Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ -03-





XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA

TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA

============================


HÀN SĨ NGUYÊN




TRUYỆN THƠ


THỪA TƯỚNG

ỨNG HẦU

PHẠM THƯ



BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH

-2002-



====================================================


.......................


Chia tay, vua lại ân cần

Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu

Ban cho hảo tửu trân châu

Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.

-3-


KẺ ÁC ĐỒNG MƯU


Ba hôm về đến Ngụy thành

Đại phu đến trước sân đình báo công

Liên minh, ước đã lập xong (201)

Từ nay hai nước dốc lòng giúp nhau

Kể ra vấn nạn trước sau

Những lời đối đáp vơ vào bản thân

Vua khen :-“Đáng mặt hiền thần

Không làm xấu mặt quả nhân xứ người

Tài như khanh, chẳng mấy ai

Cố công ra sức vun bồi quốc gia

Nay ban gấm vóc ngọc ngà

Tước thăng ba cấp, gọi là thưởng công”

Tu Cổ hết sức vui mừng (211)

Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy

Ngụy Tề tướng quốc xưa nay

Nhiều phen bênh vực, bao ngày chở che

Quyền to, lại rất khắt khe

Lễ không ra lễ, có bề hại thân

Thày trò một lũ quyền thần

Hiền tài xa lánh, gian nhân kéo bè

Mặc cho nhà nước suy vi

Đàn ca múa hát phủ phê sáng chiều

Sinh linh nhà dột cột xiêu (221)

Thiên tai nhân họa đủ điều thê lương

Cùng đinh trăm họ thảm thương

Riêng quan tướng quốc trọn đường vui say.

Bấy giờ Tu Cổ ghen tài

Nhớ khi mất mặt trước ngai vua Tề

Thẹn mình thua gã đánh xe

Bừng bừng lửa giận, mê mê oán hờn

Nghĩ ra kế độc mưu gian

Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người

Vòng ngà xuyến ngọc mười đôi (231)

Rượu ngon, gấm tốt, vàng mười trăm cân

Trước là tỏ dạ báo ân

Khom lưng ton hót, thập phần hổ ngươi

Sau là nhân lúc vắng người

Dèm rằng họ Phạm có lời khinh khi :

-“Chê bai tướng quốc ngu si

Ham ăn của đút, giỏi nghe nịnh sàm

Tài năng như trẻ lên năm

Hung hăng, thô lỗ, cuồng dâm, ác tà

Một tội này, đã khó tha (241)

Lại còn thêm tội gian ngoa thông Tề

Bạc vàng chất đống đầy xe

Nhận nhiều châu báu toan bề vinh thân

Bao nhiêu bí mật quốc quân

Sõng tay bán rẻ chiếm phần lợi tư

Quan binh trông thấy ngờ ngờ

Rành rành tang chứng, sờ sờ điêu ngoa

Không tin cứ việc xét tra”

Ngụy Tề nghe nói thoắt đà ứa gan

Lửa đâu thiêu đốt tâm can (251)

Đùng đùng nổi giận, oang oang thét gầm

Định cho bắt đứa ác nhân

Đem về xử tội trước sân lôi đình

Tu Cổ vội vã tấu trình :

-“Việc này việc nhỏ, nhục hình là xong

Tối nay mở tiệc mừng công

Bá quan văn võ tiệc tùng vui chơi

Phạm Thư tất đón đưa tôi

Bấy giờ giữa tiệc đông người khảo tra

Trước là diệt đứa gian tà (261)

Sau là đủ mặt bách gia trông vào

Một đòn dằn mặt vương hầu

Trị cho tiệt giống cơ cầu dèm pha

Từ nay ai dám khinh ta ?”

Ngụy Tề đắc chí khen là mưu cao

Lệnh cho sắp đặt trước sau

Trong lo yến tiệc, ngoài mau đi mời

Lại cho chuẩn bị đòn roi

Gông cùm, kìm kẹp, nước sôi, lửa hồng

Dự mưu trị đứa gian hùng (271)

Để cho những kẻ hai lòng khiếp oai.

Nói về họ Phạm thảo ngay

Đâu ngờ lửa bén chân mày mà lo

Ung dung đọc sách ngâm thơ

Vàng cho chẳng cất, bạc cho chẳng màng

Bỗng dưng cảm thấy hoang mang

Tâm tư xao xuyến, can tràng phân vân

Sục sôi như nước đến chân

Mắt môi bứt rứt, tinh thần nôn nao

Đi ra thôi lại đi vào (281)

Lòng buồn man mác, dạ sầu miên man

Tay nâng chén rượu thở than

Môi khô miệng đắng, tiếng đàn ngẩn ngơ

Tai to vạ lớn sẵn chờ

Lá vàng trước gió đong đưa phương nào ?

Lục bình trôi dạt về đâu ?

Ai hay gió thảm mưa sầu chờ ai ?



[Còn tiếp]



========
Truyện thơ

THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Giản chú

by NGU PHU

(Nguyễn Phú)

========


GIẢN CHÚ đoạn 3

KẺ ÁC ĐỒNG MƯU



1-HIỀN THẦN : bề tôi hiền, giỏi, có tài có đức.

2-QUẢ NHÂN : (cũng như “quả vương”, “cô gia”) đều là những tiếng tự xưng một cách nhún nhường, khiêm tốn của vua chúa. Ý nói mình là người kém tài thiếu đức nên lúc nào cũng hiu quạnh, đơn độc (cô, quả), không có ai giúp đỡ, phò tá.

3-QUAN THẦY : Người đỡ đầu, quan trên trực tiếp nâng đỡ, che chở.

4-TƯỚNG QUỐC : Chức quan đầu triều thời xưa. Lục quốc (Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên, Tề, Sở) đều gọi là Tướng quốc. Riêng Tần gọi là Thừa tướng. Các chức danh này đều tương đương như “Thủ tướng” ngày nay.

5-QUYỀN THẦN : bề tôi chuyên quyền, lấn át quyền của vua.

6-SUY VI : (cũng như suy vong, suy tàn, suy thoái) : càng lúc càng yếu kém dần, thoái hoá dần, dẫn tới sụp đổ.

7-PHỦ PHÊ : tràn trề, thừa mứa

8-SINH LINH : mọi người và mọi con vật, thường được hiểu như “nhân dân thấp cổ bé miệng”

9-THIÊN TAI NHÂN HỌA :

-Thiên tai : tai hoạ do trời đem lại (Hạn hán, lũ lụt, bão tố, động đất, dịch bệnh v.v...)

-Nhân hoạ : tai hoạ do con người gây ra (Chiến tranh, phá huỷ môi trường sống ...)

10-THÊ LƯƠNG : thảm thiết

11-CÙNG ĐINH : (Đinh : người dân, người thanh niên)

-Cùng đinh : dân cùng, dân nghèo khổ, hết đường sinh sống

-Bạch đinh : người tay trắng, không có phương tiện lao động, sản xuất

-Thuế đinh : Thuế đánh theo đầu người

-Tráng đinh : thanh niên khoẻ mạnh

12-TRƯỚC NGAI VUA TỀ : (Ngai : Chiếc ghế vua ngồi) : Trước mặt vua quan nước Tề

13-MÊ MÊ : Dây dưa không dứt

14-“CHẲNG E NGẬM MÁU, CHỈ TOAN PHUN NGƯỜI” : (E = sợ, ngại – Toan : toan tính, dự định)

Do câu tục ngữ : “Hàm huyết phún nhân, tiên ô ngã khẩu” nghĩa là “Ngậm máu phun người, trước bẩn miệng mình”. “Ngậm máu phun người” có nghĩa là “vu cáo, nói xấu, bày đặt chuyện làm tổn thương người khác”

15-XUYẾN : loại vòng trang sức, chuyên đeo ở cổ tay, thường là có bản mỏng và dẹp.

16-VÀNG MƯỜI : vàng ròng, vàng nguyên chất, vàng tốt nhất.

17-BÁO ÂN : Đền ơn, trả ơn. Những câu tục ngữ liên quan :

-Thi ân bất cầu báo : Làm ơn cho người, chẳng mong người đền đáp lại.

-Dĩ oán báo ân : Lấy oán trả ơn

-Cứu vật vật trả ân; cứu nhân nhân trả oán (thông thường : ơn, nhơn)

18-HỔ NGƯƠI : Xấu hổ, nhục nhã, thẹn thùng.

19-NỊNH SÀM : nói càn nói bậy, không đúng sự thực, cốt để lấy lòng người trên, quan trên.

20-THÔNG TỀ : lén lút liên hệ với nước Tề, làm tay sai cho Tề.

21-ỨA GAN : Tức căm gan, tức phát điên lên được.

22-TÂM CAN : Tim và gan; nghĩa rộng là “lòng dạ, trong lòng, trong bụng”

23-SÂN LÔI ĐÌNH : nơi xử án của các quan.

24-NHỤC HÌNH : hình phạt đánh đập vào xác thịt.

25-KHẢO TRA : dùng hình phạt nặng nề đánh vào thân xác , buộc người ta phải khai, phải cung xưng.

26-BÁCH GIA : trăm nhà, nhiều người

27-TIỆT : hết sạch, hết nhẵn

28-ĐẮC CHÍ : (cũng như đắc ý) thích chí, khoái ý, vừa lòng

29-ĐỨA GIAN HÙNG : kẻ gian dối nhưng khôn ngoan, khéo léo, nhiều mưu mô, dễ dàng qua mắt, đánh lừa được mọi người.

30-KẺ HAI LÒNG : kẻ phản phúc, người “đứng núi này, trông núi nọ”, “ăn cây táo, rào cây ... thầu dầu”

31-THẢO NGAY : người thẳng thắn, có lòng tốt.

32-LỬA BÉN CHÂN MÀY : Do câu tục ngữ “Như lửa cháy mày” (Mày : lông mày, chân mày), “Như nước đến chân” (Nước = nước lũ), đều có nghĩa là có việc quan trọng, nguy cấp, gây ra tổn thương nhanh chóng

33-CAN TRÀNG :(CAN TRƯỜNG) gan ruột

34-LỤC BÌNH : Bèo (xanh), bèo trôi nổi trên sông.



========
Truyện thơ

THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Bình chú

by HỒNG THẤT CÔNG

(Nguyễn Hồng Bảy)

========


Bình chú đoạn 3

KẺ ÁC ĐỒNG MƯU


1-Hai cách cư xử đối lập nhau



Ở đoạn cuối phần 2, khi tiễn chân phái đoàn Nguỵ sứ ra về, vua Tề đã tỏ lòng trân trọng, quý mến Phạm Thư, ban cho nhiều tặng vật

Chia tay, vua lại ân cần

Chén quỳnh lưu luyến, tần ngần vó câu

Ban cho hảo tửu trân châu

Đinh ninh từ tạ, mau mau đăng trình.



Kẻ góp nhiều công lao có tính quyết định đến đại cuộc “liên minh Tề-Nguỵ” là Phạm Thư lại chỉ “Đinh ninh từ tạ ...”, rồi sau đó thì “mau mau đăng trình”

Trong khi đó ở đầu phần 3, lúc vua Nguỵ khen thưởng, gã bất tài vô tướng Tu Cổ lại có một cách xử sự khác hẳn.


Trước hết là nhận vơ phần công lao của kẻ khác về mình :

Kể ra vấn nạn trước sau

Những lời đối đáp vơ vào bản thân



Kế đến là ưỡn ngực ra, vênh vang nhận lãnh những lời ngợi khen, cũng như những tặng vật quý giá vua Nguỵ hàm hồ ban thưởng :

Vua khen :-“Đáng mặt hiền thần

Không làm xấu mặt quả nhân xứ người

Tài như khanh, chẳng mấy ai

Cố công ra sức vun bồi quốc gia

Nay ban gấm vóc ngọc ngà

Tước thăng ba cấp, gọi là thưởng công”

Tu Cổ hết sức vui mừng (211)

Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy



Quả là hai cách cư xử trái ngược hoàn toàn, việc tuy nhỏ nhưng cũng đủ để phơi trần tâm địa, bản chất hai con người ấy khác nhau, khác nhau xa lắm vậy.


2-Tu Cổ : một biểu tượng của kẻ tiểu nhân vô sỉ


Chúng ta hãy điểm qua nhân cách của đại phu Tu Cổ :

-Về mặt khả năng : đó là một con người nhạy bén, biết tận dụng kẻ dưới, khai thác rút tỉa lấy những tinh hoa của người ta, mưu ích cho ... bản thân mình ! Qua 2 câu :

Đón đưa Tu Cổ đại phu

Việc công góp ý, việc tư lo lường (52)



Ta thấy Phạm Thư không chỉ là một gã xa phu đưa đón chủ bình thường, mà còn kiêm nhiệm nhiều chức năng lo liệu, kế hoạch, cố vấn cho họ Tu nữa. Hẳn là cái kế hoạch “liên minh Tề Nguỵ” cũng chẳng phải họ Tu đủ tài nghĩ ra đâu !


Ngay cả khi đi sứ nước Tề, Tu Cổ cũng không quên đem theo cái gã đánh xe “đa năng, đa nhiệm” ấy

Đem theo cả gã xa phu

Trước là giong ngựa sau nhờ trí mưu (88)


-Về cá tính riêng, đó là một con người bộp chộp, nóng nảy, chỉ muốn thành công ngay, điều ấy thể hiện qua cách đánh cờ :

Tu Cổ tốc chiến mất quân (131)


Khi gặp gian nan, khó khăn thì hoảng hốt, thậm chí tê liệt, hết biết cách đối phó :

........................., sững sờ kinh tâm

Mồ hôi Tu Cổ tuôn dầm

Rành rành có miệng hóa câm bao giờ (144)


-Về bản chất, đó là một kẻ tiểu nhân hèn mọn, ganh hiền ghét ngỏ, ngoài mặt thì ra vẻ tử tế, nhưng trong lòng chất chứa nọc độc, sẵn sàng hại người bằng đủ mọi hình thức :

Miệng Cổ không ngớt ngợi khen

Lòng Tu đố kỵ ghét ghen chất chồng (58)


Thẹn mình thua gã đánh xe

Bừng bừng lửa giận, mê mê oán hờn

Nghĩ ra kế độc mưu gian

Chẳng e ngậm máu, chỉ toan phun người (230)



Nói cách khác, đó là một kẻ đê tiện, vô sỉ, nhận vơ tranh công của người, đắc chí vênh vang khi được ban thưởng, dẫu rằng bản thân y cũng thừa biết mình chẳng có một chút công cán gì :

Kể ra vấn nạn trước sau

Những lời đối đáp vơ vào bản thân (204)


Tu Cổ hết sức vui mừng

Vội vàng sửa lễ hiến dâng quan thầy (212)


-Về hành động : giỏi kéo bè kéo cánh, núp bóng quan thầy, hình thành đảng nịnh, mưu cầu vinh hoa, lợi ích cá nhân, bất chấp cảnh khổ của dân, bất chấp thế suy của nước

Thày trò một lũ quyền thần

Hiền tài xa lánh, gian nhân kéo bè

Mặc cho nhà nước suy vi

Đàn ca múa hát phủ phê sáng chiều (220)



Khốn thay ! Kẻ bất tài vô sỉ ấy lại giỏi nghề dèm pha, thóc mách, đâm bị thóc thọc bị gạo, dựng chuyện ngọt xớt, miệng lưỡi nanh nọc :

Trước là tỏ dạ báo ân

Khom lưng ton hót, thập phần hổ ngươi

Sau là nhân lúc vắng người

Dèm rằng họ Phạm có lời khinh khi :

-“Chê bai tướng quốc ngu si

Ham ăn của đút, giỏi nghe nịnh sàm

Tài năng như trẻ lên năm (239)



Chúng ta sẽ còn gặp lại nhân vật này ở các chương sau.

Tóm lại, đây là một nhân vật xấu xa trong số các nhân vật phản diện (Tu Cổ, Nguỵ Tề, Tuyên thái hậu, Triệu Quát v.v...) nhưng được tác giả khắc hoạ rất tỉ mỉ và lý thú vậy.

Hồng Thất Công


=========================




Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả