tin.” Nơi trường hợp này, niềm tin, điều ước mơ đem lại cho người mơ sức mạnh thúc đẩy bổ xung ý chí tạo thành niềm vui cũng như năng lực tạm gọi là hy vọng dẫu niềm mơ có thể là không tưởng. Hình ảnh ám định của người tin, mang niềm mơ không hiện thực theo thế tục hay mơ tưởng theo ước vọng do bất cứ lý do gì đều được gọi là người ngủ biết đi.

Trường hợp khác cũng được dùng ngôn từ tin như chỉ hùa theo cho giống mọi người chung quanh mới đáng sợ. Trạng thái này chẳng khác gì câu nói của người Nga, “Chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Người nơi trạng thái này rất e sợ người khác biết được tẩy ngu ngơ của mình nên dễ liều mạng kiến tạo chiến tranh đối nghịch với những ai không phát biểu giống họ. Họ giống như chiếc thùng rác chỉ biết chấp nhận những gì người khác quăng vô bằng cách này hay bằng cách khác, cố sức nuốt xuống bằng mọi cách dẫu phải hy sinh, hãm mình, chịu khốn khổ bởi luôn luôn e sợ; sợ bị phạt, sợ mất gốc, sợ rối đạo, sợ trở thành con chiên ghẻ, sợ những ánh mắt lườm nguýt, những lời nặng tai nói ra nói vô của những người chung quanh. Tuy vậy, lâu dần rồi đời cũng quen; gãi ghẻ riết cũng trở thành một loại thú đau thương; càng ngứa càng gãi, càng gãi càng rát, và càng rát càng sướng; bỏ thì thương, vương thì tội, chỉ đáng ngại cho tâm hồn luôn ray rứt, thao thức mãi không thôi bởi không dám đối diện cõi lòng đành hy vọng được giải thoát để rồi bày ra những tập tục, thói quen chịu đựng dễ học nên khó chừa và chết đi như muôn muôn người đã qua dẫu vẫn sợ chết mà cũng chẳng thoát. Ôi! Tin bởi e sợ mà ra; quả đáng tội cho những tâm hồn này!

Thế rồi, bởi nặng mang niềm tin mù mờ bởi không biết mình tin gì, dẫu được gọi chung là tin, người ta phải hùng hổ tìm kiếm đồng bọn để trấn an nỗi thất vọng do e sợ vu vơ đành bám víu vô quan niệm “Đa số thắng tiểu số,” cứ cho rằng nhiều người nói lên nơi miệng tin giống mình thì niềm tin mông lung nơi mình được coi như đúng đắn hầu an lòng, và sẵn sàng lên án bất cứ ai không nói giống mình, không nói giống những gì mình đã phải cố gắng nuốt vô bởi những tư tưởng, lý thuyết, quan điểm của họ phần nào đe dọa lật tẩy ngu ngơ của mình. Tất nhiên, ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Bất cứ ai dám đối diện với lòng, lục tung nó lên và dám cả gan phơi bày thực trạng thao thức nơi họ, chắc chắn sẽ được chụp mũ rối đạo chẳng những lên đầu lên cổ mà coi chừng cha mẹ, anh em họ hàng cũng bị đoàn lũ không dám suy nghĩ, nhận thức lên án. Ôi, kẻ dám nhận thức, suy tư nơi trường hợp bị chụp mũ này chẳng khác gì chiếc lưỡi giữa hai hàm răng. Hàm trên chính là nỗi thao thức gậm nhấm nơi trận chiến nội tâm, khao khát tìm hiểu, nghiệm chứng nhận biết chính mình để thỏa mãn động lực nào đó thúc đẩy khát vọng thầm kín của thân phận nhân sinh. Hàm dưới chính là những kẻ sống chung quanh đang nơi cảnh chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết. Người Mỹ có câu, “Damn if you do; damn if you don't.” Nơi tiếng Việt có lẽ phải dùng hai câu nói gom lại, “Nói ra thì bảo rằng ngoa, không nói lại bảo người ta là đần,” và câu khác, “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Viết đến đây, ThyLoan nghiêng mình cảm phục những vị bạo phổi dám chân thành thật lòng đối diện với chính mình đồng thời liều mạng khuyến khích cũng như chia sẻ giúp người khác đối diện tâm hồn họ với ước vọng may ra họ thỏa mãn niềm khát vọng tiềm ẩn nhận biết chính mình, biết mình tin gì để có niềm an bình của Đức Giêsu hứa ban.

2/ Tin, phaùt bieåu mô hoà neáu thieáu nghieäm chöùng.

Đối diện với lòng, chỉ một tâm tình được gọi là tin chúng ta đã thấy mông lung vì chưa bao giờ đặt vấn đề, hoặc có ý nghĩ, suy tư nào tự hỏi mình tin gì nên đã không biết sao thực sự trả lời phương chi nói đến tâm tình, trạng thái được gọi là tin. Nói rằng tin theo đức Phật, đức Chúa lại càng mông lung hơn bởi mình đã không có ý nghĩ, suy tư về đức Phật, đức Chúa mà cứ học theo hoặc nói theo những truyền thuyết, những suy luận của người khác. Nhận thực như thế, ThyLoan phải đặt lại vấn đề. Thường nghe thiên hạ nói về tin đức Phật, câu hỏi đầu tiên đến với ThyLoan đó là đức Phật là ai, thế nào; tin đức Phật ra sao, được lợi ích gì. Ôi muôn thứ truyền thuyết rối tung lên, nào tam bảo, cúng dường, hỉ,nộ, ai, ưu, ái, ố, dục, nào pháp, nào thuyết, nào thiền, nào quán, nào định, nào bè nọ, phái kia, Nam tông, Bắc tông, rồi Phật Thích Ca, Phật Di Đà, Phật Bà Quan Âm, nào Đạt Ma Sư tổ, nào tổ Lâm Tế, ngũ tổ Hoàng Nhẫn, lục tổ Huệ Năng, rồi tiệm, rồi ngộ, rồi minh, lại có cả vô minh, thuyết nào cũng hay, thuyết nào cũng truyền bá đúng đắn, đúng đến độ đối nghịch nhau. Thế rồi phương pháp ngồi thiền, ngồi thế này, ngồi thế kia, rồi lại cũng “Ngồi nhiều sinh bệnh” nên phát sinh hành thiền, kiến tính thành Phật.

Quái, đã kiến tính thành Phật sao còn tin Phật! Có đức Phật nào bảo mình cúng, kiếng không mà cúng dường, xây bậc phù đồ. Phù đồ là chùa đó quý vị ạ! Đạt Ma Sư Tổ hô lên, chỉ có một tội độc nhất là tội vô minh vì nó cầm giữ con người luẩn quẩn trong vòng luân hồi không thoát ra được, trong khi bao nhiêu sách vở nhà Phật nhan nhản truyền bá diệt dục. Cố gắng diệt vô minh đã là dục thì diệt dục cứ nên vô minh; trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. Đã kiến tính thành Phật mà tổ Lâm Tế lại phán, gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, không tin ai hết, không để ai lừa dụ. Trời đất quỉ thần ơi, gặp Phật giết Phật thì khi trở thành Phật coi chừng là lúc tự tử ư? Thích Ca dạy rằng, lời ta nói như chiếc bè; ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng; đặc biệt hơn nữa, ngài cũng phán, trong 49 năm truyền đạo, ta chưa nói câu nào. ThyLoan chân thành xin các vị thức ngộ nhà Phật thông cảm đã nêu lên những sự thể theo nghĩa từ chương trong nhận định phiến diện thế tục với mục đích đặt vấn đề khuyến khích suy tư nếu độc giả nào đó có ý muốn tìm hiểu thêm về Phật học. Vẫn biết chỉ nêu lên những danh hiệu một cách mơ hồ đem lại lợi ích tuyệt vời đối với những hành giả Phật tử như một cơ hội áp đặt suy tư thúc đẩy thức ngộ, riêng đối với những đầu óc chỉ trích, ThyLoan sẽ bị mang vạ ngạo ngược, đem của thánh cho chó, tất nhiên sẽ bị nó quay lại cắn xé, thì cũng đành chịu. Có lẽ ThyLoan bị ảnh hưởng bởi mấy vị thức ngộ nhà Phật nên tiêm nhiễm thói ăn nói ngổ ngáo, ngạo đời của họ chăng, nhưng dẫu thế nào, ThyLoan luôn ghi ơn các vị ấy và cũng nhờ họ ThyLoan nghiệm được những công án, “Người biết không nói, kẻ nói không biết,” (Lão) hoặc “Lửa thì không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng,” (Huệ Thi) cũng như công án thách đố của ngũ tổ Hoàng Nhẫn, đứng trước ba ngàn môn đồ, giơ lên cây gậy đánh chó ngài nói, “Cái này là cái gì, nói đi. Nếu nói nó là cây gậy ta đánh ba mươi hèo; nếu nói nó không phải là cây gậy, ta cũng đánh cho ba mươi hèo. Nói đi! Nói đi!”

Nói tới nhà Phật lắm tông, nhiều phái không thể kể xiết. Kinh sách lại tùy thuộc chẳng những môi trường, tâm tính, và chủ đích Phật gia, mà còn lệ thuộc ngôn từ được dùng để diễn tả nên hành giả cứ rối tung lên. Tuy nhiên, khi nói tin vào Thiên Chúa, dẫu chỉ một cuốn Kinh Thánh, suy tư, nghiệm chứng lại càng khó hơn. Đàng khác, đặc biệt Phúc Âm được sinh sau đẻ muộn gom góp sự khôn ngoan đạo học trãi dài từ bao đời đạo học Đông Phương nên diễn trình khôn ngoan nơi Kinh Thánh coi bộ dễ hiểu mà thật ra hiểu không dễ phương chi thức ngộ. Có điều, không hiểu về đạo học Đông Phương, muốn thức ngộ về Phúc Âm có thể sẽ là điều mộng tưởng. Vị nào thực sự thao thức muốn nhận biết về Thiên Chúa, chắc chắn tâm trí sẽ rối tung lên với câu nói của Thomas Aquinas, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói gì về Ngài; những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Nhà thơ Robert Browning lại viết, “Thượng Đế là một nghệ sĩ tuyệt vời, Ngài đóng vai trò của mình nơi tạo vật Ngài dựng nên,” thế thì còn phép tắc nào nữa không? Vậy tin vào Thiên Chúa thì tin thế nào, rồi lại đức tin là thứ gì mà dân Chúa khi nói về tin cứ ậm ừ như gà mắc dây thung. Các đấng rao giảng về Chúa bao công sức tu đức mà chẳng bao giờ thực hiện lời Phúc Âm, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi. Nếu tay các ngươi, chân các ngươi là cớ cho ngươi vấp phạp thì chặt mà quăng chúng đi.” Chẳng lẽ các vị rao giảng không bao giờ vấp phạm nên thấy ai cũng lành lặn, chẳng ai bể đầu sứt trán?

Nếu ThyLoan không lầm, bất cứ ai cũng được sinh ra với lòng thao thức, khát vọng muốn nhận biết về thực thể chính mình, mình là ai, sau khi thân xác qua đi mình sẽ thế nào, về đâu, ra sao. Đây là gốc gác của sự suy tư, tìm hiểu dù bằng phương thức nào của một người và khi đã nhận biết được thực thể đời mình thì được gọi là thức ngộ. Rảo qua các đạo học Đông Phương, ThyLoan thấy tất cả đều ấp ủ một điểm chung và đó là có một quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật. Quyền lực tối thượng này được diễn tả bằng nhiều danh hiệu khác nhau, chẳng hạn Thượng Đế, Thiên Chúa, Chân Như, Tào, Brahma. Tùy theo sự nhận thức và phát biểu cũng như ngôn từ tùy thuộc các vị trước tác kinh sách đạo học, những giãi bày muôn màu, muôn vẻ mang những trình độ khác nhau. Như thế, kinh sách đạo học là sản phẩm của các vị thức ngộ; những vị thức ngộ này cũng được gán cho những danh hiệu khác nhau chẳng hạn phật, chân nhân, thánh nhân, thức ngộ (phật).

Do lòng thao thức và nỗi khát khao muốn thỏa mãn lòng thao thức, tuỳ hoàn cảnh, thể lý, và điều kiện sống ảnh hưởng tâm trí, mỗi người mơ hồ nhận thức một hình ảnh hay sự thể, hoặc khuôn mẫu nào đó đang cách nào đó áp đặt toàn bộ cuộc đời mình. Đạo học được sinh ra từ đây và dẫn đến nghiệm chứng cho hành giả, cũng như sự thực hành bày tỏ lòng thao thức nhận biết quyền lực tối thượng này được gọi là tôn giáo. Như vậy, tôn giáo là tổ chức nhân sinh diễn tả lòng khát vọng cũng như tìm hiểu, học hỏi về thực thể tâm linh qua những trước tác hoặc chủ thuyết của các nhà rao giảng tạm gọi là giáo lý và nhấn mạnh nơi sự tin tưởng và thờ phượng. Thế nên, khi nói đến tin, người ta thường hiểu lầm về giáo điều, tín lý, mà giáo điều cũng như tín lý lại lệ thuộc tiến trình suy tư, nghiệm chứng của con người tùy thuộc tổ chức tôn giáo và thời gian tiến triển. Con người thăng tiến, chủ thuyết cũng phát triển. Dĩ nhiên, những chủ thuyết đâu được viết cho giới bình dân am hiểu. Giới bình dân chỉ biết nghe mõ, bỏ tiền, chỉ vì đồng tiền liền khúc ruột; đóng tiền hay cúng dường được coi như đóng góp công sức cho sự thức ngộ, được cứu rỗi, và như thế, theo Đạt Ma Sư tổ, vẫn luẩn quẩn trong vòng vô minh; vì sự thức ngộ không học được, không mua hay bán được; dẫu thế vẫn có những quái thai không biết từ đâu mọc ra thứ được gọi truyền tâm ấn như đã xảy ra tại Mỹ mấy năm nào để rồi phát sinh ra sự việc uống nước tắm vô thượng sư khiến tan nhà nát cửa chẳng biết thăng hoa đi đâu khi vô thượng sư trở thành vợ một người nào đó.

Nơi Thiên Chúa Giáo, Quyền Lực Tối Thượng được gọi là Thiên Chúa. Dĩ nhiên, đông người, nhiều ý nên phát sinh lắm chiều hướng, quan niệm, cảm nghiệm về cũng một Đấng và thế rồi muôn sự rắc rối phát sinh tạo dựng lắm bè, nhiều tổ chức đã lắm phen đấm đá qua nhiều kiểu, nhiều sách lược. Không dám bàn đến chủ thuyết vì sợ cảnh, “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết.” Đàng khác, như Thomas Aquinas nhận định, không thể dò thấu Thiên Chúa và tất cả những gì chúng ta nói, quan niệm về Thiên Chúa đều là tưởng tượng; đồng thời, thực tế minh chứng, mỗi người nơi tâm tư do thao thức, khát vọng nhận biết về cuộc đời, về chính mình nên tự đã kiến tạo một hình ảnh, khuôn mẫu, hay viễn tượng về Thiên Chúa. Bởi vậy, khi bàn luận, hay nhận định, cũng như diễn giảng, giải thích, hoặc truyền bá, cũng chỉ một danh hiệu Thiên Chúa nhưng quan niệm, nhận định mỗi người khác nhau phát sinh nhiều cảnh trớ trêu, bất đồng. Sự thể này chẳng khác gì nơi một gia đình gồm đôi vợ chồng và mấy người con; nếu nói những đứa con nhận định về bố hay mẹ chúng, sự khác biệt được diễn tả của chúng tất sẽ không giống nhau. Vấn đề thường được nhận định đó là ai đúng ai sai theo lối nhìn thế tục. Thực ra nhận định của mấy người con không ai đúng, chẳng ai sai vì mỗi nhận định của họ tùy thuộc chẳng những kinh nghiệm liên hệ thân tình gia đình, tâm tính của bố hay mẹ cộng hưởng với tâm tình và tính chất cũng như kinh nghiệm sống, không quên ảnh hưởng bè bạn và quan niệm xã hội nơi mỗi người con. Có lẽ chính bởi những khác biệt quan niệm suy tư do ảnh hưởng quá nhiều yếu tố tâm lý, thể lý, xã hội, môi trường, điều kiện nhận thức v.v... đã phát sinh những bè phái và những sự chẳng nên xảy ra giữa những thao thức của con người chăng. Nhận định như vậy, ThyLoan tạm dùng danh hiệu Quyền Lực Tối Thượng (QLTT) để chỉ về Tào, Chân Như, Brahma, Thượng Đế, Thiên Chúa, Ông Xanh. QLTT cũng đồng nghĩa và là một với Quyền Lực Sự Sống, Quyền Lực Hiện Hữu. Nơi bài viết này, vì câu hỏi dùng danh hiệu Thiên Chúa nên ThyLoan cũng dùng danh hiệu này.

ThyLoan chỉ thử nêu lên một vài cảm nghiệm, nhận định cá nhân về Thiên Chúa từ danh nhân hay đạo học. Nơi Đạo Đức Kinh có câu, “Thiên Địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Tạm hiểu, trời đất coi con người như chó rơm (con chó làm bằng rơm, trước khi được dùng để cúng thì được nâng niu, trang hoàng lộng lẫy và quý giá, nhưng khi đã cúng xong, người ta đem quăng thùng rác.) QLTT không thiên vị ai và cũng chẳng làm khó ai; tất cả đều là sự tuần hành, hoạt động phải xảy ra. Samuel Butler nêu quan điểm, “Thiên Chúa mà không có quỷ vương là một thiên chúa chết. Samuel đồng thời cho rằng sự khác biệt giữa vô thần và hữu thần chỉ là vấn đề tên gọi, gọi QLTT là Thiên Chúa hay gọi bằng tên khác. Dietrich Bonhoeffer bày tỏ, chúng ta nhận biết Thiên Chúa nơi những hiểu biết của con người chứ không phải nơi những điều chúng ta không biết, cũng không phải nơi những phiền hà khốn khó mà nơi những sự việc chúng ta đã thực hiện. William Arrowsmith nhận thức, nếu Thiên Chúa thực sự là toàn hảo, Ngài không thiếu sót sự gì. Max Lenner cho rằng, Thiên Chúa chính là thiên tính con người nhận biết nơi mình. Thiên Chúa hiện thể nơi đường hướng tuyệt vời nhất con người hành xử trong cuộc sống thường ngày và ước vọng cao xa nhất con người cố gắng đạt tới.

Lật Phúc Âm, Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng lại hoàn toàn đối nghịch với những gì mà ThyLoan được dạy dỗ. Chúng ta được dạy dỗ và thường quan niệm, Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Phúc Âm lại viết, hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện vì Ngài cho mặt trời soi sáng trên kẻ xấu cũng như người tốt và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính. Phỏng nói như thế, Thiên Chúa của Đức Giêsu công bình nhưng không công thẳng! Nơi Ca Dao có ghi lại câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Tiền nhân dân Việt dùng câu này diễu cợt những ai tuyên dương, rao truyền điều chính họ không biết. Có lẽ ThyLoan đã được dạy dỗ những điều chính người dạy cũng không biết họ dạy gì vì quá đối nghịch với lời dạy nơi Phúc Âm! Đức Giêsu rao giảng một đàng, người ta tuyên truyền một nẻo thì nói rằng tin vào Thiên Chúa, tin một Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ gốc gác phát xuất tự đâu? Cũng phải thậm phục tiền nhân đã có bậc thức ngộ để lại câu nói như đùa mà quá thâm trầm, nhắc nhở người nghe nên đặt lại mọi vấn đề.

Sự thể vốn như thế trong khi chúng ta thường vội chấp nhận nên lại cũng thường rơi vào thực trạng Đạt Ma sư tổ gọi là vô minh. Như một lẽ tự nhiên, chúng ta thích và dễ dàng chấp nhận những câu trả lời hoặc giải thích ngắn gọn, dễ hiểu nếu không muốn nói là có thể sờ mó được giống như mì ăn liền không khác gì câu hỏi tại sao tin vào Thiên Chúa, hoặc minh xác, tin vào thuyết tiến hóa. Câu nói đã xác định rõ chỉ là lý thuyết mà chấp nhận tin vào thuyết ấy thì tin thế nào? Thuyết tiến hóa chỉ là một giả định, giả tưởng nên được gọi là thuyết. Thế thì tin vào thuyết tiến hóa tất nhiên tin vào giả tưởng; vậy cũng gọi là tin? Họ nói gì vậy? Họ có biết họ nói chi, nghĩ gì khi dùng chữ tin chăng? ThyLoan có cảm nghĩ họ vô tình lặp lại câu ca dao về con ba ba ở đầu ngòi!

ThyLoan thử phân tích chứ không chỉ trích bởi mọi người cũng như ThyLoan từ ngàn xưa tới giờ vẫn vội tin vào những giảo biện hay những nhận thức sai lầm như thế. Chớ vội nóng tính cho rằng ThyLoan vơ đũa cả nắm. Ừ thì chấp nhận bạn là con người có suy tư, không chấp nhận những gì khoa học không chứng minh được và rất e dè khi nhận định đồng thời cẩn thận nghiệm chứng cũng như thực chứng mọi sự trước khi tin tưởng. Tuy nhiên, chúng ta thường nói và chấp nhận như một thực thể tự nhiên chẳng hạn đôi mắt nhìn, cặp tai nghe, chiếc miệng nói và bộ óc suy nghĩ. Các nhà khoa học cũng nói như thế. Nơi mục khoa học nhân thể của chương trình truyền hình Discovery được một số hoa học gia chuyên biệt giải thích về hoạt động của não bộ liên hệ tới sáng kiến, tư tưởng phát hình và giải thích rằng những tư tưởng mới, sáng kiến được phát sinh nơi những giây thần kinh não bộ. ThyLoan vô tình tự hỏi, thế sao biết bao người có những đôi mắt tốt lành, cặp tai tinh tường, chiếc miệng ăn nói dễ thương, và những bộ óc siêu việt nhưng khi cái gì đó nơi nội tại, tạm gọi là linh hồn thoát ra khỏi xác thì đôi mắt coøn có thể nhìn, tai coøn có thể nghe, miệng coøn có thể nói, và bộ óc coøn có thể nghĩ được nữa chăng?

Mọi người, ai cũng thực chứng được mắt, tai, miệng, óc, tự chúng có thể tự hoạt động được hay không, thế sao chúng ta nói, nghĩ, chấp nhận con mắt nhìn, lỗ tai nghe, chiếc miệng nói, và bộ óc suy nghĩ? Phải chăng con người tự thuở tạo thiên lập địa tới giờ, thế kỷ 21, đã không chịu suy nghĩ mà chấp nhận một cách bừa bãi, thiếu nhaän thöùc daãu ñangthực chứng như thế. Chính ngay nơi mỗi người, trãi qua bao thiên niên kỷ, bao người đã ra đi, đồng thời tất cả mọi người thời bây giờ đã không để ý khả năng tự chín chắn nhận định, tránh hùa theo chấp nhận! Nói gì và nói sao? Đã nhận định sai lầm về chính con người của mình thì sao có thể nói đúng đắn về thực thể tối thượng là Thiên Chúa, phương chi nói về tin. Nơi Kinh Thánh được viết, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Hình ảnh của Ngài mới chỉ nhận thức căn bản về mắt, tai, miệng đã không chỉnh thì nhận thức, suy nghiệm nào toàn hảo? Cứ theo lý luận, một tâm hồn không nhận biết mình thế nào, mình là ai sao có thể suy nghiệm, nhận thức về Thiên Chúa phương chi nói đến tin! Thiển nghĩ, hình như chúng ta không dám nói thật bởi e nói thật sẽ không được người chung quanh chấp nhận nên cứ tự lừa dối và đồng thời lừa dối mọi người để được họ xếp chung cá mè một lứa. Người dạy không biết mình dạy gì; người rao giảng chẳng biết mình quảng bá chi nên người nghe, đọc, đành tuyên xưng tin, tin bừa bởi không biết mình tin gì! Quái!

3/ Tin vaøo Chuùa, tin ñöùc KitÔ

Theo đạo Công Giáo dầu không biết mình có ước muốn tin theo Đức Kitô và Thiên Chúa lúc được chịu phép rửa tội hay không; thiển nghĩ, ThyLoan nên tìm hiểu xem Thiên Chúa như thế nào. Dĩ nhiên, tài liệu đầu tiên phải là cuốn Kinh Thánh. Có điều, chuyeän rất bình thường nhưng thường thì lại được coi là khác thường nếu không muốn nói hoặc bị cho là nghịch thường đó là dẫu tuyên xưng mình là Kitô hữu, người ta lại ít để ý đến Đức Kitô dạy thế nào mà gom góp, nghe hơi, ngồi chõ những gì đâu đâu rồi hô lên phải tin thế này, phải tin thế kia rối tung lên; rối đến nỗi chính người tuyên xưng tin vào Chúa cũng chẳng biết mình nói gì hoặc tin gì, rất hợp với câu ca dao về con ba ba đầu ngòi.

Đọc Phúc Âm, ThyLoan nhận ra một điều khác lạ hơn đó là Phúc Âm nói những câu rất khó hiểu hoặc có thể hiểu được cũng chẳng thể nào áp dụng được và trình bày về một Thiên Chúa của Đức Giêsu hầu như đối nghịch với những sự giảng dạy của mấy ông trùm, mấy dì phöôùc, hoặc mấy cố đạo. Chẳng hạn Phúc Âm được viết, “Còn những thành khác nữa ta phải loan báo tin mừng nước trời, vì đây là mục đích Ta được sai tới” (Lc. 4:43). Cứ theo câu này thì mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là loan báo, rao giảng tin mừng nước trời. Không hiểu sao, người ta lại cứ hiển nhiên công bố Chúa Giêsu đến để chịu chết chuộc tội cho thiên hạ. Chẳng lẽ Phúc Âm viết sai, viết rối vì “Chúng khẩu đồng từ, nhà sư cũng chết,” đa số thắng tiểu số mà; hầu hết người ta nói Chúa chết để chuộc tội cho thiên hạ; chỉ có Phúc Âm viết Chúa đến để rao giảng tin mừng nước trời. Phỏng như vậy, dưới mắt người có đạo, Phúc Âm rối?

Qua Phúc Âm, Đức Giêsu gọi và dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha, và như đã được nhắc phía trên, ngài dạy, các ngươi hãy trở nên thiện hảo như Cha các người trên trời là Đấng thiện hảo vì Ngài cho mặt trời soi sáng trên kẻ lành cũng như người dữ và làm mưa xuống trên kẻ ngay cũng nhưkẻ ác; trong khi mấy người dạy giáo lý lại phán, Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Hừ, mấy con bạn tốt lành, chỉ hơi tinh quái, dám nghịch ngợm mà bị phạt, bị quất roi mây vô đít khóc hu hu, chẳng ác, chẳng dữ cũng bị phạt, không biết Thiên Chúa yêu thương biến đâu mất! ThyLoan sợ mấy ông chúa trời ngôi thứ tư này nên tránh càng xa càng tốt. Ấy, các cụ hay lặp lại câu chữ nho, kính nhi viễn chi có lẽ mang ý nghĩa như thế.

Hình như người ta thường hay có thói quen lấy chính mình làm khuôn mẫu để nhìn nhận hoặc xét đoán sự việc. Thế nên cũng quen thói lấy nhận thức của chính mình về Thiên Chúa rồi bắt cóc Đức Giêsu ráp vào, không cần biết Đức Giêsu đã dạy gì qua Phúc Âm. Chẳng phải một người quen thói mà cả tổ chức lên án những người không quan niệm về Thiên Chúa giống mình thế là ngôn từ rối đạo, phá đạo được phát sinh. Ai sợ chứ ThyLoan tôi không sợ; không sợ bởi vì không dám nói ra nên chưa bị kết án chứ không phải dám bạo phổi nói ra. Ôi! Nếu nói không giống họ thì chỉ có mà loãã vốn, thiệt mình là một, hại làng là hai; chỉ những con mắt lườm nguýt đã bào mòn cả thân xác, lỡ thành con mắm khô thì sao. Bố mẹ biết được thì lại bị chửi con này ngu.

Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu rao giảng về một Thiên Chúa rất thân thiết với mọi người, ngự trị nơi bất cứ ai, dẫn đàng dắt lối, cũng như thấu hiểu và thực hiện những gì con người thật lòng cầu khẩn, “Thiên Chúa là Thần khí nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong thần khí và sự thật” (Jn. 4:24) vì, "Trong các tiên tri đã có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta" (Jn. 6:45). Nghe và học nơi Thiên Chúa có nghĩa phải suy nghĩ, suy nghiệm, nghiệm chứng sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi cuộc đời của mình và có như thế mới hiểu được những lời giảng dạy của Đức Giêsu. Ngay như Phêrô trước khi chối Chúa cũng đã được minh định nơi Mt. 16:17 "Đáp lại, Đức Giêsu nói với ông: 'Simon,Baryôna, ngươi có phúc, vì không phải thịt, máu, đã mạc khải cho ngươi, mà là Cha Ta, Đấng ngự trên trời!" Câu này chứng tỏ Thiên Chúa ngự trị ngay nơi cõi lòng mọi người. Hơn nữa, Ngài còn khuyên, "Hãy coi chừng mà tránh men của Biệt Phái và bè Sađóc!" (Mt. 16:7) Như vậy chúng ta nêntránh giáo lý của biệt phái và Sađóc, giáo lý dựa theo suy nghĩ thế tục; giáo lý của Đức Giêsu thuộc về tâm linh, không thuộc về tôn giáo hay luân lý. Như vậy, câu hỏi được nêu lên để chúng ta suy nghĩ; mình thế nào; mình theo ai, theo Đức Giêsu hay cứ giống như năm cô trinh nữ khờ dại chỉ biết bảo sao làm vậy! Thật rõ ràng, Ngài dạy, "Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa' là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt. 7:21). Cả cuộc đời Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nước Thiên Chúa và đöôïc ghi cheùp li nôiPhúc Âm; như thế, ý của Thiên Chúa chính là Phúc Âm. Thiên Chúa của Đức Giêsu ngự trị nơi cung lòng mỗi người nên cần đọc và nghiệm chứng Phúc Âm bởi, "Ai mến Ta, thì sẽ giữ lời Ta, và Cha Ta sẽ yêu mến nó, và Chúng Ta sẽ đến với nó, và sẽ đặt chỗ ở nơi mình nó. Ai không mến Ta, thì không giữ các lời Ta. Mà lời các ngươi nghe đây không phải là của Ta, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Ta" (Gioan 14:23-24).

Tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu mang nghĩa nhaänthöùc, nghieäm chöùng vaø tuÂn gi, aùp duïng những lời Ngài giảng dạynôi cuoác soáng. Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời “Còn những thành khác nữa ta phải rao giảng Tin Mừng Nước Trời vì đây chính là mục đích Ta được sai đến” (Lc. 4:43). Vậy tin mừng nước trời là gì, thế nào theo Phúc Âm?

4/ Ñöùc tin

Cao điểm của bốn Phúc Âm chính là đức tin, lòng tin. Lòng tin con chữa con, cứu con, và là ơn cứu độ của con. Một câu Phúc Âm khiến cho ThyLoan lục lọi trên internet hoài mà không thấy nơi đâu dám viết như thế; tất cả những sách nọ, truyện kia ThyLoan đã đọc cũng không có và cũng chẳng thấy ai dám nói như thế đó là, “Kẻ nào bảo núi này xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra thì chuyện sẽ thành cho nó” ( Mk:11:23). Kẻ nào có nghĩa bất cứ ai. Khi mình bảo núi này có nghĩa mình bày tỏ ý định, ước muốn của mình đối với ngonï núi. Như vậy, ý định, ước muốn của một người tự mang quyền lực nào đó mà chúng ta chưa nhận biết; quyền lực này nơi mọi người.

Xét thế, muốn biết đức tin, lòng tin cần phải biết Tin Mừng Nước Trời. Muốn biết tin mừng nước trời cần biết Nước Trời, Nước Thiên Chúa là gì. Muốn biết Nước Thiên Chúa lại cần phải biết Thiên Chúa là gì, thế nào. Muốn biết Thiên Chúa ra sao, cần phải biết hình ảnh của Ngài bởi Kinh Thánh viết, Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài. Dẫu hành trình vạn dặm cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Bước khởi đầu cho hành trình nhận biết Thiên Chúa để tin vào Ngài, cần phải biết hình ảnh của Ngài, mình là ai, thế nào. ThyLoan bạo phổi đề nghị, lấy một tời giấy trắng kẻ một vạch ở giữa từ trên xuống dưới, một bên viết xuống tất cả những sự thánh thiện, tốt là của mình từ tư tưởng, lời nói đến việc làm. Phía bên kia, viết xuống tất cả những điều chẳng nên của mình từ tư tưởng, lời nói cũng như việc làm. Cất nơi kín đáo không cho ai biết; hôm sau đọc lại và mở rộng lòng chấp nhận sự thể được viết xuống chính là mình, không bào chữa, không lý luận, thiếu bất cứ điểm nhỏ nào đó thì mình sẽ không phải là mình. Nơi thư thứ nhất gửi tín hữu Corintho, thánh Phao Lô đặt vấn đề, “Anh em không biết thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần sao” (1Cor. 6:19). Nơi nào có Thánh Thần, nơi đó có Thiên Chúa Cha và Thiên Chúa Con ngự trị.

Như vậy, tin vào Thiên Chúa tức là nghiệm chứng và nhận thực sự hiện diện của Thiên Chúa nơi chính mình, đang hoạt động nơi mình. Cũng từ khởi điểm này sẽ nghiệm ra Nước Thiên Chúa, Tin Mừng Nước Trời, và cuối cùng là đức tin.

16 Chuùa Gieâsu bò röûa toäi gì,

Vô tình lạc vào forum này và theo dõi đã hơn tuần nay, tôi (nick timhoc) có nhiều khúc mắc khi đọc Phúc Âm mà đi nhà thờ nghe cha giảng (xin đừng hỏi cha nào) thì ngài (các ngài) hầu như tránh né hoặc không dám nhắc đến Lời Chúa, có chăng chỉ giải thích theo nghĩa đen.

Hôm nay chủ nhật lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa, nơi nhà thờ cha giảng cha nghe. Phần tôi đầu óc cứ quay cuồng những câu hỏi lỡ nói ra e bị chụp mũ rối đạo.

Chợt nhớ cái forum này, tôi mạo muội dán lên điều khúc mắc lỡ ai đó có chụp mũ thì cũng chỉ chụp cái nick. Chúa có quăng cái nick này xuống đáy mười tầng địa ngục cũng chẳng phiền đến ai. Có cơ hội xả hơi những gì ấm ức may ra lòng ruột thanh thản, vì thế, tôi thành thực cảm ơn người tạo ra forum này. Cầu Chúa và Mẹ gìn giữ kẻ làm ơn đẹp mãi nơi hồng ân nước trời.


Tôi xin được nêu những điều khúc mắc.

1/ Theo Phúc Âm, phép rửa thánh Gioan Tiền Hô thực hiện chỉ là nghi thức bày tỏ lòng thống hối, ăn năn lầm lỗi của con người. Chúa Giêsu thống hối, ăn năn lỗi lầm nào mà phải chịu phép rửa?

2/ Tôi theo đạo Công Giáo. Vừa mới sinh ra chưa kịp phạm tội đã bị chịu phép Rửa Tội thì lấy gì ăn năn, khóc lóc. Dĩ nhiên, khóc thì có nhưng ăn năn thì không!

3/ Ai rửa tội cho thánh Gioan Tiền Hô mà tôi là người được rửa tội Công Giáo phải gọi ngài là thánh?

4/ Tôi không thấy nơi nào trong Phúc Âm nói đến Chúa Giêsu rửa tội cho bất cứ ai. Ngài không thực hiện việc này. Ngài không rửa tội cho thánh Giuse hay bất cứ môn đồ, tông đồ nào, sao lại có câu ra lệnh cho các tông đồ rửa tội cho người ta "Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần"?

5/ Ngày xưa còn bé được mấy ông trùm, bà quản dạy giáo lý và nghe các cha dạy rằng "Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi," hoặc "Không được rửa tội không được vào nước thiên đàng." Thế những ông thánh Gioan Kim, bà thánh Anna (phụ mẫu đức Mẹ), thánh Giuse, và các thánh tông đồ không vị nào được rửa tội và cũng không vị nào theo đạo Công Giáo thì bây giờ họ ở cái thiên đàng nào trong khi tôi được dạy phải kính các ngài là thánh, thánh ngoài Công Giáo?

Nếu có ai giải đáp dùm những khúc mắc để tôi cảm thấy an bình tâm tưởng, xin nhận nơi tôi lòng cảm ơn trước.

timhoc

Trả lời, Nhà bác mang nick “timhoc” thân mến.


Nhà cháu loanh quanh trên net giải trí tìm vui, vớ ngay được mấy điều khúc mắc nhà bác dám cả gan dán lên net giữa chốn quần vương “Đức Chúa Trời Ngôi Thứ Tư” nên chân tay ngứa ngáy cũng liều đánh trống trước cửa nhà sấm thử ngấp nghé chia phần lời cảm ơn của nhà bác và ước mong nhà bác thông cảm nếu đầu óc nhà cháu lỡ có điều gì lệch lạc không thuận với lối suy tư kinh thiên động địa của nhà bác.

Trước hết, nhà cháu thử gieo quẻ bói Mai Hoa về thân phận nhà bác. Trúng, sai đều sai nhưng nhà cháu tạm dùng nó để áp dụng lời thánh Phao Lô (quân vô đạo vì chưa được rửa tội nên bị phạt ngã ngựa), “Nghiệm xét mọi sự” (1Thes.
5:19). Dĩ nhiên, một khi đã nghiệm xét mọi sự, nhà cháu cũng chẳng tin gì chính mình phương chi thành quả quẻ bói. Ngược lại, nó đã lỡ nhảy đến trong đầu thì cứ coi nó như là thành tố mang phần nào ảnh hưởng đến những khúc mắc may ra gỡ được mấy đoạn nhợ nơi rừng rú cây cỏ lẫn lộn.

Qua ngôn từ nhà bác sử dụng, tuổi tác nhà bác có lẽ xấp xỉ “Cổ lai hy,” thiếu chăng chừng dăm bảy năm. Sở dĩ nhà cháu dám mạo muội bói mò như thế vì nhà bác dùng ngôn từ “các cha” dẫu phần nhập đề tránh lách, chặn trước đón sau, nhà bác viết “các ngài.” Ngày xửa ngày xưa có lẽ trước thời nhà bác đã lâu, người ta hay dùng thành ngữ “Đi ở nhà thầy” để rồi sau này hay sử dụng tiếng “Các thầy.” Nhà cháu mê mẩn với lối dzăng chương “Trạng Quỳnh” nên cứ mỗi lần nghe thấy, đầu óc lại cứ tưởng tượng đến món quốc hồn quốc túy thành ra trộm nghĩ coi chừng nhà bác cũng có những liên hệ dây dưa với nhà thầy ít nhiều.


Nói rằng nhà bác có ít nhiều liên hệ với nhà thầy bởi bác đã dám đọc Phúc Âm một cách kỹ lưỡng, điều này được minh chứng với câu, “Tôi không thấy nơi nào trong Phúc Âm nói đến Chúa Giêsu rửa tội cho bất cứ ai. Ngài không thực hiện việc này. Ngài không rửa tội cho thánh Giuse hay bất cứ môn đồ, tông đồ nào.” Quả là nhà bác quá thông thuộc và để ý Phúc Âm nói những gì lại còn có phần bới bèo ra bọ. Tất nhiên, chắc chắn vẫn còn nhiều chuyện về Đức Giêsu thực hiện đã không được nhắc tới. Chính Ngài cũng bảo các môn đồ, “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng bây giờ, anh em không có sức chịu nổi” (Gioan
16:12). Thì cũng đành chấp nhận Thánh Thần của Đức Giêsu làm việc và thúc đẩy nhà bác xốn xang, quay quắt vì Phúc Âm; và cũng có lẽ chính bởi lý do này những đầu óc kinh viện thế tục không kham nổi luồng thần khí nơi nhà bác nên lỡ chẳng may nhà bác tham dự đoàn quân đi ở nhà thầy nơi đất nước Việt Nam thời thập niên năm mấy sáu chục cũng chẳng ma dại nào dám chấp nhận, chứ chưa nói tới đề nghị đặt tay phong chức cho bác được vào hàng ngũ “Đức chúa trời ngôi thứ tư.” Và giả sử cũng chẳng may Thánh Thần liều mạng xúi bẩy thiên hạ làm như thế, nhà bác sẽ vì Phúc Âm mà bị kết án là thuộc bè rối và bị đuổi ra khỏi hàng lớp vương giả trong hệ thống thần quyền các ñaáng laøm thầy. Nếu không thế, nhà bác sẽ dùng Phúc Âm phá tan hoang tổ chức được gọi là Công Giáo của họ. Ha ha... lại thêm một “Martin Luther Việt” thì coi chừng giờ này có thêm cả đám con, cháu, chắt “Phản Giáo” người Việt. Loạn to!


Bói về nhà bác mà không tự giới thiệu sẽ trở thành bất kính bậc trưởng thượng, lạc khỏi phong hóa dân tộc. Nhà cháu đành trình bày thân phận. Nhà cháu tuổi trời đến nay vừa qua khỏi hàng lớp ngựa chứng đồng thời cũng vượt qua cửa hồi xuân nếu tính theo Kinh Dịch, mỗi con vật chịu trận năm năm. Nhưng số trời đã định cho bất cứ ai, lớp tuổi động cỡn họ hàng nhà ngựa vừa qua đã vội vã tới thời con dê tâm tình “lactose intolerant” xao xuyến để rồi tập tành học đòi giới “Monkeys see, monkeys do” nên sinh ra ngứa chân, ngứa tay nhào vô gõ bậy. Bởi vậy, chụp được khúc mắc nhà bác, nhà cháu chịu không nổi đành thử múa gậy trước cửa Lỗ Ban. Vẫn biết rằng nơi cái diễn đàn này ai làm người nấy chịu, ai viết kẻ đó mang tai tiếng và có thể bị kết án như nhà bác đã sợ bị đày xuống mười tầng địa ngục dẫu chỉ là cái nick, nhà cháu thực sự thông cảm nỗi lo âu của nhà bác. Đồng thời nhà cháu hoan nghênh sự bạo gan xuất phát từ lòng ấm ức đã bao lâu nay nhà bác đã và đang phải mang. Người xưa có nói, “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu.” Nhà cháu cảm thấy phấn chí lắm; không hiểu nhà bác nghĩ sao. Thế nên, dẫu vô tình viết mà quên lách, mong nhà bác chớ vội vàng nóng bậy phang bừa phang bãi do còn lắm kẻ dòm, người ngó, cười mình thiếu phần lịch thiệp, chưa biết phép lễ độ cuộc đời.

Xét về những khúc mắc của nhà bác, nhà cháu cũng tự đặt vấn đề từ bao lâu nay nhưng chẳng có cơ hội nào phát tiết; chẳng lẽ tự biên, tự diễn lẩm bẩm một mình giống như kẻ điên hoặc mua dàn máy karaoke ồn ào độc thoại, lại chẳng dám uổng tiền tốn phí mua đồ ăn thức uống mời khán thính giả tham dự và cuối cùng sẽ bị họ mắng té mắng tát vào mặt là dám phạm thượng, dám cả gan suy luận Lời Chúa, dám tự cho mình là hay, là giỏi tạo thành bè rối. Nhà cháu không thuộc bè nào trong các thứ bè trên, bè dưới, hoặc bè ngang nơi các tổ chức nhà dòng Công Giáo mặc dầu con nhà có đạo. Nhà cháu chỉ biết mọi bè phái Thiên Chúa Giáo đều được đặt trên căn bản Phúc Âm; thế mà, bè nào cũng chẳng chịu bè nào; mỗi bè một cõi, lại còn cố xâm lấn anh em với chiêu bài truyền giáo, kêu gọi trở lại, kết án trở đi. Dùng chung danh hiệu “Đức Tin,” tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, nhưng bè nào cũng đều khinh thường lời giảng dạy của Ngài qua Phúc Âm.

Nhà cháu nói có sách, mách có chứng. Nhà bác lục lọi, bới móc Phúc Âm chắc có lẽ khỏi cần nhà cháu thanh minh thanh nga. Nhà cháu chỉ nhắc lại một điều hiển nhiên ai cũng nhận thấy đã khiến nhà bác la lên, “Tôi (nick timhoc) có nhiều khúc mắc khi đọc Phúc Âm mà đi nhà thờ nghe cha giảng (xin đừng hỏi cha nào) thì ngài (các ngài) hầu như tránh né hoặc không dám nhắc đến Lời Chúa, có chăng chỉ giải thích theo nghĩa đen.” Nhà bác không bới bèo ra bọ là gì? Các cha nói gì, giảng gì thì đó là chuyện của các ngài. Nhà bác nghe hay không là quyền của mình nào có bị ốm bớt hay mập phì thêm đâu mà phiền lòng. Ông bà mình có câu, “Ăn cơm chúa, múa tối ngày.” Các cha phải giảng, không giảng không được. Giáo dân có bổn phận đi nhà thờ thì phải nghe, không muốn nói phải nghe thì bị nghe, không được có ý kiến; đó là truyền thống Công Giáo. Các cha bảo con bò là con chó, thì nó là con chó. Các cha bảo Chúa phạt, thì Chúa phạt. Các cha bảo linh mục có quyền hơn Đức Mẹ thì linh mục có quyền hơn Đức Mẹ, mắc mớ gì nhà bác kêu ca, so sánh về chuyện các ngài giảng gì, nói chi. Nhà bác không muốn nghe mà phải đi nhà thờ, không đi nhà thờ sẽ bị Chúa phạt thì cứ ra chợ mua ngay một đôi “Ear plug” bịt kín cặp tai lại và nghiễm nhiên ngồi nơi ghế nhà thờ ngủ gật. Cha chưa kịp giảng đã đồng ý thì ai dám kết án nhà bác là rối đạo, nghịch đời. Coi chừng nhà bác còn được ban khen là con chiên ngoan đạo, biết vâng lời các đấng cho thuận câu “Vâng lời trọng hơn của lễ.”

Nhà bác nói các cha không giảng về Phúc Âm hoặc có nhắc đến Phúc Âm thì giải thích theo nghĩa đen. Bác quên lời tiền nhân để lại, “Muốn nói ngoa làm cha mà nói” sao! Dân ta ngàn xưa đến ngày nay tiến từ thời đồ đá, vượt qua đồ đồng, đến đồ đểu; nhà bác thử rở đủ mọi các sách vở nơi tất cả các bè phái, kể cả Công Giáo xem có sách vở nào bới móc chuyện Đức Giêsu không rửa tội cho bất cứ ai chăng? Đàng này, nhà bác bới thêm vợ chồng thánh Gioan Kim, thánh Anna, đến thánh cả thợ mộc Giuse, rồi các tông đồ, môn đồ, thậm chí thánh Phao Lô tông đồ dân ngoại chỉ bị ngã ngựa chứ vẫn chưa được rửa tội. Thiển nghĩ, có lẽ nhà bác còn thấy rằng không sách nào dám viết chẳng ai trong họ là người Công Giáo. Nhà bác e sợ bị thiên hạ kết án rối đạo chẳng sai chút nào. Những gì nhà bác suy nghĩ, nhận biết không thuộc về Công Giáo chẳng lẽ chúng tông truyền? Nếu tông truyền sao không được ghi chép, dạy dỗ. Bởi đó, các cha không dám nói tới dẫu nhận biết đến mấy chăng nữa. Thần học kinh viện chưa đủ khả năng đối diện thực thể này trong khi các cha được đào luyện nơi lò tông truyền, nói trật ra ngoài thì rối, mà bị kết án rối tất nhiên thất nghiệp. Các cha xưa nay chỉ được huấn luyện sử dụng cái miệng rao giảng chứ không được huấn luyện thành thợ điện hay thợ cuốc đất nên nếu bị kết án rối, bị đuổi khỏi hàng ngũ tông truyền chỉ còn cách đi ăn mày. Tất nhiên, mất việc làm thầy, không biết bới đất nhặt cỏ, chẳng rành làm thuê, làm thợ thì coi chừng cũng chẳng biết cách ăn xin, chỉ còn nước chết đói giữa một thế giới muôn ngàn người sung túc đến độ xa hoa.

Có điều, nhà cháu xin nhắc nhở nhà bác timhoc, nhà bác không đi nhà thờ chủ nhật sẽ bị mang trọng tội, nhưng đi nhà thờ mà không để ý lời cha giảng không có luật nào kết án; cũng như là người Công Giáo, một nam, một nữ, ăn ở với nhau mà không có phép đạo thì bị coi là trọng tội, không được thông công các phép bí tích Công Giáo, nhưng nếu nhà bác chuyển đạo, bỏ đạo Công Giáo theo đạo khác thì Công Giáo lại chẳng có gì nói tới. Không có lề luật nào lên án hành động này. Người ta lên án kẻ chối đạo nhưng không có luật kết án kẻ bỏ đạo. Người ta tung hô, ca tụng những vị tử vì đạo chứ chưa thấy ai ca tụng tử vì Phúc Âm. Như thế, nếu nhà bác bị kết án rối đạo thì chỉ rối đối với đạo chứ chưa có ai dám cả gan kết án nhà bác chống lại Phúc Âm. Thy Loan mạo muội nhắc một câu Phúc Âm, “Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy cho. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi” (Gioan 6:45). Nhà bác nghĩ sao thì nghĩ. Nhà bác đón nhận giáo huấn của Chúa Trời Ba Ngôi hay của ngôi thứ tư thì tùy nhà bác. Nhà cháu không có ý kiến nơi hành trình nghiệm xét riêng tư này.

Nhà bác nêu câu hỏi Chúa Giêsu thống hối, ăn năn chuyện gì, điều gì mà phải chịu phép rửa từ Gioan! Chuyện rõ ràng đã được ghi chép cả hai ngàn năm trước và vẫn còn hiển hiện nơi Phúc Âm đến giờ thế mà bác bới ra câu hỏi về thống hối, ăn năn của Chúa Giêsu. Lật Phúc Âm Matthew, nhà bác sẽ đọc được, “Bấy giờ, Đức Giê-su từ miền Ga-li-lê đến sông Gio-đan, gặp ông Gio-an để xin ông làm phép rửa cho mình. Nhưng ông một mực can Người và nói: "Chính tôi mới cần được Ngài làm phép rửa, thế mà Ngài lại đến với tôi!" Nhưng Đức Giê-su trả lời: "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Bấy giờ ông Gio-an mới chiều theo ý Người” (Mt. 3:13-15). Nơi Phúc Âm Matthew, Đức Giêsu không nói gì về ăn năn, thống hối mà chỉ nhà bác hỏi về ăn năn thống hối. Ngài chỉ nói, "Bây giờ cứ thế đã. Vì chúng ta nên làm như vậy để giữ trọn đức công chính." Nhà bác vẽ rắn thêm chân. Tất nhiên, Đức Giêsu chẳng có gì để ăn năn thống hối nên các cha không bao giờ giảng về vấn đề này. Chuyện các ngài đọc và suy nghiệm Phúc Âm hay không chẳng thuộc về quyền thẩm định của nhà bác. Nhà bác có nhắc tới thì chỉ thuộc loại méo mó nghề nghiệp hầu mong che lấp ý đồ dùng câu “Con khôn hơn cha thì nhà có phúc” làm phương châm. Nếu cho rằng nhà bác không bới bèo ra bọ thì cần phải được giải thích thế nào cho hợp tình hợp lý về vấn đề được đặt thêm? Riêng hành động Chúa giêsu chịu phép rửa của Gioan, cứ coi như mưu mô chính trị để được mọi người chấp nhận mà mở lòng mở dạ cho Tin Mừng Nước Trời lọt vô, không khôn ngoan hơn con rắn sao!


Nhà bác lại cho rằng các cha không giảng Phúc Âm, hoặc cùng lắm thì giải thích theo nghĩa đen, “thì ngài (các ngài) hầu như tránh né hoặc không dám nhắc đến Lời Chúa, có chăng chỉ giải thích theo nghĩa đen.” Hai ngàn năm qua rồi bác ơi, các ngài được dạy dỗ, huấn luyện như thế trong truyền thống như thế. Chính Chúa cũng không dám hó hé gì mà chỉ đành chấp nhận chịu đựng. Sự thể này chẳng khác gì hoàn cảnh của Đức Giêsu khi Ngài cầu nguyện, “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cất chén đắng này cho con, nhưng một theo ý cha, đừng theo ý con.” Sự kiện này chẳng khác chi trường hợp “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Trốn tránh không được thì đành chấp nhận. Ai bảo Ngài dám rao giảng nghịch tai thiên hạ. Xét thế, Thiên Chúa Ba Ngôi vẫn phải thua ngôi thứ tư. Lý do rõ ràng đó là câu nói, người ta chỉ có thể dẫn con lừa tới dòng suối. Uống nước hay không tùy nó. Dòng suối Lời Chúa được in ấn rõ ràng những hai ngàn năm nơi muôn triệu cuốn Kinh Thánh. Đọc và suy nghiệm hay không tùy mỗi người. Hơn nữa, kinh nghiệm thực tế chứng minh, người ta không thể bổ đầu con bò mà nhét óc chó vô được. Thiên Chúa không có cái miệng để bảo những người nhân danh Ngài đi rao giảng rằng phải thế này, phải thế kia. Ngài cũng không thể dùng thần khí nào đó để xúi thiên lôi đả chết những ai không đi đúng đường phải và nên đi. Nếu nhà bác đọc cuốn Hồi Ký Mùa Thu (Cuộc Đời Thánh Anphongsô), tác giả Joseph Oppitz, CSsR, hoặc bản dịch do Lm Bùi Quang Tuấn, CSsR, nhà bác sẽ thấm thía nỗi lòng của người cha sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế khi nhìn thấy môn sinh của mình mê đắm chạy theo tham vọng thế tục. Có lẽ ngày nào đó Thiên Chúa sẽ bị đứng tim mà chết vì tức giận bởi những kẻ được chọn đã rao giảng điều chính Ngài không ngờ. Có thể Chúa Giêsu hy vọng tan tành nên chấp nhận chết cho rảnh nợ, “Ôi! Thế hệ cứng tin và tà vạy! Cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ ở với các ngươi; cho đến bao giờ nữa, Ta sẽ phải chịu đựng các ngươi!” (Mt. 17:17). Chúa đành chịu thua; nhà bác nói lên sự thể đã có truyền thống những hai ngàn năm với mục đích gì? Nhà bác có định nêu gương bới móc cho kẻ khác học đòi hay không?

Xét theo nguyên tắc căn bản, bất cứ tổ chức nào cũng cần phải có những quy định, mục đích, nguyên tắc, cơ cấu, và điều lệ. Những ai tham gia tổ chức chấp nhận mục đích, những quy định, và tuân giữ điều lệ hầu được an hưởng thành quả của tổ chức đó mang lại dẫu không phải lợi ích vật chất thì ít nhất cũng thỏa mãn khát vọng tâm hồn. Những tổ chức nào mang lại lợi ích nào đó trong địa hạt nhân quần sẽ được người đời ca tụng, vinh danh. Những tổ chức nào phá hại lợi ích con người đều bị kết án dẫu những thành viên nơi tổ chức ấy tuyên dương, ca tụng địa vị của họ thế nào hoặc mục đích, chủ trương ra sao.


Nhà cháu không dám luận bàn bất cứ phương diện nào thuộc về lãnh vực tôn giáo nói chung hoặc của một tôn giáo nào đó nói riêng vì thực chất, tôn giáo chính là sự thể hiện lòng khát vọng tâm linh của con người. Sự thể thực tế của tôn giáo được tổ chức để rồi biến chuyển ra sao, nhà cháu không đủ khả năng nhận định bởi có quá nhiều tôn giáo. Một điều chắc chắn ai cũng có thể nhận thấy rõ ràng nếu để tâm nhận xét, và đó là tôn giáo chỉ là phương tiện cho con người nơi hành trình thỏa mãn lòng khát vọng tâm linh chứ tôn giáo không phải là cùng đích tâm linh hay chân lý của cuộc sống con người.
TÔn giaùo khÔng daãn ngöôøi ta ñi tôùi ñÂu; maø chæ nhö con kieán boø treân mieäng ly, mieäng caùi coác aáy. Nhà cháu đoan chắc một lần nữa, tôn giáo chỉ là phương tiện cho con người giải quyết khát vọng tâm linh mà thôi.

Gốc gác của tôn giáo cũng như gốc gác của tất cả các phương thức, diễn tiến nơi hành trình tâm linh chính là lòng khát vọng nhận biết thực thể chính mình ẩn chứa nơi mọi người. Nơi phương diện này, cách thức thỏa mãn khát vọng tâm linh được tạm chia thành ba phương diện, chiêm nghiệm, minh triết, và tôn giáo. Những người được sinh ra với lòng khát vọng cao độ chọn cuộc sống chiêm nghiệm, suy nghiệm, dồn tất cả cuộc đời mình để tìm về gốc gác sự hiện hữu của mình. Lục tổ Huệ Năng gọi là tìm lại “Bản lai diện mục.” Nơi phương diện khác, con người dùng trí thông minh, sự hiểu biết nghiệm xét sự thể diễn tiến nơi dòng sống cuộc đời hầu thỏa lòng khát vọng nhận biết mình là ai, thế nào, liên hệ với thực thể hiện hữu ra sao được gọi là minh triết. Hai phương diện này cá nhân chủ động diễn tiến hành trình tâm linh qua phương thức như thánh Phao Lô kêu gọi, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữa lấy! Hay kị điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-21). Phao Lô cũng đề nghị thêm nguyên tắc cốt cán nữa, và đó là, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mỗi rỗng tuếch đánh bã anh em thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8).


Nhập tâm được lời khuyên của vị thánh dân ngoại, người thực thi những hành động phát xuất từ lòng chân thành khát khao thăng tiến tâm linh trong khi bảo vệ niềm tin bằng cách cố triệt hạ những kẻ không tin theo đường hướng của mình nên bị Đức Giêsu quất cho ngã ngựa, nhà bác may ra mới có thể nghiệm xét được lời Phúc Âm, “Vì sẽ có những Kitô giả và những điềm lạ đến đỗi nếu có thể thì lừa gạt được cả những kẻ được chọn. Này ta đã dặn trước các ngươi đó!” (Mt. 24:24), hoặc “Các ngươi hãy coi chừng; đừng để ai lừa gạt các ngươi. Sẽ có nhiều kẻ đội danh Ta đến nói rằng: Chính là Ta! Và họ sẽ lừa gạt được nhiều người!” (Mk. 13:5-6). Có thể nói, chỉ khi nào nhận chân được rằng Phúc Âm được viết cho hết thảy mọi người, mọi thời đại, người ta mới có thể áp dụng được Lời Chúa đang ám định nhắc nhở phải mở rộng tâm hồn để nghiệm xét qua các câu, “Hãy coi chừng những tiên tri giả, chúng mang lốt chiên mà đến với các ngươi, nhưng bên trong chúng là mãnh sói tham mồi. Do quả của chúng, các ngươi sẽ nhận biết chúng. Há người ta lại hái nho nơi bụi gai, hay vả nơi cà cuốc sao? Cũng vậy, phàm cây lành thì sinh quả tốt, cây độc sinh quả độc. Cây lành không thể sinh quả độc và cây độc không thể sinh quả tốt” (Mt. 15-17). Những ai tuyên xưng tin theo Đức Giêsu mà không suy nghiệm và rao giảng lời Ngài dạy qua Phúc Âm thì họ đang thực hiện chủ đích nào, nhà bác có dự đoán được chăng? Hoặc, “Hãy lo tránh các ký lục, họ ưa dạo quanh, áo chùng xúng xính và thích được bái chào ngoài công trường, chỗ nhất nơi hội đường, và cỗ nhất trong tiệc tùng. Họ ngốn cả nhà cửa các bà góa và làm bộ cầu nguyện lâu dài: những kẻ ấy sẽ lĩnh án phạt nặng hơn” (Lk.
20:46). Hay, “Hãy mở mắt coi chừng men của Biệt Phái và men của Hêrôđê!” (Mk. 8:15). Phúc Âm, nói cho đúng, Đức Giêsu căn dặn coi chừng Biệt Phái, Ký Lục, Luật Sĩ, có nghĩa thế nào nhà bác tự hiểu. Nặng nề hơn nữa, nơi Phúc Âm Luca Đức Giêsu cảnh báo sự thể chấn động tâm hồn tất cả những ai để tâm nghiệm xét lời Ngài, “Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?” (Lk. 18: 8b).


Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu là gì mà Ngài phải căn dặn chúng ta những điều lạ kỳ như vậy? Tại sao Phao Lô xúi giục chúng ta nghiệm xét mọi sự, chẳng nên tin bất cứ ai, chẳng nên để bị lừa dụ? Xin thưa, lật Phúc Âm Luca nhà bác sẽ thấy, “Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.' Và Ngài đã rao giảng trong các hội đường nước Yuđê” (Lc. 4:43-44). Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời! Vậy Tin Mừng Nước Trời Ngài rao giảng là gì? Nước Thiên Chúa là gì? Người ta đang rao giảng gì? Nhà bác đã quá biết sao lại mở rộng lòng cho những bực bội nhảy vô thao túng. Nhà bác có lẽ quên câu thơ Kiều của Nguyễn Du, “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!” Có lẽ nhà bác rơi vào tình trạng “Lòng buồn chẳng muốn nói ra; muốn đi ăn cỗ chẳng ma nào mời!” Lòng ruột nhà bác ấm ức nhưng không có cơ hội đấu khẩu xả hơi tạo thành bực tức nội tại. Thì đây, Thy Loan đấu võ mồm với nhà bác cho vui cửa vui nhà may ra tạo được công ích đã giúp nhà bác vui vẻ thuận hòa với mọi người và với những ai không suy nghĩ giống mình.

Nhà bác muốn nghe Lời Chúa nhưng chỉ thấy những nhố nhăng quảng cáo thuốc gián cứu rỗi khỏi tội lỗi. Nhà bác muốn nhận biết Tin Mừng Nước Trời mà chỉ thấy phải ăn chay hãm mình, phải làm việc lành phúc đức. Tại sao Phúc Âm lại nói đem tin mừng đến người nghèo khó? Người nghèo khó họ cần gì trong lúc bụng đói vì thiếu thực phẩm, thân xác cằn cỗi do kém ăn, thiếu mặc, chỗ ở bần cùng? Tin mừng có làm cho họ no bụng, có thay thế được áo quần rách rưới, và có làm ấm cơ thể của họ nơi mùa đông tháng giá chăng? Vậy Phúc Âm muốn nói tới nghèo khó sự chi?


Coi chừng nhà bác đọc Phúc Âm như con vẹt đồng thời có lẽ chính nhà bác nhận định Lời Chúa một cách từ chương do khinh thị lời đề nghị của thánh Phao Lô, “Hãy nghiệm xét mọi sự” nên càm ràm, kêu ca về chuyện các cha giải thích Lời Chúa theo nghĩa đen. Nhà bác làm ơn nhớ cho điều này, và đó là chỉ người ăn trộm mới hiểu được tâm lý kẻ trộm, hoặc “Có tật giật mình,” hay tệ hơn chính là “Càng làm đĩ, càng già mồm.” Nhà bác thấy cọng rơm nơi mắt người khác mà không nhận biết cái xà nhà ngay nơi mắt mình. Ôi, người mù chỉ đường cho kẻ chột! Không nói thì khóc, nói rồi lại mếu!


Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời thì đã những hai ngàn năm; người ta huênh hoang rao giảng Chúa Giêsu xuống thế chuộc tội cho thiên hạ. Thì cứ giả sử mục đích của Ngài là đến chuộc tội cho mọi người đi để thử xét xem sao. Nếu Ngài đã chết vì và chết cho hay chết thay tội lỗi của mình thì đâu cần gì phải ăn ngay ở lành, làm điều công đức, đâu cần ăn năn đánh tội, đâu cần cầu xin tha thứ bởi ngài đã gánh hết cho mình rồi. Chẳng lẽ lời cầu xin hời hợt hoặc thống hối ăn năn giả hình, lần này con dốc lòng chừa nhưng lần sau con cứ vậy mang năng lực tha thứ hơn ơn cứu chuộc của Đức Giêsu sao? Hơn nữa, nếu thực sự Ngài chết thế cho tội lỗi của mình, thì Ngài đã chịu chết những hai ngàn năm trước vì tội của mình. Ngài chết cho mình trước khi mình được sinh ra. Ngài chết thay tội lỗi của mình trước khi mình phạm tội. Điều này nói lên cái chết của Đức Giêsu chính là bảo hiểm cho tất cả cuộc đời mình. Đã có bảo hiểm đâu cần phải lo lắng, e sợ chi nữa, cứ tha hồ phạm tội vì đàng nào Đức Giêsu đã chịu hết rồi những hai ngàn năm xưa. Nhà bác có chấp nhận được luận lý như thế này không. Nhà bác có chấp nhận được lối tuyên truyền nguy hại đang nhan nhản trình bày nơi mọi phương tiện của cuộc sống chăng? Nói cho cùng, nếu Đức Giêsu đã chịu chết cho tội lỗi của mình từ trước thì phép rửa tội có vị thế nào nơi hành trình cứu rỗi?


Nhà bác được dạy dỗ để rồi theo thói quen gọi những vị không được rửa tội là thánh hay không thì tùy nhà bác chứ đâu ai ép buộc, mà có ép buộc cũng không được bởi miệng nhà bác nói là tin mà lòng không tin đâu có chuyện gì kinh khủng hay mới lạ xảy đến. Miệng nói tin mà lòng ngây ngô, không làm hại nhà bác, chẳng gây phiền hà cho ai thì nhà bác muốn tin sao, muốn nói sao tùy ý. Các cha giảng Chúa chuộc tội, Chúa tha thứ nhưng tin hay không tùy thuộc lòng ruột các ngài. Các ngài giảng Chúa chuộc tội sao lại còn giảng phải ăn năn đánh tội. Thử hỏi, chặt cụt chân một người rồi ăn năn người đó có thể đi bằng hai chân được nữa không? Có thể nói, tuyên xưng rằng Chúa chuộc tội để an lòng dễ bề phạm tội mà thôi. Nếu thử đặt vấn đề, chỉ một vài người phạm tội trọng nào đó bị vật chết tươi ngay khi vừa phạm tội chắc chắn mọi người trên thế giới này sẽ là thánh chẳng cần phải cầu xin hay ăn năn chi hết và lẽ đương nhiên không ai dám phạm tội.

Nhà bác bị hoặc được rửa tội để gia nhập đoàn thể Công Giáo và được gọi là người Công Giáo thì hãy chấp nhận thân phận Công Giáo của mình. Chúa không có tai để nghe vì nếu Ngài có tai để nghe, có mắt để nhìn thấy sự tội người ta vấp phạm chắc chắn đã vật chết ít nhất dăm bảy đứa làm gương đồng thời tạo động lực cho mọi người không phạm tội đã từ khuya. Nhà bác đã không học theo thánh Phao Lô để nghiệm xét mọi sự, không để ai lừa dụ thì chớ dại kêu ca các cha không giảng Phúc Âm kẻo mà bị gọi là rối đạo. Nhà bác làm ơn nhớ cho, “Vâng lời trọng hơn của lễ.” Nhưng nhà bác cũng đừng quên câu nói, “Chân tình, nhiệt thành, và năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Thöû hoûi, ngöôøi ta ñang rao giaûng tin möøng hay tin buoàn?


Cầu chúc nhà bác phấn khởi nghiệm xét Lời Chúa.

17 Pheùp Röûa Toäi,

1/ Phúc Âm không ghi lại Đức Giêsu rửa tội cho bất cứ ai nhưng lại nói ngài truyền cho các tông đồ đi rao giảng và rửa tội. Vậy chẳng lẽ phép rửa tội Công Giáo do Giáo Hội đặt ra?

2/ Nếu do Giáo Hội đặt ra tại sao các cha dạy không được rửa tội thì sẽ không vào được nước thiên đàng. Như thế từ tạo thiên lập địa tơí giờ bao nhiêu người không chịu phép rửa tội sau khi chết linh hồn họ hiện giờ ở đâu?

3/ Giáo Hội gọi các vị Gioan Kim, Anna, Giu se thợ mộc, Phao Lô, các tông đồ là thánh. Điều này có nghĩa họ đang ở trên thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa dẫu họ không được rửa tội. Như vậy phép rửa tội không phải là điều kiện tất yếu để hưởng nước trời. Thế sao có câu nói, "Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu rỗi?"

Chào nhà bác timhoc.

Mấy vấn đề nhà bác nêu lên liên hệ đến phép rửa tội quả thật hóc búa. Thế nên nhà cháu muốn minh định rõ ràng một điều đó là cũng bởi vì mấy câu hỏi của nhà bác đụng chạm đến sự hiểu biết lờ mờ nơi nhà cháu nên trước hết nhà cháu lục lọi để thỏa mãn thao thức nơi mình và tiếp đó thành thực cảm ơn nhà bác đã nêu lên.

Có câu nói của giới nào nhà cháu không biết, quan niệm rằng nếu ai đó đọc ba khảo luận của ba tác giả khác nhau về cùng một vấn đề thì người đó trở thành học giả về vấn đề đó. Nhà cháu chẳng dám mơ ước làm học giả. Nhà cháu mò mẫm học thiệt mà càng mò càng thấy lắm sự mình chưa biết phương chi học giả. Có điều, sao sách vở nói về phép rửa tội đơn thuần, rành rẽ nhưng truyền thuyết được rao truyền nơi con cái dân Chúa khiến tâm tư nhà cháu hầu như muốn lộn tùng phèo. Nhà cháu tự hỏi, vậy cái truyền thống về phép rửa tội như thế nào? Lý thuyết nơi Đạo Công Giáo minh định ra sao về phép rửa tội? Tại sao trong dân Chúa lại có những nhận định không giống nơi các sách căn bản của Giáo Hội? Hỏi thì hỏi thế nhưng nhà cháu không dám nghĩ đến nên có câu trả lời chính xác ra sao. Nói cho đúng, dân Việt có câu, “Vị thần mà nể cây đa.” Dân Chúa là cây đa; Chúa là vị thần. Do đó, vị thần linh thiêng thế nào đều tùy thuộc cây đa dân Chúa quảng diễn, đúng, sai, phải, trái, nhà cháu đành ngậm hột thị chiêm ngưỡng.

Minh định ngôn từ.


Theo nhà cháu được biết nơi tiếng Việt, ngôn từ phép rửa tội phải được dùng chính xác là Bí Tích Rửa Tội mới khỏi tránh hiểu lầm. Dân Việt ngàn xưa từ đời ông cố bà kỉnh đã sống cùng thời với những vị thực hành các nghi thức cầu thần thánh, bùa ngải, điều khiển âm hồn, phép vua, lệ làng, v.v... Những thày bùa, thày ngải, cô đồng, được những người tin tưởng cho rằng họ mang quyền lực nào đó và sự thể hiện quyền lực này qua nghi thức phép tắc, quy định nơi cõi riêng. Có lẽ vì quen với lối gọi ngắn gọn của những người đồng thời chung quanh nên quen miệng gọi Bí Tích Rửa Tội thành phép rửa tội, và lâu dần thành quen, tạo nên truyền thống, dễ thương nhưng khó chừa,
do ñoù gọi như thế chăng.

Bí Tích Rửa Tội bắt nguồn từ đâu và biến chuyển ra sao?


Tự thuở ngàn xưa còn được ghi chép nơi Kinh Thánh, ý niệm, quan niệm về thanh sạch và nhơ uế được chia ra thành bốn phương diện. 1/ Thực phẩm. 2/ Phong cùi. 3/ Đụng chạm đến xác chết. 4/ Liên hệ sinh dục. Từ đây phát sinh nghi thức thanh tẩy bằng nước. Những phương thức thanh tẩy được nói rõ trong Kinh Thánh. Có những trường hợp chỉ cần tắm gội bằng nước là được coi như sạch. Thí dụ, người nào đụng chạm đến người bị nhơ uế bởi liên hệ tình dục sẽ bị nhơ uế trong suốt ngày hôm đó và phải được thanh tẩy bằng cách tắm với nước. (Ấy cái thời này chưa có Bí Tích Hôn Nhân nên cái thứ tình dục được phép hay không được chấp thuận không thấy nói tới. Có thể vì lý do này ngày xưa nơi miền Trung Đông đã có quan niệm nữ giới là cội nguồn của mọi sự tội lỗi chăng, và bởi thế họ bị cho rằng không đáng được để đầu trần xuất hiện nơi công cộng mà phải dùng khăn che). Nhà cháu tạm trích một đoạn nơi sách Lê Vi, “Yavê phán cùng Môsê và Aharôn rằng: Hãy bảo con cái
Israel và nói với chúng: Khi người nào bất kỳ ai trong mình mắc lậu, lậu huyết của nó (là vật) nhơ. Và đây là điều nhơ do chứng lậu: Mình nó nhỉ ra lậu huyết hay là mình nó bị nghẽn do lậu huyết: đó là điều nhơ (của) nó. Giường nào của người mắc lậu nằm lên đều mắc uế, đồ vật nào nó ngồi vào đều mắc uế. Ai đụng đến giường nó sẽ phải giặt áo xống và tắm trong nước và mắc uế cho đến chiều” (Lv. 15:1-8).

Hoặc nơi sách Dân Số có ghi, “Phàm ai trên cánh đồng, đụng đến nạn nhân gươm đâm, hay thây chết, hay xương người hay mồ mả đều sẽ mắc uế bảy ngày. Cho kẻ mắc uế, người ta sẽ lấy chút bụi của đống lửa thiêu hy sinh tạ tội mà đổ nước sống lên trên trong một cái chậu. Rồi một người sạch cầm lấy bài hương, nhúng vào nước mà rảy lên lều, lên các đồ vật mà các sinh linh có ở đó, trên cả người đụng phải xương, hay nạn nhân, hay thây chết hoặc mồ mả. Người sạch ấy sẽ rảy (nước) trên người mắc uế ngày thứ ba và ngày thứ bảy, và ngày thứ bảy thì làm phép xá tội cho nó. Người mắc uế sẽ giặt áo xống, tắm trong nước và đến chiều thì được sạch. Còn người mắc uế mà không rửa tội mình, sinh linh ấy sẽ diệt khỏi giữa đoàn hội, vì nó đã làm nhơ uế thánh điện của Yavê, nước thải đã không đổ xuống mình nó. Nó là đồ nhơ uế. Đó là luật điều vĩnh viễn cho chúng, còn người rảy nước thải cũng phải giặt áo xống; người đụng phải nước thải sẽ mắc uế cho đến chiều. Và phàm vật gì người mắc uế đụng đến cũng sẽ mắc uế cho đến chiều” (DS. 19:16-21). Có thể rằng chính luật nhơ uế đã ngăn cản thày tư tế và vị luật sĩ nơi Phúc Âm không dám giúp người bị cướp đánh nửa sống, nửa chết bên đường chăng!

Như vậy có nhiều phương thức và nguyên tắc dùng nước để thanh tẩy nơi miền Trung Đông. Những bè phái Qumran, Essenes cũng có những nghi thức dùng nước để thanh tẩy. Phúc Âm có nhắc tới trường hợp người Pharisiêu thắc mắc về việc Chúa Giêsu và các môn đệ không thực hiện nghi thức thanh tẩy thực phẩm và đồ nấu nướng cũng như rửa tay trước khi ăn, “Đức Giê-su đang nói, thì có một ông Pha-ri-sêu mời Người đến nhà dùng bữa. Tới nơi, Người liền vào bàn ăn. Thấy vậy, ông Pha-ri-sêu lấy làm lạ vì Người không rửa tay trước bữa ăn. Nhưng Chúa nói với ông ấy rằng: "Thật, nhóm Pha-ri-sêu các người, bên ngoài chén đĩa, thì các người rửa sạch, nhưng bên trong các người thì đầy những chuyện cướp bóc, gian tà. Đồ ngốc! Đấng làm ra cái bên ngoài lại đã không làm ra cái bên trong sao?” (Lc. 11:37-40).

Xét thế, những nghi thức thanh tẩy của người thời cổ miền Trung Đông đã có từ lâu. Nơi Kinh Thánh, tập tục này được coi như nghi thức lệ thuộc nhóm dân riêng. Người nào bị rơi vô trường hợp nhơ uế mà không thực hiện nghi thức thanh tẩy sẽ bị tách khỏi nhóm dân này. Nơi Phúc Âm, Chúa Giêsu không thực hiện nghi thức thanh tẩy theo người thời bấy giờ. Qua lời đối đáp với người Pharisiêu, Chúa Giêsu nhấn mạnh phần tâm hồn con người chứ không phải nghi thức.

Điều rõ ràng, dẫu Đức Giêsu chịu phép rửa từ Gioan nhưng Ngài đã không rửa tội cho bất cứ ai (Vì Phúc Âm không đá động gì đến chuyện này). Tuy nhiên, Phúc Âm lại được ghi Đức Giêsu truyền cho các tông đồ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời và rửa tội cho những ai tin theo các lời giảng dạy của các ngài qua lời nhân danh Thiên Chúa.

Và sự thể đã xảy ra như nơi Tông Đồ Công Vụ được ghi lại, “Nghe xong, họ bị đâm thấu lòng, và nói với Phêrô và các tông đồ khác: “Chúng tôi phải làm gì, anh em ơi?” Phêrô bảo họ: “Hãy hối cải, và mỗi người hay chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các người sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần. Vì lời hứa được ban cho các người và con cái các người, cùng mọi kẻ xa gần, hết mọi người. Chúa, Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi”. Ông còn dùng nhiều lời khác nữa mà đoan chứng và khích lệ họ, rằng: “Hãy lo sao thoát khỏi thế hệ tà vạy này!” Vậy những ai đã đón nhận lời ông, thì đã chịu thanh tẩy. Và trong ngày ấy, đã có thêm được lối ba ngàn linh hồn” (CVTĐ. 3:37-41).

Một điều rõ ràng, “lối ba ngàn linh hồn,” ngôn từ ám định, dĩ nhiên họ đã có linh hồn chứ không phải chịu phép rửa mới có linh hồn. Phép rửa Phêrô và các tông đồ thực hiện “Và mỗi người hay chịu thanh tẩy nhân danh Đức Giêsu Kitô để được tha thứ tội lỗi, và các người sẽ được lĩnh ơn Thánh Thần” thay vì chỉ chứng tỏ ăn năn sám hối lỗi lầm.

Như vậy chúng ta thấy, tự nguyên thủy, nước được dùng để thực hiện nghi thức thanh tẩy để được coi là thanh sạch theo điều luật của từng nhóm dân. Đến thời Gioan Tẩy Giả, nghi thức thanh tẩy bằng nước chứng tỏ lòng ăn năn thống hối những sai lầm con người đã vấp phạm. Nghi thức rửa tội bằng nước của các tông đồ bao gồm ăn năn hối cải, nhân danh Đức Giêsu Kitô, và lãnh nhận ơn Thánh Thần.

Tiếp theo đó nơi các thư thuộc về Tân Ước dần dần kiến tạo lý thuyết thần học về nghi thức rửa tội. Nghi thức rửa tội liên kết chúng ta với sự chết, sự an táng, và sự sống lại của Chúa Giêsu, trở nên sống với Ngài, “Hay anh em không biết rằng: Hết thảy ta đã được thanh tẩy trong Đức Kitô Giêsu, thì chính trong sự chết của Ngài mà ta đã được thanh tẩy? Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới. Vì nếu ta đã nên đồng hình với sự chết của Ngài, thì ta cũng sẽ (được đồng dạng) với sự sống lại của Ngài” (Rm. 6:3-5).

Thư Thứ Nhất Gửi Tín Hữu Côrintô bày tỏ thêm quan niệm sự thanh tẩy bằng nước nhân danh Đức Giêsu là hình thức không những diễn tả sự bắt đầu một cuộc sống mới trong Đức Kitô mà còn bày tỏ quyết tâm chết cho con người cũ, cuộc sống cũ lệ thuộc tội lỗi. Nhờ sự thanh tẩy nhân danh Đức Kitô, con người được thanh sạch, được thánh hóa, được trở nên công chính nơi Đức Giêsu và Thần Khí của Ngài, “Anh em có ít người, trước đã là thế. Nhưng anh em đã được tẩy rửa mà! Được tác thánh, được giải án tuyên công mà! Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, và trong Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta” (1Cor. 6:11).

Tiến xa hơn, Thư Gửi Giáo Đoàn Êphêsô cho rằng Chúa Giêsu thánh hóa Giáo Hội, thanh tẩy giáo Hội bằng cách dùng nước và lời truyền, “Chồng hãy yêu mến vợ, cũng như Đức Kitô đã yêu mến Hội thánh và đã phó nộp mình đi, ngõ hầu tác thánh, tẩy sạch, là tắm rửa cho bằng nước và lời, hầu tự hiến cho mình một Hội Thánh quang vinh, không một vết nhơ hay nét nhăn hay chút gì như thế; trái lại để Hội Thánh thực là thánh thiện, vô tì tích” (Êph. 5:25-27).

Quan niệm nơi thư gửi Titô thì cho rằng kinh qua nghi thức rửa tội, con người được tái sinh, thăng tiến trên hành trình canh tân tham gia công nghiệp nước trời, “Nhưng khi lòng từ hậu ái nhân của Thiên Chúa, Đấng cứu thoát ta đã hiển linh, thì Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người, nhờ phép rửa tái sinh và sự canh tân đổi mới của Thánh Thần, Người đã đổ xuống trên ta một cách dồi dào phong phú nhờ Đức Giêsu Kitô, Cứu Chúa của ta, ngõ hầu khi đã được giải án tuyên công nhờ ơn Ngài, chiếu theo hi vọng, ta được thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời” (Tt. 3:4-7).

Nhờ nguồn ân sủng này, nghi thức rửa tội chẳng những là dấu chỉ hiệp nhất của người lãnh nhận nghi thức thanh tẩy với Đức Kitô mà còn hợp nhất với những kẻ đồng hành trở thành thân thể của Đức Kitô, “Vì anh em, phàm ai đã được thanh tẩy trong Đức Kitô thì đã được mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do Thái hay Hi Lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Đức Kitô Giêsu. Mà nếu anh em thuộc về Đức Kitô, vậy thì anh em là miêu duệ của Abraham, những kẻ thừa tự thể theo lời hứa” (Gal. 3:27-29).

Qua những dẫn chứng nơi Kinh Thánh, thuở ban đầu chỉ là nghi thức thanh tẩy theo quy chế lề luật để hội nhập với thành phần tập đoàn, nhóm dân riêng, sau trở thành truyền thống, tập tục và tiến tới quy lệ phải như thế. Sự kiện Đức Giêsu chịu phép rửa với Gioan có thể nói là một sự kiện đặc biệt để được mọi người nhận biết vì Ngài không theo tập tục thanh tẩy của những bè phái thời bấy giờ. Ngài cũng chẳng rửa tội cho ai và cũng chẳng khởi xướng bất cứ nghi thức rửa tội nào. Ngược lại, Ngài sai các tông đồ thực hiện nghi thức thanh tẩy nhân danh Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần cho những ai tin theo các lời rao giảng từ các tông đồ. Như vậy có thể nói, nghi thức thanh tẩy được du nhập từ Gioan và được nhân danh Thiên Chúa để thực hiện.


Dĩ nhiên, sự việc nào cũng mang một mục đích của người thực hiện. Thuở ban đầu, dân chúng cảm thấy xốn xang khi nghe lời rao giảng của Phêrô và khao khát được bày tỏ lòng chân thành tin nhận. Như vậy, phép rửa đầu tiên cho “lối ba ngàn người” chính là nghi thức gia nhập đoàn thể tin theo Đức Giêsu qua lời rao giảng của Phêrô. Sau đó, qua các thư, những suy tư lý thuyết được thiết lập gán thêm ý nghĩa cho biến cố gia nhập bằng nghi thức thanh tẩy nhân danh Thiên Chúa. Như vậy, những người tin theo lời rao giảng và lãnh nhận nghi thức thanh tẩy từ các tông đồ và những người kế vị được gọi là Kitô hữu. Những lý thuyết này nhấn mạnh sự hợp nhất của Kitô hữu với Đức Kitô, chết cho quá khứ để sống tin theo Tin Mừng Nước Trời, giải thoát khỏi sự ràng buộc lề luật thế tục để sống trong ân nghĩa hồng ân Thiên Chúa.

Có câu nói, khi loài vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người đã có đầy đủ cơm ăn áo mặc, họ suy nghĩ. Sự thực hành nghi thức thanh tẩy gia nhập Kitô hữu đã phải đối diện với những quan niệm, lý thuyết, chủ thuyết bất đồng phát sinh lắm bè phái. Vào năm 347 Donatus quan niệm rằng thành viên Kitô hữu phải là những người thanh sạch không vướng mắc tội lỗi. Những bí tích do linh mục tội lỗi thực hiện sẽ không thành. Những người bỏ đạo, khi trở về hàng ngũ Kitô hữu phải được rửa tội lại. Quan niệm này được gọi là Donatism.

Sau này vào thế kỷ thứ V lại phát sinh bè phái Pelagianism. Những người thuộc bè phái này quan niệm rằng chúng ta có thể đạt được sự cứu rỗi bởi sự cố gắng thực hiện của con người vì bổn chất con người hướng thiện; do ảnh hưởng suy luận này, bè phái Pelagianism khước từ lý thuyết Tội Tổ Tông. Thời này, Augustine nhào vô chống lại Donatism và pelagianism. Augustine biện luận rằng không phải vị tư tế tội lỗi thực hiện phép rửa mà chính Đức Giêsu làm việc này (?). Cũng thế, Augustine biện chứng, không có đức tin, không có phép bí tích. Ngài đồng thời đưa ra chủ thuyết phép rửa tội là điều kiện cần thiết cho ơn cứu độ. Như vậy, vào thời gian cuối thế kỷ thứ tư và đầu thế kỷ thứ năm chủ thuyết về nghi thức thanh tẩy (phép rửa tội) đã đạt tới suy tư thần học một cách khá trưởng thành. Nền thần học này đặt căn bản trên lý thuyết, sự gì đã xảy đến với Chúa Giêsu thì cũng được thực hiện nơi mỗi người khi lãnh nhận nghi thức thanh tẩy (rửa tội).


Mãi cho tới năm 1547, Công Đồng
Trent (1545-1547), Bí Tích Rửa Tội mới chính thức được giáo luật hóa và quy định rõ ràng. Công Đồng này xác định, Bí Tích Rửa Tội thành, có hiệu lực, và đúng phép dẫu vị tư tế là người lạc đạo; rằng bí tích rửa tội cần thiết cho ơn cứu độ; rằng bí tích rửa tội đòi hỏi người lãnh nhận nhiệm vụ sống một cuộc đời tốt lành, thánh thiện; rằng ân sủng của bí tích rửa tội sẽ bị mất khi người lãnh nhận vấp phạm lỗi lầm kinh trọng; rằng không có trường hợp tái chịu bí tích rửa tội; rằng trẻ em và trẻ sơ sinh được lãnh nhận bí tích rửa tội. Công Đồng Vatican II nơi chương Dogmatic Constitution o­n the Church ghi chú rằng bí tích rửa tội liên kết thành viên với Giáo Hội, hướng dẫn con người thờ phượng Thiên Chúa và đưa con người tái sinh thành con cái của Thiên Chúa (Catholicism; Richard P. McBrien; Study Edition; Winston Press; Washington, D.C.; 1981; Tr. 752).


Xét thế, sự phát triển lý thuyết thần học phát xuất từ suy tư của con người và được Giáo Hội Công Giáo chấp thuận nâng nghi thức thanh tẩy trong lời truyền nhân danh Thiên Chúa thành Bí Tích Rửa Tội. Qua luận thuyết của Augustine, không có đức tin, không có bí tích; như thế, căn nguyên của Bí Tích Rửa Tội phải là đức tin. Tương tự như vậy, đức tin là cội nguồn, là căn bản cho bất cứ bí tích nào. Từ nhận thức này, nhiều câu hỏi được đặt ra liên hệ tới sự thực hành những phép bí tích. Tuy nhiên, nếu đã không thực sự nhận biết đức tin là gì, không nghiệm chứng rõ ràng đức tin thế nào, liên hệ và cảm nhận thực thể đức tin nơi mình ra sao, sự thực hiện cũng như lãnh nhận các phép bí tích sẽ trở nên thực hành một nghi thức cho có lệ, hoặc lỡ phóng lao thì phải theo lao cho giống người khác chỉ vì danh hiệu đã được gán ép cho trong khi lòng ruột trống rỗng. Thực thể sự vật và sự việc minh chứng, một viên đá được đẽo gọt cho có hình dạng ổ bánh mì; dẫu có cả trăm ngàn lần gán ép hoặc rao truyền đó là ổ bánh mì thì bản chất của viên đá được đẽo gọt mang hình dạng ổ bánh mì vẫn chỉ là viên đá; không ai có thể gặm nhấm chút gì cho có thể tạm qua cơn đói đang hoành hành. Với lòng chân thành khao khát mà không nhận biết thực sự đức tin nơi mình, không thể nào hưởng nhận được thành quả thực thi bí tích dẫu làu thông bất cứ lý thuyết cao trọng nào về nghi thức.

Như vậy điều đáng được nêu lên nơi lòng trí một người Kitô hữu đó là câu hỏi, đức tin là gì? Đức tin nơi mình ra sao? Mình có cảm nhận được thực sự đức tin thế nào không? Phúc Âm nói gì về đức tin? Điều kiện nào để có được đức tin như Phúc Âm xác định? Phải thực hiện những gì để nhận biết hoặc thực sự có được đức tin như Phúc Âm rao truyền? v.v... Ai cũng nhận biết khi đối diện với những vấn đề trọng yếu xoay quanh thực thể đức tin, câu hỏi tự phát sinh về sự rửa tội cho trẻ em và trẻ sơ sinh sẽ là, vậy đức tin của các trẻ em như thế nào để được lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội vì điều kiện ắt có và đủ để có bí tích phải là đức tin?

Nhà cháu nghĩ bất cứ ai cũng có thể lật Kinh Thánh, đặc biệt bốn Phúc Âm để tìm hiểu về thực thể được gọi là đức tin mà Lm Nguyễn Thế Thuấn dịch là Lòng Tin. Nhà cháu chỉ tạm dùng đôi câu Phúc Âm nói về đức tin làm căn bản giải quyết suy tư về Bí Tích Rửa Tội. Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy những câu, “Lòng tin con chữa con, lòng tin con cứu con, lòng tin con là ơn cứu độ của con.” Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu không bao giờ nói Chúa chữa, Chúa cứu, Chúa là ơn cứu độ mà chính là Lòng Tin (Mt. 9:29; Lk. 8:48; 17:19). Lại có câu nơi Matthew 17:20 “Người nói với các ông: "Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: ‘Rời khỏi đây, qua bên kia!’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được". Hoặc nghiêm trọng và bao quát hơn thế nữa, “Đức Giêsu nói với họ: Quả thật, Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này, xê đi mà nhào xuống biển thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được” (Mt. 21:21-22). Câu nói quá bao quát và mạnh bạo đến độ không tưởng. Nhà cháu cố gắng kiếm tìm nơi bất cứ sách vở nào có thể, kể cả trên internet mà không thấy nơi đâu dám tuyên bố như thế, chỉ nơi Phúc Âm.

Những câu Phúc Âm được nhà cháu nhắc đến nơi đây minh chứng nơi mỗi con người hàm chứa một quyền lực tối thượng. Quyền lực nội tại này cứu mình, chữa mình, và là ơn cứu độ cho mình được gọi là đức tin; Đức Giêsu nói thế. Hơn nữa, kẻ nào bảo núi này xê đi có nghĩa kẻ nào bày tỏ ước muốn, ý định rằng ngọn núi xê đi. Điều này mang nghĩa nơi ý định, ước muốn của mỗi người tự mang một quyền lực vô song. Quyền lực di sơn, chuyển đảo, là quyền lực của chính Thiên Chúa, quyền lực trên trời, dưới đất. Xét vậy có thể nói, nơi mỗi người đã và đang hiện diện quyền lực của Thiên Chúa. Vấn đề chỉ là chúng ta có nhận biết để sử dụng hay không. Phỏng quyền lực này được gọi đức tin hay lòng tin?


Nếu nhận chân được đức tin hay lòng tin là quyền lực của Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống nơi mình thì bí tích chính là nghi thức tuyên dương, tuyên xưng quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động và diễn tiến nơi tạo vật. Quyền lực của Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Nước Thiên Chúa, Nước Trời cũng là chính Thiên Chúa vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; quyền lực hiện hữu ở khắp mọi nơi từ ý nghĩ, hành động, những sự vô hình đến tạo vật hữu hình. Suy nghiệm như vậy, Bí Tích chính là nghi thức tuyên dương, tuyên xưng thực thể “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt.
1:23); Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi tạo vật.

Nhà cháu cảm thấy không cần suy luận thêm về những vấn đề nhà bác timhoc nêu lên vì nếu mọi tạo vật, mọi sự nơi vũ trụ này từ tư tưởng, lời nói tới đất đá, cây cỏ đang minh chứng quyền lực, đang ẩn chứa quyền lực hiện hữu của Thiên Chúa thì mọi vấn đề suy tư đã được giải quyết. Mọi câu hỏi tự nó có câu giải đáp. Sự thể còn lại chỉ là chúng ta có dám mở rộng lòng để nghiệm chứng, chấp nhận, và thực thi thực thể này nơi cuộc đời của mình hay không.

Ghi chú:

CD:Chu Dịch; Phan Bội Châu; Xuân Thu; CA, USA; (?).

CTC:Chí Tôn Ca; Nguyễn Bình dịch; Quảng Hóa Xuất Bản; Sàigòn, VN; 1971.

ĐĐK:Đạo Đức Kinh; Lão Tử; N.D. Cần dịch; Xuân Thu; CA; USA; ?.

ĐPvPP:Đức Phật và Phật Pháp; Narada Maha Thera; Phạm Kinh Khánh dịch; Xuân Thu; CA; 1971.

GLTH:Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa; Nghiêm Xuân Hồng; Xuân Thu; CA; USA; 1991.

HTVPĐ: Hành Trình về Phương Đông; Nguyên Phong dịch; Người Việt; CA, USA; 1993.

KCGL: Kim Cang Giảng Luận; Thích Thanh Từ; Thành Hội Phật Giáo; TP Hồ Chí Minh, VN; 1993.

KPBĐ:Kinh Pháp Bảo Đàn; Lục tổ Huệ Năng; Thích Minh Trực dịch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA; USA; 1987).

KT: Kinh Thánh; Nguyễn Thế Thuấn, DCCT dịch; Dòng Chúa Cứu Thế, Việt Nam; 1975.

KVG:Kinh Viên Giác; Thích Thanh Từ; Ấn Tống; CA; USA; 1997.

LGTÂ: Kinh Lăng Già Tâm Ấn; Thanh Từ dịch; Tu Viện Chơn Không; Long An; VN; 1975.

MGTT:Cơ Sở Mật Giáo Tây Tạng; Trần Ngọc Anh dịch; Thế Giới; CA, USA; 1995.

OM:Oriental Mysticism; Edward Stevens; Paulist Press; NY; USA; 1973).

PBDK:Pháp Bảo Đàn Kinh; Mai Hạnh đức dịch; Hội Phật Giáo BaLamật; Houston; TX, USA; 1989.

PHTH:Phật Học Tinh Hoa; Nguyễn Duy Cần; Đại Nam; CA, USA; (?).

SCTT:Sáu Cửa Thiền Thất; Bồ Đề Đạt Ma; Trúc Thiên địch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA; USA; 1987.

TBS:Tâm Bất Sinh; Thiền sư Bankei; Thích Nữ Trí Hải dịch; Thanh Văn; California, U.S.A; 1997.

TTÂĐ:Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ; N.X. Hồng; Xuân Thu; CA; ?.

VNVT: Vô Niệm Viên Thông; Thích Minh Hiền; CA, USA; 1995.

XDNSQ:Xây Dựng Nhân Sinh Quan; Nghiêm Xuân Hồng; Đại Nam; ?; ?.



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả