Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]






























Ngỡ Ngàng

Cuộc sống con người dần thăng tiến tùy thuộc sự phát triển tâm trí. Nơi diễn trình nhân sinh, những phát minh kỹ thuật giúp con người có cuộc đời thanh thản, nhàn hạ hơn, có nhiều thời gian suy nghĩ hơn. Nhiều mơ tưởng ngày xưa, nay đã trở thành hiện thực; lắm ước mơ được coi như thần thánh giờ chẳng khác chi chuyện thường; chẳng hạn sự kiện huyền thoại chỉ được nói đến trong sách vở xa xưa như “Thần giao cách cảm,” giờ đây chiếc điện thoại cá nhân đã không còn khiến ai ngạc nhiên, mơ ước.

Nhìn vào thực tế, tất cả những tiện nghi nơi cuộc đời đều là sản phẩm suy nghĩ, suy tư của con người. Có điều, không mấy ai khi sử dụng tiện nghi, để tâm thầm hỏi hay tìm hiểu về diễn tiến hình thành những sản phẩm mình đang sử dụng bắt nguồn ra sao. Được bao nhiêu người khi đem quần áo bỏ vô máy giặt tiện nghi lúc này biết về miếng gỗ được dùng làm bàn giặt thuở xa xưa. Gọi là xa xưa nhưng cũng chỉ chừng hơn kém trăm năm trước. Mấy ai khi lái xe có thể nghĩ tới những lời đàm tiếu về người phát minh ra chiếc thùng có hai bánh xe bằng gỗ cho bò kéo để chở nông phẩm từ đồng ruộng về. Tất nhiên, khi đường đi chỉ là những lối mòn nhỏ hẹp do bước chân người tạo thành thì bất cứ ai giới thiệu hay khuyến khích kiến tạo chiếc xe cho bò hay ngựa kéo đều bị coi là rách việc.

Cuộc sống càng tiện nghi, con người càng bận rộn hầu thỏa mãn điều kiện sinh hoạt nơi kiếp người. Trong hiện thực này, tâm trí càng phải vận động, suy nghĩ sao cho đạt được lợi ích hầu cung phụng cho cuộc sống; do đó, sự suy nghĩ, suy tư hữu vi, nhân sinh phát triển. Như vậy chẳng lạ gì, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì dầu có ít cũng bị cất đi” (Mt. 13:12). Có thể nói, không ai có thể mường tưởng sự phát triển hữu vi, nhân sinh sẽ biến chuyển và thăng tiến tới mức độ nào; bởi biết bao điều, biết bao sự kiện, tưởng chỉ là huyền thoại nay trong tầm tay với.

Tuy nhiên, nếu hỏi gốc gác sự phát triển của con người phát xuất từ đâu thì có lẽ ít ai nghĩ tới đó là suy nghĩ, suy tư, lệ thuộc điều kiện thực tại. Và lại hỏi suy nghĩ phát sinh từ đâu thì hầu như mọi câu trả lời đều sai lầm; vì cho đó là từ bộ óc. Sự sai lầm này khởi nguồn từ thiếu nhận thức, “Bộ óc chỉ là vật chất, và vật chất không thể phát sinh ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, hoặc tham vọng.” Dẫu ai ai cũng đang sử dụng, thực dụng, hay thực chứng, mắt nhìn, tai nghe, miệng nói, óc suy nghĩ. Đã bao lần tham dự đám tang, thử hỏi mắt người chết có nhìn được không mà nói mắt nhìn; tai người chết còn nghe được không, sao bảo tai nghe; miệng người chết còn có thể nói được không mà lại phát ngôn miệng nói; và rồi, óc họ còn suy nghĩ được chăng; óc suy nghĩ thế nào!

Như thế, nói cho đúng, mắt, tai, miệng, óc chỉ là phương tiện cho cái gì đó nơi một người hoạt động. Cái gì đó tạm gọi là hồn hay linh hồn; vì khi hồn đã ra khỏi xác thì mọi sự đóng lại, hết hoạt động. Và như vậy, gốc gác cuộc đời một người, nguyên bản của cuộc sống chính là hồn. Chính cái hồn suy nghĩ, suy tư.

Vậy hồn, linh hồn là gì, thế nào, liên hệ ra sao với xác thân và với cuộc đời một người? Linh hồn nơi mình mà không biết thì biết điều chi mới cần thiết, và cần phải làm sao để biết? Ai không nhận thực được con người vào đời tay trắng và ra đi trắng tay. Nói cách khác, một người đã không mang gì vào cuộc đời thì cũng chẳng mang theo được bất cứ gì khi từ giã cõi đời. Thế giá trị và mục đích của cuộc đời một người là chi? Chẳng lẽ cuộc đời chỉ là những giây phút, năm tháng tiếp nối chờ chết?

Thật phi lý và đáng thương!

Lã Mộng Thường




NỖI LÒNG

- "Và tôi đã trở lại đất Mỹ sau 12 năm về sinh sống tại Việt Nam. Vết thương lòng vẫn âm ỷ nhưng niềm hy vọng lớn lao phủ kín tâm tư, phần nào giúp nỗi an bình nội tâm, đồng thời giải tỏa bớt đôi chút tâm cảm nhục nhã của kẻ đã bỏ nước ra đi vì không có bất cứ cơ hội nào giúp đất nước, giúp dân tộc thăng tiến, vươn lên, hầu thoát khỏi kiếp lầm than chẳng những nơi cuộc đời mưu sinh mà còn nơi những phương diện nhận thức, đạo đức, văn hóa, những thiết yếu tinh thần căn bản con người cần có, và nên phát triển như một lẽ tự nhiên nơi cuộc sống nhân sinh. Thực ra, nói rằng phần nào giúp nỗi an bình nội tâm, giải tỏa phần nào tâm cảm nhục nhã của kẻ đã bỏ nước ra đi, cũng chỉ là niềm hy vọng phát sinh từ những cố gắng thực hiện những gì trong giới hạn cá nhân có thể, hầu phát sinh chút ít kết quả mong đợi, kết quả mà mọi con dân Việt dẫu đang sinh sống bất cứ nơi nao trên quả địa cầu đều mong đợi, mơ ước; dù đã thực hiện gì hay chưa, nhất là những con dân đang sinh sống tại bất cứ phần đất nào nơi nước Việt. Xin đừng hỏi tôi mơ ước gì cho người dân đất Việt. Câu trả lời ông bạn đã có, đang có, và cũng là chính mơ ước của ông bạn đã và đang triền miên ấp ủ như bao người dân Việt, dù sống bất cứ nơi đâu, dẫu đã bao giờ nói ra hay chưa; vì ông bạn mang dòng máu Việt. Có điều, xin cho tôi giữ kín những địa danh đã sống và tên của những người liên hệ để tránh những phiền hà có thể xảy ra vì bất cứ lý do nào."

- "Ba năm tính từ ngày 30 tháng tư, 1975 tiếp tục sinh sống tại Việt Nam, đất nước của những con dân máu đỏ da vàng, hai năm đầu, tôi đã phải làm mọi thứ nghề để mưu sinh, rọc lá chuối bán cho người gói bánh, dạo quanh những xóm làng mua đồ "Lạp xoong" bán kiếm lời, mua và cắt dây khoai lang bán cho người nuôi heo, kéo lưới rùng nơi vùng biển Bà Rịa, gần Vũng Tàu khi trời giá lạnh gần mùa Giáng Sinh, và bất cứ công việc gì hầu kiếm miếng ăn sống qua ngày, ngoại trừ lừa lọc người khác hoặc những chuyện tổn hại đến bất cứ phương diện nào nơi cuộc sống của họ. Nói rằng rọc lá chuối nhưng thực ra là ăn cắp lá chuối mới đúng sự việc của cái được gọi là công việc chẳng nên này. Thử nghĩ, cây chuối của người ta đang sắp trổ bông mà nhẫn tâm cắt lá thì sẽ ảnh hưởng thế nào tới quầy chuối chuẩn bị phát sinh! Một lần độc nhất trong đời, và tôi đã không dám đi theo những người rọc lá chuối; tâm tư không cho phép tôi làm chuyện hại người như thế; dẫu người khác, đã bao nhiêu năm sinh sống bằng công việc ăn cắp này mà lương tâm không hề nhận biết. Tôi chân thành xin lỗi chủ nhân của mảnh vườn trồng chuối nào đó mà tôi đã một lần theo người tới cắt trộm lá trong lúc khốn cùng. Xin hãy tha thứ cho tôi vì đã làm thiệt hại, dẫu không là bao, nhưng tôi đã làm sai, đã thiếu nhận thức, và đã ăn cắp một cách vô ý thức nơi thời vận túng quẫn."

- "Ngày còn nhỏ, tôi rất ốm yếu nên thường bị bạn bè cùng lớp bắt nạt, và một vài học sinh lớp lớn hơn ăn hiếp, ngay cả một người anh họ cũng cứ nhè tôi mà bày tỏ quyền hành ức chế. Những lần bị hành hạ bằng những nắm đấm, hoặc bạt tai, hay những lời phỉ báng, khinh miệt, trêu chọc bức hại, tôi chỉ biết ôm nỗi bất mãn, nhục nhã chạy về cáo với mẹ. Gia đình tôi nào khấm khá gì cho cam, bố tôi buôn cá khô từ Phan Thiết đem về bán lẻ lại cho người nuôi heo, lời lãi chẳng được là bao, và nhiều khi cá không bán hết phải đem phơi khô, tránh bị mục nát phát sinh dòi bọ. Mẹ tôi ngày ngày phải cúi mặt đối diện chăm tưới mấy luống rau, lưng bán cho trời nơi mảnh vườn quanh nhà phần còn lại của hơn hai sào ta đã được cất năm gian nhà ở, thêm hai gian vừa làm bếp, chất củi, và một chuồng heo, lứa nhiều nhất là mười con heo thịt. Nhà trên và nhà bếp được sắp xếp theo hình thước thợ; nơi góc trống bên hông nhà, cách vách bếp là một chiếc ao hơi hẹp chạy dài tới cuối vè đất, và hông chiều dài cũng giáp bờ vè còn lại, dùng để nuôi bèo nấu cám cho heo ăn. Đầu kia của nhà bếp ngay phía sau chuồng heo tráng xi măng, được đào một hố chứa đựng phân heo dùng để phân bón cho rau cỏ. Mà nào mẹ tôi có to lớn chi, bà thấp chỉ tới ngang tai bố tôi, người mảnh khảnh tưởng chừng chỉ ngọn gió mạnh cũng thổi bạt được bà một cách vô định hướng."

- "Gia đình tôi đông anh em mà tôi lại là con đầu lòng. Khi tôi đang theo học lớp ba thì mẹ tôi mời một ông thày có võ Bình Định, ngày ngày tới dạy võ cho tôi. Không biết mẹ tôi phải trả công cho ông ra sao, mà công việc chính của ông là dạy võ cho tôi vào buổi chiều cùng chăm sóc mấy chiếc nẹp phơi cá khô, ăn uống ba bữa, sáng, trưa, và chiều. Có lẽ vì học võ phải vận động nhiều nên máu thông thoáng chuyển đổi dần giúp tôi càng ngày càng có thêm da thịt. Và thế là từ lớp nhì đổ đi, không tên nào nơi trường tiểu học còn có thể bắt nạt hay lên mặt hoạch họe gì, mà có chăng, vô tình trông thấy tôi thì lo mà tránh."

- "Từ năm đệ thất trở đi, tôi theo học Taekwondo nơi một trường dạy võ. Người tôi rong rỏng cao, lại hằng ngày luyện võ, máu huyết thông nên hình dáng có vẻ bảnh ra; hơn nữa, biết mình con nhà nghèo chưa làm chi giúp góp cho gia đình nên tôi ra sức chẳng những luyện nơi đàng võ mà còn cố gắng học nơi đàng văn hầu được những điểm cao khỏi phụ lòng cha mẹ. Bẩy năm trung học rồi cũng qua, tôi chẳng những thuận buồm xuôi gió thăng tiến cả võ lẫn văn để rồi theo đà tiến đó và lòng trí quyết tâm không phụ lòng cha mẹ; khi vừa xong tú tài hai thì bên làng võ tôi cũng đạt tới đệ tam đẳng huyền đai. Đó là vào năm 1972."

- "Đẹp trai, cao ráo, lại thuộc hàng sinh viên, và hơn thế nữa, đệ tam đẳng huyền đai thì cũng chính là đối tượng cho các nàng quen biết mơ tưởng. Thế nên tôi cứ nghĩ mình có số đào hoa, nhưng thực ra, các cụ nói không sai, "Lắm mối, tối nằm không." Dẫu trong những ngày hội hè, lễ tết, ở cái tuổi lầng nhầng chúng tôi, sinh viên, sinh hột, cùng những thanh niên, những nàng tiên lớp lớn trung học, có dịp gặp gỡ dù với ý định nào chẳng biết; chúng tôi có dịp họp nhau đi chơi, tham gia cắm trại. Tôi đôi khi đã trở thành mục tiêu cho khối nàng tiến tới với đủ kiểu cách giả vờ hoặc giả thiệt, và đồng thời lại cũng là đích nhắm cho lắm chàng chọn tôi làm tình địch. Nói cho đúng, quả lắm màn, nhiều vụ, đẩy tôi vô làm mốc cho các nàng diễn trò gây chú ý, đồng thời biến tôi thành địch thủ của những tay sừng sỏ nơi nhóm võ sinh trường khác. Có nhận định nào đó chẳng sai, "Lửa thử vàng, vàng thử đàn bà, đàn bà thử đàng ông, và đàn ông thử lửa." Sinh viên cao ráo, đẹp trai, đào hoa lại giỏi võ như tôi thì nào ngán thử lửa. Và thế là năm tên trong nhóm học võ, hùa nhau quần tôi một trận nên hồn, bò không được, lết không xong, phải nằm nhà bóp thuốc võ hai tuần mới có thể tạm đi lại bình thường. Trận đòn này, nói thua tôi vẫn không chịu; vì bất cứ ai, nếu ba người trong bọn họ cùng nhau đấu với một mình tôi cũng đều bị đo ván bởi họ thường thì bé con hơn và chỉ thuộc hàng đệ nhất và đệ nhị đẳng. Tôi không ân hận hoặc thù hằn gì đối với lối bề hội đồng của họ vì chuyện đấm đá đối với con nhà võ, thắng bại là lẽ thường. Tuy nhiên, điều nhận thức nhớ đời đối với tôi lại là chính chuyện bị đo ván bởi năm mạng cấp dưới đó đã dẹp tan lòng kiêu ngạo nơi tôi, khiến từ đó nơi bất cứ trường hợp tranh đấu nào đều phải e dè, cân nhắc. Đối với tôi, phải dành thắng mới là quan trọng; vẻ oai phong bên ngoài, huênh hoang khoe sức lực, ra oai, lên mặt, chỉ thuộc loại thằng hề, không có tôi. Nơi trường hợp dính líu tới tôi, cho họ hơn một chút cũng không sao, đôi khi tôi chấp nhận im lặng chịu mất mặt nhưng vẫn bình thản, để rồi từ từ tính kế cho họ chạy đàng trời cũng không thoát, mà coi chừng lại còn phải nhờ cậy, bám víu vào tôi sau này. Thắng, thua, chỉ tôi biết như thành quả của trận đòn thừa sống thiếu chết với năm tay hạng dưới đã giúp tôi thăng tiến nhận thức sống.

- Ông nói gì, tại sao ông nói, cao ráo, đẹp trai, giỏi võ, có số đào hoa, mà lại lắm mối tối nằm không?

Lên tiếng hỏi, tôi quen ông Quán từ khi ông dọn về căn nhà kế cận. Là người Việt nơi đồng đất nước người ở một thành phố đa số dân chúng là mũi lõ mắt xanh; thế nên khi thấy một người Việt lọt vô, tôi đã không ngại ngùng ghé qua làm quen. Đã được ba năm quen biết, đôi khi chén thù chén tạc nhưng tôi vẫn không dám hỏi về những chuyện tư riêng cá nhân. Tôi thường mời ông nhậu vào cuối tuần nhàn rãnh; bởi có bà xã lo lắng miếng ăn, thức uống. Hai nhà chỉ có hàng rào phía sau ngăn cách, tôi mở một cánh cổng nhỏ nơi hàng rào phía sau để tiện việc qua lại. Mãi sau này tôi mới biết tên ông là Nguyễn Lâm Quán. Ông chỉ có một mình, không vợ con và có cuộc đời khá trầm lặng. Từ ngày dọn về đây, chưa bao giờ tôi thấy bất cứ người khách nào ghé qua thăm. Dẫu trong lòng lấy làm lạ, nhưng tôi cũng ngại không lên tiếng hỏi bởi e đụng chạm đến nỗi đau riêng tư nào đó của ông. Bình thường, sau hai hoặc ba tuần nhậu bên tôi, ông mời vợ chồng tôi ghé qua dùng cơm tối. Chẳng bù cho tôi vì có bà xã nấu nướng nên tôi mù tịt về nấu ăn; ông chồng nào không thế. Ông Quán rất rành nấu ăn và lại cũng rất giỏi nhận định thức uống. Ông biết nấu đủ thứ, khi thì vịt nướng chao, mì vịt tiềm, cháo lòng, phở, bún bò Huế, gỏi đủ loại cá, phở xào, giả cầy, lại còn cả lô món đồ ăn Mỹ, chẳng hạn Spaghetty, Steak, cả mấy món tên dài lòng thòng tôi không thể nhớ. Hôm nay thứ bẩy, ông mời vợ chồng tôi qua ăn món vịt nướng chao và phở xào. Bà nhà tôi đã ăn xong, đã về nhà chỉ còn lại mình tôi với ông nhâm nhi đã gần hết chai Hennessy. Nói rằng nhâm nhi gần hết chai Hennessy, nhưng thực ra ông uống giỏi hơn tôi. Tối đa, tôi chỉ có thể uống bốn "Shots," và hiện giờ tôi còn đang thưởng thức shot thứ ba. Có lẽ hôm nay ông uống hơi nhiều nên mở lời tâm sự khi vô tình chúng tôi bàn luận về những thăng trầm nơi cuộc đời lan man đến phận số chẳng ngờ. Khi tôi nói về nỗi đau của kẻ phải bỏ nước ra đi, không thể ở lại và nỗi nhục tâm tư vì đã không thể làm gì được cho đất nước cũng như dân chúng trong cảnh khốn cùng, có lẽ lời chân thành thú nhận nỗi nhục của tôi đã khiến ông mở rộng lòng chia sẻ.

- "Thực ra. lòng tôi rất yếu mềm, nhưng cuộc đời ép tôi phải cư xử như thế. Hơn nữa, tôi rất thương bố mẹ vì đã vất vả nuôi dưỡng tám anh em chúng tôi; mà tôi lại là con trưởng đã không làm được gì để giúp gia đình. Cho nên chỉ còn cách hết sức lo học hành cho bố mẹ vui, đồng thời phải biết sống liêm sỉ tránh bất cứ điều gì khiến mang tai mang tiếng khiến bố mẹ buồn. Tôi học ban C, lấy Pháp văn làm ngôn ngữ chính và Anh văn làm sinh ngữ phụ vì vào thời đó Pháp văn đang được trọng dụng. Có điều, trời ban cho tôi trí nhớ khá tốt. Chẳng hạn, ngày trước hôm thi môn vạn vật của năm tú tài 1, tôi chỉ cần một đêm đọc ôn lại tập sách học là nhớ hết. Không hiểu thế nào, đối với tôi, riêng môn lịch sử thì cũng giống như một câu truyện, đã học qua trong năm nên khi ôn lại nào có gì khó khăn. Thêm vào đó, tôi đọc rất nhanh; nếu đọc truyện, những bộ sách kiếm hiệp, chẳng hạn bộ Hậu Cô Gái Đồ Long, gồm chín cuốn, sau này bản in của Đại Nam bên Hoa Kỳ gom lại chỉ còn ba cuốn, tôi đọc chỉ trong một ngày, cỡ ba đến bốn tiếng là hết một cuốn."

- "Đụng vào thời đó, tổng động viên của mùa hè đỏ lửa 1972, tôi không muốn gieo mình ra chiến trận bởi nhiều người, trong đó có một số bạn tôi, mới đăng nhập sĩ quan, ra trường được mấy tháng, đã thành tử sĩ trở về với cỗ hòm được lá cờ phủ bên trên trong danh hiệu tổ quốc ghi ơn. Tôi không trình bày bằng cấp và gia nhập địa phương quân nơi địa danh Vũng Tàu, tránh không cho ai biết gốc gác của mình, một lối trốn lính bất khả dĩ. Cùng với khả năng sinh ngữ, tôi nhận dịch những bản văn của quân đội Hoa Kỳ cũng kiếm thêm được chút cháo gửi về giúp gia đình. Trong thời gian này, tôi tiếp tục học võ và tháng ba 1975 tôi đã đạt được đệ tam đẳng huyền đai do một tập đoàn võ sư Đài Loan khảo hạch."

- "Tôi nói lắm mối tối nằm không là đúng với sự thật nơi cuộc đời chứ không phải thăng hoa hoặc nổ bậy. Tôi là người Công giáo, sở dĩ tôi theo ban C vì sau khi đậu tiểu học, được theo học nơi một tiểu chủng viện dẫu không có ý định đi tu; hình như bố mẹ tôi có ý cho tôi tránh bị ảnh hưởng sự lêu lổng rồi sinh ra đụng chạm của lớp trẻ thanh thiếu niên chăng; dầu tôi vẫn liên lạc hay đôi khi đàn đúm với những bạn học cùng lớp thời tiểu học. Thêm vào đó, có lẽ tôi quan niệm con người phải biết liêm sỉ, hơn nữa, danh dự gia đình cũng như tăm tiếng của bố mẹ tôi luôn luôn là điều tôi chặt dạ ghi tâm, không muốn bất cứ gì làm phiền lòng bố mẹ. Tôi cảm nhận được lòng thương của bố mẹ tôi, nhưng không biết cách nào giúp hoặc làm hài lòng bố mẹ, nên đã cố gắng học thật giỏi cho bố mẹ vui lòng. Thử hỏi ông bạn, thời học sinh, chúng ta có thể làm được gì cho bố mẹ được vui ngoài chuyện giúp những việc lặt vặt trong gia đình? Tất nhiên chỉ là cố gắng học cho thật giỏi vì còn gì hay cách nào khác hơn.

Với quan niệm con người sống phải biết liêm sỉ, dẫu mangsố đào hoa tôi lại nhận ra sự phiền hà của những người có số đào hoa; dù cho bất cứ ai, nam hay nữ nơi lứa tuổi thanh niên đều mơ ước có số đào hoa, được nhiều người khác phái để ý. Riêng tôi, có điểu lạ là cho dù quen rất nhiều bạn gái, phụ nữ, có thể nói đến cả trăm, nhưng không bao giờ có ý nghĩ hoặc mơ ước có cuộc sống gia đình, hoặc có một người vợ để chung sống đến trọn đời. Tôi thấy cuộc sống gia đình có vẻ buồn tẻ; giả sử trời ban cho mưa thuận gió hòa, cuộc đời có miếng ăn, miếng để, không phải lo lắng chi tới kế sinh nhai thì quanh đi quẩn lại, ban ngày đi làm, chiều về ăn tối, ngủ nghỉ qua đêm để rồi sáng lại đi làm, ngày nào cũng chỉ lặp đi lặp lại chỉ có thế, chẳng chi thay đổi. Phỏng con người có cuộc đời buồn tẻ như thế, lo làm kiếm miếng ăn để sống và chờ chết? Dĩ nhiên, nhiều khi nghĩ lại, đôi lúc đặt lại vấn đề về tâm tư, tôi nhận ra tâm tình con người có trạng thái nào đó khó mà phát biểu; để rồi có lúc, tôi thử biện giải tâm trạng một cách thẳng thắng nên nhận ra, khi có cơ hội mà đã không thực hành ý thích sẽ phát sinh tâm trạng tiếc nuối; “nơi trường hợp muốn phạm tội mà lại không có cơ hội, thế mới tức, mới ấm ức, dằn vặt." Nói xong, ông nhẹ mỉm cười, nâng ly rượu chiêu một ngụm rồi gắp miếng vịt nướng chao đưa lên miệng từ từ nhai, đoạn đứng lên lấy chai rượu mới bên trên nóc tủ lạnh.

- Tôi không uống được nữa đâu, thưa ông. Tôi nói.

- Tôi biết, tửu bất khả ép; nhiều lần ghé qua nhà ông, tôi biết tửu lượng của ông ra sao. Đêm nay thứ bẩy, mai ông bạn không phải đi làm; tôi muốn mời ông bạn cùng tôi một đêm tâm sự. Tuy nhiên, tùy ông, khi nào không chịu đựng nổi nữa, xin ông cứ tự nhiên, chẳng có điều lệ nào bắt buộc, cũng như không có gì ngăn cản; ông hãy là chính ông, tự do, tự tại; đó mới thực sự là điều tôi muốn. Tôi không thích hình thức dẫu đôi khi mình cũng cần đến nó; bởi tôi không muốn lừa người và giả tạo với chính mình; vì dù ai cố giả tạo cách mấy thì đến lúc nào đó cũng lòi cái đuôi cáo ra mà thôi. Thực ra, chân thành, ngay thẳng, không hình thức mới có thể có được những người bạn chân thành. Ba năm qua, từ ngày tôi dọn về đây, ông có thấy tôi có vẻ hình thức với ông bà bao giờ chưa?

- Xin lỗi ông, cho tôi hỏi một câu hơi tò mò vào đời tư của ông được không?

- Ông cứ hỏi; điều gì tôi muốn dấu thì sẽ không bao giờ nói ra, chỉ có thế.

- Gia đình ông có ở bên này không, và sao ba năm, tôi không thấy bất cứ ai ghé thăm ông; đồng thời cũng không thấy ông đi đâu; ít nhất dù chỉ một đôi ngày.

- Tôi cả đời độc thân, không vợ, không con, không bạn gái. Về vấn đề không có người quen ghé thăm bởi tôi không muốn anh em hoặc bạn bè của họ bên Việt Nam đôi khi lỡ bị phiền hà sau này; dẫu tôi đã trở về sống 12 năm không hề liên lụy gì. Tôi còn có bẩy gia đình người em bên Việt Nam; ngay cả những ngày ở Việt Nam, tôi cũng không cho họ biết và không đến thăm họ. Lý do tại sao, đó là điều tôi muốn chia sẻ với ông đêm nay. Xin ông cứ tự nhiên, nếu có gì cần biết thêm, làm ơn cứ hỏi. Tôi biết ông bà thế nào qua ba năm hàng xóm sát vách mà.

- Nói đúng sự thực, đã bao lâu nay, lòng tôi tò mò muốn biết về ông nhưng e ngại lên tiếng, vô tình làm phiền ông; do đó tôi đành cố giữ im lặng, chỉ dám hời hợt nói qua loa những chuyện trời mưa, trời nắng mỗi khi gặp gỡ. Thêm vào đó như ông thấy, chung quanh đây chỉ toàn người bản xứ, chỉ có gia đình tôi với ông là người Việt. Con cái của tôi thì ở xa, giỏi lắm một năm may được một lần chúng ghé thăm bố mẹ; thế nên, tâm tình “Bán anh em xa, mua láng giềng gần,” càng thôi thúc tôi muốn biết về ông. Nói cho đúng, lòng tôi cứ nổi lên ước muốn sống gần gũi với ông hơn.

- Trong suốt hai năm sau ngày 30 tháng tư, tôi làm đủ mọi thứ nghề như đã nói và không trở về gia đình mong tránh chẳng những trở thành gánh nặng cơm áo mà còn tai mắt của những kẻ thắng cuộc, đôi tháng dọc theo vùng biển Chu Hải, Phước Hòa, cho tới Hố Nai, ngược lên vùng Dốc Mơ, Gia Kiệm trên quốc lộ 20, đường dẫn tới Đà Lạt. Một hôm, còn đang lui cui đẩy xe đạp, phía sau chất 20 bó rau lang, cột chặt, cắt nơi miền rẫy phía sau rừng cao su Tam Bung khi vừa ra khỏi đường rừng rồi dọc theo quốc lộ 20, về chợ Phúc Nhạc bán cho người nuôi heo; một ông cỡ độ hơn năm mươi tuổi đi chiếc xe Honda dame, vượt qua và tấp vào lề đường dừng lại, đợi tôi tới gần chỗ đứng đoạn giơ ngang tay ra hiệu bảo tôi dừng lại; ông nói,

- Tôi theo dõi em từ hôm năm người võ sĩ có lẽ thuộc hàng đệ nhất và đệ nhị cấp huyền đai bề hội đồng một mình em cho tới nay. Tôi thấy em chỉ có một mình, làm đủ mọi loại công việc; ít bữa ở nơi này, đôi tuần hoặc đôi tháng nơi khác. Chú em không có gia đình, vợ con, hoặc anh em thân thuộc sao? Tướng của chú em, nếu tôi không lầm thì rất đào hoa, lại thuộc hạng người quen biết nhiều, mà sao cho đến nay vẫn độc thân, lại chấp nhận bươn chãi qua ngày như hiện giờ. Phỏng chú em còn ôm mộng gì khó bề giải quyết nên rán vượt qua ngày tháng để đợi thời?

- Từ ngày bị bề hội đồng, ông nói tiếp, tôi đã học được bài học khiêm nhu kể cũng hơi đắt giá, nhưng con nhà võ, thắng thua là chuyện thường, miễn sao không chết. Đồng thời, trong cảnh khốn khó tràn ngập, mọi người dân miền Nam còn chưa hết sững sờ, thì nạn thiếu thốn cũng phủ lấp muôn nơi. Đã nhiều lần tôi định trở về với gia đình nhưng hình như có lực nào đó cản lại. Thầm nghĩ, thân trai sức dài vai rộng mà chấp nhận ngày ngày mặt cúi xuống đất, lưng bán cho trời, chăm sóc mấy luống rau kiếm miếng cơm qua ngày, rồi cũng phải lập gia đình chôn vùi đời trai trẻ nơi xó hẹp của mảnh đất nào đó, và sẽ qua đi như chưa bao giờ hiện diện trên mảnh đất này. Tôi thương và nhớ bố mẹ tôi đã bao ngày tháng tận tụy làm ăn, nuôi nấng tám anh em chúng tôi; tôi phải làm gì trong hoàn cảnh, thời đại này. Hơn nữa, tôi thuộc giòng Bắc kỳ 54, được nghe và đọc nhiều về cảnh đấu tố điền chủ, phú hộnơi miền Bắc, nay miền Nam lại phát sinh chiến dịch đánh tư sản, mại bản. Đôi lần tôi ghé qua vùng kinh tế mới Tân Hữu trên đường đi Võ Đắc, Võ Xu, hoặc ra Phan Thiết nơi những chuyến xe lửa cũ kỹ, tận mắt chứng kiến cảnh dân chúng chen chúc trên những toa tàu chật chội, và cảnh màn trời, chiếu đất, nơi bãi biển ban đêm chờ chuyến tàu sớm đưa những người buôn thúng bán mẹt về nơi phố thị. Những gương mặt rạng ngời nhưng bị vết lọ than củi, nắng mưa che lấp của lứa tuổi thanh thiếu niên mất học đường, phải ra đời tranh đua giành sống. Đôi khi gặp mấy người bạn học ngày xưa trong nhóm bị cải tạo nơi ga Trạng Táo đang chờ phương tiện di chuyển đến phương xa nào đó, nhưng tôi đã không dám lên tiếng gọi thăm hỏi, e phiền lụy đến họ nên đành phải dấu mặt, im tiếng. Hai năm trời lang thang vô định hướng mong một chuyện gì đó bất thường xảy đến, tôi chỉ biết mong chờ mà không biết mình mong chờ gì.

- Không ngờ ông để ý theo dõi tôi, nhưng thưa, có chuyện gì không ạ? Tôi trả lời lập lững như không trả lời vì tôi biết, dưới thời đại Cộng Sản, không nên tin bất cứ ai dù vợ con thân thuộc, và bất cứ những gì không muốn ai biết thì đừng bao giờ nói ra. Phỏng đó là sự khôn ngoan cuộc đời bắt tôi thực tập qua hai năm bươn chãi?

- Tôi không phải là công an hay mật vụ chìm. Tôi thấy chú em thay đổi rất nhiều từ sau ngày bị bề hội đồng, trầm tĩnh, kín đáo, và hình như hai năm qua chú em thay đổi chỗ ở, công việc kiếm kế sinh nhai với mục đích ẩn sâu nào đó không thể dự đoán được. Tôi còn biết chú em hằng ngày tiếp tục luyện võ, có lẽ năng lực đã gần đệ tứ đẳng huyền đai, nhưng cứ như thế sẽ không bao giờ vượt qua được đệ ngũ đẳng huyền đai bởi thiếu năng lực nội công. Hình như chú em chưa biết làm sao để phát triển năng lực nội công thì phải, nên dầu đã tam đẳng huyền đai vẫn bị năm người đệ nhất và đệ nhị huyền đai hạ cho đo ván. Nói cho đúng, đệ tam đẳng huyền đai nếu có năng lực nội công thì năm chứ mười đệ nhị đẳng huyền đai cũng không thể nào đụng đến chú em được. Đây là một trong những lý do tại sao tôi theo dõi chú em đã hai năm nay.

- Thế những lý do khác thì sao, thưa ông? Tôi giả đò ngờ nghệch, nai tơ, nhẹ nhàng lên tiếng như một người tò mò muốn biết cho qua chuyện.

- Có phải chú em đang ở nhờ gia đình một người bạn ở Thanh Sơn? Em gái người bạn đó cũng xinh xắn và hình như rất có cảm tình nghiêng về chú em; trong khi chú em lại cố ý như ngây ngô, không biết, nếu không muốn nói là cố tránh tạo thêm sự thân thiết. Bạn của chú em cũng biết em anh ta có cảm tình đặc biệt với chú em, nhưng cũng đành cố lờ đi như không biết và chờ đợi xem phản ứng của chú em. Tôi nghĩ chú em biết nhưng cố đè nén nỗi lòng, do đó, tôi đoán chú em có chủ đích nào đó, bởi vậy, cố tình gặp để nói với chú em.

- Cóc nhái làm sao dám lo chuyện ểnh ương. Cuộc đời rồi cũng qua, chẳng lẽ cơ cực một mình chưa đủ hay sao mà còn muốn kéo thêm kẻ khác xuống vực thẳm cho họ khổ thêm, thưa ông. Không ngờ ông biết về tôi nhiều hơn chính tôi, nhưng nơi thời điểm này, biết tính sao hơn, thưa ông. Lập gia đình thì không chi khó khăn, nhưng nơi hoàn cảnh sau này, may mắn yên ấm cho qua thì không sao, nhưng lỡ thời vận đưa đẩy lúc chén bát đụng nhau, khi cơm không lành, canh không ngọt sao tôi có thể chịu đựng được. Tôi giả “ngây thơ cụ” cộng thêm suy tư tự ái của người thanh niên biết liêm sỉ.

- Nếu tôi không lầm thì bố mẹ của cô ta định sẽ chia cho cô ta hai mẫu tây rẫy chuối thì sao sau này có thể thiếu may mắn cho được, nhất là đối với một người tháo vát như chú em.

- Ông là con ma xó nhà người ta hay sao?

- Tôi không phải là ma nhà người ta, mà ma theo đuổi chú em đã hai năm.

- Với mục đích gì, thưa ông? Tôi cố tỏ ra ơ hờ, không để ý.

- Thực tâm, nói chú em đừng cười, tôi không hiểu sao cứ để tâm theo dõi chú em; đồng thời nhiều chuyện đưa đẩy khiến tôi có cơ hội theo dõi mà chẳng hiểu theo dõi để làm gì ngay từ thời buổi ban đầu. Sau hơn năm rưỡi, tôi mới chợt có chủ đích. Con người của chú em, ngũ quan đoan chính, gân cốt rất thuận cho việc học võ. Chẳng những thế, chú em có niềm cao ngạo; tôi nói cao ngạo chứ không phải kiêu ngạo. Người có niềm cao ngạo là người biết mình có thực tài nào đó, có niềm tự tin, có liêm sỉ. Chỉ một điều tôi không biết đó là mục đích của chú em đối với cuộc đời.

- Đây là lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được hỏi về mục đích cuộc đời, thưa ông. Con người được sinh ra thì phải sống và không muốn chết khi còn ít nhất trai trẻ như tôi. Tôi lại cố tình trở nên ngây thơ. Thực ra, như ông biết, không ai biết mục đích cuộc đời của họ là gì; tôi cũng thế thôi; bởi tôi đã sống và đang sống trước khi nghĩ đến mục đích cuộc đời. Nhất là lúc này, nơi thời điểm tận cùng của xã hội, không thể nói đến ngày mai thì sao có thể đặt vấn đề về tương lai, phương chi mục đích cuộc đời. Ngày ngày lo kiếm miếng ăn như con vật thì nói chi đến ngày mai hay viễn ảnh tương lai, những ngôn từ thần thánh đó thì đành coi như sáo ngữ nơi văn chương mà thôi.

- Tôi có câu hỏi hơi quá phận chú em có chấp nhận trả lời không. Tôi nói rất chân thành, ông nói.

- Nào có gì phải dấu diếm nên chẳng có gì đối với tôi là quá phận cả, thưa ông.

- Vậy tôi phải xin lỗi trước; nếu gia đình người bạn đương đường bày tỏ muốn gả con gái của người ta cho chú em; chú em sẽ có phản ứng thế nào?

- Ông biết đó, tôi đã ở đậu, ăn nhờ nhà người ta gần bốn tháng và đang định dời đi. Đi đâu tôi cũng chưa biết, nhưng vẫn phải ra đi vì tôi không muốn phiền gia đình họ nữa. Thưa ông, câu trả lời ông đã rõ.

- Tôi có đề nghị, tôi muốn chú em chừng hai năm hay hơn luyện năng lực nội công và thăng tiến Taekwondo đến mức cao nhất nếu có thể. Ông tổ của Taekwondo được tạm gọi là đệ thập đẳng nhưng chỉ hơn hạng cửu đẳng, nếu nói theo trường phái Taekwondo với cách luyện tập ngày nay. Tôi muốn chú em chỉ cần đệ thất đẳng thêm phần năng lực nội công thì cho dù đệ cửu đẳng của trường lớp hiện nay cũng không làm gì được chú em. Chú em đồng ý?

- Tôi trên răng dưới dép thì lấy đâu cơ may đào luyện thêm?

- Tôi nghĩ, tối đa sáu tháng, vấn đề sinh sống sẽ không còn là điều kiện khó khăn đối với chú em.

- Vậy tôi phải làm sao?

- Phỏng ba ngày nữa đủ để chú em chuẩn bị lên đường?

- Lòng tôi chợt phân vân vì nhiều vấn đề dồn dập ập tới; trong khi quá ngỡ ngàng bởi đề nghị bất chợt của một người chưa bao giờ quen biết. Dĩ nhiên, bản năng sinh tồn và tiếp nối cuộc sống luôn đeo đẳng và ám ảnh tâm sinh lý nơi bất cứ ai; dẫu ước vọng, niềm mơ, hay sự tin tưởng nào cũng không thể che lấp bản năng nhân sinh này. Tất nhiên, là một thanh niên độc thân, đang thời buổi cương phương, tôi nào phải gỗ khô, đá lạnh; dẫu nhu yếu cuộc sống nơi thời buổi này đòi hỏi một người trần thân xoay xở, nhất là trong trường hợp bơ vơ cô độc, thân tự lập thân hầu tránh gánh nặng cho gia đình thân thuộc với hoài bão mông lung chưa hề được xác định, nên rán bươn chãi, ẩn nhẫn kiếm sống đợi chờ, chờ mong điều gì, thực tâm cũng không biết; tôi chỉ cảm thấy lòng mình mong muốn, tha thiết với ước vọng, với điều nào đó đang đợi sẵn.

Tôi biết Ba, bạn tôi, đưa tôi về nói với bố mẹ cho ở nhờ không vì bất cứ ý đồ nào. Chúng tôi quen biết nhau nhân một hôm tôi đang lang thang nơi Sài Gòn trước năm 1975 trên vỉa hè sắp đầy hàng chợ trời. Tôi ghé vô nơi chưng bày những chồng sách, truyện. Sách mới, sách dịch, sách cũ, nào tiếng Anh, tiếng Pháp, muôn loại sách, chắc chắn giá cả rẻ hơn nơi các tiệm đặc biệt bán sách. Đàng khác, các tiệm sách đâu có những cuốn sách cũ đã trãi qua bao thời thay đổi còn được vô tình lất lây giữ lại giữa dòng người tâm tính vội vàng biến chuyển theo nhịp sống nhân sinh. Còn đang để ý lướt qua danh hiệu nơi chồng sách hơi cũ, chợt có tiếng hơi lớn của người nào đó phía sau nổi lên coi bộ bất mãn với thái độ của ai đó. Tôi quay lại thì vừa thấy một tên ăn mặc có vẻ đầu đường xó chợ đang giơ tay đấm một thanh niên cỡ tuổi tôi, coi bộ hiền lành nhã nhặn, ăn mặc bình dị như thường thấy trên phố.

Với phản ứng tự nhiên, con nhà võ mà, tôi nhẹ bước tới đưa tay hất ngang cú đấm của anh chàng ngang ngược dám thượng cẳng chân, hạ cẳng tay giữa phố chợ. Có mấy người thuộc băng đảng hè phố của tên ngang ngược này trờ tới xông vào, nhưng bị tôi cho đo ván chỉ với mấy cái gạt tay, ngáng chân. Thực ra, tôi nào có sợ gì ai vì dẫu mang danh hiệu nghĩa quân để trốn lính, nhưng lại quen biết nhiều cấp lớn; vì là chuyên viên dịch tin tức trong hệ thống quân đội nên luôn có sẵn giấy phép công vụ không lệ thuộc thời hạn, giờ giấc, hoặc địa danh, khu vực. Cái nhóm băng đảng hè phố này chỉ là những trẻ ranh ngang ngược, không lo học hành, đàn đúm với tụi du thủ du thực hư hỏng cả tương lai. Tôi không nói không rằng, nắm tay anh Ba kéo ra nơi khác giữa những cặp mắt kiêng nể của đám người ngang ngược hè phố Hòn Ngọc Viễn Đông.

- Vì sao mà tụi nó làm phiền anh, tôi hỏi.

- Tôi đang định mua cuốn Anh Em Nhà Kamarazốp thì có người xô phải, tôi bực mình lên tiếng cự nự thì hắn định đánh chợt gặp lúc anh nhào vô đỡ đòn.

- Hình như anh không phải người Sài Gòn?

- Tôi ở vùng Gia Kiệm, nhân tiện đi ghi danh năm thứ hai đại học Văn Khoa nên muốn mua ít sách về đọc. Sao anh nghĩ tôi không phải người Sài Gòn?

- Cái giọng Bắc kỳ của ông khiến tôi nghi ngờ. Người Sài Gòn, nếu là dân 54 sẽ bị pha giọng miền Nam, nghe nhẹ nhàng hơn.

- Tôi mới nói với anh chỉ có một câu thôi mà!

- Chẳng những thế, lối ăn mặc của ông cũng không giống với dân Sài Gòn. Mình kiếm nơi nào uống nước nói chuyện; ông có bận chi không?

- Đi thì đi, chiều nay trở lại kiếm sách và mai tôi phải trở về.

Mang danh nghĩa quân nhưng tôi có tiền do dịch tin tức từ tiếng Anh qua tiếng Việt. Từ quán cà phê bước ra, anh Ba có nhã ý mời tôi ghé qua nhà người bác ở Sài Gòn, và tôi lại được mời dùng bữa trưa. Chiều hôm ấy, tôi đi lang thang với anh Ba mua vài cuốn sách, và chúng tôi quen nhau từ dạo đó. Nói cho đúng, gọi là quen nhau nhưng chỉ là độc nhất một lần vô tình gặp chuyện, và mãi cho tới ngày sau năm 1975 khi tôi lang thang kiếm sống ngang vùng Gia Kiệm mới gặp lại và được anh Ba dẫn về giới thiệu với ba mẹ cho ở nhờ. Hơn nữa, không ngờ Ba có người em gái dễ thương đã học xong tú tài 2 năm 1974 nhưng bỏ ngang không theo đại học Luật Khoa từ khi đất nước đổi đời.

Nói đúng ra, tôi rất đào hoa, nhưng lề lối luân lý, đạo đức, văn hóa được khuôn mẫu nơi trường lớp chủng viện Công giáo nên quan điểm cũng như nhận thức giá trị cuộc sống có phần khép kín. Đối diện với lý thuyết, quan niệm, nhận định nơi sách vở, tâm trí tôi được rộng mở, nhưng dầu thế tôi lại rất bảo thủ. Tôi dùng ngôn từ bảo thủ nhưng không phải cố chấp khư khư ôm ấp triết thuyết hay tư duy của bất cứ tác giả, văn hào, văn chương nào, mà bảo thủ theo quan niệm như thành quả hay sản phẩm nhận thức của chính mình. Tất nhiên, những gì, những quan niệm đã sẵn được hấp thụ qua học đường hay đọc sách nơi tôi, rất dễ dàng thay đổi hay cải tiến một khi tôi nhận thức được điểm nào đó dẫu chống ngược lại với quan điểm của mình, cho dù trong lãnh vực niềm tin. Tôi cho rằng, những tri thức nhận được chẳng khác gì các thực phẩm, ăn vô phải được tiêu hóa thành máu nuôi cơ thể. Những kiến thức, tri thức đến với tâm trí qua bất cứ phương diện nào, cần được cẩn trọng ghi nhận và thâm trầm suy tư, suy nghĩ cho đến tận cùng, nếu thuận lý, hợp tình với mình chẳng khác gì thực phẩm phải được tiêu hóa thành dòng máu nuôi sống cơ thể, và nếu còn vướng mắc, trục trặc, thì cần phải được lựa lọc, hoặc đào thải, hoặc kiên tâm nghiền ngẫm cho tới khi thông suốt, trở thành của riêng mình mới thôi.

Đàng này, dẫu đang có ý định thay đổi chỗ ở nhưng đề nghị quá bất ngờ lại không có được bất cứ lý do, lý trấu nào làm cơ sở bám víu, hoặc điều kiện hay thực tại nào làm căn bản cho tôi ít nhất có được nhận định mù mờ hầu liều mạng quyết định. Nói cho đúng, tôi chẳng có gì nên chẳng sợ mất mát chi; chỉ có mỗi cái mạng và nếu cái mạng đã mất thì nào còn chi để tiếc nuối. Hơn sáu tháng sau ngày rời bỏ Tân Hữu, sáng không có gì ăn, lang thang bữa trưa có gì bỏ vô bụng cho qua, và tối đến uống nước lạnh đi ngủ; mà tôi vẫn còn sống đến lúc này, tôi đâu e ngại điều chi.

Nghĩ đến lòng tốt của gia đình người bạn đã cưu mang tôi suốt bốn tháng, không đòi hỏi nơi tôi bất cứ chi mà coi tôi như người nhà; chỉ hơn một tuần kỳ mới tới, tôi vô rẫy chuối làm công việc hầu trả tiền ăn ở, và từ đó làm việc riêng, chẳng hạn đi mua dây lang về bán kiếm ít tiền lời. Vào thời đó, làm thuê nơi rẫy chuối, tiền công chỉ đáng hai đồng một ngày; trong khi đi cắt dây lang về bán cho người nuôi heo, tôi kiếm được ít nhất 10 đồng một ngày. Bữa trưa thì xin chủ vườn mấy trái bắp luộc dồn đầy chiếc dạ dầy cho qua. Tối chỉ cần ba đồng, một đĩa nem hay tái nho nhỏ, một đồng, cút rượu, một đồng, và tô cháo lòng cũng một đồng nơi quán bà Tân, Phát Hải, tha hồ vương giả. Đôi khi tôi đưa ít tiền tạm gọi gửi chi phí ăn ở với gia đình nhưng không được nhận.

Dáng dấp và thái độ cũng như ánh mắt Lan, em gái của Ba, chợt thoáng gợi nơi lòng tôi mối duyên nào đó. Tôi cảm thấy giao động, nhưng thực tại cuộc sống cũng như mơ ước viễn vông mờ mờ ảo ảo khuyến khích tôi tạm quyết định lần lữa chờ phận số. Tất nhiên, gặp gỡ chỉ là duyên, nhưng nếu thực sự mang nợ kết hợp hôn nhân thì có “Tránh trời cũng không khỏi nắng.” Nếu đã là lương duyên thì trước hay sau, chuyện đến sẽ phải đến. Hãy từ từ cho thêm thời gian tìm hiểu lòng mình thực sự muốn gì và sẽ đi về đâu. Thế nên, tôi quyết định, thử cho mình thêm cơ hội liều mạng, do đó hỏi,

- Thế tôi phải đợi ông ở đâu, và vào giờ nào?

- Tôi sẽ đến đón tại nhà người bạn của chú em, cỡ 10 giờ sáng ba ngày nữa được không?

Và ngày thứ ba, trước lúc 10 giờ sáng tôi đã sẵn sàng khi ông lái chiếc Honda dame trờ tới trước hè, ngay cửa. Tôi dùng chiếc ly uống nước dằn tờ giấy, đã viết tối hôm qua, trên bàn với đôi dòng tạ từ,

Ngày… tháng… năm…

Thưa hai bác, bạn Ba, và em Lan.

Vì có việc bất chợt phải ra đi gấp, không thể trì hoãn, nên cháu dùng đôi dòng chữ vội vã này thay người giã từ hai bác, bạn Ba, và em Lan.

Bốn tháng trời ròng rã, gia đình hai bác đã rộng lòng cưu mang, chấp nhận cho cháu ăn nhờ, ở đậu, không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì. Cháu không biết dùng ngôn từ nào để bày tỏlòng chân thành ghi ơn hai bác, bạn Ba, và em Lan. Tiền nhân dân Việt để lại câu, “Một đêm nằm bằng ba năm ở.” Cháu chẳng những được hưởng hơn kém 120 đêm nằm, tương đương 360 năm ở, mà lại còn được ăn uống, được coi như thành viên trong gia đình.

Phải ra đi, dẫu lòng không muốn, nên mang nỗi đau như xé tâm can, nhưng biết sao hơn. Ơn này biết sao trả, cháu chỉ còn biết “Sống để dạ, chết mang theo.” Thực ra, chính lúc này và những tháng ngày tiếp theo cháu mới nghiệm được thực thể câu nói, “Đối với ân huệ lớn lao không thể trả nổi; thì cách trả ơn tuyệt vời và đúng đắn nhất chính là vô ơn; vô ơn để giữ chặt trong lòng.” Ơn huệ của hai bác và gia đình,cháu chỉ còn biết trân trọng ghi nhận trong tâm; nói ra không được; mà càng nói ra lại càng chẳng nói được chi, chẳng khác gì vô ơn.

Muốn viết thêm nữa, nhưng cũng không thể viết được gì, và thời gian quá gấp không cho phép cháu chần chừ. Thế nên, cháu chỉ biết,

Nguyện cầu ơn trên phù hộ hai bác, bạn Ba, và em Lan trong những ngày tháng tới.

Nguyễn Lâm Quán.

- Tất nhiên, lúc viết những hàng chữ này tối hôm trước, tôi đã phải phóng tay ngoáy cho có vẻ rất vội vã trong cảnh bất chợt, hàng chữ lệch lạc, xiêu vẹo. đoạn đeo chiếc ba lô chứa mấy bộ quần áo, chạy ra leo lên phía sau chiếc Honda dame đang nổ máy chờ sẵn. Cũng may, nhà không có ai; vì mọi người đã ra rẫy chuối, khiến tôi tránh được cảnh khó ăn khó nói lúc chia tay.

Khi chiếc Honda dame vừa êm ả lăn bánh trên quốc lộ 20 hướng về Ninh Phát; tôi chợt nhận ra mình đã không biết ông ta tên gì nên lên tiếng,

- Thưa ông tên gì, cháu vẫn chưa biết tên của ông. Riêng tên của cháu là Quán, ông đã thừa biết từ lâu.

- Tầm, tên tôi là Tầm. Cứ đi một đoạn đã, sau khi ăn trưa và đổ xăng, mình sẽ kiếm nơi nào mát ngồi nói chuyện trong khi cho xe nghỉ vì chuyến đi còn dài.

Tôi không nói năng chi nhưng lòng cứ băn khoăn muốn biết mình sẽ đi về đâu và cuộc sống sẽ ra sao. Nói cho đúng, gọi là băn khoăn, nhưng bao lâu nay đã quá quen với cảnh thường xuyên di chuyển, thay đổi chỗ ở với nỗi lòng thách đố cuộc đời, tôi không nôn nao chút nào bởi đã có ông Tầm bảo đảm cho những ngày sắp tới. Hơn nữa, ông đoan chắc chỉ cần tối đa sau sáu tháng cuộc sống của tôi sẽ được ổn định, khiến tôi tạm an lòng.

Chiếc Honda dame của ông hình như đã được xoáy lòng nên tiếng nổ khá nặng, có lẽ cũng do xăng pha dầu hôi nơi thời buổi này. Ông Tầm cho xe chạy hơi nhanh hơn các xe máy bình thường trên con lộ. Qua Ninh Phát, Bốt Đỏ, Dầu Giây, Trị An, Bầu Cá 1, Bầu Cá 2, Trà Cổ, và dừng lại giữa khoảng Hố Nai, nơi quán trái cây bên đường có dấu hiệu bán xăng bằng ba chai 750 ml, trên đó úp chiếc phễu, ngay đầu con đường nhỏ dẫn tới trại cưa phía sau dãy nhà nay đã ngừng hoạt động. Hình như ông quá quen với nơi này nên chạy xe thẳng vô trại cưa. Khi vừa tới, đã có người bán xăng đợi sẵn.

Trại cưa hoang vắng, trống rỗng; còn chăng chỉ là khung gỗ đội lớp mái tôn trình diện nét tàn phai theo dòng thời gian. Một vài bàn cưa mâm chỉ còn khung gỗ; lưỡi cưa, trục cưa, dây kéo đã được di chuyển tới nơi nao nào ai biết. Những đường rầy bằng sắt của máy cưa dây cũng đã không còn; chơ vơ những phiến cầu gỗ âm thầm chấp nhận bị lãng quên hầu có thời gian hồi tưởng thời hoạt động oanh liệt của nhà máy, mong đè bẹp ưu tư, e ngại, ngày nào đó bị phân thây thành củi nấu nướng. Trống vắng và trơ trụi gợi lên trong lòng tôi nỗi ngậm ngùi kéo theo liên tưởng đến thân phận những con người mang bộ mặt nặng nề chấp nhận cảnh khó khăn kiếm sống sau ngày đổi đời. Tôi nén tiếng thở dài. Dân tộc tôi, gia đình, anh em, họ hàng, bạn bè quen biết, giờ này chẳng khác chi lớp thú mang dạng nhân sinh, ngày ngày lầm lũi lần mò miếng ăn hầu sống cho qua kiếp người, chịu đựng phận trời vô tình đổ xuống và gồng mình chấp nhận, “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Đâu đó lởn vởn nơi tâm trí câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Mình nào có hơn gì; thiên hạ còn có miếng đất cắm dùi; tôi bồng bềnh tha phương cầu thực, nặng lòng ấm ức chẳng dám hé môi giải tỏa nỗi bứt rứt, thao thức kiếm tìm cơ hội, ít nhất có thể giảm bớt chút nào niềm đau phận số của con người, của dân tộc tôi. Ôi vận trời, ôi phận người!

Còn đang luẩn quẩn với cảm ứng hiện trạng thực tại hoang vắng của nhà máy thì ông Tầm lên tiếng bảo tôi, sau khi đã đổ xăng xong, đoạn đẩy chiếc xe tiến về phía trước,

- Lại đàng kia, chúng ta ăn rồi đi tiếp.

Tôi lững thửng bước theo ông. Tới gần một bàn cưa mâm chỉ còn trơ mặt gỗ, ông dựng xe, bước tới bụi chuối cắt hai tàu lá trãi lên mặt bàn cưa, đoạn mở chiếc “Ba lô” được gắn khéo léo ngang hông phía sau xe như một phần của kiểu cách tiện ích thời đại. Ông lấy ra hai gói lá chuối chứa đựng bánh ướt, một gói lá chuối khác, trong đó bao gồm rau răm, mùi ta (ngò), rau diếp, và những miếng giò lụa. Hai chiếc đĩa sành kèm theo hai đôi đũa, một chai nước mắm được pha hành, tỏi, ớt, và hai chiếc bi đông, một chiếc bằng nhôm và một chiếc bằng mủ nhựa màu xanh. Tất cả được đặt trên bàn cưa mâm phủ hai tàu lá chuối; ông nói,

- Mình tạm ăn trưa xong rồi đi tiếp.

- Ông mua bánh cuốn ở đâu?

- Gọi tôi bằng bác; có lẽ tôi lớn hơn ba của anh đôi năm.

- Bác mới cỡ năm mươi mấy sao lớn tuổi hơn ba cháu được.

- Anh nói đúng, nhiều người cũng cho rằng tôi cỡ năm mươi mấy tuổi. Thật ra, tôi đã 67 tuổi.

- Bác nói đúng, ba cháu năm nay mới năm mươi tám tuổi. Sao bác có thể trông trẻ, khỏe mạnh như thế.

- Tại tôi tập võ Taekwondo và luyện nội công theo phương pháp Hatha Yoga.

- Ủa! Yoga là phương pháp tôi luyện thân xác của Ấn học mà.

- Nói cho đúng, mọi phương pháp luyện nội công đều tùy thuộc nguyên tắc ý dẫn khí; khídẫn huyết đến đả thông kinh mạch. Tuy nhiên, người ta thường chỉ cứ như con vẹt lặp đi lặp lại lý thuyết “Ý dẫn khí; khí dẫn huyết đả thông kinh mạch,” nhưng đã không biết áp dụng nó thế nào để phát triển nội công; chẳng khác gì những nhạc công đều biết lý thuyết chuyển âm từ ngàn xưa là 1-4-5, nhưng không biết cách ứng dụng, không biết áp dụng luật 1-4-5 vào hành trình chuyển âm của một bản nhạc.

- Thế nghĩa là sao, thưa bác?

- Anh có biết gì về âm nhạc không?

- Cháu tự học Guitar Classic khoảng hơn kém một năm, nhưng thấy mình không có khả năng phát triển theo ý muốn nên bỏ.

Ông Tầm lấy chai nước mắm tỏi ớt rưới lên đĩa bánh cuốn đã được bỏ thêm mấy miếng giò lụa, rau thơm đoạn mỗi tay cầm một chiếc đũa đảo đĩa bánh cuốn trong khi tiếp tục,

- Thế anh có viết bản nhạc nào không?

- Cháu có viết vài bản nhạc và đôi khi buồn buồn dùng guitar nghêu ngao chứ không đặt vấn đề chuyển âm vì nghe và để ý những bản nhạc được ghi nơi CD, cứ thấy người ta đánh âm bass trùng với âm cung giọng hát nên cũng cứ theo như vậy.

- Thế anh có hiểu chuyển âm là gì không và luật chuyển âm 1-4-5 là thế nào không.

- Đọc sách dạy về âm nhạc, cháu cũng chỉ đọc được như thế, nhưng không có phần nào chỉ về sự áp dụng của luật chuyển âm vào âm nhạc nên không để tâm đến chuyện chuyển âm. Tuy nhiên, nếu cháu không lầm, thì nhạc sĩ là người viết ra bản nhạc; ca sĩ là người hát bản nhạc; còn phần hòa âm thì đã có ban nhạc. Nơi trường hợp trình diễn nhạc sống, ban nhạc lại cần người phối âm. Đã một đôi lần xem được bản phối âm của ban nhạc thì thấy cứ nốt nào nơi bản nhạc thì hòa âm được viết với hợp âm của cung ấy. Chẳng hạn, nốt La thì hợp âm được viết là La trưởng hay thứ, Đô thì cũng được viết là Đô trưởng hay Đô thứ. Nhiều khi cầm cây guitar, luật chuyển âm 1-4-5 cũng được gợi về nơi tâm trí, nhưng thấy mấy người trẻ học dương cầm cũng chỉ được dạy, đụng nốt nào dùng hòa âm của nốt đó tùy thuộc bản nhạc nên không biết nghĩ gì thêm, đành cứ lờ đi trong nỗi thắc mắc mờ mờ ảo ảo không để tâm kiếm tìm câu giải đáp.

- Nếu cứ gặp cung hay nốt nào thì dùng hòa âm của cung ấy thì đâu cần luật chuyển âm 1-4-5. Thí dụ nơi nốt La của bản nhạc, theo nhận định của anh, làm sao để biết phải dùng hòa âm La trưởng, hay La thứ, hoặc La dim? Chẳng những thế, lại còn có La4, La7, La9, La13 v.v… nữa.

- Sao bác biết lắm thứ thế. Cháu có bao giờ thấy ai phối âm những thứ ấy cho ban nhạc chơi bao giờ đâu. Vô tình, một hôm ghé qua nhà một anh đang phối âm một bản nhạc cho ban nhạc chơi nhạc sống, cháu thấy anh ta phối âm khổ sở lắm. Nào phải căn cứ trên bảng tìm hòa âm, nào gạch gạch, xóa xóa để thay đổi hòa âm nọ, hợp âm kia.

- Thế anh có biết hợp âm hay hòa âm chính của bản nhạc là gì không?

- Nơi trung học đệ nhất cấp, cháu được dạy rằng phải nhìn vào nốt cuối của bản nhạc. Nốt cuối cùng của bản nhạc là nốt nào thì hợp âm của nốt đó là hòa âm chính của bản nhạc.

- Vậy anh có biết thế nào là hợp âm trưởng, thế nào là hợp âm thứ, thế nào là hợp âm dim không? Rồi thêm nữa, hợp âm 7, hợp âm 9, 11, 13. Tôi nói thẳng và thật, không có bất cứ ý đồ khen thưởng hay chê bai gì. Duy nhất chỉ với một mục đích nhưng tôi sẽ không nói lên cho đến khi nào anh tự nhận ra. Anh đã biết về guitar; anh thử tưởng tượng đang cầm cây đờn, tay trái bấm hợp âm và tay phải gẩy dây đàn. Nói cho tôi biết, đối với hợp âm Đô trưởng, anh bấm ra sao? Anh cứ đơn giản trả lời, có sao nói vậy, không cần giải thích.

- Thì cháu bấm nốt Đô, nốt Mi, và nốt Đồ.

- Vậy trên sáu dây của cây đàn sẽ bao gồm những nốt nào?

- Nốt Mì, nốt Đô, nốt Mi, nốt Sol, nốt Đố, và nốt Mí. Tựu trung, gồm ba nốt Đồ, Mi, Sol, nơi những cung bậc khác nhau.

- Anh thử tưởng tượng bấm hợp âm Fa trưởng.

- Hợp âm Fa trưởng bao gồm các cung bậc Fa, La, Đô.

- Thế hợp âm Đô thứ?

- Hợp âm Đô thứ bao gồm các cung bậc Đô, Mi giảm, Sol.

- Và hợp âm Fa thứ?

- Hợp âm Fa thứ bao gồm các cung bậc Fa, La giảm, Đô.

- Anh có thấy gì khác biệt giữa hợp âm trưởng và hợp âm thứ của hợp âm Đô không?

- Trưởng thì Đô, Mi, Sol; thứ thì Đô, Mi giảm, Sol.

- Thế còn sự khác biệt giữa trưởng và thứ của hợp âm Fa?

- Fa trưởng thì Fa, La, Đô; Fa thứ thì Fa, La giảm, Đô.

- Qua sự phân tích trưởng và thứ của hai hợp âm Đô và Fa, anh có nhận thấy sự gì khác biệt giữa hợp âm trưởng và thứ không?

- Đô trưởng, Đô, Mi, Sol; Đô thứ, Đô, Mi giảm, Sol; chẳng lẽ…

- Chẳng lẽ sao?

- Hình như hòa âm trưởng và thứ chỉ khác nhau nửa cung ở nốt thứ nhì?

- Nghĩa là thế nào?

- Từ nốt Đô đến nốt Mi là hai cung và từ nốt Mi đến nốt Sol là một cung rưỡi. Từ nốt Đô đến nốt Mi giảm là một cung rưỡi, và từ nốt Mi giảm đến nốt Sol là hai cung. Ủa, cháu chưa bao giờ để ý đến sự khác biệt này.

- Thế nếu anh so sánh giữa trưởng và thứ của hai hợp âm Đô và Fa, anh có thể đưa ra công thức cho hợp âm trưởng và thứ được không?

- Khoan, khoan, bác đợi cháu suy nghĩ ít phút. Đô – Mi = 2; Mi – Sol = 1.1/2; Fa – La = 2; La – Đô = 1.1/2. Công thức của hợp âm trưởng là 2, 1.1/2. Khoan, khoan, Đô – Mi giảm = 1.1/2; Mi giảm – Sol = 2; như vậy công thức của hợp âm thứ là 1.1/2 – 2. Sao…

- Sao thế nào?

- Chuyện chỉ đơn giản có thế mà sao bao lâu nay cháu không để ý?

- Có biết nguyên nhân không? Ông Tầm hỏi ngắn gọn.

Tôi chầm chậm gắp miếng bánh cuốn kẹp thêm rau từ từ đưa lên miệng trong khi tâm trí bận suy nghĩ tìm nguyên nhân. Mà tại sao ông Tầm lại nhắc đến nguyên nhân! Xưa nay, chuyện gì cũng thế, tôi chỉ thường học theo dẫu lòng ruột khó chấp nhận những lý thuyết, quan điểm đối nghịch hoặc khác với nhận thức của mình, trong khi không đặt vấn đề kiếm tìm nguyên nhân, hay phương pháp của những sự việc thực nghiệm, thực hành.

- Thiếu suy nghĩ, thiếu nhận định, thiếu đặt vấn đề.

- Thế có bao giờ anh để ý đến sự liên hệ của hợp âm chính của bản nhạc với bản nhạc không?

- Nghĩa là sao, thưa bác?

- Nghĩa là không cần phải nhìn nốt cuối vẫn có thể biết bản nhạc đó sẽ được dùng những hợp âm nào không? Tôi chỉ muốn nói tới hợp âm, chưa nói tới chuyển âm.

- Bản nhạc chưa có nốt thì sao có thể viết hợp âm, phương chi chuyển âm.

- Thử tưởng tượng và nói lên anh biết một đôi bản nhạc nào?

- Ồ, Ngậm Ngùi, Lời Tri Ân, Phận Người.

- Bản Ngậm Ngùi có hợp âm chính là gì?

- Đô trưởng.

- Nếu không nhìn nốt cuối, chỉ nhìn đầu hàng thứ nhất, anh sẽ thấy gì?

- Không thăng, không giảm. Nhưng cũng có những bản nhạc không thăng, không giảm, mà hợp âm chính lại là La thứ.

- Sẽ có câu giải đáp tại sao. Bây giờ chỉ xét hợp âm trưởng của bản nhạc đã. Vậy hợp âm chính của bản Lời Tri Ân là gì?

- Là Sol trưởng.

- Khóa nốt cho bản nhạc là gì?

- Khóa nốt, bác nói sao?

- Khóa nốt chỉ về những dấu thăng, giáng hay giảm, ngay đầu của bản nhạc. Những dấu thăng được xếp theo thứ tự, Fa, Đô, Sol, Rê, La, Mi, Si; Những dấu giáng thì theo thứ tự ngược lại, Si, Mi, La, Rê, Sol, Đô, Fa.

- Như vậy, khóa nốt của bản nhạc Lời Tri Ân là gì?

- Thưa một dấu thăng ở hàng Fa, trên cùng của khuông nhạc.

- Câu trả lời có tiến bộ.

- Sao bác nói có tiến bộ?

- Bởi anh đã để ý nhận xét đầy đủ vị trí của dấu thăng, dù cho người không biết gì về nhạc cũng có thể định vị nó được. Anh để ý thêm chút nữa, vị trí của một dấu thăng nơi bản nhạc là Fa thì hợp âm trưởng của bản nhạc là Sol trưởng. Nếu bản nhạc có hai dấu thăng, dấu thăng thứ hai sẽ đứng vào vị trí Đô, và hợp âm trưởng của bản nhạc sẽ là Rê trưởng. Nếu bản nhạc mang ba dấu thăng, vị trí thứ ba của dấu thăng sẽ là Sol; bản nhạc sẽ có hợp âm trưởng là La trưởng. Nhận định như thế, nơi một bản nhạc mang những khóa nốt thăng, sẽ có hợp âm trưởng mang tên tiếp theo tên của vị trí nốt thăng cuối. Thí dụ, nơi bản nhạc có bốn dấu thăng, vị trí các dấu thăng sẽ là, Fa, Đô, Sol, Rê, và lẽ đương nhiên, hợp âm trưởng của bản nhạc sẽ là Mi trưởng. Và nếu bản nhạc mang năm dấu thăng, thử đếm coi xem sao, Fa, Đô, Sol, Rê, La; hợp âm trưởng của bản nhạc sẽ là Si trưởng. Anh có thể tính được hợp âm Si trưởng bao gồm những cung bậc nào không?

- Si, Rê, Fa.

- Tại sao lại Si, Rê, Fa?

- Xin lỗi, cháu nói theo quen miệng nên quên tính toán. Hợp âm Si trưởng bao gồm ba nốt, Si, Rê thăng, và Fa.

- Tại sao lại Si, Rê thăng, và Fa.

- Xin lỗi, cháu nói sai, nó là Si, Rê thăng, và Fa thăng.

- Đã biết mục đích tôi nói chuyện về âm nhạc với anh chưa?

- Bác muốn nhắc nhở cháu đặt vấn đề và suy nghĩ, tính toán cho kỹ càng hơn.

- Đúng, tôi muốn khuyến khích anh từ nay để tâm đặt vấn đề về bất cứ chuyện gì dẫu đã quá thường nơi cuộc đời.

- Thưa bác, những chuyện quá thường sao lại còn phải đặt lại vấn đề?

- Vậy tôi thử hỏi, mắt anh có đang nhìn thấy tôi; tai anh có đang nghe tôi nói?

- Thưa bác, chẳng lẽ cháu đang trong cơn mơ?

- Thế anh có biết con mắt nào nơi anh nhìn trong giấc mơ không?

- Bác nhắc tới con mắt nhìn trong giấc mơ cháu mới nhớ. Số là ngay sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cháu có đi theo một nhóm người lập cư ở Tân Hữu, trên đường đi Võ Đắc, Võ Xu. Một hôm, cháu cùng hai người khác tạo thành một nhóm chặt những bộ cây để bán cho người ta làm nhà nơi những vùng kinh tế mới khác. Khi vừa qua khỏi một khúc quanh của đường xe be ngày trước, cháu chợt giật mình, tự hỏi mình đã đến đây tự bao giờ. Để tâm lục lại ký ức, cháu mới nhận ra sự kiện trước mặt cháu đã nhìn thấy nó trong một giấc mơ ba năm về trước. Tuy nhiên, vì đã không để tâm đặt vấn đề, cho tới lúc này, cháu cũng chưa có câu trả lời, có chăng, đôi khi tâm trí lãng đãng chợt nhớ lại, và rồi cũng chỉ thoáng qua, không gì hơn kém.

- Nói như vậy, chứng tỏ anh đã nhận biết mình có con mắt nhìn trong giấc mơ nhưng đã bao ngày tháng không để tâm tìm hiểu. Sự thể này được gọi là thực chứng, và sự việc suy tư, suy nghĩ về sự thực chứng này được gọi là nghiệm xét để nhận thức thực thể sự vật và sự việc. Đại khái, cho dù dùng ngôn từ nghiệm xét hay suy tư, tìm hiểu, thì cũng chỉ là suy nghĩ cho đến tận cùng của sự thể hay sự việc nào đó dẫu nhận thấy bình thường hay nơi trường hợp đặc biệt nào đó. Kết quả của sự suy nghĩ, suy tư chính là sự thấu hiểu thâm trầm, hay còn được gọi là nhận thức; mà sự nhận thức này chỉ đúng và hợp với chính mình mà thôi, không thể chia sẻ hay giãi bày với bất cứ ai hầu mong họ cảm nghiệm được như mình. Thế anh có biết con mắt nhìn trong giấc mơ phát xuất từ đâu trong anh không?

- Cháu đâu thấy sách vở nào viết về nó.

- Nó ở nơi anh sao ai biết mà viết về nó; nếu anh đã không viết nó ra! Bởi đó, chỉ có anh mới biết về nó sao lại chờ người khác viết. Và giả sử có người nào viết về con mắt nhìn trong giấc mơ thì họ chỉ có thể viết về con mắt nhìn trong giấc mơ của họ, chứ sao có thể viết về con mắt nơi anh! Họ viết về con mắt nơi họ sao anh có thể nhận biết về con mắt nơi anh. Như thế, tất cả những gì nơi sách vở chỉ là phương tiện gợi cảm ứng hay khuyến khích hoặc kích thích anh tự nhận biết nơi chính mình chứ không thể nói chi về mình. Họ làm sao biết mình mà nói, mà viết. Anh chưa đọc được tác giả nào viết về con mắt nhìn trong giấc mơ vì chưa gặp được tác giả đã nghiệm chứng được như anh. Thực ra, cũng đã có nhiều tác giả viết về chuyện này nơi các sách đạo học; mà có lẽ anh chưa có cơ hội đọc được chăng.

- Dĩ nhiên, cuộc đời này còn rất nhiều điều cháu chưa biết.

- Điều căn bản là mình đã biết còn rất nhiều điều chưa biết nên khi đối diện với cuộc đời cần phải suy nghĩ, cần phải nghiệm xét; bởi nếu không suy nghĩ, không nghiệm xét thì suốt đời ngu muội, được nhà Phật gọi là vô minh. Hơn nữa, có câu nói, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.” Ngôn từ tội lỗi ở đây có nghĩa những thiệt hại, lầm lẫn, bởi sự thiếu suy xét, thiếu suy nghĩ chín chắn, thiếu nghiệm xét mà ra. Tuy nhiên, cuộc đời một người ngắn ngủi trong khi, ai cũng thế; khát vọng nhận biết có thể nói là vô cùng; thế nên, cho dù cố gắng đến mấy, hoặc cho dù một người được sinh ra trong cảnh bọc điều, tiêu pha cả đời để đọc sách cũng không thể nào thỏa mãn được khát vọng nhận biết mọi sự được.

- Bác nói như thế thì ai cũng đành chấp nhận ngu muội mà thôi.

- Có thể nói như thế; bởi vậy đã có câu, “Đa thọ, đa nhục.” Ngày xưa khi mới nghe câu này, tôi chỉ cho rằng người càng già càng dễ cảm thấy tổn thương tự ái, nhưng năm tháng trôi qua, tôi có cảm nghĩ câu này có nghĩa càng già, càng nhận biết nhiều điều mình còn chưa biết. Anh có biết mấy câu thơ, “Càng trẻ, càng biết nhiều; càng già, càng u tối. Cuộc đời luôn thay đổi, che khuất nẻo đi về. Lối nào thoát bến mê, dẫn đường về tự thể. Càng tìm, càng vọng tưởng; không kiếm lại ngu ngơ; thánh nhân vốn khù khờ”?

- Thực tại cuộc sống luôn luôn biến chuyển không ai biết trước được. Nhưng chẳng lẽ con người được sinh ra để sống đợi cái chết? Bác có tin vào phận số không?

- Có gì mà nói đến tin hay không! Những gì thực hữu, hiện thực, thì tin hay không, chẳng chi thay đổi. Nó đã là sự thực thì dẫu không tin, nó vẫn hiện hữu. Nguyên ngôn từ tin đã tự chất chứa nghi ngờ; vì nếu không nghi ngờ thì đâu cần chi nói đến tin hay không tin. Thế nên, nói rằng tin vào điều gì thì đã thực sự chứng tỏ có sự nghi ngờ về điều đó. Vấn đề được đặt ra và cần thiết lại chỉ là khi mình đối diện một vấn đề nào đó mình có suy nghĩ, suy tư, hay đặt vấn đề để nghiệm xét hay không! Chẳng hạn nơi trường hợp của anh, cũng như bao người khác, đã thực chứng được con mắt nhìn trong giấc mơ nhưng chưa bao giờ, nếu không muốn nói là biết bao người đã qua đi không bao giờ đặt vấn đề tự tìm hiểu con mắt nhìn trong giấc mơ nơi mình là gì, phát xuất từ đâu, tại sao có hoặc làm cách nào để sử dụng con mắt ấy. Có chăng, ai khao khát lắm thì lại tin tưởng nơi những lời giải thích mù mờ, đầy thiếu sót của những nhà nhân danh khoa học; cho rằng những gì chúng ta nhìn thấy trong giấc mơ là phát xuất từ ảnh hưởng hay tác động của tâm sinh lý; chẳng khác gì người mù hung hăng tuyên bố mặt trời không chiếu sáng, dẫu cảm thấy nóng bức khi đứng dưới ánh mặt trời. Con người được sinh ra để sống chờ cái chết hay không tùy thuộc người đó dám suy nghĩ hay không.

- Tại sao bác lại nói dám suy nghĩ hay không?

- Hình như trận bề hội đồng giúp anh chẳng những trầm tĩnh hơn mà còn khôn ngoan và thâm trầm hơn. Hèn chi anh không có bất cứ hành động nào trả thù họ. Phỏng anh có chút ý định nào trả thù họ sau này không?

- Bác có quen biết với người nào trong bọn họ không?

- Hỏi câu này, anh có mang ẩn ý nào không? Anh nghĩ gì mà đánh đồng tôi với bọn họ.

- Cháu cảm ơn bác đã nói thẳng và nói thật. Nói cho đúng với tâm trạng chẳng những lúc này mà còn ngay lúc lê lết về bóp thuốc suốt hai tuần lễ, cháu chưa bao giờ có dẫu chỉ ý nghĩ thoáng qua về sự trả thù, mà có chăng phải cảm ơn họ. Thực ra, nếu trực tiếp nói lên lời cảm ơn đối với họ coi chừng chỉ làm phiền họ, nếu không muốn nói rằng khuyến khích họ trở nên hư hỏng. Thế nên, sở dĩ hỏi bác có quen biết với họ hay không, cháu chẳng hề có ý nghĩ đánh đồng bác với họ, nhưng bởi vì cháu chưa biết rõ thực lực của bác như thế nào; bởi đã bị giật mình khi nghe bác nói đến luyện nội công và luyện tập Teakwondo tới đệ thất đẳng huyền đai.

- Thế sao anh phải cám ơn họ?

- Vì họ, cháu đã học được bài học lễ độ cuộc đời thì có chi mà thù với oán.

- Bài học gì?

- Nổ, huênh hoang, tự mãn, không mở mắt để nhận biết trong thiên hạ này kẻ tài giỏi vẫn còn có người tài giỏi hơn.

- Vậy anh nghĩ gì hay suy tính thế nào khi quyết định đi với tôi?

- Bác thử tính coi, mấy năm nay cháu thay đổi chỗ ở không ít, làm đủ mọi việc hầusống qua ngày. Cháu đang định thay đổi nơi ở, có thể là vùng Hố Nai. Thực ra, sống ở đâu thì cũng thế thôi, nên khi nghe bác nói đi theo bác, cháu muốn thử chính mình, cho mình một cơ hội. Nếu cùng lắm, chỉ sáu tháng hay một năm, cháu sẽ có quyết định sau.

- Như vậy anh vẫn chưa biết mình muốn gì?

- Thực tâm, cháu vẫn cảm thấy có điều gì đó lôi cuốn mình theo đuổi, nhưng cũng chẳng biết điều đó là gì; nên vẫn mở rộng lòng cho mình cơ hội thử. Cháu biết lòng mình muốn gì nhưng sao có thể biết cuộc đời mình được sinh ra để làm gì. Ý muốn, ước mơ là một chuyện, nhưng cuộc đời biến chuyển, thay đổi không biết đâu mà lường; đâu ai biết ngày mai sẽ thế nào.

- Anh có thể lược qua và phân tích những viễn tượng ước mơ để nhận định cho chính xác sự việc nào hay điều gì đó lôi cuốn tâm trí mình theo đuổi không?

- Đã nhiều khi cháu tự hỏi điều gì khiến tâm hồn mình thao thức, khắc khoải, nhưng vẫn chưa phân định được rõ ràng. Mấy tháng kỳ ở vùng kinh tế mới Tân Hữu, có lần ghé vô một gia đình, vừa gặp họ đang dùng bữa trưa, chỉ một rổ đọt rau cứt lợn luộc, chấm muối sả ớt; hai vợ chồng và ba người con nhỏ chừng 7, 9, và 12 tuổi, mà cháu cảm thấy lòng ruột vượng lên nỗi đau khó tả. Dẫu vào thời kỳ đó cháu cùng với hai người khác đang đi chặt cây bán cho người làm nhà nơi kinh tế mới nào đó, nhưng hình ảnh bữa ăn của gia đình ấy cứ luôn ám ảnh tâm tư, cho dù càng cố quên thì hình ảnh ấy lại chỉ càng in đậm thêm. Không biết vận trời giáng xuống dân Việt mình cho đến bao giờ. Trước năm 75, cháu có đôi lần ghé ngang vùng Gia Kiệm; những hình ảnh sinh hoạt dân chúng thời đó quả thật đối nghịch với hiện trạng ngày nay. Nghĩ tới, cháu chỉ biết thở dài. Đôi tay mình quá ngắn, sức lực giới hạn, nhưng lòng ruột cứ xôn xao, luôn tự hỏi mình có thể làm được gì trong khi ngày ngày vất vưởng, chỉ biết kiếm miếng ăn cho qua chẳng khác gì loài thú.

- Tôi nghĩ anh biết anh đang muốn gì nhưng chưa tìm ra cách giải quyết thế nào. Hãy kiên nhẫn giải quyết những gì cần thiết cho cuộc sống hôm nay; ngày mai, việc đến sẽ đến và cơ hội cũng đang chờ kẻ kiếm tìm. Vấn đề chỉ là cần đào tạo bản thân mình trước. Tayngắn thì kiếm cách, kiếm phương tiện, nối cho dài ra; sức lực yếu kém thì lo đào luyện bản thân cho vững mạnh. Thời nào, lúc nào cũng tràn đầy những cơ hội để thực hiện ý nguyện; chỉ sợ lúc cơ hội đến, ý chí không còn hoặc tâm hồn lại đam mê chuyện khác mà bỏ lỡ hay buông xuôi; đó mới là điều đáng nói. Nhìn vào thực trạng dân chúng, tôi nhận thấy cần phải làm gì thay vì để lòng ruột đau đớn, xót thương, dằn vặt, biến mình thành kẻ chủ bại. Tất nhiên, dù đường dài đến đâu, cuộc hành trình cũng phải bắt đầu bằng một bước chân. Nếu cứ cho rằng một bước chân thì quá nhỏ bé khi đem nó so sánh với đường dài vạn dặm, cuối cùng cũng sẽ chết tại chỗ không hơn không kém. Cuộc đời cũng thế, giá trị cuộc đời không phải chỉ là ước mơ mà là những hành động biến ước mơ thành hiện thực. Thử đối diện với chính mình, một bữa ăn so với cả cuộc đời không là gì cả nhưng có trường hợp thiếu một bữa ăn, coi chừng bao mơ ước, bao công trình sẽ bị sụp đổ; bao công sức, tiền tài đã đổ vào tan thành mây khói. Thế nên, phân tách hiện thực để có nhận định rõ ràng, phân chia diễn tiến của diễn trình sự việc dự định thành những phần có thể thực hiện và bắt tay vào việc. Muốn có được một dinh thự nguy nga, phải mua xi măng, gạch hay đá, vẽ lập lăng, đào chân móng, trộn xi măng với nước, xây từng viên gạch. Nên nhớ rằng, bản vẽ đinh thự không phải là dinh thự, không thể nào bước chân vào bản vẽ được, nhưng muốn bước chân vào dinh thự lại cần bản vẽ. Mơ ước cũng cần được suy nghĩ và phân tích, xác định giống như dàn bài một bản văn, hoặc bản vẽ rõ ràng, khúc chiết. Những bước chân của diễn trình kiến tạo ước mơ thành hiện thực chẳng khác gì những viên gạch được xây chồng chất theo lập trình bản vẽ tạo thành dinh thự. Do đó, tôi nghĩ, hãy phân định bước chân đầu tiên của mình là gì và bắt đầu thực hiện. Thực tế cuộc đời minh chứng, có sẵn thực phẩm nhưng muốn có bữa ăn lại cần phải nấu nướng. Thêm vào đó, thức ăn đã được dọn sẵn trên bàn, muốn no bụng thì phải ăn; cho dù lười nhai thì cũng phải kiếm máy xay thực phẩm thành sinh tố để nuốt. Đã không còn là lúc chúng ta ngồi đặt vấn đề mà cần thực hiện bất cứ gì chẳng những thăng tiến cho mình đồng thời thực hiện dự tính thì mới may ra có thể hoàn thành phần nào đó của mơ ước.

Tôi trầm ngâm suy nghĩ những lời đơn sơ, mộc mạc, nhưng không kém nhận thức thực tiễn ông Tầm nêu lên, trong khi chầm chậm ăn nốt phần bánh cuốn còn lại trong đĩa. Tôi thầm nghĩ, những chuyện thường tình ai không biết, ai không thực hiện và đã quá quen với chúng, nhưng khi để tâm phân tích mới thấy mọi sự đều cần có những lập trình không thể thiếu. Thế vì lý do gì ông Tầm để tâm theo dõi tôi; ông muốn gì nơi tôi; ông muốn sử dụng tôi vào việc gì. Tự hỏi tôi có gì để ông lợi dụng, tứ cố vô thân, chẳng quen biết ai, bơ vơ, lạc lõng, không danh vọng, không tiền tài, khả năng, trên răng dưới dép thì có thể mang lại lợi ích gì cho ông. Dẫu không thể tưởng tượng ngày mai sẽ ra sao nhưng tôi muốn thử, muốn thử như một sự thách đố với chính mình, với phận số; cùng lắm chỉ sáu tháng hay một năm, nếu không thuận tiện, tôi có thể kiếm nơi khác. Một thân một mình, mấy năm nay, cho dù gặp hoàn cảnh túng quẫn nhất, tôi vẫn có thể vượt qua được mà. Vấn đề chỉ là tôi có thể làm được gì để giải quyết nỗi thao thức trong lòng triền miên đè nặng bất cứ lúc nào nhìn thấy cảnh khốn khổ của những người chung quanh, người dân của đất nước tôi, dân tộc tôi sau những ngày bị mệnh danh giải phóng. Giải phóng khỏi cuộc sống thịnh vượng sang cảnh đói khổ, thiếu thốn, mờ mịt, không dám nghĩ tới ngày mai. Ngày mai, ngôn từ thần thánh đã chìm vào quá khứ khi đối diện với bữa ăn chỉ toàn đọt cây cứt lợn luộc, hoặc may mắn lắm mới có được nồi cơm độn khoai lang khô. Tại vận trời hay tại con người?

Rút trong túi tấm giấy và chiếc bút bi đưa cho tôi, ông Tầm nói,

- Đây là giấy phép thông hành đã được ký sẵn, anh điền tên và chi tiết vô. Và từ nay, anh sẽ là cháu họ của tôi, gọi tôi bằng bác. Dẫu không cần thiết nhưng giữ sẵn lỡ có trường hợp cần dùng đến, bởi thường thì không có chuyện gì xảy ra đâu.

- Cháu luôn có giấy phép thông hành mà, còn có thêm mấy cái “xơ cua” đã được ký sẵn, chỉ cần điền tên và ngày tháng, nơi đến cũng như địa chỉ ăn ở.

- Vậy là được, bỏ tấm giấy vào túi quần, giặt bút vô túi áo ngang ngực, ông tiếp, mình chuẩn bị lên đường, đoạn mở nắp bi đông nhựa hớp thêm ngụm nước.

Tôi uống miếng nước nơi bi đông nhuôm, cuộn hai tấm lá chuối quăng vô bụi rậm gần đó và leo lên phía sau chiếc Honda ông đã nổ máy chờ sẵn.

Xe rẽ qua quốc lộ 22 nối tiếp với quốc lộ 1, và được đổ thêm một bình xăng trước khi tiến vô đoạn đường lưa thưa đây đó những căn chòi chơ vơ giữa khoảnh rừng hay vườn tược để rồi tiến sâu vô một đoạn đường chung quanh chỉ là rừng cây rậm rạp. Tôi chẳng cần biết mình sẽ theo ông đi tới đâu, cũng không thèm nghĩ đến ngày mai sẽ sống thế nào trong tâm trạng thách đố với đời. Tôi nghĩ, con người sống chết có số, vào đời không do ước muốn, ý định của mình, được nuôi dưỡng tới ngày lớn khôn, lo kiếm ăn, thỏa mãn nhu cầu cuộc sống, và rồi chết, rồi sẽ chìm vào quên lãng như chưa từng hiện diện trên cõi đời này thì ngày mai nào có chi phải lo.

Bao nhiêu năm qua, dày công ơn nuôi dưỡng của cha mẹ, tôi muốn sống gần để giúp đỡ gia đình, nhưng thế cục thay đổi; vận trời khiến toàn dân chẳng khác gì trên lưng voi rót xuống thân phận loài thú, chỉ tối ngày luẩn quẩn với miếng cơm manh áo, thua cuộc đời những con chó ngày xưa. Gọi là ngày xưa nhưng nào đã bao lâu, mới chỉ một đôi năm mà tâm trạng mọi người đã trở nên hụt hẫng, không dám nghĩ tới tương lai, không dám mang trong mình bất cứ hoài bão ước mơ, dù chỉ là mơ ước đơn sơ về một bữa ăn thịnh soạn. Đã một thời gian tôi sống nơi Bà Rịa, kéo lưới rùng mong kiếm đường vượt biên như bao người đã ra đi. Ra đi để làm gì? Ra đi cho vinh thân phì da, chạy trốn đối diện cảnh dân chúng lầm than, cơ cực? Rồi sao? Rồi cũng chết đi như những con vật, cả đời chỉ biết kiếm tìm thực phẩm lấp đầy chiếc dạ dầy như bao kẻ khác.

Tôi được sinh ra để làm gì? Cuộc sống phải có lý do, ý nghĩa của nó. Mục đích cuộc đời một con người là chi, nếu cuộc đời chỉ là quãng thời gian sống chờ chết thì được sinh ra, tốn công sức tranh đua kéo dài sự sinh tồn, quả là vô nghĩa. Dù cho có được nhà cao cửa rộng, ra giày vào dép, vợ đẹp, con khôn, được cuộc đời ưu đãi sinh ra trong bọc điều, dù ăn uống cao sang, địa vị chức quyền oai phong đến mấy thì cuối cùng cũng ra đi với đôi bàn tay trắng. Tất nhiên, không mang vào đời bất cứ gì thì ra đi cũng chẳng còn chi để mang theo. Giá trị cuộc sống của tôi là gì? Tại sao phải sống, bị sống, hay được sống?

Được hay bị sinh ra, chưa kịp sống đã phải khoác lên mình án tử, và cho dù chưa có bất cứ ý nghĩ, ước mơ nào thì đã bị tròng vào cổ công ơn nuôi nấng, dưỡng dục, công lao vô biên, bao bọc của cha mẹ, của mọi người chung quanh. Những bài học vỡ lòng, tình cảm, yêu thương của gia đình, nơi trường lớp, những lý thuyết, chủ thuyết, yêu thương dân tộc, bổn phận với quốc gia, xóm giềng, mang mang phủ lấp tâm trí tôi. Chỉ vì cuộc sống vô nghĩa, không mục đích, chủ đích mà tôi phải mang trên mình trách nhiệm, công ơn nặng nề, bao la như thế phỏng là mục đích cuộc sống chăng. Tại sao tôi được sinh ra, sinh ra để làm gì? Cuộc đời phải có ý nghĩa, giá trị của nó. Giá trị cuộc sống là gì? Sống để làm chi? Nếu chỉ vì miếng ăn, chỉ vì mơ ước, chỉ để thỏa mãn nhu cầu nhân sinh và chờ chết thì ước vọng, tham vọng, hy vọng cho đến mấy cũng là không khi cái chết ập tới.

Nhà cao cửa rộng, quyền hành mênh mang, có làm tôi cảm thấy oai vọng hơn không? Tiền rừng bạc bể có thay thế được thực phẩm lấp cho đầy cái bụng đang kêu gào chăng. Vẫn biết tiền có thể mua được thực phẩm, nhưng không thể thay thế thực phẩm làm yên cái bụng. Người ta vô tình thiếu nhận định đã cho rằng “Có tiền mua tiên cũng được,” nhưng khi chiếc bụng đói meo, một bó tiền kề bên một chén cơm nguội giữa cảnh mênh mông trời đất; phỏng có ai nhai bó tiền thay vì chén cơm nguội được chăng? Thế ra điều kiện sống định giá tất cả. Tuy nhiên, thực thể cuộc sống minh chứng nhận định, “Khi con vật ăn no, chúng ngủ; lúc không phải lo miếng cơm manh áo, con người suy nghĩ.” Suy nghĩ, suy nghĩ mới có thể nhận định để rồi thực hiện đúng đắn những việc hầu cải thiện cuộc sống.

Dĩ nhiên, ai không muốn có cuộc đời dễ thở hơn, và cũng bởi vì “Có tiền mua tiên cũng được,” nên người ta đã thiếu ý thức, chạy theo phương tiện, biến phương tiện và những liên hệ, cơ hội, thành mục đích cuộc sống, thay vì suy nghĩ để có nhận định rõ ràng đâu là mục đích cuộc đời của một người. Hèn chi, những thể chế độc tài kiếm đủ mọi cách ngăn cản con người suy nghĩ bằng lối khuynh đảo điều kiện sống của dân chúng. Làm tập thể thì “Cha chung không ai khóc,” tất nhiên kết quả dần suy yếu, đồng thời trở thành cơ hội cho kẻ có quyền hành bòn rút càng khiến cuộc sống dân chúng lầm than, thiếu thốn. Dĩ nhiên, khi chiếc bụng đói meo thì mục đích cuộc sống chỉ là an định chiếc dạ dày, tối ngày mò mẫm vì miếng ăn chẳng khác chi loài thú.

Đã có vị “triết da, triết thịt” nào đó hô lên, “Con người là sinh vật có, hay biết, suy nghĩ.” Cái vị triết da, triết thịt này tuy nhận ra điểm khác biệt giữa người và thú, nhưng đã vô tình không đào sâu cho biết suy nghĩ phát xuất từ đâu, chẳng khác chi các nhà khoa học, cho tới ngày nay, cuối thế kỷ 20, vẫn nhắm mắt, bịt tai, liều lĩnh, thiếu suy tư, công bố mọi tư tưởng, suy tư phát xuất từ bộ óc. Bộ óc chỉ là vật chất sao có thể phát sinh suy nghĩ? Nếu vật chất có thể phát sinh suy nghĩ thì cuộc đời này chẳng khác gì nồi cám heo, con vật, cây cối, nhà cửa, tất cả lộn tùng phèo. Nếu cái nhà, cái giường mà có thể suy nghĩ được thì coi chừng sẽ hất người ở hay đang ngủ bay ra đường. Con vật cũng có bộ óc nhưng chúng sinh hoạt theo bản năng; chả thế mà có câu, “Người ta có thể dạy cho con khỉ đánh một bản nhạc piano tuyệt vời, nhưng không thể biến con khỉ thành nhạc sĩ.”

Miên man suy nghĩ cho tới khi ông Tầm dừng xe nơi sân một căn nhà gạch lợp ngói ẩn sau đám rừng được con đường nhỏ ngoằn ngoèo dẫn tới. Sân được lát bằng gạch thẻ. Lối xếp gạch hơi lạ đối với tôi vào thời ấy. Những hàng gạch không theo hàng lối bình thường, nhưng có những hàng ngang chạy xéo xéo đối nghịch với hàng dọc của những viên gạch cũng được xếp xéo theo những hình chữ V mở. Có sáu ô gạch hình vuông cách đều, xếp thành hai hàng theo chiều ngang của sân dọc theo chiều dài của căn nhà. Sân gạch vuông vắn, rộng rãi hòa với mặt đường đất; phía trước sát với rừng cây và phía sau tiếp giáp với bậc hè tương đồng với nền nhà được láng xi măng.

- Anh đứng tạm đây để tôi cất xe. Ông Tầm lên tiếng ngắn gọn, đoạn tiếp tục chạy xe tới đầu nhà phía trước, nơi đó mái nhà được nối thấp xuống làm chỗ để xe. Sau này tôi mới biết nơi đó cũng là bếp, có cửa ra vào phía trước sân và cửa ngang hông lên nhà.

Nghe tiếng mở chốt cửa trước đồng thời cửa bật mở và tiếng ông Tầm vang lên,

- Mời vô, ông bật lửa với hộp quẹt que và châm vào ngọn đèn dầu trên bàn, loại đèn có bấc bản lớn cuộn thành vòng tròn và lắp bóng đèn vô. Cầm đèn tiến về phía đầu nhà nơi ông cất xe, mở gói giấy vừa được đem vô để trên bàn ăn, ông lấy ra hai ổ bánh mì, một gói nhỏ thịt xá xíu và một gói nhỏ rau thơm, một trái dưa leo nhỏ hơn cổ tay dài cỡ một gang. Lấy con dao nhỏ rạch một ổ bánh mì, đưa cho tôi, đồng thời đứng lên, lấy đôi đũa đưa cho tôi và một chai xì dầu nơi đầu bàn.

- Tối nay, mình ăn tạm bánh mì cho tiện rồi còn tắm rửa, nghỉ ngơi. Anh có cần ăn ớt không? Nếu muốn, phía sau nhà có lẽ may ra có ớt tươi.

- Thưa không đâu, tôi trả lời ngắn gọn, lấy con dao nhỏ xắt dọc theo chiều dài trái dưa leo thành những thanh nhỏ và chuẩn bị phần bánh mì, thịt xá xíu đã được thái mỏng cùng với rau thơm, xì dầu cho mình và bắt đầu ăn.

Tôi giữ im lặng, không nói gì dẫu lòng đầy thắc mắc, chỉ âm thầm thả nổi tâm tư trôi theo ngoại cảnh diễn tiến. Suốt ba năm, gần chục lần thay đổi nơi ở, làm đủ mọi công việc, từ cuốc đất làm rẫy, chặt cây làm nhà nơi Tân Hữu, kéo lưới rùng ở vùng biển Bà Rịa, mua bán đồ cũ dọc vùng Hố Nai, Gia Kiệm, mua, cắt dây lang khu rẫy rờ Tam Bung, phía sau Túc Trưng bán cho người nuôi heo miền Gia Kiệm, xay củ tróc ngái (giong tây), và đóng dàn lọc bột, làm công trên ghe te đánh tôm, phụ làm hàng đáy vùng Chu Hải, v.v…, vẻ bên ngoài, tôi có vẻ dễ thương, đơn sơ gần như ngờ nghệch, không bon chen, cởi mở, ruột ngựa, lễ độ, chí thú kiếm miếng cơm, chấp nhận hoàn cảnh, phận số sống qua ngày, bởi lúc đói, đầu gối phải bò, không dám hẹn hò, yêu đương cho dù hình hài và thái độ không đến nỗi tệ. Hơn nữa, vào thời đó, cái “mác” sinh viên, sinh hòn cũng khá ăn khách.

Cũng phải nói thêm, vẻ bên ngoài tôi ngoan và hiền lắm cộng thêm tính chất thật thà, dám chấp nhận nói lên những gì mình chưa biết, chưa có kinh nghiệm, đồng thời canh cánh biết ơn những người đã giúp tôi về bất cứ phương diện nào. Sáng hôm đó, sau cỡ sáu tuần đi ghe te đánh bắt tôm cá vào một đêm nước lừng nên về sớm, tôi ghé vô thăm ông bà cụ bố mẹ vợ chủ ghe với ý định nhờ cụ đan cho chiếc sảo tôm lỗ hơi lớn hơn bình thường.

- Sảo mà đan lỗ lớn sẽ lọt mất tôm, cụ nói.

- Thưa cụ, khi đãi tôm, những tép nhỏ sẽ chìm xuống trước, nếu lỗ sảo bình thường, phải lắc qua lắc lại nhiều lần tép mới lọt hết, sầy suộc cả tôm. Đàng này, nếu lỗ sảo lớn hơn bình thường một phần ba, chỉ cần lắc nhẹ một lần, các tép nhỏ sẽ lọt xuống hết và một số tép lớn còn sót lại được bán theo giá tôm vẫn có lợi hơn.

- Thế chú định tính công xá ra sao để tôi bảo em nó đưa cho chú.

- Thưa cụ, mới có ít bữa, cứ hãy để đó rồi tính sau cũng không sao.

- Không được, làm te thì ngày nào tính công xá ngày đó. Chú làm te với em đã sáu tuần rồi mà công xá vẫn chưa thanh toán. Mọi sự cần phải được dứt khoát, rõ ràng.

- Nói cho đúng, thưa cụ, cuộc đời của con mang ơn rất nhiều người mà vẫn chưa biết sao trả ơn họ. Thôi thì để đến khi nào anh chị ấy trả hết nợ ghe hãy nói tới công xá cũng chưa muộn mà.

- Chú đã nói vậy nghe cũng được, vậy thì cứ theo ý của chú.

Làm thuê, làm công, thường thì công xá được ngày nào xào ngày đó. Dẫu tôi ở nhà chủ ghe te, tiền ăn thì tính vào nửa ký tôm mỗi ngày, bởi mấy ai trong cuộc đời làm thuê không công. Hơn nữa, cuộc đời này nào có ai chê tiền, nhất là nơi thời buổi toàn dân chúng bị đổi tiền chẳng khác gì đương đường bị cướp bóc; khiến mọi người rơi vào cảnh bần cùng, khó khăn, khốn đốn, không phát sinh ý định đạo tặc là đã quá tốt lành. Cũng như mọi người nơi giai đoạn ấy, túi trống rỗng, thuộc dân học trò dẫu được liệt vào hạng “Chỉ mong cái bút, cái nghiên anh đồ,” nhưng gặp thời buổi “Hai tay vày lỗ miệng” vẫn khó khăn, đem mồ hôi, công sức đổi lấy miếng cơm qua ngày vẫn chẳng đủ, mà được trả tiền công lại chưa nhận thì chẳng khác chi tâm trí bị khùng, nếu không muốn nói là ngốc nghếch. Tiền là do công sức mình làm ra; mang ơn, nợ oán ai thì lo mà giải quyết với họ chứ mắc mớ gì dính líu tới người khác.

Bề ngoài, tôi có vẻ hiền lành, chân thật, tin tưởng người khác đến độ ngu ngốc như thế, nhưng thâm tâm tính toán hơn kém, không dốt nát như vài lời nói và biểu hiện phiến diện. Tôi nhiều lần thay đổi nơi ở với tâm trạng thách đố phận số. Vả lại, đã có thời gian cùng cực, suốt sáu tháng không biết cách nào xoay xở kiếm miếng cơm cho đầy bụng, sáng đã chẳng có gì ăn, trưa giả đò đạp xe đạp ghé ngang nhà ai đó, dẫu chẳng quen biết mấy, thăm hỏi đúng lúc gia đình họ đang dùng bữa trưa, cho dù được họ “chào dơi” thế là lại cũng giả đò ngại ngùng nhưng sà vô ăn được miếng nào hay miếng nấy, để rồi buổi tối uống nước lạnh đi ngủ. Nước được múc từ giếng cạn thì uống đâu sung sướng gì, nhưng vẫn phải uống; uống vì chiếc dạ dày kêu réo, để rồi mười hay mười lăm phút sau vẫn chưa ngủ được, nước lã thì đâu béo bổ chi, đâu đánh lừa được lòng ruột, nên coi thân xác tôi như ống cống chuyền qua, và rồi lại vẫn phải uống nước lã chẳng sạch sẽ gì nơi chiếc giếng cạn trước khi rơi vào giấc điệp.

Dẫu đang tuổi thanh niên, nhưng cả thời thanh xuân dưới lớp vỏ học trò thì làm lụng tay chân sao có thể so sánh với dân chuyên môn đâm hà bá, phá sơn lâm. Nếu tôi lấy tiền công như những người “đi ghe” khác, lỡ chủ ghe tính hơn thiệt lợi ích, thuê người khác, thì tôi biết làm chi, ăn nơi nao, ngủ ở đâu chốn đồng đất nước người, không ai quen biết. Tôi ngờ nghệch như thế đó và hiền lành, dốt nát không đáng cho người để tâm tính toán hơn thua, so sánh. Dân tộc mình có khuyên, “Một câu nhịn là chín câu lành;” riêng tôi, lòng luôn thèm khát có chút tiền đút túi đề phòng bất chợt, nhưng đành phải ngu ngơ nhịn vì chủ đích riêng tư. Dẫu cần tiền, ai không thế; tuy nhiên, tôi đi làm đâu phải để kiếm tiền, nên âm thầm chấp nhận dẹp nỗi thèm tiền trở thành giả đò ngu ngơ, ngốc nghếch, ngốc nghếch nhưng nào dám nói ra; nói ra bể mánh! Suy nghĩ, tính toán là một chuyện, đối diện với thực tại biến chuyển của cuộc đời đôi khi đành chấp nhận “Ngậm bồ hòn làm ngọt.” Điều gì muốn giữ kín, cần phải để tâm, ngậm miệng cho dẫu đôi khi miệng ngứa ngáy muốn phu ra, nhưng đành chấp nhận cắn răng, nín thở, ngậm tăm như không để tâm. Chẳng ai chấp kẻ dốt.

Sau khi ăn xong, ông Tầm nói,

- Anh đợi tôi chừng 10 phút rồi đi tắm; đoạn ông đi về phía đầu nhà bên kia lấy đồ đi xuống bếp.

Dù muốn cố gắng tưởng tượng hoặc đặt vấn đề tìm hiểu lý do tại sao ông Tầm đem tôi về đây, và rồi sẽ sinh sống ra sao, tôi không thể nào nghĩ được bất cứ lý lẽ hay nguyên nhân gì. Tự hỏi, tại sao tôi nhất thời quyết định đi theo ông, tôi chỉ có thể nghĩ mình đang thách đố với cuộc đời. Mấy năm nay, cho dù thế nào, tôi vẫn còn đang sống dẫu trong cảnh khó khăn nhất nên ít ra đã có nơi ở thì chẳng có gì để nói. Cùng lắm thì chỉ đôi ngày, tôi sẽ kiếm được chuyện nào đó kiếm tiền để sống qua ngày.

Và rồi sẽ ra sao, tôi tự hỏi. Nghe ông Tầm nói, chỉ cần tối đa sáu tháng, vấn đề sinh sống không còn là điều kiện khó khăn đối với tôi. Tại sao sáu tháng, ông Tầm có quen biết với trường dạy võ; nếu thế cần gì phải sáu tháng. Tôi đã được chứng thực đệ tam đẳng huyền đai, hai năm nay lại cố gắng tự luyện tập nên năng lực có phần tiến xa hơn. Những thế đánh, nhận thức tâm ý, thái độ, vận chuyển năng lực tôi nghĩ cũng gần tương đương với đệ tứ đẳng, nếu không muốn nói là trội hơn một chút bởi cố công tự luyện. Bài quyền của đệ tứ đẳng đã trở thành của tôi; tôi có thể vô ra bất cứ lúc nào.

Ai mà không biết, một thế đánh, một miếng võ, nếu luyện một ngàn lần, tất nhiên sẽ trở thành phản xạ. Sự khác biệt giữa các đẳng cấp chỉ là kết quả của suy tư, suy nghĩ qua thực hành, thực tập, để phát triển những thế đánh tương đồng trong những trường hợp khác nhau đồng thời phản ứng vận năng lực hợp lý, hợp tình hơn các đẳng cấp thấp hơn. Nói cho dễ hiểu, nếu đem so sánh sự cao thấp trong làng võ, chẳng khác gì sự khác biệt giữa sự viết chữ và tính toán của sự học hành và luyện tập viết lách của học sinh các lớp nơi học đường. Người ta thường nói chữ viết tháu như bác sĩ; vì học tới bác sĩ đã phải viết quá nhiều nên sinh ra viết tháu, viết tắt, viết ăn bớt nét, bớt chữ. Võ học cũng thế, càng luyện tập, càng rút ngắn được thế đánh. Tất nhiên, đánh sao thì đánh miễn trúng đích; còn năng lực cú đánh mạnh yếu thế nào lại tùy thuộc sức mạnh, nội lực. Thế đánh chuẩn, đầy đủ đường nét, trông thì đẹp cho những kẻ sơ cơ, nhưng khi đụng chuyện, nhanh, mạnh, chính xác mới đáng nói. Dẫu ai đó nói sao thì nói, nếu đã thua, đã bị đo ván thì lý thuyết, quy luật nào cũng đành sõng soài nhận bại.

Và sáng hôm sau, thức dậy, lúc đi ngang qua phòng ăn định rửa mặt, đánh răng, tôi đã thấy ông Tầm đang ngồi nhâm nhi cà phê; trên bàn cũng có thêm một phin cà phê đang nhỏ giọt. Ông lên tiếng,

- Anh đánh răng, rửa mặt, uống cà phê, rồi mình “Warm up” đôi chút cho thông máu.

Tôi không nói gì, chỉ nhìn ông, nhẹ gật đầu và tiếp tục đi tới. Sau đó trở lại uống cà phê, ông Tầm lại nói,

- Bởi tôi xa nhà đã hơn hai tháng nên không có gì để ăn sáng. Hôm nay mình ăn lúc 10 giờ vậy. Ly cà phê tôi pha cho anh đó.

Tôi lấy đường pha vào cà phê và mười lăm phút sau, ông Tầm nói,

- Bây giờ mình ra ngoài làm mấy cử động rồi đi chợ.

Tôi theo ông ra trước sân. Ông bước ra đứng vào khung gạch được xếp thành hình vuông giữa sân gần mép rừng đoạn lên tiếng.

-Tôi sẽ đứng tại đây; anh hãy dùng hết sức đấu bất cứ kiểu nào xem có thể đánh bật tôi ra khỏi khung gạch vuông này không.

Tôi thầm nghĩ, ông Tầm không có vẻ gì là cao ngạo; tất nhiên phải là người có năng lực và chuyên nghề võ nên đã biết tôi có đệ tam đẳng huyền đai, lại đã biết tôi hằng ngày luyện tập mà lại dám thách đố kiểu đó nên phải coi chừng. Ừ thử thì thử, do đó đơn giản lên tiếng hỏi,

- Bác đã sẵn sàng chưa.

Ông gật đầu, và tôi không nói không rằng, đưa tay phảitung thử cú dấm thẳng diện. Ông nhẹ nhàng hơi nghiêng và xoay thân mình né tránh trong khi đôi mắt vẫn tỉnh táo theo dõi cử động của tôi. Chưa xong cú đấm trước tôi đã ngưng, và tay trái chớp nhoáng bồi cú đấm tiếp theo nhắm vào vai vừa nghiêng tới gần. Ông Tầm chợt uốn người hơi ngả về phía sau khiến cú đấm của tôi trượt sát ngực; ngay khi ấy, chân phải tôi tung cú đá ngang đùi. Ông Tầm khẽ nhún chân xoay người ngược về phía trước. Người ta không thèm đánh trả mà vẫn bị hụt trong khi tôi ra đòn chớp nhoáng như trong cùng một lúc thì còn đấm đá kiểu gì. Tôi ngừng, nhẹ nói,

- Không đụng tới bác được.

- Thôi mình đi chợ, ông nhẹ nói, anh đi theo tôi, rồi tiến về phía bếp.

Mỗi người một chiếc xe đạp, tôi theo ông ra tới chợ, ghé vô tiệm thuốc bắc. Ông giới thiệu tôi là cháu với chủ tiệm đoạn hẹn hò gì đó sáu tháng sau. Tiếp đó mua ít trứng vịt, một miếng thịt heo. Trên đường về, ông nói,

- Từ ngày mai, mỗi buổi sáng sớm, anh đi chợ. Quãng đường từ nhà tới chợ chỉ hơn hai cây số. Tuần đầu, anh dùng xe đạp, rảo qua các hàng và nếu có thể càng làm quen với nhiều người càng tốt. Có ai hỏi về thân thế, cứ nói là cháu tôi mới về cư ngụ. Những ngày sau đó, thay vì đi xe đạp, anh chạy bộ. Trong khi chạy áp dụng nguyên tắc hít thở để tăng năng lực. Mỗi sáng chạy năm cây số cũng tạm ổn.

Chạy bộ năm cây số đối với con nhà võ nào có chi đáng nói nhưng sao lại có vấn đề hít thở để tăng năng lực, tôi tự hỏi, nhưng không nói gì.

Về tới nhà, ông dẫn tôi ra phía sau. Cảnh sắc làm tôi thích thú. Cỡ vài sào đất được viền bởi những tảng đá có lẽ được thu dọn từ sào đất. Nơi hai đầu nhà là hai chiếc giàn nho nhỏ mỗi cái vuông vắn, cạnh cỡ năm mét. Một đôi luống rau đủ loại được chia ra từng khu. Vài luống khoai nắm sát chân đồi; và từ trên đồi cây cối rậm rạp, một đường nối tiếp bằng những ống tre, được chống đỡ hoặc bằng cách buộc treo trên cây hoặc bằng hai cây buộc xéo dẫn nước vào bếp. Hèn gì tối qua thấy nước róc rách chảy vô chiếc đình sành, khi đầy lại trào cả ra ngoài nơi nền hồ. Phía ngoài chiếc giàn có một chiếc ao nhỏ, bề ngang cỡ chừng chục thước và bề dài hình như cả ba chục thước, lõm bõm đôi con cá đớp nước. Nước nơi ao hơi đục. Tôi lẩm bẩm, “Ao trong ít cá,” đoạn để ý nhìn thấy nơi góc ao có đám lục bình cỡ bằng chiếc chiếu trãi giường. Mặt ao, bèo tấm chiếm gần nửa vây quanh đám lục bình.

Thấy tôi để ý chiếc ao, ông giải thích,

- Chiếc ao này đón nước được chuyền tới từ trên đồi cao phía sau bằng ống tre tiếp nối. Khi bồn đầy, nước dư chày theo rãnh xuống ao. Tôi nuôi cá rô phi vì cá rô phi ăn bất cứ rong rêu gì dưới nước và cũng ăn bèo tấm nên không phải cho ăn, đồng thời những rau rợ, hoặc lá rau già cỗi, không ăn được, băm ra quăng xuống cũng là thực phẩm cho chúng. Anh có biết tại sao có đám lục bình ở góc ao kia không? Thứ nhất, lục bình là cây lọc nước, thứ hai, rễ lục bình là thuốc chữa bất cứ loại bệnh nào của cá. Hai tháng qua, tôi phải nhờ người tưới rau nên vừa rồi đi chợ tôi không mua rau.

- Thế nước từ đồi của ai.

- Của tôi. Mười lăm năm trước khi còn trong lính, lúc ấy tôi là thượng sĩ, có lần dẫn mấy anh em lên đồi đi săn, vô tình gặp đám cỏ xanh tươi dưới một vài cây lớn; nơi ấy thỏ rừng hay ra ăn. Ngay phía trên cao hơn đám cỏ có dòng nước rỉ ra mà không ai để ý. Tôi tìm hiểu xem đồi thuộc về ai và hỏi mua. Cũng như bây giờ, đất đâu thuộc của ai thế nên tôi rào dậu, cắm vè và về sau làm nhà, dẫn nước, đồng thời lại phải đào ao để thoát nước.

- Hôm nào bác đưa cháu đi coi nguồn nước được không; tôi nói.

- Đâu cần phải tôi đưa đón. Khi nào muốn, anh đi theo đường ống tre sẽ biết. Không chi lạ cả, nơi nguồn nước, tôi khoét thành một vũng sâu độ ba gang tay, ve bờ; nước chỉ lên tới gần miệng bờ nhưng không bao giờ cạn. Tôi lấy một ống nhuôm đặt vô và dẫn vào ống tre đưa nước về đây. Nước tưới rau này cũng là nước múc dưới ao nơi tôi xây mấy bậc xi măng để bước xuống.

- Tại sao bác không làm bồn chứa nước ngay trên này, đỡ phải múc từ ao?

- Có lẽ anh chưa bao giờ dùng nước rửa cá hoặc tôm để tưới rau. Rau tôi trồng không bao giờ phân bất cứ một thứ gì, chỉ nước dưới ao mà rau tốt như thế. Khi còn ở đây, bao giờ anh thử chia một đám rau đang lên tươi tốt như nhau thành hai phần; một bên anh tưới nước ao, và một bên tưới nước trong bồn đựng nước tắm trong vòng một tuần, anh sẽ biết. Nơi ao tôi còn thả thêm mấy con cá ngao để chúng đẻ trứng cho cá rô phi ăn. Trưa nay, mình ăn cơm với canh rau đay muồng, thịt xào với cải bẹ Đàlạt và thịt kho với trứng. Anh biết nấu ăn không?

- Chỉ e không có thực phẩm để nấu chứ. Luộc gạo và nấu ăn dĩ nhiên cháuphải biết. Nhà có tôm khôkhông thưa bác?

- Có cả tôm tươi và thịt gà nữa, trong tủ lạnh.

- Ở đây không có điện mà!

- Tủ lạnh chạy bằng gaz ở giáp với tường phòng tắm về phía bếp.

- Tối qua, lúc đi tắm, cháu trông thấy nhưng tưởng là tủ đựng đồ khô.

- Mấy luống khoai kia sao ít lá thế, tôi đưa tay chỉ về phía chân đồi nơi có mấy luống khoai lang và mấy luống khoai môn.

- Khoai sắp sửa đào được rồi, cắt bớt dây cho nó xuống củ. Anh có thấy chi khác biệt giữa mấy luống khoai lang cũng như mấy luống khoai môn không?

- Khoai lang cháu không nhìn rõ lắm, phải tới gần mới phân biệt được; tuy nhiên, khoai môn, hình như sự khác biệt khá rõ ràng vì mầu sắc và hình thức của lá. Nhưng tại sao hai loại khoai môn có tàu màu tím lại được trồng thành hai khu khác biệt.

- Tôi trồng năm loại khoai môn khác nhau. Loại có tàu màu tím phía đầu đàng kia là khoai sáp, ăn nó dẻo dẻo và ruột nó màu vàng hơi xanh. Loại rọc tím đầu đàng này củ hơi dài, ruột trắng, bở. Loại có bụi to lớn, tốt tươi, rọc giống rọc mùng (bạc hà). Củ của nó lớn như vốc tay và mùi vị đậm đà. Còn hai loại khác có tàu màu xanh, một loại củ dài, một loại củ tròn. Tôi định trồng mỗi thứ một luống nhưng ăn không hết nên chỉ trồng ba luống. Tuy nhiên, cầu xin không ăn hết.

- Tại sao bác phải cầu xin?

- Anh không nhớ cuối năm 1975, và cả năm 1976 sao? Khoai môn đào lên nếu biết cách giữ, có thể để được cả năm; lỡ trường hợp xảy đến như năm 76 thì còn đỡ hơn ăn bo bo.

Tôi thở dài; hình ảnh gia đình trẻ, hai vợ chồng và ba đứa con bên rổ đọt rau cứt lợn luộc, chấm muối sả ớt, hiện về trong tâm trí mà lòng quặn đau; dân Việt tôi, đất nước tôi. Đưa tay chỉ về cuối vườn giáp chân đồi, tôi đề nghị đến gần xem khoai lang. Đến gần, tôi chỉ thấy những đọt khoai lang hơi khác nhau. Khoai lang mỡ, da trắng, ruột vàng, ngọn đậm đà, luộc đọt chấm mắm tỏi ngon phải biết, nhuận trường, củ xắt phơi ghế độn với cơm tương đối dễ ăn. Đọt khoai lang vỏ tím ruột trắng dễ trồng nhưng đọt ăn hơi khô. Hai loại khác, đọt nhỏ và lá non màu hơi tím. Loại này có củ da màu tím và ruột cũng màu tím. Nếu hái đọt để luộc chỉ có thể hái khoảng một ngón tay tính từ ngọn. Nghe đâu loại khoai lang này người bị bệnh tiểu đường có thể dùng được. Còn một loại khoai lang khác, ngọn cũng nhỏ như khoai lang tím vỏ tím lòng nhưng đọt nó mầu xanh tươi, tôi không biết loại gì nên hỏi,

- Khoai lang có đọt nhỏ, xanh tươi kia là loại gì, cháu không biết.

- Đó là loại khoai lang Nhật, củ có vỏ màu trắng nhưng trong ruột, luộc lên màu tím lịm. Nó cũng giống như loại này, ông chỉ vô đám đọt và lá non màu hơi tím, nhưng được ưa chuộng hơn nên giá bán cao gấp đôi. Hai loại ruột tím này người bị bệnh tiểu đường có thể ăn được. Đoạn ông nói,

- Thôi mình vô nấu ăn.

- Để cháu hái nắm rau đay muồng nấu canh.

Ông Tầm tiến tới đám rau cải xanh, tiện tay, nhổ một cây, dũ đất dính nơi rễ.

- Sao bác không cắt lá ăn dần mà lại nhổ cả cây.

- Mai, tôi gieo thêm một đám, khi nó lên cỡ một gang mình ăn lẩu cá rô phi.

Trong khi hái đọt rau đay muồng, tôi hỏi,

- Bác muốn ăn canh rau đay nấu theo kiểu nào?

- Bắc, Trung, Nam, hoặc Tàu hay Tây, anh biết được mấy thứ?

- Dĩ nhiên, Tàu hay Tây, họ không ăn canh rau đay thì không có cách cho cháu biết. Hơn nữa, kiểu Bắc, hay Trung hoặc Nam cháu cũng không biết luôn. Cháu chỉ biết mấy kiểu không tên, nhưng thực hành thì gần giống nhau nhưng ăn lại có khác biệt.

- Nói lạ. những cái miệng khác nhau tất nhiên đâu thể cảm nhận giống nhau mà không khác biệt.

Tôi giật mình vì cũng một câu nói của tôi mà ông Tầm nêu lên thực trạng khác của vấn đề. Tôi nói về trạng thái của món canh rau đay được nấu cách khác nhau; ông nói về trạng thái của cũng một món canh đối với những chiếc miệng khác nhau. Tôi còn đang sửng người thì ông nói,

- Giật mình ah! Hèn chi dám cao ngạo đối đầu với cuộc sống. Thôi mình đi vào nấu ăn. Anh nấu theo kiểu đắc ý nhất của anh; vì dẫu sao nó vẫn hơn không có canh.

Câu nói của ông gợi về nơi tâm trí tôi lời thơ của Nguyễn Tất Nhiên được phổ thành nhạc, “Có còn hơn không, có còn hơn không.” Đã nhiều lần tôi lặp lại câu này trong quá khứ và không đồng ý với câu nói một chiều trong trạng thái đặc biệt tâm tư, mà ghép câu thơ vào vị thế độc lập của cuộc sống; bởi phỏng có món nợ, hay thất bại, thì có hơn không có? Tại sao không thấy tác giả văn chương, triết lý nào hoặc bất cứ ai viết tiểu luận nhận định về những lối nói, phát biểu, được chấp nhận một cách thường tình; trong khi tôi lại thấy phần nào đó có những nghịch lý? Tôi khác người hay muốn trở thành khác người? Tất nhiên, tôi có nhiều điểm khác với bất cứ ai dẫu có chung thân phận làm người. Tại sao người đời dễ chấp nhận nói năng, “Đi khám bác sỹ,” ngay cả trong văn chương, hay luận bàn xã hội; nhưng lại được hiểu ngược lại với lời phát biểu, và được chấp nhận đó là chuyện thường, thường vì thuận miệng; trong khi tôi lại nhận ra câu nói nghịch thường. Tôi muốn chẻ sợi tóc làm tư? Tôi không muốn nhưng tâm trí thường hay có những phản biện, trực diện nhận định hầu mong thấu triệt vấn đề nào đó khi đối diện với nó.

Tôi lấy dao thớt, cẩn thận thái thật nhỏ nắm đọt rau đay muồng, bỏ vào chiếc rá “nylon mau” (lỗ nhỏ) đem rửa đoạn bỏ lên một chiếc đĩa gum gủm tránh nước rửa rau chảy ra bàn bếp. Lò bếp của ông được xây bằng xi măng, có một miệng chụm củi và phía trên được chia làm bốn khoảng trống, hai to, hai nhỏ, để đặt nồi nấu nướng. Phi hành mỡ, xào tôm tươi được xắt nhỏ, tra mắm muối, tôi lấy thêm đùi gà lóc thịt bỏ vô xào với tôm, đổ thêm nước nấu canh rau đay.

- Vậy là có thêm món gà luộc. Món canh rau đay ngon là phải. Lần đầu tiên tôi sẽ được ăn canh đặc biệt chưa bao giờ có thể nghĩ tới.

- Nhà mình có cây chanh nào không? Tôi hỏi?

- Cây chanh làm gì?

- “Con gà cục tác lá chanh; con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; con chó khóc đứng khóc ngồi; mẹ hời, mẹ hỡi, mua tôi đồng riềng.” Ăn thịt gà cần lá chanh.

- Nơi đầu nhà bên kia có cây chanh cao hơn đầu người ngay sát bên giàn mướp.

- Bác có ăn canh rau đay với mướp không?

- Nhà có mướp hương mà tôi quên không nghĩ tới.

- Mướp hương thì thơm hơn, nhưng không ngọt bằng mướp trâu.

Tôi thu dọn bàn ăn và rửa chén xong, trở lại bàn ăn, định ngồi uống nước trà thì đã thấy mấy cuốn sách, có vẻ cũ kỹ, được xếp chồng lên một tập giấy hình như được “Copy” để sẵn. Trong khi tôi rót nước trà ra ly, ông Tầm lên tiếng,

- Nội trong vòng một tháng, ngoài giờ tập luyện và ăn uống, anh đọc cho xong tập bản thảo và những cuốn sách này. Tuy nhiên, phương cách đọc sách không giống như đọc truyện hoặc nghe giải thích để hiểu biết, mà tâm tình, tâm ý của mình phải hòa vô sự thể, sự việc được viết, được diễn tả; sao cho cảm nhận, cảm nghiệm được sự thể, sự việc có thể xác minh ngay nơi bản thân mình. Nói cách khác, anh cần suy tư, suy nghĩ, hay còn gọi là thực nghiệm, nghiệm xét những gì đọc được cho đến tận cùng, hầu biến sự thể, sự việc được giãi bày trở thành sự việc diễn tiến nơi chính anh. Tất nhiên, có những điều tác giả viết ra không phù hợp hoặc không hợp lý, hợp tình, không thể áp dụng được theo nhận định, nhận thức của anh thì cứ việc bỏ qua; nhưng những gì hợp với nhận thức, suy luận của anh, hãy thực nghiệm để chúng trở thành của mình. Cũng giống như đánh võ, miếng võ phải trở thành phản ứng tự nhiên của mình thì những nguyên tắc, thực hành được viết nơi sách cũng phải trở nên phản ứng tự nhiên nơi anh. Dĩ nhiên, khi đọc, tâm trí, tâm tư của anh sẽ làm việc tối đa, chìm tâm tưởng nơi những thực nghiệm được giãi bày; đồng thời cũng cần dùng phản biện phân tích để biến sự nhận thức thành hiện thực những gì có thể chấp nhận được. Tôi nghĩ, một tháng là thời gian quá đủ đối với anh. Hãy đọc cho hết rồi chúng ta sẽ nói chuyện sau. Vấn đề cơm nước, chi phí tối thiểu trong cuộc sống, yên trí, anh không cần lo ngại vì phải nhờ và tôi đâu. Tôi rất sòng phẳng và cũng không để anh chịu thiệt. Nếu cần giải tỏa căng thẳng đầu óc bằng cách nấu nướng thì cũng nên, nếu không, tôi nấu ăn không sao. Một tháng đọc sách này, chủ đích chỉ là để anh cảm nghiệm phương pháp thực tập kiến tạo nội lực bằng cách suy nghĩ, nhận định để áp dụng nơi bản thân. Tôi nhắc lại, đọc sách không giống như đọc truyện giết thời giờ mà thực nghiệm những gì có thể được viết nơi sách vô bản thân. Nếu có gì khúc mắc cứ việc hỏi, tôi sẽ giải thích cho dù nhận thức của anh đối nghịch với nhận định thực nghiệm của tôi. Nói vậy quá đủ, tất cả đều tùy thuộc nhận thức và thực nghiệm, thực chứng nơi anh.

Tôi vừa uống trà vừa im lặng nghe. Giọng ông Tầm nhẹ nhàng, trầm trầm nhưng xác quyết, đầy tự tin, gây áp lực mạnh mẽ. Khi ông so sánh thực nghiệm sự thể, sự việc được giãi bày trong sách với sự luyện tập các ngón đòn nơi sự luyện tập võ nghệ, tôi hiểu ngay ông muốn nói gì. Vì theo học ban C nơi trung học, và cũng vì cố gắng học cho giỏi để bố mẹ được vui, tôi đã đọc khá nhiều truyện, sách chẳng những nơi tiếng Việt, mà còn sách tiếng Anh, sách tiếng Pháp, để thăng tiến ngôn ngữ. Hơn nữa, trời cũng ban cho tôi có trí nhớ khá tốt. Thế nên, đọc sách đối với tôi chẳng những là món giải trí chẳng khác gì du lịch nơi tâm tưởng, biết thêm nhiều điều chưa bao giờ có cơ hội đối diện nơi cuộc sống mà còn có thể nói chưa bao giờ tôi có thể tưởng tượng trong tâm trí. Bởi thực tập luyện võ nên phản ứng của tôi khi đọc sách đều được ứng nghiệm phân định nơi tâm trí những gì tác giả sáng tác qua trí tưởng tượng hay những gì kinh nghiệm hoặc sự thể, sự việc diễn tiến nơi cuộc đời. Do đó, tôi đọc sách rất nhanh, có thể vì có trí nhớ khá tốt, lại quen luyện võ, nhận thức diễn tiến sự thể, sự việc được tác giả ghi lại dường như hiện hiện trước mắt nên có thể phân định chân giả, thực hư dễ dàng.

Có điều lạ, đó là bất cứ những sách nào đã đọc xong, tôi đều quăng vô thùng rác vì thấy không có gì đáng cất giữ lại dù sách tiếng Anh hay sách tiếng Pháp; bởi chúng thường chỉ là những loại biên khảo hoặc ghi lại những gì đã được viết lan man nơi diễn trình tư tưởng hoặc luận bàn đây đó, thế thì có chi đáng để giữ lại, chỉ chật nhà. Bởi vậy, khi nghe ông Tầm nói về phương cách đọc sách, tôi hơi ngỡ ngàng nên định bụng để xem những sách ông nói tôi đọc, viết về những chuyện gì rồi quyết định sau.

Tôi cẩn thận bê chồng sách, hơn kém hai mươi cuốn, và tập giấy copy để lùi gần về phía mình, đồng thời đặt chồng sách sang một bên, nhìn thấy ngay trang đầu của tập giấy copy có hàng chữ ghi chú, “Cẩn chú: Xin chân thành cảm nhận cảm nghiệm của quý bậc thức ngộ và ghi ơn quý tác giả, dịch giả, với những câu nói được trích từ các tác phẩm.” Liếc đọc sơ qua lời cẩn chú đồng thời thấy cả dãy tên sách ghi tên tác giả, dịch giả, nhà in, cùng năm tháng, tôi tự hỏi, bảng danh hiệu các tên sách được trích dẫn thường thì được ghi nơi cuối của cuốn sách, thế sao lại được để ngay đầu bản copy này. Hình như thấy tôi để ý đến trang đầu của bản copy, ông Tầm nói,

- Đó chỉ là bản copy của bản thảo cuốn sách chưa có tên và cũng chưa viết xong của một tác giả nào đó mà ông chưa biết tên. Nhân một hôm ghé vô thăm một người bạn, thấy để tập bản thảo trên bàn, ông mượn về muốn đọc qua xem có gì hay. Đọc xong, ông thấy quá hay nên xin được copy một bản. Người bạn nói tác giả của bản thảo nói còn đang viết tiếp, chỉ mới xong mấy phần lược qua đạo học gồm có Phật học, Ấn học, Điểm Đạo Ai Cập, Lão học. Tác giả còn đang viết tiếp phần Tân Ước của Kinh Thánh nên nhờ ông duyệt qua dùm nếu có điều gì cần nhuận sắc thì cho tác giả biết. Những cuốn sách tôi đưa cho anh cũng được liệt vào danh sách được trích dẫn.

- Theo bác nhận thấy, cháu nên đọc cuốn nào trước, tôi hỏi.

- Đọc cuốn nào trước, cuốn nào sau không quan trọng; điều quan trọng là anh lãnh hội được những gì. Có điều, như tôi đã nói, mục đích đọc sách của anh là kiếm ra phương thức thực nghiệm để phát triển nội lực, năng lực nơi mình. Theo tôi nhận thấy, tập bản thảo chỉ ghi lại những điều cốt yếu nơi hành trình suy tư, nghiệm chứng của một người trong diễn trình nhận thức về thực thể hiện hữu của người đó. Nói cho đúng ngôn từ, điều diễn xuất trong tập bản thảo viết về diễn trình và nguyên tắc suy nghĩ nơi phương diện tâm linh. Tôi không muốn nói nhiều về nó bởi nếu nói ra sẽ có thể chặn đứng suy nghĩ, hoặc ảnh hưởng nhận thức của anh. Đó là điều tối kỵ bởi nhận thức của tôi không phải là nhận thức của anh. Sự thể này cũng giống như trái ớt, đối với người này thì cần thiết và ngon, nhưng đối với những người không ăn được ớt thì sao. Do đó, tôi nghĩ, sau khi đọc xong những cuốn sách, hãy đọc tập bản thảo. Tuy nhiên, anh cũng nên nhận định cho rõ, quan điểm và nhận định của bất cứ tác giả nào đều không phải là của anh, nhưng suy nghĩ và đặt mình vào trường hợp và vị thế cũng như trạng thái nhận định của tác giả hầu thăng tiến nhận thức của anh mới quan trọng. Tôi muốn nói, sách vở chỉ là phương tiện giải thích cách nấu và sự lợi ích cũng như nguy hại hoặc mùi vị của món canh rau đay nấu với mướp, chứ không thể khiến cho anh no bụng và cảm nhận được hương vị ngon ngọt lúc ăn. Nên phân biệt, ăn món canh và đọc hoặc nghe giải thích về cách nấu cũng như sự bổ ích của món canh là hai thực thể hoàn toàn khác nhau. Đọc mà không suy nghĩ, không thực nghiệm để áp dụng thành của mình chẳng khác gì đọc sách các chiêu thức võ học mà không luyện tập, thực hành. Nói vậy quá đủ, bởi có nói thêm chỉ làm hại anh mà thôi.

Trên cùng của chồng sách là cuốn Tân Ước nhỏ, được in ra để phát cho những người lính nơi chương trình “Mỗi quân nhân một Tân Ước.” Tôi cũng có một cuốn; hơn nữa, tôi là người Công giáo; từ nhỏ cho tới lớn, tôi theo học tại các trường Công giáo. Đặc biệt hơn, nơi bậc trung học, tôi theo học nơi tiểu chủng viện thì hằng ngày đi lễ, nghe các cha giải thích Phúc âm đến chán cả tai; thế sao nó lại được đặt nơi đây làm một trong những mục tiêu tôi cần phải tìm hiểu. Nghĩ thế, tôi hỏi,

- Thưa bác là người Kytô giáo?

- Không, tôi theo đạo Cao Đài.

- Cháu theo đạo Công giáo, lại cả đời học hành nơi trường Công giáo, hơn nữa, còn học trong chủng viện Công giáo, nghe các cha giảng giãi nên quá quen với cuốn Tân Ước, sao còn cần phải đọc nó?

- Tôi biết anh là người Công giáo, và hầu như cả đời theo học nơi những trường Công giáo. Nhưng hãy nói cho tôi làm sao có thể áp dụng vào cuộc đời mình câu nói, “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham với Nước Thiên Chúa”? Hoặc câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta”? Đức Giêsu dạy anh bất hiếu hoặc trở thành người cha bỏ bêgia đình, con cái à? Những câu ấy nói gì về sự việc nào trong cuộc đời anh; áp dụng thế nào vào hành trình thăng tiến nơi anh; đó mới là vấn đề, và chỉ anh có thể trả lời cho chính anh. Tôi hy vọng, những cuốn sách này sẽ đem lại cho anh lợi ích không nhỏ, nhưng tất cả đều tùy thuộc suy tư, nhận thức nơi anh. Và như anh đã nói thế, tôi nghĩ, tốt nhất, cuốn Tân Ước anh nên đọc sau cùng.

- Cảm ơn bác, nếu có gì khúc mắc, nhờ bác chỉ bảo. Thôi, từ giờ, cháu bắt đầu đọc, hy vọng trong một tháng, cháu sẽ đọc hết.

ĐỌC SÁCH

Ngoài miệng tuy nói thế nhưng trong lòng tôi nghĩ, những cuốn sách mỏng này, nội một ngày tôi sẽ đọc hết ba cuốn, chỉ vài ngày là xong, nào có chi mà phải những một tháng, nhưng mấy câu nói nơi cuốn Tân Ướcđược ông Tầm nhắc đến cũng phần nào đánh động tâm trí. Tại sao ông lại nói áp dụng vào cuộc đời mình, rồi lại ảnh hưởng đến sự thăng tiến nhận thức! Mình đã được giảng giải phải kính mến Chúa hết lòng hết sức, mình có bao giờ bỏ đọc kinh, đi lễ đâu! Nhưng sao lại nói, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta”? Sao lại so sánh yêu cha mẹ và yêu Chúa? Kính mến Chúa và yêu cha mẹ là hai trạng thái khác biệt; một đàng là hữu vi, nhân sinh, thế tục, đàng khác là niềm tin, sự tin tưởng, mông lung vì đâu biết Chúa là gì, chỉ cho rằng, nghĩ đến danh hiệu, không kinh nghiệm, cảm nghiệm, không một liên hệ thực tiễn. Nói rằng kính mến Chúa là kính mến thế nào ngoài việc đọc kinh, cầu nguyện, tham dự thánh lễ, nào có gì khác đâu. Hừ, hãy xem các cuốn sách khác viết gì trước đã.

Đưa tay lấy cuốn sách mỏng nhất, cuốn Lão Tử Tinh Hoa rở thử xem nó nói gì. Ngay trang đầu, tác giả là Nguyễn Duy Cần phía trên bốn chữ Lão Tử Tinh Hoa nghênh ngang ở giữa. Trang tiếp theo giới thiệu một số sách của tác giả; để rồi trang kế ghi đôi câu nhận định của hai tác giả Tây phương. Nơi trang thứ tư có mấy hàng chữ, “Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri;” được dịch là, “Biết không nói, nói không biết.” Sao mà nói ngang như thế? Biết sao lại không nói; kẻ nói sao lại không biết? Không biết mà có thể nói được à? Đã không biết thì nói thế nào, nói điều chi, nói mình không biết ư? Biết mình không biết tức là đã biết mình không biết; mà đã không biết thì nói làm sao? Chẳng lẽ nói mình không biết điều mình không biết; mà đã không biết sao có thể nói. Kỳ cục, trong cuộc đời này thiếu gì điều mình không biết và bởi vì không biết thế sao lại nói, “Kẻ nói không biết.” Kẻ biết không nói tức là im lặng; kẻ nói không biết chẳng lẽ là kẻ ba hoa chích chòe, nổ. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao có câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Nó là con ba ba, nhưng lại có người rao truyền nó là con rùa. Người nói không biết mình nói gì; người rao truyền không biết mình rao truyền về điều chi? Nói bậy, rao truyền tào lao, kẻ nói không biết; kẻ nói không biết.

Đã không biết thì nói làm sao mà lại nói kẻ nói không biết. Đồng ý rằng, người biết mà giữ im lặng, không nói gì thì đúng là người biết không nói. Nhưng sao lại nói, “Kẻ nói không biết.” Nó đã không biết sao có thể nói mà lại nói, kẻ nói không biết. Câu này nói về điều gì? Sự thể nào, trạng thái nào, nơi vị thế ra sao, hoặc mưu mô ẩn kín cần được giữ im lặng, không nên nói ra. Người biết không nói. Biết gì, biết ra sao, tại sao không nói? Ah, mình không nói gì về cha mẹ, các em mình vì e có điều làm phiền đến họ. Người giầu có không khoe của, chỉ kẻ nghèo hèn mới, “Đẹp tốt phô ra, xấu xa che đậy.” Người nói không biết; người nghèo khoe sự mình không có để người khác nghĩ mình giàu sang. Họ biết họ nghèo nên mới khoe mà. Kẻ nói không biết; kẻ nói không biết.

Đầu óc tôi lùng bùng với những lý luận cứ như đám mây vần vũ, xáo trộn, không biết đâu là lý lẽ sao cho có thể giải thích hợp tình, hợp lý, có thể chấp nhận được. Thấy tôi ngồi im nhìn chằm chằm vào trang đầu tiên của cuốn sách, ông Tầm lên tiếng,

- Có chuyện gì mà có vẻ đứng hình vậy?

- Ah, cháu đang suy nghĩ thế nào lại nói, “Kẻ nói không biết!”

- Thì nó cũng giống câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” mà thôi.

- Hai câu có liên hệ gì với nhau đâu!

- “Người biết không nói; kẻ nói không biết,” nơi trường hợp, trạng thái nào? Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta, nơi trường hợp, trạng thái nào?

- Trường hợp, trạng thái! Trường hợp, trạng thái.

Tôi lẩm bẩm, lặp đi lặp lại vấn đề được ông Tầm nhắc tới trong khi đầu óc quay cuồng, bối rối. Tôi tự nhủ, không biết bao nhiêu sách, truyện, tiếng Anh, tiếng Pháp mình đã đọc, đâu có trường hợp nào kích động tâm não mình như thế này. Chợt nhớ, câu, “Dục tốc bất đạt,” tôi tự nhủ, hãy khoan, từ từ suy luận. Trường hợp, yêu cha mẹ thuộc về tâm tình. Biết không nói thuộc về thái độ. Nơi trường hợp khinh thường đối thủ hay một ai đó, biết không nói có nghĩa chẳng nên nói vì nói ra sẽ bất lợi. Ah, Phúc Âm cũng có câu, “Của thánh đừng cho chó, chớ quăng châu ngọc trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi.” Biết nhưng không nên nói vì nói ra sẽ bị coi khinh và phiền hà. Tại sao lại bị dày đạp và quay lại cắn xé. Biết không nói, không quăng châu ngọc trước miệng heo. Con heo là thứ con vật, bị coi là nhơ uế, hèn hạ nơi xã hội Do Thái. Quăng châu ngọc trước miệng heo, nói những lời khôn ngoan, tốt lành với những thứ heo, những người thiếu suy nghĩ, nhận thức, sẽ bị coi thường và dày đạp; sẽ bị kết án. Không đúng, không hợp lý; nói với phường ngu dốt sẽ bị cho là thế nọ, thế kia, khinh thường, chà đạp. Điều này có nghĩa, không nên nói với, không nên chia sẻ với những người thiếu hiểu biết, thiếu suy nghĩ, suy tư kẻo bị khinh thường, đàm tiếu, phỉ báng. Đối với những người không muốn hiểu, không đủ khả năng để hiểu thì chỉ nên im lặng kẻo bị họ chà đạp.

Người biết không nói nơi trạng thái nào? Những gì mình biết nhưng không nên nói ra, hoặc không thể nói? Kẻ yêu cha mẹ, làm sao có thể nói ra mình yêu cha mẹ mình thế nào. Yêu cha mẹ chỉ có thể nói lên bằng cách đối xử, cách sống. Kẻ biết không nói, không phải, kẻ biết nhưng không thể nói, vì càng nói ra càng chẳng nói được gì; làm sao giải thích được lòng yêu thương đối với cha mẹ. Kẻ nói không biết, trạng thái, trạng thái. Thì hãy đọc xem cuốn sách nói gì. Mới có một câu thôi mà đã bối rối như bố vợ bị đấm, tôi tự nhủ. Ông Tầm thấy tôi im lặng suy tư nên đứng lên đi ra vườn phía sau. Tôi ôm đống sách và tập bản thảo vô giường, nằm ngửa lên đọc cuốn Lão Tử Tinh Hoa vì có cửa sổ phía đầu giường soi sáng.

Cỡ độ hơn kém ba giờ tôi đã đọc xong nhưng chẳng hiểu tinh hoa của Lão học là gì. Nói cho đúng, chẳng hiểu sách nói gì. Lần đầu tiên trong đời tôi đối diện với cuốn sách nhưng đọc xong cũng chẳng nhận ra được căn bản nó nói về điều chi, ngay cả chỉ với một câu ngang ngược nơi trang đầu tiên của cuốn sách. Cũng có một đôi câu khác được tác giả giải thích một cách thực tiễn ít khi được để ý, nếu không muốn nói là chẳng bao giờ được để tâm suy nghĩ, suy nghiệm, chẳng hạn, Tác giả Nguyễn Duy Cần nêu lên sự thể ánh sáng mặt trời. Ai cũng nhận biết mặt trời soi sáng và cho đó, chấp nhận đó là sự tự nhiên, nhưng đâu ai nói về công việc soi sáng của mặt trời, đâu ai thấy mặt trời làm việc chi; tuy nhiên, tất cả sự sống, sinh hoạt đều nhờ vào ánh mặt trời. Mặt trời chẳng làm gì nhưng không có ánh mặt trời, mọi sự đều ngưng trệ. “Không làm gì nhưng không việc chi không làm;” tôi chợt nghĩ, không làm gì là làm tất cả. Chuyện gì, sự gì, trạng thái nào nơi tôi ảnh hưởng toàn bộ con người tôi, ảnh hưởng tất cả cuộc đời tôi? Sự gì nơi tôi coi bộ không để ý nhưng hoạt động bao trùm mọi lãnh vực cuộc sống? Ước mơ, ý định, tham vọng, yêu thương, ghen ghét, mưu đồ?

Dĩ nhiên, có cái khát vọng nào đó, mờ mờ, ảo ảo nơi tâm trí mỗi khi nghĩ tới cảnh điêu tàn trong cuộc sống của dân chúng khiến tôi có ước vọng làm gì đó may ra có thể giúp dân chúng có cuộc sống thoải mái, khấm khá hơn. Tại sao tôi chấp nhận lang thang, làm bất cứ việc gì miễn tạm sống cho qua chờ cơ hội. Cơ hội gì? Cơ hội cho tôi vươn lên? Không, tôi sống thế nào chả được. Vậy cơ hội gì, để làm gì và cho ai? Mắc mớ gì tâm tư tôi cứ luẩn quẩn với nỗi khát khao không rõ ràng ấy? Tại sao có điều gì đó không được phân định rõ ràng cứ như ma đùa, quỷ ám tâm trí tôi? Nhiều lần tự hỏi nhưng chưa bao giờ để tâm phân tích trạng thái tâm tư, tôi chỉ biết khắc khoải một cách mơ hồ.

Không hiểu tinh hoa hay tạp hoa mà khi đọc qua phần giới thiệu thân thế cũng như sự nghiệp, tính chất, thể văn của tác giả, vừa khi bước vào học thuyết thì cụ Nguyễn Duy Cần đã đương đường tuyên bố, “Đạo Đức Kinh, theo nhiều học giả Đông phương cũng như Tây phương, là một quyển sách thuộc về tâm linh, đạo học cho những người đi theo con đường Huyền học và siêu thoát” (Lão Tử Tinh Hoa; Thu Giang Nguyễn Duy Cần; Sống Mới; Forth Smith; AR, USA; năm? Tr. 39). Theo cụ Nguyễn Duy Cần, điểm chính yếu của Đạo Đức Kinh nói về Đạo, nguyên lý tuyệt đối, cội nguồn và điều hành vũ trụ, không sinh, không diệt, không tăng, không giảm, không thể hiểu bằng lý trí mà chỉ có thể cảm nhận; không một danh từ, ý tưởng, cũng như phán đoán nào có thể nói hoặc diễn giải về thực thể được gọi là Đạo này. Lý thuyết, nào chẳng khác chi

Pascal minh xác, “Thiên Chúa là Đấng không thể dò thấu. Chúng ta không thể nói được gì về Thiên Chúa. Những gì chúng ta nói về Thiên Chúa chỉ là tưởng tượng.” Tôi không nhớ đã đọc được câu này ở sách Pháp hay sách Anh hoặc sách Việt, nhưng, suốt những năm từ nhỏ đến hết bậc trung học nơi nhà trường Công giáo, không có thầy nào nhắc tới, và ngay cho tới tận lúc này, cũng vẫn chưa thấy linh mục hoặc bà sơ nào đá động đến. Nhiều lần tôi thầm tự hỏi, Chúa mà không thể nói đến được, không thể hiểu được thì nói rằng tin vào Chúa là tin thế nào, chẳng lẽ tin vào tưởng tượng hay danh hiệu! Nếu thế thì tệ hơn vô thần! Vô thần ít nhất còn tự tin vào chính mình cho dẫu ma giáo hay đểu cáng, độc ác ra sao, hãy còn có điểm tựa để tin.

Có điều, hình như có điểm chung nào đó nơi những phát biểu kỳ cục ngang ngược nơi các lý thuyết hay quan điểm khác nhau. Tôi chỉ mờ mờ cảm nhận có điểm chung nào đó chứ không phân định rõ được điểm chung ấy là thế nào. Cụ Nguyễn Duy Cần còn nêu lên tính chất tương đối nơi vạn vật của Đạo, “Không một danh từ nào, không có một ý tưởng nào, cũng không có một sự phán đoán về giá trị nào mà có thể gọi là tuyệt đối cả” (Hữu vô tương sanh, nan dị tương hành, trường đoản tương hình, cao hạ tương khuynh, âm thinh tương hòa, tiền hậu tương tùy. Tr. 42). Cặp tương đối ấy luôn luôn nằm trong mọi sự, mọi vật, và bất cứ trong đời sống ta lúc nào cũng thấy nó hiện lên và thường gây cho lòng ta nhiều tranh chấp, mâu thuẫn, (Thiên hạ giai tri mỹ chi vi mỹ, tư ác dĩ; giai tri thiện chi vi thiện, tư bất thiện dĩ; thiên hạ đều biết tốt là tốt, thì đã có xấu rồi; đều biết lành, thì đã có cái chẳng lành rồi, Tr. 43). Sự thể được giãi bày này sao giống giống đạo học nhất nguyên, âm dương đối lập nhất thể, cũng như Dịch học!

Sở dĩ nhắc tới Dịch học bởi trong quá khứ, có thời tôi tấp tểnh muốn nghiên cứu về tử vi để ít nhất muốn biết trước chút nào về phận số tương lai của mình, đồng thời khi có dịp nổ cùng bạn bè, nhất là đối với phái nữ; tôi có thể ba hoa chích chòe cho vui, kiếm thêm cảm giác hưng phấn may ra được kẻ khác cho rằng mình cũng là một thứ gì. Hơn nữa, nghe đâu đây cũng như nơi cuốn báng bổ tử vi nào đó, có tác giả khuyến khích muốn giỏi tử vi, tử bình, nhâm độn, thì cần suy nghiệm về dịch học. Và thế là tôi mua mấy bộ, ít nhất có thể biết chắc là sách viết về dịch của ba, bốn tác giả. Nào Dịch học diễn nghĩa, Dịch học ứng dụng, Dịch trong y lý, Dịch học hiện đại. Đem chúng về tôi ngày đêm đọc tới đọc lui, nghiên cứu nơi tác giả nọ, so sánh với lời bàn của dịch giả kia, và cuối cùng thì ngâm cứu. Không hiểu sao người xưa nghĩ ra được những thứ không tiền khoáng hậu, chẳng chi minh chứng cứ buông ra những thứ, những lý thuyết tự trời rơi xuống khiến đầu óc tôi quay cuồng không thể nhớ, chẳng có chi làm gốc gác, điểm tựa để chìm sâu vào cõi huyền hoặc của nhân sinh. Sự thể này đối với ai không biết, riêng tôi đúng là huyền hoặc.

Bởi đó, đã một giai đoạn thời gian dài, không biết bao nhiêu năm, khi nào nghe thấy ai nhắc tới tử vi, lý số, tôi đều cho rằng mấy thày bói toán chỉ “giác” bằng cái miệng chứ bản năng không thể “ngộ.” Tuy nhiên, sau này, trời xui đất khiến tôi gặp và làm quen được một thày ngộ được tử vi. Tôi nghĩ, không cần phải nói nhiều, cứ cho ông ta biết ngày sanh tháng đẻ cũng như giờ giấc chui ra khỏi bụng mẹ. Ông ta không cho phép mình nói thêm bất cứ điều gì để lắng nghe ông phán về quá khứ, đặc điểm, dáng người, tính chất, và có thể cả ẩn tướng; coi chừng chính bạn cũng không để ý về ẩn tướng nơi mình. Cuộc đời lắm điều oái oăm, nhiều sự mình chưa biết và có thể không bao giờ biết. Ôi cái phận số. Ai muốn chứng nghiệm ngộ tử vi hay không, cứ việc kiếm thày tử vi, Tam Xuân, ở Louisiana, USA, mà nghe phán. Cũng xin nhớ, đừng nhắc đến bút hiệu của tôi kẻo phiền hà tức khắc ập tới.

Cụ Nguyễn Duy Cần cũng cho rằng, “Cái lập trường chống lý của Lão Tử, là do nơi kinh nghiệm thuần túy tâm linh của ông. Tri thức không bao giờ đạt đến cái Tuyệt đối, Nguyên lý cùng tột của vũ trụ, vạn vật, tức là Đạo” (Tr. 45). Thế nên, phương pháp giải thoát theo Lão Tử là phương pháp tiêu cực, “Đừng sa vào cái tạp niệm nhị nguyên, tức là gần được với Đạo rồi vậy” (Tr. 45). Đã không thể nói gì được, không thể nghĩ bàn chi, cũng không biết chi về Đạo thế mà Đạo Đức Kinh lại dương danh Đạo là mẹ nuôi của vạn vật, của muôn loài, “Hữu danh vạn vật chi mẫu” (Tr. 52). Rồi lại thêm, “Trở về với Đạo thì người ta mới được trường cửu, hay nói một cách khác, người ta mới thực hiện được cái Chân Tánh của mình” (Tr. 52). Quái, không thể nghĩ bàn, không thể dùng lý trí để nhận biết, thì sao có thể trở về! Về đâu?

Chẳng những thế, những câu nói trong Đạo Đức kinh còn mang đầy vẻ nghịch thường mà cụ Nguyễn Duy Cần cho rằng có kết luận bất ngờ. Chẳng hạn câu, “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Người biết không nói thì dễ thôi, họ có lý do của họ; nhưng người nói không biết mới bất ngờ. Bất ngờ vì không biết sao có thể nói. Phỏng đây là thách thức bàn dân thiên hạ suy tư, suy nghiệm, nghiệm xét. Nơi Tân Ước, Phaolô viết trong thư gửi Côlôsê, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-22). Làm sao có thể nghiệm xét mọi sự. Cuộc đời này thiếu gì sự việc, sự thể mình không biết mà dám hô hào, “Nghiệm xét mọi sự?” Nói cho đúng, người ta chỉ có thể nghiệm xét trong giới hạn nào đó chứ làm sao có thể nghiệm xét mọi sự. Nghiệm xét mọi sự là thế nào? Đã nghiệm xét mọi sự sao lại còn nói huyền nhiệm và mầu nhiệm? Hừ, mỗi vị thần có phép riêng được rao truyền; mỗi lý thuyết có bế tắc ẩn giấu; mỗi tác giả mang tham vọng nào đó. Mỗi người có ước mơ, tham vọng khó nói lên lời. Mình vẫn chưa biết ước mơ, mục đích cuộc đời của mình là gì, rồi sẽ đi về đâu! Ngày mai, ngày mai, ôi ngôn từ thần thánh!

Không cần bàn đến những vấn đề trừu tượng; cái nhất thể dân tộc Việt, đã trãi qua, “Một ngàn năm đô hộ giặc Tàu, một trăm năm nô lệ giặc Tây, hai mươi năm nội chiến từng ngày” (Lời bài hát của Trịnh Công Sơn), vẫn còn là dân tộc Việt. Đảng phái chính trị, chính em cũng chỉ là nhất thời, cũng chỉ giống như sự tăng trưởng, hoặc khuyết giảm của cặp âm dương nhất thể nơi Đạo, nhưng tại sao lòng tôi cảm thấy đau xót mỗi khi nghĩ đến hoặc nhìn thấy cảnh lầm than khốn khổ của dân chúng chung quanh? Họ còn có túp lều để ở; tôi lang thang không ngõ chui về, có gia đình không dám trở lại, trở lại càng đau lòng hơn vì với tâm tính ngang tàng của tôi chắc chắn gia đình, bố mẹ sẽ bị liên lụy. Thì sao không lập gia đình, mình đào hoa lắm mà, tôi thầm nghĩ; mình đâu cần mái ấm để rồi trở thành con thú, tối ngày mặt cúi xuống đất, lưng bán cho trời chỉ vì miếng cơm manh áo. Mình không thích con gái sao? Thích chứ, các nàng dễ thương, hấp dẫn nhưng không thấy cần thiết, không muốn cho bất cứ ai bị khổ lây.

Mình nghĩ gì vậy? Suy nghĩ lung tung khiến tôi ấp sách lên ngực ngừng đọc. Huyền đồng, “Trở về với đời sống giản dị,” cụ Nguyễn Duy Cần giải thích như thế. Sống giản dị là sống thế nào? Phỏng có ai có lối sống giản dị hơn tôi chăng? Không nhà, không cửa, chẳng vợ con đùm đề, không nơi nương tựa, may nhờ có ông Tầm rước về nuôi, nhưng đợi sau sáu tháng, một năm, tôi sẽ quyết định thế nào. Ăn nhờ, ở đậu mà không giản dị thì ăn cướp mới giản dị hơn sao? “Theo Đạo càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi. Vô vi đây là vô dục vậy” (Tr. 54). Trời, trên răng dưới dép thì có gì để bớt? Chẳng lẽ chỉ còn cái mạng lại tự tử quách. Vô vi, bớt cái dục, cụ Nguyễn Duy Cần nói bớt cái dục, thì cụ có vợ con không? Mấy người tu thiền, tu dòng, tu nhóm đã bao lâu năm, hay cả đời có bớt được cái dục không? Ah, “Phải dứt bỏ, dứt bỏ cả lề lối suy tư theo ‘la tập’ nhị nguyên, dứt bỏ lòng ham muốn riêng tư, dứt bỏ cái học trục vật, chạy theo danh lợi bên ngoài… Tóm lại, phải dứt bỏ cái ta nhân tạo, giả dối để trở về với cái ta đồng nhất với Đạo, trở về thanh tĩnh và vô vi” (Tr. 54). Viết lách, đề nghị cái gì? Trở về với thanh tĩnh và vô vi! Không muốn, không ước mơ, tham vọng cũng dễ thôi, nhưng lúc dạ dày kêu réo thì dù cho có vô vi cách mấy đầu gối vẫn phải bò. Hừ, ai không phải lo miếng cơm manh áo; ai không phải tính toán, suy nghĩ sao cho có của ăn, của để hầu ít nhất no cái bụng. Phỏng khi bụng đói meo cụ còn có thể cầm bút viết hai chữ vô vi không hay lại phải hữu vi lục nồi, vét chảo? Cụ Nguyễn Duy Cần viết về Đạo và phương cách trở về với cái được mệnh danh là Đạo mà. Cụ trình bày cái Đạo chứ đâu khuyên nhủ ai! Cụ quảng cáo.

“Đạo khả Đạo phi thường Đạo. Đạo mà có thể thuyết giảng minh bạch được thì không phải là thường hằng, bất biến” (Tr. 54). Quái đản, không biết thì nói thẳng không biết, đàng này lại cố thuyết giảng về điều không biết. Dĩ nhiên, biết mình không biết thì đã là biết, nhưng làm sao có thể nói về điều mình không biết. Phương cách nào để có thể biết điều mình không biết. Đã không biết thì có thể nói chi. Không biết cách nào để có thể bay, để có thể di chuyển nhanh như chim bởi vì mình không có đôi cánh thì ráng tập chạy cho nhanh; chạy hãy còn chậm thì kiếm cách chế ra xe đạp chạy nhanh hơn; xe đạp vẫn còn thấy chậm thì chế ra xe máy, rồi xe hơi, rồi phi cơ; ấy là phát minh; đó là sáng kiến của những người lười và không vô vi, là dục. Quái, bỏ cái dục, bớt cái dục thì sao có tiến bộ, văn minh. Chẳng lẽ sống vô vi là trở về với thời ăn lông ở lỗ. Ở lỗ, có ai không mặc quần áo mà dám ló mặt ra đường chăng? Bớt, bớt đến độ không còn gì để bớt, bớt cái dục, cái ham muốn nghĩa là thế nào? Nói về điều không thể biết thì phải làm sao, phải là sao để biết mới có thể nói. “Đạo khả Đạo phi thường Đạo; Đạo khả Đạo phi thường Đạo! Người nói không biết; kẻ biết không nói!” Kỳ quái! Thôi thì cứ đọc cho hết; đâu phải vô lý mà cụ Nguyễn Duy Cần tốn công sức để quảng bá cái không biết!

“Không làm gì nhưng không việc gì không làm.” Không làm gì là làm tất cả. Quái đản, sao mấy câu nói này cứ làm phiền tâm trí tôi. Và lại thêm câu khác, “Đi xa tức là về gần.” Đi đâu xa nhất? Về gần, về đâu? Đi về nơi trường hợp nào? Đi, đi đâu? Chết là đi xa nhất vì sẽ chẳng bao giờ có thể gặp lại. Về gần! Ah, linh hồn trở về nơi cõi uyên nguyên. Mình bị lừa, tôi thầm nhận ra. Câu nói được chia hai phần, đi xa, nói về hữu vi, thân xác; về gần nói về tâm linh, thực thể linh hồn. Linh hồn là gì, sao có thể minh chứng, cảm nhận, cảm nghiệm? Câu nói pha trộn giữa hữu vi và vô vi, giữa hiện thực và vô hình. Biết không nói cũng thế; nói không biết! Hừ, thôi thì cứ đọc qua cho hết xem sao, may ra gặp được điều gì khác lạ; tôi thầm dự tính.

Mới đó mà chiều đã ập tới, tôi nghĩ, cần phải biết điều một chút nên xuống bếp, mở tủ lạnh định bụng kiếm đồ nấu ăn bữa tối. Cũng vừa lúc đó ông Tầm bước vô lên tiếng,

- Anh định kiếm chi vậy?

- Cháu tìm xem có gì để nấu bữa ăn tối.

- Cơm ban trưa tôi nấu nhiều nên chiều nay không phải nấu cơm, chỉ cần nấu món ăn cho lẹ.

- Bác mua trứng sáng nay, còn ít thịt kho, lại có thêm gà đông lạnh. Ngoài vườn có rau cải, hành hoa; nên cháu nghĩ làm cơm chiên với rau cải.

- Vậy thì nên trụng rau cải với nước muối cho bớt nhặng trước khi trộn với cơm chiên.

- Cháu nghĩ, rau cải luộc ăn với cơm chiên hành hoa với trứng, trộn thịt kho, thịt gà.

- Cũng hay, để tôi ra nhổ rau cải về luộc, anh chuẩn bị chiên cơm.

Cuốn Cái Cười của Thánh Nhân được biên soạn với những câu truyện giả tưởng, không thực tiễn, coi độc giả như những đứa bé ba, bốn tuổi nhưng đầy mơ mộng viễn vông. Cụ Nguyễn Duy Cần có ý định chi khi biên soạn cuốn này? Để diễu thiên hạ hay để đánh thức độc giả, dẫn dắt độc giả nhìn lại chính mình nơi phương diện nào đó? Nơi câu truyện tặng bó lúa, phi lý, nhiều thì tặng thóc, ít tặng gạo. Chỉ cho một bó lúa, không hiện thực chút nào. Thế thì liên quan gì đến thánh nhân; chẳng lẽ thánh nhân ngu ngơ như đứa bé ba, bốn tuổi? Nơi phần phụ lục của cuốn sách, in thêm phần Tư Tưởng U Mặc, những câu nói nghịch thường. Không nhớ tôi đọc được từ nơi đâu, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương?” Hoặc, “Thượng Đế và Satan là một?” Đọc mà giật mình, quả là phạm thượng. Thiên Chúa là Thiên Chúa và là Thiên Chúa độc nhất. Lý lẽ nào, trường hợp, trạng thái nào có thể đánh đồng Thiên Chúa với Satan. Cái bóng của ai là hình ảnh người đó. Bóng của Thượng Đế sao có thể là quỷ vương! Tên đề của sách là Cái Cười của Thánh Nhân thì chẳng lẽ thánh nhân có những nụ cười ngây ngô như thế sao? Hèn chi có thành ngữ, “Nói thánh nói tướng.”

Tới chừng nửa đêm thì tôi đã đọc xong cuốn Cái Cười của Thánh Nhân. Kể ra tôi đọc cũng nhanh; mới hơn sáu tiếng đã xong hai cuốn sách. Mà sao những gì được viết nơi hai cuốn này đánh động nặng nề đến tâm tư tôi. Nguyên những chuyện đâu đâu không liên hệ gì đến cuộc sống. Những chuyện khùng khùng điên điên. Ông Tầm muốn tôi đọc mấy cuốn này vì lý do gì? Nói cho đúng, mới đọc được hai cuốn mà nơi tâm trí tôi nổi lên một trận chiến liên miên bất tận, và đối thủ của tôi lại vô hình, lại là những phát biểu, luận điệu thách thức tôi suy nghĩ để giải mã chúng sao cho hợp tình, hợp lý nơi trạng thái, trường hợp nào đó. Trạng thái nào, trường hợp nào? Đã từ lâu tôi vẫn tự hỏi, nơi trạng thái nào cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương? Trong trường hợp nào Thượng Đế và Satan là một? Thượng Đế là gì; Satan là gì?

Chính khi đọc hai cuốn với những phát biểu, ngụ ngôn ngang ngược, nhưng đôi khi ngờ nghệch này, tâm trí tôi lại liên tưởng đến những câu nói nghịch thường nơi Tân Ước; khiến tôi lờ mờ cảm nhận, hình như kiểu phát biểu nơi Tân Ước mang sắc thái nào đó. Chẳng hạn, “Kẻ cầm cày mà quay trở lại phía sau thì không thích hợp với nước Thiên Chúa (Lc. 9:62). Quay trở lại phía sau để làm gì trong khi phải để ý điều chỉnh lưỡi cày cho luống cày đều đặn theo sau con trâu phía trước. Sự thể giống như giả tưởng chẳng khác gì những chuyện ngụ ngôn.

Nơi cuốn, Cái Cười Của Thánh Nhân, cụ Nguyễn Duy Cần cho rằng “Yếu tố quan trọng nhất của văn u mặc là sự bất ngờ, nghĩa là không thể dự liệu trước được” (CCcTN; Thu Giang Nguyễn Duy Cần; Đại Nam xuất bản; Glendale, CA, USA; năm?; Tr. 31). Tôi cảm thấy hình như điều được cụ Nguyễn Duy Cần cho là “Sự bất ngờ” chẳng khác gì nhẩy trật đường rầy này để bước sang đường rầy khác. Đường rầy nào thì tôi chưa xác định được. Tuy nhiên, hình như nơi tâm trí nổi lên ý niệm nào đó, mơ mơ màng màng thúc đẩy tôi cần tìm cho biết.

Năm giờ sáng hôm sau, tôi dậy sớm theo tập quán để luyện võ. Chừng tiếng sau trở vào nhà đã thấy ông Tầm đang ngồi uống cà phê nơi bàn ăn, đồng thời cũng có thêm một ly trên đó phin pha cà phê vẫn còn đang nhỏ giọt dành cho tôi.

- Hôm nay, anh mua con cá về nửa kho, nửa chiên.

- Bác muốn ăn loại cá nào?

- Nếu có được con cá dảnh thì tốt.

- Cá dảnh là cá gì?

- Anh có biết câu, “Lươn ngắn lại chê trạch dài; thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm” không? Cái con thờn bơn ấy.

- Ah, con cá ngộ, con cá mặt đen, mặt trắng. Cháu biết tên nó là cá thờn bơn, cá ngộ, nhưng cá dảnh thì mới nghe lần đầu. Ở đây họ có bán khô cá ngộ không bác? Nếu có, cháu mua thử một vài con về nhậu đế.

Ông Tầm đưa cho tôi 10 đồng; tôi đạp xe ra chợ. Chỉ kiếm được một con cá ngộ bằng hai bàn tay, sao đủ chiên và kho, tôi định kiếm thêm một con cá trê về kho bởi chợt nhớ câu ví von, “Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê.” Nhớ ngày còn nhỏ, mỗi lần nhà có cá trê kho khô với rau răm và ớt, tôi ăn cơm quên chết. Cá trê chiên sơ, kho khô, hơi mặn, nêm bằng nước mắm, thêm ít muối, đáy nồi lót một lớp rau răm, thêm ớt, sả, và đun lửa riu riu cho tới khi cháy cạnh. Không thể diễn tả được mùi vị nó tuyệt vời thế nào. Vì hơi mặn nên ăn với cơm rất dôi, chỉ mới nghĩ tới đã muốn trôi cả cái lưỡi. Sau khi mua được con cá ngộ, kiếm ngang, kiếm dọc mấy hàng cá tươi mà vẫn không thấy cá trê, một chị bán cá chợt hỏi tôi,

- Chú kiếm dzì dzậy?

- Tôi đang tìm xem có ai bán cá trê không. Tôi muốn mua một con.

- Sớm nay tui có được mấy con đã có người mua rồi. Ở chợ này chỉ tui mới có vì ba tui đánh lợp bên sông. Tui chỉ còn năm con cá rô, chú mua tui bán hời cho. Cá rô này béo lắm, không thua cá trê đâu. Chú đem về kho tiêu, ớt, sả, nước mắm, nếu có thêm chút xì dầu và ủ trấu cho khô và mềm cả xương ra ăn mới đã. Thế bà xã đâu mà chú phải đi chợ sớm vậy?

- Dạ, tôi còn đang định kiếm mà chưa có ai chịu, nghèo quá mà, ai dám thương. Mấy con cá rô này chị bán nhiêu?

- Tui lấy chú đồng hai thôi.

- Một ngày công chỉ có hai đồng mà năm con rô này những đồng hai; chúng có quá mắc không chị?

- Tui lấy chú đồng hai không mắc đâu. Người khác, tui tính đồng rưỡi còn hời đó. Cá nhà mần ra, tui đâu e hơn, thiệt.

- Thì chị lấy tôi một đồng làm quen để lần sau tôi còn ghé hàng chị nữa. Tôi đàn ông, đàn ang nào có quen chợ búa, trả giá chi.

- Chú về nói bà xã đi chợ cho khỏi bị lừa. Tui nói thiệt nè, đồng hai là quá hời rồi.

Tôi đã ấm ớ mở lòng, vì nghèo nên không ai dám thương do đó chưa có vợ mà chị ta còn giả vờ nhắc tới “Bà xã;” khiến tôi chợt có ý nghĩ chị này muốn tôi vô tình khai ra vị thế hiện trạng của mình; do đó tôi đánh đáo lưỡi,

- Có được bà xã thì cũng đỡ, được cả đàng nọ lại được cả đàng kia, nhưng, tôi ởm ờ, nhỏ giọng, nơi thời buổi khốn khổ này nào ai dám dây mình vô thứ tứ cố vô thân.

Mấy người đàn bà bán cá biển kề bên nghe tôi than thở trả giá mỉm cười liếc chị bán cá rô, rồi nhìn tôi có vẻ lạ lùng. Nơi chợ miền quê này, hiếm thấy ông nào lảng vảng nơi hàng cá hàng tôm; mà tôi lại là thanh niên hơ hớ, vừa mua con cá ngộ nơi hàng cá biển cách chị ta hai thớt hàng, lại nhì nhằng, đôi co trả giá mấy con cá rô. Đàn ông đâu chả thế, cho dù những tay bợm nhậu, cũng chẳng bao giờ trả giá hơn thiệt khi mua đồ, cứ nhắm mắt nhắm mũi móc tiền trả theo giá nói của chủ cửa hàng. Công nhận năm con cá rô ngon thiệt. Mẩy thật là mẩy, lại to nữa, ít khi gặp được những con rô lớn như thế. Con cá ngộ tôi vừa mua hết một đồng, nếu đem so với năm con cá rô này thì chúng đáng giá hơn kém hai đồng. Lòng tôi thấy vui vui, cô bé cỡ chừng 18, 20, gọi tôi là chú, chắc chưa lập gia đình; vì nếu cô đã có chồng, thường sẽ gọi tôi bằng anh, người miền Nam mà. Nói cho đúng, đồng hai đối với năm con cá đâu mắc mỏ gì, nhưng tôi muốn nhì nhằng, nói qua nói lại với cô bé này cho vui. Hơn nữa, tôi định láu cá khi cô bé nói “Lấy tui đồng hai.” Ngôn ngữ Việt mình dễ thương thiệt. Nói một đàng, hiểu một nẻo, duyên dáng, thân tình ghê nơi.

Cái số của tôi nó đào hoa kỳ lạ; miệng thì dẻo quẹo dễ thương. Nói cho đúng, đễ thương tại tôi rất tôn trọng mọi người nên ăn nói lễ phép, nhẹ nhàng, lại luôn luôn tỏ ra mình kém vế hơn người đối diện. Thực ra, tôi cũng chẳng đơn giản gì; đẹp trai, cao ráo, thuộc hàng sinh viên sinh hòn, và hơn nữa ít nhất đệ tam đẳng huyền đai, chăm chỉ luyện võ nên vóc dáng cường tráng dễ bắt mắt. Bởi thế, thái độ và cách thức ăn nói của tôi hiền hòa, dễ thương, nhưng niềm tự tin, thách đố với phận số đã tạo cho tôi vẻ bất khả xâm phạm. Tôi không bao giờ chọc chạch đàn bà con gái vì như thế là hèn, là thiếu nhân phẩm. Có lẽ thái độ đứng đắn càng làm tôi ăn khách, hấp dẫn hơn. Có điều, chưa bao giờ tôi cảm thấy mình cần có người bạn đời, mà có chăng chỉ e ngại, nếu có vợ con, tôi sẽ bị ngăn chặn cảnh tự do vùng vẫy giữa chợ đời. Nơi hoàn cảnh người người khốn khó kiếm ăn từng bữa này, có vợ, tôi chỉ còn nước tối ngày căm cúi lo miếng cơm manh áo thì cuộc đời sẽ buồn biết mấy!

Chị bán cá này cũng khá xinh gái, tuổi mười tám, đôi mươi, con gái nào trông không hấp dẫn. Ăn nói nhẹ nhàng, cởi mở của chị càng khiến tôi muốn kiếm cớ nhì nhằng, đôi co cho thêm phần thân thiện. Có lẽ ai cũng biết trị giá năm con cá rô lớn như thế mà chỉ có một đồng hai là quá rẻ, thế mà tôi cứ lý này, cớ kia, rồi lại còn ám định trở lại mua hàng để hạ thấp giá thì cũng lấy làm lạ. Hơn nữa, tôi lại là thanh niên trẻ, hiện thân của giới ham vui, chơi đùa mà phải đi chợ mua cá về nấu ăn. Ngay từ đầu, chị bán cá đã dợm hỏi lý do tại sao tôi phải đi chợ nên mọi người chung quanh đều biết tôi còn độc thân. Nếu đi chợ kiếm đồ nhậu đâu ai ghé hàng cá. Thực ra, so sánh giá cả giữa cá và thịt thì nếu tính về lượng, cá mắc hơn, lại nấu món nhậu phiền hơn; bởi vậy, tôi trở thành trung tâm cho những cặp mắt chung quanh để ý tới. Nhưng chị bán cá này lại không tỏ vẻ chi phiền hà vì cảnh nói qua nói lại lằng nhằng của tôi. Thế nên, quen thói tửng tửng, tôi đò đưa,

- Tôi mua chị một đồng làm quen; chị cũng chỉ nên lấy tôi một đồng thôi. Lần sau, nếu muốn ăn cá, tôi sẽ ghé chị cho bõ công quen biết.

Làm ngang như thuộc thành phần quê mùa, tôi nói theo kiểu bớt đầu bớt đuôi cho gọn, nhưng ngôn ngữ lại ngược ngạo “mua chị” và “lấy tôi.” Tôi nhẹ liếc mắt xem cảm ứng của mấy bà hàng cá đôi bên; thấy họ mỉm cười nhưng không hiểu họ có biết ẩn ý nơi câu tôi nói chăng.

- Thì cũng được. Tui lấy anh một đồng; cá do tía tôi đặt lờ chứ nào tui có buôn bán chi đâu. Lần sau mua cá nhớ tui nghen.

- Tôi sẽ đi chợ mỗi ngày, ghé đây hay không tôi không dám chắc, nhưng nhớ chị thì tôi luôn nhớ.

Miệng tôi dẻo và dễ thương đến thế nên chẳng hiểuđào hoa nơi tôi do cái miệng hay phận số. Thực ra, tôi nhì nhằng với cô bé bán cá vì nhớ lời ông Tầm dặn cố ý làm quen hoặc để mọi người biết sự hiện diện của tôi nơi miền đất xa lạ này. Dẫu biết mình thuộc loại đào hoa nhưng được thấm nhuần nơi phong hóa, luân lý, và đạo đức chủng viện, tôi chưa bao giờ có dù chỉ là ý định hoặc ước muốn bôi bác hay khinh thường bất cứ ai, đặc biệt nữ giới. Qua nhận biết thực tại cuộc sống khó khăn, dân chúng nào sung sướng chi mà còn cực nhọc, khổ ải bon chen với cuộc sống; thêm vào đó được nuôi dưỡng lớn lên trong gia cảnh chẳng khấm khá gì nên phải đối diện với bao cảnh khó khăn sinh sống, tôi không muốn, bằng bất cứ giá nào, có thái độ hoặc hành động bất nhã với bất cứ ai.

Tôi miệt mài đọc cuốn Quân Vương ngay nơi phòng ăn sau khi cơm trưa xong. Cuốn sách phân định các loại thực tại thế cục dân sinh và quân quyền; đồng thời trình bày mưu chước, thái độ diễn xuất, và những phương án trị vì của bậc vua chúa trong những hoàn cảnh khác nhau. Nơi cuối sách được ghi lại vần thơ của Pétarque, “Đạo lý chống bạo tàn, võ khí sẽ sớm thành công tiêu diệt quân thù. Trí dũng cảm từ xưa vẫn có và còn mãi mãi trong người dân ta” (Le Prince; Quân Vương; Machiavell; Phan Huy Chiêm dịch; Quán Văn; Saigon; VN; Năm?; Tr. 190).

Tôi không hiểu ẩn ý ông Tầm muốn gì khi đưa tôi đọc cuốn này. Có bao giờ tôi thèm nghĩ tới làm ông nọ ông kia đâu. Trong văn chương người Việt có câu, “Làm quan có mả, làm kẻ cả có giòng.” Tôi được sinh ra trong một gia đình bình dân; gia đình nghèo nàn thuộc hàng dân dã thì lấy gốc gác nào, phương tiện nào, mà đòi leo lên vị thế này nọ trong cuộc đời. Đâu ai lạ gì, “Con vua thì được làm vua; con chú sãi chùa đành quét lá đa.” Dẫu biết rằng anh hùng không vị quá khứ nhưng vào thời buổi nhiễu nhương, xáo trộn, bất thường, và khốn khổ này, phải để ý từng lời nói, tránh vô tình làm nấc thang cho kẻ khác rình mò lấy điểm thì anh hùng đâu bằng miếng cơm hẩm khi lục tung cả nhà lên vẫn không kiếm được chút chi ăn cho sống người!

Dẫu nghĩ thế, nhưng tôi chỉ biết bụng bảo dạ, ít ra cuốn sách cũng giúp cho tôi tăng thêm nhận thức như một phần hành trang chuẩn bị cho quãng đường đời vô định đang trờ tới, hầu thản nhiên đón nhận những biến chuyển có thể bất ngờ mà không làm tôi sửng sốt, giao động. Dĩ nhiên, mọi sự, mọi việc đều có giá phải trả. Diễn tiến nơi giòng đời đâu phải tự nhiên bất thường xảy tới. Nếu không để tâm suy nghĩ, nhận định, những sự kiện “Cái xẩy nẩy cái ung,” ngỡ ngàng xảy đến biến thành tai bay vạ gió, có ăn năn thì cũng đã muộn. Vô tình, lơ là không chú ý coi chừng thì khi khốn khó ập tới, tìm đâu thuốc chữa bệnh hối hận. Đương nhiên, cuộc đời đâu thiếu người tốt lành, nhưng hình như nơi thành ngữ có câu, “Chân thành, năng nổ nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.” Nhiều sự việc trong cuộc đời xảy ra như thế, nhưng đâu phải thế. Sự đời đều có giá phải trả, và nếu không muốn phải trả với giá không hài lòng thì cần trả giá cho sự chuẩn bị hầu “Tránh voi đâu hổ mặt người.”

Xưa nay, nay xưa, tôi chỉ nghĩ mỗi người có một phận số; con vua thì được làm vua; bởi thấy lắm cảnh chẳng thuận lý, không hợp tình vẫn nhan nhản trước mắt. Chẳng khác gì nơi vần thơ Tản Đà có câu, “Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn, cho nên quân ấy mới làm quan,” trong cảnh, “Những người khố rách áo ôm, mồ hôi đổi lấy bát cơm no lòng” (Thơ Tản Đà; “Đời Lắm Việc;” Đồng Nai; VN; năm?; Tr. 133). Thật là khó thể chấp nhận nhận định, “Thằng dân ngu quá lợn,” mà có lẽ chỉ tại không biết, không nhận thức và thực hành, “Dân vi quý; xã tắc thứ chi; quân vi khinh.” Hai mươi mốt năm từ ngày Bắc vào Nam, dẫu được nuôi dưỡng trong gia cảnh bình dân, nhưng có bao giờ tôi phải đối diện với nỗi thương cảm khi thấy người người chung quanh bần hàn như thế này. Thực tế minh chứng, không phải cứ kiên thủ làm ăn, chắt bóp, cần kiệm, là có thể giầu có; mà chỉ những ai được sinh ra với số phận giàu có mới có thể giàu được. Kiên chí làm lụng, cần kiệm, chắc chắn sẽ không bị đói nghèo, chứ phận đã không được giàu có thì khi có tiền, rồi tiền cũng vì lý do nào đó ra đi; chả thế mà nói tiền bạc; tiền thì bạc bẽo nếu không được dùng như đầy tớ, phương tiện. Phỏng thời đại này, nơi đất nước này, vận số dân chúng đều toàn là phận nghèo, hay đất nước đến hạn vận long đong khốn khổ, đối nghịch nên “Quân ấy mới làm quan!”

Những gì được viết nơi cuốn Quân Vương đối nghịch nhận thức của tôi về vận số, phần nào đó khuyến khíchtâm trí đặt lại vấn đề hầu phát triển nhận thức suy nghĩ, để rồi quan sát, nhận định, và phát triển phương thức giải đáp đối diện với cuộc đời tùy thuộc hoàn cảnh. Nhờ cuốn sách này, tôi hiểu được câu, “Tầm thường và lòn cúi, việc gì cũng thành công” (Beaumarchain); trong khi, “Những vị quan giỏi là những người đầy mưu mánh.” Muốn có mưu mánh phải suy nghĩ, nhận định. Dĩ nhiên, con người đâu phải loài chim, nên sao có thể chấp nhận, “Hãy nhìn chim trên trời, không gieo vãi, gặt hái, không cất vào kho lẫm; mà Cha trên trời còn lo cho chúng” (Mt. 6:26). Đối với con người, không suy nghĩ, làm lụng kiếm miếng cơm, manh áo thì chỉ đi ăn mày, sống dựa vào sự bố thí của thiên hạ. Vào thời buổi gạo châu củi quế này, nhà nhà phải ăn bo bo vẫn chưa đủ no thì ăn mày chỉ còn cách cạp đất, vẫn không có đất mà cạp bởi đất của nhà nước.

Có điều lạ, đó là nghĩ quanh, nghĩ quẩn, mấy câu nói nghịch thường nơi sách đọc, mấy câu Phúc Âm cứ nhào vào tâm trí tôi khuấy động. Tại sao, có điều gì, tính chất gì liên hệ giữa Phúc Âm và những câu nói ngang ngược, kỳ cục này. Có lẽ, tại vì tôi được theo học nơi trường sở Công giáo, được nghe nhắc đi nhắc lại quá nhiều lần, lại có trí nhớ khá tốt nên những câu nói nơi Phúc Âm tương đương tính chất dễ dàng hiển lộ khi suy nghĩ chăng, nhưng nơi phương diện, tính chất nào, trạng thái, hay trường hợp gì? Điều gì, tính chất nào tương đồng giữa sự thể ăn mày, sống dựa, có thể liên hệ tới loài chim, chẳng phải khổ nhọc gì vẫn có sâu bọ làm thực phẩm vui sống qua ngày? Mới chỉ hôm qua và sáng nay mà đầu óc tôi muốn nổ tung lên. Thôi, hãy để đầu óc yên nghỉ suy tư, đi tưới rau.

Đặt lên vai chiếc đòn gánh bé bé xinh xinh hai đầu móc với dây cột đôi thùng “Ô doa” (thùng có làm thêm doa để tưới nước trên luống rau), tôi thầm nghĩ, những hạt cỏ cây sẵn đấy, những con sâu xanh mọng nơi hoa lá đấy nhưng chim phải kiếm tìm. Con người thì phải trồng tỉa, phân bón tưới nước. Công việc nào không là công việc mới có thể tiếp tục cuộc sống. Chim coi bộ không phải gieo vãi chi, nhưng cả ngày, cả đời đều chỉ lo kiếm tìm hạt cây cỏ, sâu bọ ăn cho no chiếc dạ dày. Ah, nếu không có những con chim kiếm tìm sâu làm thực phẩm thì sâu bọ sẽ ăn trụi hết luống rau, còn đâu cho con người chăm bón. Phỏng những con chim được nuôi dưỡng bằng những con sâu hoặc bông hạt cây cỏ, hay mang nhiệm vụ bắt sâu bọ làm hại rau cỏ? Một công đôi việc, vừa sinh sống vừa giúp ích, vậy mục đích của những con chim là gì? Chúng có bao giờ nghĩ đến mục đích cuộc đời của chúng không? Rồi những con muỗi, con gián, chúng có nhiệm vụ gì?

Đặt vấn đề mục đích cuộc đời của loài chim, tôi lại tự khúc mắc về mục đích cuộc đời của mình. Câu hỏi này không biết đã tự bao giờ nổi lên nơi tâm trí. Tôi được sinh ra, có cuộc đời để làm gì; sống để làm chi. Con chim, muông thú, lo kiếm ăn, truyền giống và chết đi từ thuở xa xưa. Con người cũng thế; quyền năng, giầu có, danh tiếng, rồi cũng đi vào quên lãng theo dòng thời gian năm này trôi theo tháng nọ. Ai cũng thế thôi, vào đời tay trắng và rồi ra đi cũng trắng đôi bàn tay. Còn chăng, tiếng tăm để lại; mà tiếng tăm nào có lợi ích gì, giúp gì khi thân xác đã chìm sâu dưới lòng đất. Cuộc đời là gì; sao tôi cứ cảm thấy điều chi khao khát chẳng khác ước mơ đuổi bắt trong tâm tưởng. Tôi khao khát điều chi, ước vọng nào cứ mờ mờ, ảo ảo trong tôi chẳng khác chi câu nói trong cuốn Lão Tử Tinh Hoa, “Người biết không nói.” Tôi biết tôi có ước vọng nhưng không phân định được ước vọng đó là gì nên chẳng thể nói được chi. Phỏng điều mơ ước mịt mù đó được cụ Nguyễn Duy Cần gọi là Đạo?

Cuốn Hành Trình về Đông Phương được Nguyên Phong dịch từ cuốn Life and Teaching of the Masters of the Far East, tác giả Baird Thomas Spalding, tôi đã có dịp đọc trong thời kỳ luyện thi tú tài hai. Tôi không hiểu sao tên đề bản dịch lại có vẻ như nói về hành trình thực nghiệm, phỏng đây là kiểu gây chú ý tới người mua (độc giả)? Tôi còn nhớ rõ, nơi phần lời tựa (Foreword), Blair T. Spalding đã viết, “I wish to state that I was o­ne of a sesearch party of eleven persons that visited the Far East in 1894.” Tôi không nhớ rõ đã đọc được từ đâu đó, ông Spalding, có nơi viết, được sinh ra tại New York, USA, vào năm 1872, nơi khác được viết ông sinh tại Anh quốc năm 1857. Ông qua đời năm 1953. Cũng theo lời tựa nơi cuốn bản tiếng Anh, tác giả nói cuốn sách ghi lại công trình biên khảo và gặp gỡ một số vị chân sư, “Masters,” khi ông cùng phái đoàn ghé qua Ấn Độ để nhờ họ thông dịch một số tài liệu từ những kinh điển đạo học của Ấn Độ.

Phần cuối của lời tựa nơi bản tiếng Anh, Spalding cho rằng, các vị chân sư bên Ấn chấp nhận Buddha tượng trưng phương pháp dẫn đến thức ngộ; đồng thời họ cũng công nhận đức Giêsu là vị thức ngộ hoặc được coi như đạt tới trạng thái tâm thức mà mọi người hằng ước mong đạt tới. Nơi câu kết, Spalding viết, “Đức Giêsu là ánh sáng chiếu rọi mọi tâm hồn, ánh sáng hướng dẫn mọi hài nhi sinh vào thế giới.” Không đọc được từ bất cứ nơi đâu để biết tác giả Spalding theo tôn giáo nào, nhưng dựa vào câu cuối của lời tựa, tôi nghĩ Baird Thomas Spalding theo Kytô giáo.

Cũng vui khi đọc được bản dịch này nơi tiếng Việt. Theo nhận định của tôi, sách được viết dưới quan điểm Tây phương, dùng những tài liệu biên khảo để ghép nối thành câu truyện diễn tả hành trình của một nhóm người đối diện với những sự thể, sự việc như thành quả nghiệm chứng được ghi chép. Gốc gác của những thành quả này được cho là thuộc về quyền lực tối thượng đang hiện diện và hoạt động mọi nơi, mọi chốn mà bình thường chúng ta không để ý hoặc không để tâm suy nghiệm. Một đôi nơi, tác giả dùng nhận thức vật lý để minh chứng nguồn năng lực của quyền lực tối thượng này thể hiện nơi cuộc sống của sinh vật.

Nơi một đoạn văn giải thích về sự di chuyển để sinh nở của loài nhệch (Lươn biển) trong bản dịch được viết, “Này các ông bạn, cá hồi (Salmon) sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán, nó bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như vậy? Loài lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermuda. Muốn đến đây một con lươn Âu Châu phải đi gần 4000 cây số, lươn Á Châu phải đi xa hơn có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con lươn con sinh ra tại đây không biết gì về sinh quán mà vẫn trở về quê hương xa xôi của cha mẹ chúng nó. Biết tìm về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam Dương. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn Ðộ và một con lươn giống Thái Lan không bao giờ đi lạc sang Phi Châu. Ai đã ban cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn?

Khi đọc bản in tiếng Anh, tôi cũng như mọi người, đọc để mà đọc, đọc để có thêm kiến thức, đôi khi nảy sinh nhận định và biết để mà biết. Mọi sự hiểu biết từ sách vở coi như chuyện ngoài tai. Thử hỏi ai không như thế! Chẳng hạn qua bốn năm học âm nhạc nơi chương trình trung học đệ nhất cấp, từ lớp đệ thất (lớp 6) cho tới lớp đệ tứ (lớp 9) ở Việt Nam thời trước 1975, quý vị đã biết được những gì về ngành nghệ thuật ấy, hay nếu ai thích và muốn học hay tự học đánh đàn dương cầm hoặc guitar đành phải mò mẫm lại từ đầu như chưa học gì. Nghe giảng giải về lý thuyết âm nhạc và thực tập, thực hành đánh đàn, áp dụng lý thuyết nơi thực hành đánh đàn là hai sự thể hoàn toàn khác biệt, chẳng khác gì nghe giải thích về lợi ích của thực phẩm hoàn toàn khác với hành động ăn uống.

Thế nên, có dịp đọc bản dịch Hành Trình về Đông Phương, nhất là khi đọc đoạn nói về cá hồi và những con nhệch (lươn biển) chưa kịp lớn, không biết gì về quê hương của bố mẹ chúng, nhưng chỉ mới cỡ sáu inches (8 cm), biết cắm đầu cắm cổ, một mạch bơi về quê cha đất tổ, tôi mới nhận ra tác giả muốn dùng sự việc nơi phương diện vật lý hiện thực của loài nhệch để minh chứng có một quyền lực đang hoạt động nơi những con cá hồi, nơi những con nhệch thơ dại, nơi tạo vật. Tôi cảm thấy có niềm vui nào đó nở rộ trong tâm tư, và cũng chính sự nhận thức này kéo tâm trí tôi liên tưởng đến sự thể mà cụ Nguyễn Duy Cần gọi là Đạo ở cuốn Lão Tử Tinh Hoa. Tôi tự hỏi, năng lực nào, quyền lực nào dẫn đưa những con cá hồi từ ngoài khơi biển mặn trở về nguồn nước ngọt thời được trứng nở ra để đẻ trứng? Năng lực nào, quyền lực nào dẫn dắt những con nhệch còn măng sữa trở về vùng quê hương, nơi bố mẹ chúng trưởng thành? Năng lực nào dẫn dắt những con chim biết bắt sâu bọ nơi cây cỏ, biết cặp đôi rồi để trứng, nở con, biết công mồi mớm con. Ah, có lần, khi còn đang đi chặt cây bán làm nhà kinh tế mới nơi Tân Hữu, tôi thấy được tổ chim di tuyệt vời, tuyệt vời hơn tác phẩm của bất cứ nghệ sĩ điêu khắc nào. Riêng tôi, năng lực, quyền lực nào kiến tạo nơi tâm tư nỗi thao thức mờ mờ, ảo ảo, khiến tôi cố kiếm tìm mà mãi tận lúc này vẫn chưa nhận biết.

Cái năng lực, quyền lực nào dẫn đưa cá hồi trở lại sinh quán, khiến những con nhệch chưa kịp lớn đã thuận theo bản năng, vượt hành trình ngàn vạn dặm đầy môi miệng của những kẻ săn mồi dưới nước để trở về đúng quê hương nơi bố mẹ chúng trưởng thành? Lời ca, cung nhạc của bản thánh ca “Đồng Cỏ Tươi” vang vọng đâu đây nơi tâm trí, “Đồng cỏ tươi, Chúa chăn cho tôi nghỉ ngơi, trên đồng cỏ non xanh rì; tôi nay còn thiếu thốn chi, vui thay mà cũng phúc thay!” (Thánh Vịnh 22). Đâu đây hiện về nơi Tục Ngữ, Phong Dao, dân Việt có thành ngữ, “Trời sinh voi, Trời sinh cỏ,” như dục giã tâm tư tôi để ý đến thực trạng hiện hữu nơi mình, danh hiệu của sự thể năng lực bẩm sinh đang hoạt động nơi tôi, nơi mọi người, nơi tạo vật mà dân gian và các tôn giáo mệnh danh bằng những danh hiệu khác nhau như Trời, Tạo Hóa, Thiên Chúa, Ông Xanh, Quyền Lực Hiện Hữu, v.v… Chính lúc này, câu Phúc Âm, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gioan 14:6), nhắc nhở nơi tâm trí, Thiên Chúa là sự sống; chính sự sống đang hiện hữu nơi tôi, nơi tạo vật, dẫn đưa những con cá hồi về sinh quán gốc, khiến những con lươn biển măng sữa biết tìm về quê hương bố mẹ chúng. Đã bao năm qua, danh hiệu Thiên Chúa hằng ngày được nhắc nhở bên tai mà tôi đã chẳng để ý; tôi sống nhưng không để tâm, không nhận biết sự sống nơi mình là chi, mà cứ coi đó là chuyện thường tình. Chính sự thường tình, bẩm sinh, đang hét vào tai tôi, hãy tỉnh thức, tỉnh thức nhìn lại bản thân hầu nhận biết thực thể hiện hữu của mình thực sự là chi!

Không hiểu sao, sự nhận biết này ảnh hưởng mạnh mẽ nơi tâm trí, liên miên ám ảnh, thúc giục tôi tìm tòi cho ra lý lẽ hoặc thực tại, sự thật nào, manh mối nhận thức cũng như sự liên hệ nào nơi suy luận, suy tư đã tạo nên kết luận mơ hồ về sự hiện hữu của mình; đồng thời tôi cũng cảm thấy ngỡ ngàng với chính mình; vì tại sao đã bao nhiêu ngày tháng, qua nhiều sách vở tôi đã đọc, không một tác giả nào nói lên được mục đích của đời người, mà chỉ phân tích, nói tới tham vọng, ước vọng ngắn hạn, rồi đưa đến diễn tiến, diễn trình vô cùng của ham muốn nhân sinh, đạt được mơ ước này thì lại chồng chất thêm thèm khát khác trờ tới, tạo thành động lực, cố gắng liên miên bất tận, thúc giục, lôi kéo con người lao công, mệt mỏi không ngừng nghỉ, trầm luân trong ham muốn hầu đạt được ước mơ. Hèn chi cụ Nguyễn Duy Cần nói tới “Huyền Đồng,” trở về thanh tĩnh, vô vi.

Tôi có tưởng tượng không? Albert Einstein cho rằng tưởng tượng quan trọng hơn kiến thức; vì kiến thức thì hữu hạn, và tưởng tượng thì vô hạn. Hèn chi ước mơ, ước muốn, tham vọng của con người trở nên vô cùng bởi chúng hàm chứa tưởng tượng. Ước mơ, tham vọng của tôi là gì? Mục đích cuộc đời của tôi là chi? Tôi được sinh ra để làm gì? Không biết tại sao mình có cuộc đời, không biết mục đích cuộc đời của mình là chi, chẳng hiểu nỗi thao thức trong lòng thực sự như thế nào thì biết sao mà tưởng tượng. Chính ngay cuộc sống còn bấp bênh, rày đây, mai đó, ngày ngày chỉ lo sao có được miếng cơm, manh áo cho qua, tương lai mờ mịt, không dám dầu chỉ nghĩ tới, thì tưởng tượng, ước mơ nào còn chỗ đứng. Tôi muốn gì, tôi phải thực hiện, phải làm chi? Những ý nghĩ, những câu hỏi mờ mờ ảo ảo cứ luẩn quẩn, dồn dập nơi tâm trí chẳng khác nào đám mây dày đặc, luôn cuồn cuộn giao động, quấy phá, thách đố tôi gỡ rối. Đầu mối đâu mà gỡ, gốc gác đâu để tìm!

René Descartes nổi tiếng với câu, “Tôi suy nghĩ nên tôi hiện hữu.” Hiện hữu để làm gì? Con chim, con muỗi cũng hiện hữu; mục đích của những sự hiện hữu là thế nào? Không hiểu có ai bị phiền hà bởi những ý nghĩ như tôi chăng? Tại sao cụ Nguyễn Duy Cần nêu lên điểm huyền đồng nơi Đạo Đức kinh? Sách vở nào nói lên mục đích của sự hiện hữu? Tại sao Descartes phải đặt vấn đề nhận biết sự hiện hữu của mình bởi nhận biết mình suy nghĩ. Sự suy nghĩ thuộc dạng vô hình; sự hiện hữu xác thân hữu hình. Sao lại phải dùng sự hiện hữu vô hình để xác quyết sự hiện hữu thân xác hữu hình mà không dùng ngược lại. Chẳng lẽ gốc gác của sự hiện hữu hữu hình bắt nguồn từ ý niệm, ý nghĩ, nhận thức, tưởng tượng vô hình. Quái, nghi ngờ sự hiện hữu của thân xác, vật chất chung quanh đến nỗi phải dùng ý niệm, ý nghĩ, chẳng thể đụng chạm, chẳng thể rờ tới được, để minh xác sự hiện hữu hữu hình, quả là kỳ cục, ngược đời. Như vậy, tôi là thế nào, tôi có hiện hữu hay không? Thân xác, cuộc đời của tôi là gì? Mấy cái ông “triết da, triết thịt” này chỉ bới bèo ra bọ; thế sao họ được người người thán phục, coi trọng? Coi trọng vì lý do gì? Vì họ đã bày ra được điều kích thích người khác suy nghĩ, đặt vấn đề, cho dù những vấn đề đó không đem lại miếng cơm manh áo cho bất cứ ai? Sao suy nghĩ lung tung thế, tôi tự hỏi để rồi tự nhủ, còn mười mấy cuốn khác và một tập bản thảo nữa, hãy đọc cho hết rồi tính.

Thoạt tiên, khi nhận tập sách, tôi thầm tính chỉ nội trong một tuần là sẽ đọc hết, nhưng chỉ mới ngày thứ hai, dẫu đã đọc qua được bốn cuốn, Lão Tử Tinh Hoa, Cái Cười của Thánh Nhân, Quân Vương,Hành Trình về Đông Phương, tôi đã bị tối tăm mặt mày; nhiều vấn đề được khêu gợi lên trong tâm trí mà vẫn chưa có lời giải đáp. Nhưng tại sao khi ông Tầm trao sách cho tôi, ông lại nhấn mạnh cách đọc, “Tôi nhắc lại, đọc sách không giống như đọc truyện giết thời giờ mà thực nghiệm những gì có thể được viết nơi sách vô bản thân.” Lăng quăng nói về vấn đề âm nhạc, sao ông có thể bới ra cơ cấu công thức của hợp âm trưởng, sự khác biệt giữa hợp âm trưởng và hợp âm thứ, nguyên tắc nhận ra hợp âm chính và phụ của bản nhạc không cần nhìn nốt cuối, chỉ cần biết “Khóa nhạc.” Ông đưa mọi thứ vào thành công thức, điều mà tôi chưa bao giờ để ý. Có lẽ tôi phải để tâm phân tích và sắp xếp những kiến thức, nhận định thành hệ thống cho dễ dàng phân định.

Đọc cuốn Phật Học Tinh Hoa, cố gắng để ý xem tinh hoa của Phật học là gì, nhưng tôi chỉ thấy những lời giảng giải về lịch sử, cơ cấu, quan niệm, chủ thuyết, cũng như quan điểm, nhận định của tác giả về Phật giáo. Chẳng hạn, đời sống của Thích Ca, điều kiện tinh thần của người học Phật, kinh điển Phật giáo, giáo lý Tiểu thừa, Đại thừa, Duyên sinh quan, quán nọ hàng kia, trí huệ, “hữu vi” thật giả, niết bàn niết ghế. Cuối cùng, ngay trước phần Thập Ngưu đồ, cụ Nguyễn Duy Cần phán,

“Bậc thánh” trên các bậc thánh, dù họ có hi sinh cả nghìn lần những gì quý báu nhất của đời họ, có hi sinh cả tính mạng họ cho nhân loại, cho một đấng thiêng liêng cao cả nhất của họ... họ cũng vẫn bị mãi giam hãm trong con đường luân hồi sinh tử nếu họ không hiểu rằng tất cả cái đó, thực ra chỉ là những trò chơi con trẻ, những thứ “mộng, huyễn, bào, ảnh” do chính “hành tướng” của mình tạo ra và phóng lên bức màn vô tận của Hư Không! Có đúng với câu nói này của một vị thiền sư: “Đừng nghĩ đến Thiện, cũng đừng nghĩ đến Ác, thì trong lúc đó mới hiện tỏ ra được cái “Bản lai diện mục” của mình thôi”. Và “Chỉ thiên một chút thôi bên thiện hay bên ác, cũng đủ làm cho mặt biển Chân Như nổi sóng, cả Trời Đất sẽ bị phân chia và chênh lệch.” (PHTH; N. D. Cần; Đại Nam; CA, USA; năm?; Tr. 280).

Giời! Thế cái tinh hoa của Phật học là cái gì? Những lý thuyết, chủ thuyết, quan điểm, quan niệm, khuyên nhủ, khuyên răn, v.v... nào thiếu gì nơi cuộc đời này mà lại lấy chúng, chép cho đầy sách và cho là tinh hoa. Có lần đọc được cuốn Pháp Bảo Đàn kinh, lục tổ Huệ Năng dạy chỉ một câu mấu chốt, và đó là, “Kiến Tính thành Phật,” không hơn không kém, chẳng đảnh lễ, cúng kiến, niết bàn niết chiếu chi ráo trọi. Nhưng kiến tính là thế nào, cần điều kiện gì, phải kiết già, kiết non, ăn chay, ăn mặn, một vợ, hay năm bảy chồng, ngày ấy tôi, cũng như bao người, đâu thèm để tâm tìm hiểu, chỉ đọc như con khỉ ngó sách thì nào lãnh hội được chi. Quả là tốn giờ đọc cuốn Phật Học Tinh Hoa, hao tổn tâm trí theo dõi, lại nhét đầy mớ lý thuyết, chủ thuyết, quan niệm rác rưởi hữu vi, nhân sinh vô đầu óc khiến đáng thương cho cái cổ ngoan hiền tìm hiểu của tôi.

Ủa, mình đọc sách hay phê bình sách đây? Tôi tự hỏi. Tác giả viết sao thì đó là chuyện của họ; mình đọc, hiểu biết, và thực hành thế nào là chuyện của mình, mắc mớ chi mà bực bội. Nhưng uổng phí thời giờ, thà vung chân, múa tay luyện võ còn lợi ích hơn; không hiểu sao ông Tầm lại khuyến khích đọc loại sách vô bổ này; tôi quạo với ông Tầm trong tâm tưởng nhưng thanh lịch đủ để không lên tiếng chi.

Lục lọi nơi chồng sách, kiếm xem có cuốn Pháp Bảo Đàn kinh chăng, nhưng nào thấy, tôi âm thầm cố lục lọi tâm trí xem phải thế nào mới có thể kiến tính. Lục tổ Huệ Năng còn nhắc tới “Bổn lai diện mục.” Kiến Tính, nhận biết bổn lai diện mục, đối diện thực thể hiện hữu chính mình; thân xác chỉ hiện hữu trong giai đoạn thời gian, nhưng so với diễn tiến biến chuyển vô cùng của hiện hữu thì thân xác, cuộc đời một người bị coi là giả, có đó rổi mất đó, ngàn năm trước là có, giờ là không vì chẳng còn hiện diện nơi thế giới hữu hình. Hiện giờ là có, là hiện hữu, nhưng ngàn năm sau lại cũng chỉ là không; được gọi là không vì không còn thấy được nơi thế giới hữu hình, vật chất, nhân sinh.

Vậy “Tính, Bổn lai diện mục” nơi tôi là gì mà phải kiến, kiến bằng cách nào? Theo lý thuyết nhân duyên, nhà Phật cho rằng mọi sự, mọi vật đều do nhân duyên mà sinh ra, mà có hiện hữu. Duyên hợp thì thành, thì sinh; mà duyên tan thì diệt, thì biến mất. Thế sao lại phải kiến tính. Tính là cái gì, cái bổn lai diện mục; bổn lai diện mục là thứ gì bởi khi duyên tan thì chẳng có chi? Hừ, luẩn quẩn, huyền mị; không biết thì nói không biết, chỉ tưởng tượng “lý gio, lý trấu” rồi thuyết giảng điều mình không biết. Vô ngã, hữu ngã! Nếu quyển sách, những dòng chữ, là vô ngã, thì tư tưởng chứa đựng trong đó hữu hay vô? Đọc sách cho qua, tưởng là biết mà thực ra chẳng biết gì, không áp dụng, thực hành nơi bản thân, không nhận thức được sách viết về chuyện gì đang diễn tiến nơi bản thân thì đọc làm chi, tổn giờ, phí sức, quả là đọc cũng như không, vô bổ. Mà nếu duyên hợp thì có, duyên tan thì diệt, sao lại bày ra cúng, kiến, sao có thể hy vọng, ước mơ, cầu, khấn?

Phật là người thức ngộ hay là tâm thức ngộ? Tâm là phật; phật là tâm; sao lại còn nói phật tại tâm. Nói rằng phật tại tâm là đã có phân biệt tâm và phật. Vậy nếu kiến tính tức là nhận ra tâm là phật, là Chân Như, thế thì cần chi phải nói đến nhân duyên. Thử hỏi, bày ra thuyết nhân duyên để mua vui thiên hạ hay tự lừa đảo? Nếu đã kiến tính đâu cần thiền, sao lại bới ra Sáu Cửa Thiền Thất? Nơi phần “Trước Khi Vào Cửa Động,” Trúc Thiên viết, “Thiền đứng riêng một khung trời cùng tuyệt, chủ trương chỉ thẳng vào nơi tánh, thấy thẳng tự nơi tâm để tức khắc thành Phật.” Một lục tổ Huệ Năng, “Ngồi nhiều sinh bệnh” nên cần hành thiền. Hành thiền tức là thiền bất cứ lúc nào, trong khi làm việc hoặc vui chơi, giải trí, lúc rửa bát, quét nhà, hay nấu ăn, luyện võ. Bởi đó hành thiền cần định tâm, và định tâm có nghĩa, làm gì thì làm, chơi gì thì chơi nhưng tâm trí luôn luôn để tâm hướng về kiến tính, và kiến tính tức là đối diện tính, đối diện tâm Chân Như, nhận chân, nhận thức mình là phật, là hiện thể của Chân Như. Đã thế sao còn bày ra sáu cửa; đúng là bới bèo ra bọ! Và rồi lại chia thêm người và nghiệp. Phỏng người là do nhân duyên tạo nên? Vậy cớ gì nói người tạo ra nghiệp, mà không nhận biết nhân duyên tạo ra nghiệp. Người đã là vô ngã phỏng vô ngã kiến tạo hữu ngã là nghiệp. Người đã vô ngã tất nhiên không thể tạo nên nghiệp thì làm gì có báo? Thế nghiệp báo ở đâu ra? Luẩn quẩn, không hợp lý, chẳng hợp tình! Cứ tưởng tượng bày ra rồi lại tự oánh nhau với tưởng tượng, trận chiến vô cùng tại tâm!

Ah, vô ngã là thực thể hay nhận thức. Nếu vô ngã là thực thể thì hữu ngã chính là trạng thái thiếu nhận thức; thiếu nhận thức về bản lai diện mục, về tính, về thực thể hiện hữu nơi mình. Như vậy, thiền cũng chỉ là suy tư, là suy nghĩ để kiến cái tâm, kiến bản lai diện mục, kiến thực thể hiện hữu nơi mình, nhận thức, nhận biết thực thể hiện hữu nơi mình. “Ta là phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành,” Muốn thành phật thì vẫn là dục; thế nên kiến là đối diện; định tâm đối diện tâm phật. Tâm là phật, phật là tâm sao lại gọi là tâm phật? Phỏng đó là nói lắp bởi còn phân chia tâm trí và tâm phật thì còn lệ thuộc hữu vi, bản ngã, phân biệt. Thử hỏi, không phân biệt, không suy nghĩ, không nhận biết, nhận định sao có thể nhận thức, sao có thể ngộ? Mấy con chó, con mèo còn biết phân biệt chủ của nó với những người ngoài; mà con người nếu không phân biệt, không nhận thức, không suy nghĩ để nhận biết đâu là tâm trí, đâu là tâm phật thì sao có thể kiến tính.

Tính nơi mình là gì mà “Kiến tính thành phật?” Thiền cũng chính là kiến sao lại còn chẻ sợi tóc làm tư, lại bới thêm sáu cửa, bẩy cửa mới có thể thấy tự tánh, thấy tâm, mới nhận thức được tính, được bản lai diện mục? Vậy, theo thiền, cái tâm phật nơi tôi là gì?

Nơi phần cuối của lời tựa “Trước Khi Vào Cửa Động,” dịch giả Trúc Thiên nêu lên kết luận, “Nhưng thôi, khỏi cần vào sáu cửa. Ta chỉ vào bất cứ một cửa nào đó thôi, tùy theo duyên cảm. Sáu cửa đều trổ về một cửa. Một cửa bao hàm luôn sáu cửa. Nhưng vào, xin nhớ ra. Ðó là điều tối cần. Nếu ra không được thì cửa nào cũng là cửa tử. Còn ra được thì sao? Không biết. Xin để cho người biết – hòa thượng Phật Quả Viên Ngộ – lên tiếng nói: “Chư Phật chẳng từng xuất thế, củng không một pháp trao cho người. Tổ sư (Ðạt Ma) chẳng từng qua đây, cũng chưa hề lấy tâm truyền thọ. Bởi người đời nay không rõ nên mảng lo cầu ngoài. Sao không biết tự dưới gót chân mình chặt đứt hết đại sự nhân duyên, hiền thánh đừng dính níu? Chỉ nên như ta nay thấy mà chẳng thấy, nghe mà chẳng nghe, nói mà chẳng nói, biết mà chẳng biết. Cầu gì mới được chứ?” “Kiến tính thành phật,” chẳng khác gì bất kiến bất thành! Đã là phật thì kiến mà chi, thành cái gì!

Mình đã đọc cuốn này và tạm dịch tên đề của nó là “Cuộc đời muôn chiều hướng” rồi mà; tôi thầm nghĩ, nhớ lại đã đọc nó nơi bản tiếng Anh, khi lật trang đầu tiên cuốn, Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời,” thấy ghi tên dịch giả Nguyễn Hữu Kiệt của bản tiếng Anh, Many Mansions, tác giả Gina Cerminara. Không hiểu sao ông Tầm muốn mình đọc cuốn này. Đại khái, tác giả cuốn sách này nói về khả năng đi vào giấc ngủ thôi miên của ông Edgar Cayce, tìm về kiếp trước của người khác để nói lên lý do hay nguyên nhân hiện trạng bệnh tật của họ; đồng thời cho lời khuyên nên chữa trị bằng cách nào hoặc dùng thuốc thang chi, nhưng đặc biệt nhấn mạnh về sự điều chỉnh tâm trạng, thái độ trong cuộc sống khi liên hệ với người đồng loại. Nơi phương diện tâm linh, tác giả viết, “Linh hồn con người trải qua nhiều kiếp sống và được tiến hóa thông qua những cơ hội học hỏi kinh nghiệm từ đời sống. Con người thâu thập kinh nghiệm trong cuộc sống và tích lũy nó trong tâm thức, rồi mang theo những điều đó vào những kiếp sống tiếp theo sau đó.”

Tôi theo đạo Công giáo, lại được dưỡng dục, cũng như theo học dưới nền giáo dục Công giáo, đặc biệt nơi tiểu chủng viện nên chỉ hơi ngỡ ngàng khi đọc cuốn Many Mansions nơi bản tiếng Anh, nhưng không dám nói năng gì hoặc chia sẻ với bất cứ ai. Dẫu mục đích đọc sách chỉ là trau dồi thêm ngôn ngữ, nhưng kiến thức cũng được mở rộng cho dù không chút cố gắng tìm hiểu. Hơn nữa, được dạy dỗ, “Chúng ta phải tin với giáo hội,” luôn luôn khuôn mẫu tâm trí tôi suy nghĩ trong giới hạn những gì phải tin; ngoài ra, tất cả đều chẳng nên để ý, nếu không muốn nói, những gì không giống được dạy, được nghe giảng giải, đều thuộc về ma quỷ. Thế nên, những quan niệm kiếp trước, kiếp sau, luân hồi, hoặc nghi lễ cúng kiếng, vái lạy, ngay cả đồ cúng cũng bị tuyệt đối không đụng đến. Tôi là người Công giáo mà.

Dĩ nhiên, mê đọc sách, lại có trí nhớ đồng thời theo ban C thời trung học, bản dịch này giúp tôi học hỏi được nhiều ngôn từ tiếng Việt khá chính xác hơn; vì khi đọc nơi tiếng Anh, tôi hiểu nhưng loạng quạng diễn giải bằng tiếng Việt. Mặc dầu sách nói về luân hồi và những hệ quả của lối sống lệ thuộc luân lý, đạo đức nhân sinh liên hệ đến cuộc đời con người, và cho dù rất khác biệt với niềm tin được dạy dỗ của tôi, nhưng, tâm tính thanh niên mà, tôi nghĩ, nếu đã là sự thật thì dù tin hay không, sự thật vẫn là sự thật; biết thêm kiến thức, chẳng bổ đàng nọ cũng bổ đàng kia; cuộc đời này thiếu gì chuyện nghĩ rằng không thể nhưng đã có thể, đã là hiện thực, thì tin hay không trở thành vô nghĩa.

Tự hỏi, vậy kiếp trước của tôi đã như thế nào, những gì được viết nơi sách không soi sáng cho tôi chút chi, dù chỉ mơ hồ. Có điều, những lời khuyên, lời nhận định của tác giả chẳng khác gì sự cảnh cáo khuyến khích cũng như cảnh tỉnh tôi nên có cuộc sống ý thức hơn dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh, và biết mở rộng lòng cảm thông với những người chung quanh, tránh soi mói, phân biệt, hoặc xét đoán theo nhãn quan hạn hẹp của mình. Tôi đâu sợ bị phạt; bởi nghĩ, không nhớ đọc nơi đâu câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu” (Lão). Trong Phúc Âm thì lại có câu, “Vì Ngài sai mặt trời soi sáng trên kẻ tốt cũng như người xấu, và làm mưa trên kẻ ngay cũng như người ác” (Mt. 5:45). Lấy con dao cứa vào tay mình rồi cầu khẩn đấng nào đó giúp mình không cảm thấy đau, thì nó vẫn đau. Thưởng phạt, hậu tính, hãy cứ sống tốt lành sao cho không áy náy lương tâm là được. Đời này lo chưa xong, mắc mớ chi đời sau, chỉ vẽ chuyện. Nghĩ thì nghĩ thế, nhưng đâu phải dễ chi viết được một cuốn sách, và mắc mớ gì hao tổn tâm lực mò mẫm tìm kiếm tài liệu này, sự việc kia, rồi giờ giấc căm cụi viết lên những điều vô ích, tôi chỉ biết tâm phục, khẩu phục tác giả đã đổ công sức và nhận thức kiến tạo tác phẩm để lại cho đời.

Tin hay không những điều tác giả đã viết ra, tôi không đặt thành vấn đề. Đối với tôi, có thể áp dụng những gì được nói đến mới quan trọng. Cho rằng điều này tác giả viết đúng, điều kia không hợp, sự nọ khiến mình cảm thấy vui, hoặc bực mình tức là đã tự biến mình thành thùng rác ngu xuẩn, chấp nhận để kẻ khác quăng vô bất cứ thứ gì, dẫu quý giá đến đâu đối với họ nhưng đã trở thành độc hại, phiền hà chính mình. Cho rằng đọc để tăng kiến thức, thử hỏi, tăng kiến thức để làm chi nếu kiến thức đó không được suy nghĩ, nghiệm chứng nâng cao nhận thức nơi mình. Nghe ai đó kể lại, họ sụt sùi thương cảm nhân vật trong câu chuyện nào đó phải đối diện với gia cảnh, trường hợp nọ kia, tôi im lặng nhưng cảm thấy thương hại, hối tiếc cho sự mất mát vô lối, lãng phí thời gian, trầm mình vô tâm tưởng nô lệ tàn phá tâm tư. Uổng, chẳng những lãng phí thời gian mà coi chừng còn ảnh hưởng tai hại đến tâm tư, nhận thức, tự biến mình thành kẻ mộng du quái đản.

Tuy nhiên, đối với những cuốn sách thực nghiệm, được tác giả kể lại những sự thể, thực trạng tâm tưởng, hiện trạng được chứng thực qua biên khảo hay kinh nghiệm nơi diễn trình cuộc sống khiến độc giả, hoặc thách đố họ suy nghĩ, nghiệm chứng hầu tăng thêm nhận thức làm tươi đẹp cuộc đời, ít nhất nơi chính họ, tôi chân thành cảm phục. Dĩ nhiên, kết quả mà người đọc nhận được lại tùy thuộc chính họ. Đọc sách để giết thời giờ, đọc để mà đọc, đọc như không đọc, có lẽ độc giả loại này chưa bao giờ, hoặc không thể nghiệm được câu, “Người làm không hết việc; kẻ giết vẫn thừa giờ.”

Nói cho đúng, nếu đừng cho tôi là lộng ngôn, nhà Phật có câu nói hình như đã mấy trăm năm, “Thời mạt pháp.” Tôi không thuộc tín đồ Phật giáo nhưng cứ bị lời phát biểu này đánh động tâm tư. Tôi không hiểu câu nói “Thời mạt pháp” mang nghĩa phương pháp, phương cách trình bày, diễn giảng, hay giảng giải các pháp không chỉnh hoặc không thực dụng, hay các pháp bị hiểu dưới quan điểm thế tục thiếu nghiệm chứng hoặc thiếu thực chứng. Tất nhiên, tự thuở ban đầu, vị xướng lên câu nói này hình như không muốn đụng chạm đến tín đồ, và những vị quảng bá, triển dương, rao giảng, nên đổ tất cả phiền hà, thiếu sót nơi “Pháp.”

Dẫu nhà Phật có lục tổ Huệ Năng, không biết ngay cả ký tên của mình thế nào; nhà Ấn có RamaKrishna, chỉ mới học đến lớp tư trường làng, mà một trở thành tổ thứ sáu của nhà Phật, vị khác trở nên một vị thánh được tôn sùng qua bao thời đại; thì nói rằng pháp mạt hay mạt pháp, đổ lỗi cho pháp, hoàn toàn không hợp lý, chẳng hợp tình chút nào. Từ ngàn xưa, có pháp nào dạy, diễn giảng, chỉ bảo người mẹ phải thương yêu, chăm sóc, lo lắng cho đứa con mình sinh ra thế nào đâu! Nhìn, hay nghĩ về thực thể sự thể này, ai cũng nhận ra một điều, và đó là, cứ đối diện với sự thể, sự việc, con người sẽ nhận biết, nhận thức, sẽ ngộ được nên thế nào. Pháp nào dạy cho người mẹ thương con phải suy nghĩ ra sao, phải nhận thức thế nào mà nói pháp mạt hay mạt pháp? Pháp là kết quả, thành quả của diễn trình suy nghĩ, suy tư, nghiệm chứng, thực chứng được ghi chép lại. Tất nhiên, người ăn được ớt thì thấy ớt ngon; kẻ không ăn được ớt mà lỡ nhai phải miếng ớt sẽ thấy thế nào, người trong cuộc tự biết. Pháp thì cũng thế! Tin hay không, thực hành, thực nghiệm mới biết. Đọc để mà đọc, đọc giết thời giờ, chỉ tự biến mình thành thùng rác!

Tuy nhiên, đâu phải phi lý mà nơi Phúc Âm có câu, "Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13; Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn). Sở dĩ tôi nhớ chỉ vì câu này đã làm phiền tâm trí tôi mấy tháng. Các ký lục và Biệt Phái là những người được học hành, đào luyện để thi hành nhiệm vụ rao giảng lời Kinh Thánh, lề luật, hướng dẫn dân Chúa nhận biết, tôn thờ, chính chủ thể sáng tạo vũ trụ và con người. Tại sao họ bị kết án nặng nề vậy? Rao giảng Kinh Thánh thì không có gì được gọi là sai với đúng vì họ được đào luyện với mục đích đó.

Nhân một hôm, thắc mắc sao có thể áp dụng câu Phúc Âm, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không xứng với Ta” (Mt. 10:37). Tôi đặt vấn đề, nếu cho rằng, Phúc Âm là lời rao giảng của đức Giêsu, vậy chẳng lẽ đức Giêsu khuyến khích người ta nên bất hiếu? Chính ngay luân lý còn khuyên dạy chúng ta, “Ơn ai một chút chớ quên; phiền ai một chút để bên dạ này,” mà Phúc Âm lại là lời Chúa sao khuyến khích chúng ta bất hiếu? Sao dạy chúng ta đối nghịch với giới răn, “Thứ bốn, thảo kính cha mẹ?” Tôi chỉ đặt vấn đề để phản biện, hầu có thể áp dụng lời dạy khôn ngoan trong cuộc đời của mình.

Chẳng rõ đã qua bao ngày tháng, tâm trí bị phiền hà; vì câu nói nghịch thường này cứ luôn lởn vởn trong tâm trí. Một hôm, nơi một bài nghị luận, tôi đọc được mấy câu Tục Ngữ, “Liệu bò đo chuồng; liệu cơm gắp mắm,” “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng;” bình luận tới lui, ngược xuôi, và nơi cuối bài viết, tác giả kết luận với câu Ca Dao, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa,” đầy vẻ chua chát, bất mãn. Đại khái, tác giả nêu lên ẩn ý luân lý, cách sống, thái độ hàm chứa nơi Tục Ngữ, Ca Dao, và phê bình cũng như cười cợt thái độ nhận biết theo nghĩa từ chương của những vị mang danh học giả, học thiệt, mình đầy kiến thức nhưng chẳng khác chi những con vẹt thiếu bộ óc người, cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân chẳng khác gì kẻ tuyên truyền con ba ba là con trạnh hay con rùa.

Tất nhiên, là người Việt, ai không hiểu câu, “Liệu bò đo chuồng” nào nói chi đến bò hoặc chuồng bò; cũng như, “Liệu cơm gắp mắm,” đâu mắc mớ gì tới mắm, tới cơm, hoặc, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,” chẳng liên hệ tới ăn, tới nồi, phương chi ngồi và hướng. Thế nên, tác giả kết luận một số người mang học vị này nọ, thiếu suy nghĩ, nghiệm chứng nên rao truyền, tuyên truyền điều mình không biết bằng câu Ca Dao nói lên cảnh nực cười, thiếu hiểu biết.

Suy nghĩ, phân tích một chút, tôi nhận thấy Tục Ngữ, Ca Dao trình bày theo kiểu ám định, nói đàng nọ, ý chỉ đàng kia, chẳng khác gì, “Sấm đàng đông, động đàng tây; tuy rằng nói đấy nhưng đây động lòng.” Tục Ngữ, Ca Dao dùng sự vật, sự việc bình thường, dân quê, ám định về thái độ, cách ăn, nết ở, phương cách sống, của một người nơi phương diện luân lý, đạo đức xã hội; chẳng hạn, “Khôn ngoan ở chốn nhà bay; dù che ngựa cưỡi, đến đây cũng hèn.” Câu lục bát khuyên nhủ về thái độ, cách liên hệ trong cuộc sống của một người nơi đồng đất lạ.

Thế lời kết án nơi Phúc Âm ám chỉ về điều gì nơi công việc rao giảng, cầm cân nảy mực theo lề luật của giới ký lục và Biệt Phái, mà nặng nề, thâm trọng qua phát biểu, “Khốn cho các ngươi?” Có lẽ không còn lối nói nào nghiêm trọng hơn? Tôi được dạy, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Gioan 3:16); trong khi chính đức Giêsu lại nặng nề kết án những người mang nhiệm vụ, rao giảng, truyền bá lời Chúa nghiêm trọng như thế? Nơi phương diện nào, cách nào, sự rao giảng trở thành, “Khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào?” Phỏng, bằng cách diễn giảng, diễn nghĩ, giải thích, giải nghĩa, rao giảng con ba ba thành con trạnh hay con rùa!

Ah, kể ra tôi cũng khá thông minh, nhờ suy nghĩ, đặt vấn đề, so sánh, dẫn tới nhận định, nên đã có thể biết được lý do, nguyên nhân tại sao ký lục và Biệt Phái bị lên án một cách thâm trọng như thế. Lời Kinh Thánh nói ám định về tâm linh, về tâm tình, nhận thức, diễn trình suy tư, nơi tâm trí con người. Các ký lục và Biệt Phái diễn dịch, giảng giải theo nghĩa từ chương dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục. Làm sao chấp nhận kẻ bất hiếu có thể là người công chính trong khi giới răn dạy, “Thảo kính cha mẹ.” Vậy thì, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta” mang nghĩa gì, ám định điều chi nên được cho là, “Không xứng với Ta?”

Nơi Ca Dao có câu, “Yêu ai, yêu cả đường đi; ghét ai, ghét cả tông chi, họ hàng;” hoặc, “Yêu nhau, cau bảy bổ ba; ghét nhau, cau bảy bổ ra làm mười.” Yêu thương thuộc tâm linh, tâm tình, nhận thức, tâm cảm, tâm trí, được tỏ bày bằng thái độ hiến thân, theo đuổi, suy nghĩ, tư duy, ước muốn, ý định, ý nghĩ, tham vọng, ước mơ, dồn hết năng lực lệ thuộc, hay phù trợ đối tượng. Dĩ nhiên, một người ước mơ, ham muốn, hay có tham vọng về điều gì thì sẽ dồn hết năng lực, tài lực, đam mê để đạt thành, thực hiện điều đó. Hèn chi Phúc Âm cũng có câu, “Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (Mt. 6”21). Tự xét lại lòng dạ mình, tôi thấy câu nói không chỉ về gia sản hoặc tài lực mà kho tàng ở đây có nghĩa ước muốn, ước mơ, ý định, tham vọng. Bởi đó, câu này cần được hiểu là, “Ước muốn, ý định, hay tham vọng của anh ở đâu, thì lòng dạ anh ở đó.” Từ sự nhận thức này, câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta,” có nghĩa “Kẻ có ý định, ước muốn bất cứ điều gì hơn Ta, không xứng với Ta.” Câu nói về diễn trình suy nghĩ, suy tư, diễn trình tâm thức, nhận định, nhận biết về Thiên Chúa. Hèn chi Phúc Âm có câu nói mang đầy vẻ kỳ cục, nghịch thường, “Hãy coi chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, và Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao?” (Lc. 6:26). Không suy nghĩ, nghiệm chứng, nghiệm xét sẽ rơi vào trường hợp, “Chân thành, năng nổ, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại,” bị lên án không oan chút nào. Nơi trường hợp cá nhân, không suy nghĩ, chỉ nguy hại cho chính mình. Nếu đứng trong vị thế rao giảng, tai hại muôn người; thay vì khuyến khích người ta suy nghĩ để thăng tiến nhận thức lại chôn vùi nhân sinh nơi vòng luẩn quẩn thế tục bị nhà Phật gọi là vô minh.

Tôi phải suy nghĩ để nhận định điều gì, sự thể, sự việc nào cần được chú ý và cần được áp dụng ở phương diện, trạng thái nào nơi cuộc đời mình? Cuốn Lão Học Tinh Hoa thách đố nghiệm chứng, suy tư câu “Người biết không nói; kẻ nói không biết.” Bỏ lối suy nghĩ hữu vi, đối đãi, theo quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh là suy nghĩ thế nào? Hành Trình về Phương Đông nêu lên thực thể, quyền lực hiện hữu tối thượng đang hiện diện và hoạt động nơi mọi sự. Lục tổ Huệ Năng nơi nhà Phật đoan quyết, “Kiến tính.” Cái Cười của Thánh Nhân diễu cợt, chê tôi thiếu suy nghĩ thâm trầm. Cuốn Quân Vương khuyến khích nên suy nghĩ, nhận định, và tính toán cặn kẽ từng phương diện hầu nhận biết phương cách nào nên thực hiện khi đối diện với những biến chuyển của cuộc sống. Những Bí Ẩn của Cuộc Đời thách đố tôi nhìn lại để nhận biết khả năng nơi mình ra sao và nên có thái độ sống thế nào, nhưng sao có thể biết? Sáu Cửa Thiền Thất đòi hỏi suy tư, dùng hoạt động tâm tưởng để nhận thức thực thể thực sự mình là ai.

Tôi đọc sách rất nhanh nhưng mấy ngày này lại càng lúc đọc càng chậm. Đọc chậm vì vừa đọc vừa suy nghĩ hầu nhận biết những điều được nêu lên trong những trang sách nói gì, ám định gì về diễn biến suy tư hoặc tâm trạng nơi tôi. Tôi đọc sách, nhưng thực ra, tôi đang quan sát những hiện trình, đang đối diện với tâm trạng, sự thể thực tại nơi mình ở phương diện nào đó. Thời gian vùn vụt trôi; mới đó mà đã trưa, chưa kịp phân định liên hệ nhân duyên và nhân quả thì chiều đã ập tới.

Tại sao lại có quan niệm duyên chỉ là gặp gỡ, nợ mới nên vợ chồng. Duyên hợp thì phát sinh sự việc, sự thể; duyên tận thì mọi sự tan; vậy nợ ở đâu ra. Luân hồi bắt nguồn từ bất tử; nếu mọi sự đều do duyên hợp tan thì sao có bất tử. Như vậy, lý thuyết nhà Phật chỉ nói về biến chuyển của sự vật, sự thể. Luân hồi gốc gác từ Ấn học, bởi Atman là một phần của Brahma, bất tử, nên mới có hành trình thăng tiến nhận thức qua tái sinh, luân hồi. Nhà Phật không có tái sanh; đạo Phật mượn tạm luân hồi, tái sanh bên Ấn học dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh và tâm lý e sợ khổ ải hữu vi trong diễn trình quảng bá, triển dương tôn giáo. Ôi cái tội độc nhất vô minh Đạt Ma sư tổ mệnh danh sao mênh mông thế! Càng quảng bá, càng vô minh, thay vì khuyến khích con người suy nghĩ hầu phát triển nhận thức, người ta lại cứ ngăn chận, ăn cướp cơ hội của chúng sinh bằng cách rao giảng, nhồi nhét quan niệm luân lý, đạo đức hữu vi, nhân sinh, hèn chi bị Phúc Âm lên án.

Chiều nay tôi định nấu phở nên buổi sáng đi chợ, mua miếng sườn heo nhỏ, miếng thịt bò, nếu ông Tầm muốn ăn phở tái. Ghé qua hàng rau rợ, mua ít giá, nơi vườn nhà đã có ngò gai, húng quế, ngổ (ngò ôm), tía tô ta, tía tô Nhật. Tôi không quên vô tiệm thuốc bắc mua một gói ngũ vị hương tán nhỏ để pha vô nước nấu phở và một đơn Mai Quế Lộ. Không thích hầm xương bò vì vừa mất giờ canh chừng, vừa tốn củi lửa. Phi hành, tỏi, tôi nấu phở bằng sườn heo và đùi gà, nước trong, ngọt, nhẹ mùi, chỉ cần thêm gừng, hành tây, và chút ngũ vị hương bỏ trong túi vải, nấu thêm chừng vài phút rồi lấy ra tránh quá nặng mùi, dễ ăn hơn. Như vậy, nước phở chỉ cần 30 phút là xong. Sở dĩ tôi cân thêm một đơn Mai Quế Lộ vì cần có thời gian ngâm với một lít rượu đế mới có thể dùng được. Phần nước cho hai tô phở chỉ cần một muỗng canh Mai Quế Lộ, hương thanh, nhẹ, dễ chịu hơn mùi nặng nề của xương bò với ngũ vị hương. Lá số của tôi, cung mệnh ở Ngọ có Đào Hoa, Bác Sĩ, Lộc Tồn, tam hợp với Hồng Loan, Thiên Không, Địa Kiếp tại dần; nhị hợp có Thiên Trù nên thích ăn ngon, do đó nấu ăn cũng không đến nỗi tệ. Tuy nhiên, độc ẩm lại là điều tối kỵ, chỉ chán chường, thành ra muốn nghiện rượu cũng khó.

Nơi cuốn thứ năm của bộ Life and Teaching of the Masters of the Far East nêu lên diểm, “Hãy nhận biết chính mình” (Know yourself). Ngày trước, khi đọc bản tiếng Anh, tôi đã không để tâm suy nghĩ về điểm bình thường của mọi người, và đó là chúng ta thường tự giới hạn chính mình trong sự nhận biết, nhận thức thực thể hiện hữu hữu vi của con người. Chúng ta thường nghĩ hoặc thường cho rằng mình biết rõ về mình trong giới hạn hiện hữu nhân sinh, cuộc sống xác thân; do đó khi đọc thấy công án “Tôi là ai,” cũng như hầu hết độc giả, tôi nghĩ rằng không ai có thể biết về tôi hơn chính tôi, nên coi thường điều “Know yourself” nêu lên, gốc gác thực thể hiện hữu của con người chính là thực thể tâm linh. Nơi Công giáo gọi là linh hồn; nhà Phật gọi là Tính, hèn chi lục tổ Huệ Năng chỉ thúc đẩy “Kiến Tính.” Nơi Sáu Cửa Thiền Thấtđược ghi, “Kinh Niết Bàn lại nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không giải thoát. Tánh phật ấy, tức ’tánh giác’ ấy vậy.” (SCTT; Trúc Thiên dịch; Phật Học Viện Quốc Tế; CA, USA; Tr.43). Nơi khác, Sáu Cửa Thiền Thất. Cũng ghi, “Tâm ấy không lìa ngoài cái xác thân bốn đại. Nếu lìa tâm ấy tức không còn vận động gì được, vì đó là thân vô tri, khác gì cây cỏ, ngói gạch” (Tr. 131). Tôi là ai? Linh hồn tôi là gì, liên hệ với xác thân và cuộc đời tôi thế nào, sao có thể minh chứng tôi có linh hồn? Đặt vấn đề là một chuyện; suy nghĩ là một chuyện khác; thực chứng, minh chứng, nghiệm chứng lại là điều không thể thiếu cho nhận thức. Xưa nay, tôi vẫn hãnh diện mình đọc sách nhiều, biết nhiều, hiểu lắm, nhưng quả thật vô bổ, vì đã không suy nghĩ nên không nhận biết thực thể mình thực sự là gì! Linh hồn mình là cái chi!

Và đã một tuần trôi qua, tôi chỉ mới đọc được 7 cuốn sách, quả là quá lầm lẫn khi đã nghĩ, chỉ cần một tuần có thể đọc hết mọi quyển. Không lạ gì đã có lời khuyên chỉ cần đọc một cuốn sách, ngược lại cũng có câu, “Tận tín ư thư bất như vô thư,” đọc sách mà tin vào sách thà đừng đọc (Mạnh Tử). Hai phát biểu đối nghịch khuyên hai loại độc giả. Chỉ cần đọc một cuốn sách nói lên thái độ tâm trí của người nghiệm chứng, suy nghĩ, chứng nghiệm những điều tác giả tâm huyết viết ra trong cuộc đời mình để nâng cao, phát triển nhận thức. “Tận tín ư thư bất như vô thư,” khuyên những ai đọc sách chỉ hiểu theo nghĩa từ chương, hữu vi, thiếu kiểm nghiệm. Hèn chi nhà Phật ghi lại lời khuyên của Thích Ca, “Chớ vội tin những lời ta nói. Vội tin những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Thực ra, khi đã thực chứng hoặc nghiệm chứng rõ ràng thì có gì mà phải tin.

Đọc sách, tin hay không thì ích lợi hoặc thiệt hại gì chẳng biết, mới chỉ một câu nơi đầu cuốn Lão Tử Tinh Hoa đã đủ làm cái đầu tôi quay quay suốt cả tuần lễ. Tin làm sao với câu nói ngang ngược, “Kẻ nói không biết?” Đã không biết sao có thể nói! Chứng cái gì, nghiệm cái gì nếu không biết! Tới lúc đụng đến cuốn Đạo Đức Kinh, tôi mới tá hỏa. Nơi mục, “Những bản dịch sách của Lão Tử,” cụ Nguyễn Duy Cần viết, “Một học giả người Âu có khuyên ta cách đọc sách Lão Tử như vầy, quan trọng nhất không phải những gì trong sách ấy nói với mình, mà là những gì trong sách ấy đã khêu gợi được nơi lòng mình” (Đạo Đức Kinh; Quyển 1; ND Cần; Xuân Thu; TX, USA; năm?; Tr. 13). Đồng thời nói về bản dịch, cụ thêm, “Vì vậy, chú giải của các học giả Trung Hoa, Nhật Bản từ xưa đến nay rất nhiều mà phần đông không giống nhau; mỗi nhà mỗi hiểu một cách. Các bản dịch của các học giả Âu châu cũng rất nhiều, riêng bản dịch bằng Pháp văn, theo H. Maspéro, có trên 60 bản, nhưng không bản nào giống bản nào cả. Mỗi người mỗi dịch theo sự hiểu biết của mình” (ĐĐK;Tr. 14).

Hèn chi có câu nói, “Dịch là diệt.” Không hiểu diệt ngôn từ hay diệt ý? Khổ nỗi, tôi lại không biết chút gì về chữ Nho, chữ Hán. Nhưng, “Những gì trong sách ấy đã khêu gợi được nơi lòng mình” là thế nào? Lúc đang đói, sách diễn tả về một món ăn tuyệt vời, chỉ làm đói thêm, đói chảy nước miếng. Gợi được nơi lòng mình. “Người biết không nói; kẻ nói không biết” gợi nơi lòng mình điều chi? Gợi nơi lòng mình trong trường hợp nào, trạng thái nào khiến người biết không nói; kẻ nói không biết? Tại sao biết lại không nói? Tâm trạng nào bị cho là nói mà không biết? Ah, khi đang đói, nghe giải thích về sự bổ ích, hương vị tuyệt vời của món ăn nào đó chỉ làm phiền hà đến tâm trạng của người nghe. Người nói càng nói thì càng chỉ khiến người nghe khùng lên vì đói; bởi những lời giải thích không thể làm giảm cơn đói. Những lời giải thích về thực phẩm vô bổ, không giúp ích gì để giảm bớt cảm giác đói bụng của người nghe. Người nói biết điều mình nói nhưng không cảm nhận được cái đói của người nghe. Vậy là sao, nói điều mình không biết! Kẻ nói không biết. Chứ sao lại “Người biết không nói?”

Câu ngang ngược này vẫn cứ làm phiền tâm trí, khiến tôi suy nghĩ lung tung, mà càng suy nghĩ thì chỉ càng rối thêm. “Nên chỉ đọc một cuốn sách!” Mới chỉ một câu đã muốn khùng lên rồi, sao dám nói chi đến một cuốn. Xưa nay, nay xưa, nào có bao giờ đầu óc tôi bị rối tung như thế này đâu. Mà không hiểu sao, cái câu nghịch thường, không nói, không biết này, cứ như quỷ ám, ma đùa, miên man làm phiền, hết đeo đẳng ban ngày, lại còn khuấy động cả ban đêm, chẳng những khi nấu ăn, tưới rau, mà ngay cả lúc đọc sách cũng không tha khuấy động.

Phỏng tôi bị tổ trác? Câu nói khích động tôi suy nghĩ nhưng kiến thức đã chẳng giúp ích gì. Nghiệm chứng, thực chứng là thế nào. Trường hợp, trạng thái nào được gọi là “Kẻ nói không biết.” Không biết thì sao có thể nói. Nơi chương 25 lại còn được viết, “Đi xa là trở về.” Đi đâu là xa nhất, trở về là trở về đâu? Cái gì đi, cái gì trở về? Nơi Công giáo có quan niệm “Trở về với Chúa,” cái hồn trở về, cái xác đem chôn. Như vậy, đi xa nhất là chết, chẳng bao giờ còn có thể gặp lại, và cái hồn trở về với nguyên bản. Câu nói nơi Đạo Đức Kinh, nửa nói về hữu vi, nửa nói về tâm linh. Ah, hèn chi các vị học giả Đông, Tây, kim, cổ, hiểu khác nhau nên dịch khác nhau. Các vị ấy chỉ dịch theo tri thức, kiến thức hữu vi, thiếu nghiệm chứng, nên bỏ quên phần tâm linh.

“Kiến tính thành phật.” Kiến, hành động hữu vi; Tính, thực thể tâm linh, linh hồn. Kiến là thị kiến, là gặp gỡ, là đối diện, nhận thức. Linh hồn, Tính, là gì? Cho đến nay chưa sách vở nào có thể nói tới; những nhà khoa học cũng hình như cố giả đò lãng quên để rồi cũng như mọi người chấp nhận có linh hồn, nhưng chẳng thể nói được gì về nó, chẳng thể minh chứng linh hồn là gì, hình dáng, màu sắc ra sao, nặng nhẹ thế nào. Phỏng những tác giả, dịch giả viết về “Tính” họ đã kiến chưa? Nếu đã kiến thì viết làm chi? Viết để giúp người khác ngộ. Còn giúp, còn muốn giúp thì vẫn là dục; mà vị phật thì không muốn, không ước chẳng khác gì nơi Đạo Đức Kinh, “Thiên địa bất nhân, Dĩ vạn vật vi sô cẩu; Thánh nhân bất nhân, Dĩ bách tính vi sô cẩu.” (ĐĐK; chương 5); đất, trời, không hề tư vị ai; cấy rau vào lúc nắng thì mất ăn; phơi lúa ngay khi trời đang mưa thì thiệt luôn cả giống; dốt đành rán mà chịu. Ah, cái Đạo, được gọi là trời, đất này ngang ngang, ngửa ngửa, giống như Thiên Chúa nơi Thánh Kinh, chẳng khác chi phật nơi nhà Phật, không tư vị ai, chẳng giúp đỡ ai. Kinh Kim Cang có nói, "Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả" (Kim Cang Giảng Luận; Tr. 241). Nơi Kinh Thánh Tân Ước được viết, “Vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Thế sao các vị rao giảng, truyền bá nơi tôn giáo lại cứ hùng hồn khuyên nhủ, cầu nguyện, cầu xin, khấn hứa. Không đúng, khấn chứ không hứa, bởi nếu đã hứa thì phải tuân giữ lời hứa.

Tại sao câu, “Thượng thiện nhược thủy; thủy thiện lợi vạn vật,” được cụ Nguyễn Duy Cần dịch là, “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh.” Nơi cuộc đời, ai dám cả gan tung hô bất cứ ai là thượng thiện. Thượng thiện là bậc thiện trên hết mọi sự thiện là Thượng Đế, là Tào, là Ông Xanh, là Thiên Chúa, là Chân Như. Thế nên, “Thượng thiện nhược thủy” nên được dịch là, Tào như nước hiện diện mọi nơi, nuôi dưỡng vạn vật. Ngay như dịch “Tào” thành “Đạo” để rồi lại dịch thành “The Way,” và nơi ngôn ngữ Việt lại được chuyển nghĩa Đạo thành đường. Ôi, dịch hay diệt tùy thuộc nhận thức của dịch giả. Nước là căn bản sự sống; không khí cũng chứa nước; đá lạnh ứa nước; đốt củi cũng ứa nước; như vậy câu Tào như nước thường đã bị hiểu sai nên cũng thường dẫn đến nhận thức không chín chắn. Nếu hiểu câu Tào như nước mang nghĩa Thượng Đế ở khắp mọi nơi, thì Thượng Đế chính là quyền lực hiện hữu nơi mình, nơi vạn vật. Riêng câu, “Phù duy bất tranh, cố vô ưu,” được dịch là, “Vì không tranh, nên không sao lầm lỗi” (ĐĐK; Tr. 50). “Vô ưu” sao lại dịch là không lầm lỗi. Nhiều tác giả cho rằng Đạo Đức Kinh là sách dạy cho con người sống theo chân, thiện, nhẫn, nhưng tại sao từ ngàn đời đã có câu, “Làm bạn với vua như chơi với hổ?” Cuộc đời này thiếu gì trường hợp rơi vào cảnh bị làm chốt thí. Tranh đua cũng phiền, không tranh cũng chẳng yên, chẳng khác gì về già, cố tránh, không muốn bệnh cũng chẳng thoát. Nếu cho rằng, “Phù duy bất tranh” mà thoát được bệnh, lão, tử, bất chấp Tào như nước đục, dơ, thì còn có lý hơn là “Không sao lầm lỗi.”

Sao đầu óc tôi suy nghĩ lung tung thế này, đã không thấy gì sáng sủa hơn mà lại cứ rối như mớ bòng bong. Tác giả viết thế nào là chuyện của họ, mắc mớ chi đến mình; bởi mình có phải là nhà phê bình đâu. Tôi tự hỏi, thầm diễu với chính mình, vì cho rằng tôi là thứ học thiệt chứ không phải học giả. Nhưng trong lòng, tôi cũng phải thậm phục quý tác giả, dịch giả, phê bình, giải nghĩa gia. Bởi cho dù họ đưa ra hoặc nêu lên những vấn đề gì, phù hợp với suy nghĩ của mình hay không, hoặc mình chưa hiểu tới, họ cũng đã tốn công sức, năng lực, và kiên nhẫn trình bày. Đúng hay sai, hợp hay không hợp đều là phương tiện hay cơ hội cho tôi suy nghĩ để thăng tiến thêm nhận thức; thế nên, cần và phải tâm cảm ghi ơn họ.

Mục đích đọc sách của tôi theo như ông Tầm đề nghị, đó là nghiệm chứng những gì có thể nơi sách trình bày. Thiển nghĩ, loại sách này, chẳng hạn, Đạo Đức Kinh, đã bao ngàn năm thống trị tâm não con người, và mới chỉ một câu, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” mà tôi vẫn còn ngắc ngứ, coi chừng sống để dạ, chết đem đi, thì dám nói chi tới cả cuốn sách, hơn nữa, còn cả lố sách đang đợi chờ. Hừ, xưa nay, tôi nghĩ mình cũng ngon lành lắm; thế mà mới chỉ có một câu, cả tuần vẫn như gà nuốt dây thung, muốn nuốt vô, nuốt chẳng được, muốn nhả ra, chỉ thêm tắc họng. Từ nay, chừa cao ngạo. Người ta nói, “Cao nhân tắc hữu cao nhân trị;” nơi trường hợp của tôi, chỉ một câu nói ngang ngược đã hạ tôi đo ván. “Người biết không nói; người biết không nói.”

Lơ mơ phảng phất, tôi cảm nhận hình như Đạo Đức Kinh nói về sự thể nào đó nơi tôi, nhưng thường được tác giả cho rằng những câu nói ám định về sự thể nào đó, của Tào (Đạo), của thánh nhân, thánh trí, hay của bậc hiền giả trị nước, hoặc nên có thái độ với đời. Qua những bàn luận, nghị luận, tác giả dùng nhận định của những vị danh nhân khác để phù trợ quan điểm của mình về đối tượng là Đạo (Tào). Chẳng hạn, cho rằng câu, “Thượng thiện nhược thủy” nói về “Bậc thượng thiện giống như nước” và thế là tác giả phân tích, phân cốc tính chất của nước để áp đặt vào đặc tính nên có của bậc thánh trí, “Tánh của nước là yếu mềm, gặp chỗ trống thiếu thì chảy vào, gặp chỗ đầy dư thì chảy ra, lánh cao mà tìm thấp, ngày đêm chảy mãi không ngừng để lấp đầy những gì trống trên mặt đất. Nó là tượng trưng thực hiện luật quân bình của trời đất” (Tr. 68).

Giời! Sao không nói tánh của nước bao gồm cả sự độc ác; khi trời nóng đổ lửa thì trốn biệt, chẳng biết thương xót cho sự khổ ải dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời mà đổ mưa khiến người và vật thoải mái, cho phù hợp với câu, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu.” Ah, đặt vấn đề như thế, tôi lại thấy mình rơi vào bẫy bình luận, phê bình, nhận định, bình giải của tác giả. Nhưng cũng chính thái độ hung hăng con bọ xít này khiến tôi hiểu được câu Phúc Âm nghịch thường, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10: 37). Trong khi suy nghĩ, nghiệm xét, bất cứ tư tưởng, nhận định nào xía vô, chẳng nên dõi theo kẻo lạc đường. Điều chính yếu phải là nhận biết diễn tiến nhận thức nơi mình, nhận biết tâm trạng mình đóng vai trò nào nơi sự thể đang được nhắc tới. Xin cảm ơn lời bình chú về nước của tác giả, và cũng cảm ơn lầm lỗi chẳng nên có khi đọc sách nơi mình.

Nơi phần “Tựa” của cuốn Trang Tử Tinh Hoa, câu đầu tiên, cụ Nguyễn Duy Cần phát biểu, “Văn minh mà thiên hạ ngày nay đang tôn sùng và theo đuổi là một thứ Văn Minh lượng, lấy sự ‘tiến bộ’ làm lý tưởng; còn văn minh của Trang Tử chủ trương là một thứ văn minh phẩm, lấy sự tận thiện làm lý tưởng” (TTTH; ND Cần; Đại Nam; Glendale, CA, USA; năm?; Tr. XI). Thế mà nơi trang 86, cụ nêu lên nhận định, “Quan niệm của ông (Trang Tử) về vũ trụ như thế nào? Theo Trang Tử, có một cái Chân lý tuyệt đối, vô hạn, toàn mãn, tức là cái sống chung của trời đất; cái sống ấy gọi là Đạo. Bất kỳ là vật nào trong trời đất đều có cái Đạo ấy ở trong gọi là Tánh. Hay nói một cách khác, Tánh ấy cùng với Đạo là một thể. ‘Thiên địa dữ ngã tịnh sinh; nhi vạn vật dĩ ngã vi nhất” (TTTH; Tr. 86). Quan niệm này gợi lại nơi tâm trí tôi câu Phúc Âm, “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống” (Gioan 14:6). Trong khi nơi “Lời Nói Đầu,” cụ Nguyễn Duy Cần nhắc nhở, “Đọc Trang Tử cũng như đọc Lão Tử, ‘điều quan trọng không phải ở những gì các sách ấy nói với ta, mà là ở những gì các sách ấy đã khêu gợi được nơi ta” (TTTH; Tr. XVII). Nói như vậy, cụ ND Cần vô tình đã rơi vào trường hợp, "Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). Thử hỏi, tại sao không để cho “Những gì các sách ấy đã khêu gợi được nơi ta” hoạt động, khêu gợi, mà lại giải thích, giải nghĩa theo quan điểm, nhận định cá nhân của mình. Quái, tôi lại rơi vào cái tật hung hăng con bọ xít phê bình, nhận định! Hãy tha thứ cho cái lỗi lầm xí xọn nơi tôi.

Có điều, theo cuốn Trang Tử Nam Hoa Kinh, “Trang Châu, thường gọi là Trang Tử, ‘sống trong khoảng 369-298 trước Tây lịch kỷ nguyên;’” không hiểu quan niệm, nhận thức về Đạo có ảnh hưởng gì tới quan điểm, nhận thức nơi Phúc Âm về Thiên Chúa chăng. Sở dĩ nơi tâm trí của tôi nêu lên câu hỏi này vì đã bao năm, ngay từ thời còn nhỏ đã được theo học dưới giáo dục của Công giáo, con đẻ của Phúc Âm.

Sáng sớm hôm nay, sau khi đi bài quyền, tôi chạy bộ ra chợ thay vì đi xe đạp. Chạy bộ để hòa hợp nhịp chạy với nhịp thở, trong khi từ từ hít vô, chạy 15 bước và thở ra cũng mười lăm bước đến khi hết hơi. Ngày đầu, tôi chạy giới hạn 10 bước, sau ba ngày tăng lên, áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết đến đả thông kinh mạch, đồng thời áp dụng nguyên tắc hành thiền do lục tổ Huệ Năng đề xướng. Mới đầu, rất khó định tâm, nhưng riết rồi, cặp mắt trở thành phương tiện nhận biết diễn biến đang xảy ra trên đường cho đôi chân tiếp tục chạy và tâm trí để ý đếm nhịp bước đồng thời điều chỉnh cho hòa hợp nhịp thở. Nói cho đúng, bên ngoài, người ta chỉ thấy tôi lao đi như chiếc máy, tưởng tôi đang cố gắng tập thể dục; đâu ai biết được tôi chạy nhưng tâm trí định nơi nhịp chạy sao cho hợp với nhịp thở.

Cách chạy cũng không giống kiểu chạy bình thường. Mấy đầu ngón chân gần chạm đất thì khớp nơi mắt cá, đầu gối, eo hông, toàn bộ thân xác tôi nhịp nhàng trong thế nhún của một cây cung thuận chiều và đúng thời điểm dồn xuống thành thế bật, dùng đất làm điểm tựa để bung đi. Mới đầu, cử động của hai cánh tay còn ảnh hưởng đến thế chạy, nhưng sau này, khi đã thuần thục, hai cánh tay tự do hoạt động theo ý mình muốn. Nói cho đúng, gọi là chạy nhưng chỉ là nghiêng thân để lướt đi trên mặt đất, nhịp nhàng theo phản xạ toàn bộ của cơ thể.

Từ nhà tới chợ chỉ hơn hai cây số, tôi chạy mất cỡ mười lăm phút. Tôi không thăng hoa chút nào; bởi nếu đi bộ theo kiểu hướng đạo, bước những bước dài một đoạn rồi chạy xắp xắp một đoạn, thì mỗi giờ đi được bốn cây số; nghĩa là mười lăm phút sẽ đi được một cây số. Đàng này chạy theo kiểu búng người của tôi, hơn hai cây số, nói mười lăm phút là quá khiêm nhượng. Tôi muốn chạy nhanh hơn nhưng có lẽ phải kiếm đường khác bởi không muốn bị bất cứ ai chú ý, do mới đến đây hơn kém mười ngày, dẫu thường có mặt ở chợ để mua thực phẩm trong những buổi sáng sớm. Có lẽ tốt nhất là dậy sớm hơn nửa tiếng, còn nếu không, tới gần chợ cần chạy chậm lại, hoặc gặp chốn đông người đành đi bộ. Mới thoáng nghĩ như thế khi vừa ngang qua ngã rẽ, chợt tôi nghe tiếng gọi từ một đường nhỏ nối liền đường lớn gần chợ,

- Chú gì ơi.

Tưởng có chuyện gì tôi ngừng chạy, đồng thời quay nhìn thì thấy cô bán cá rô lần trước đang cho xe đạp chậm lại lên tiếng hỏi,

- Chú chạy đi đâu mà vội thế?

- Tôi ra chợ mua đồ nấu ăn mà.

- Thế sao chú chạy như bị ma đuổi dzậy?

- Có chứ, có con me đảo ngược. Tôi giở giọng láu cá.

- Con me nào mà đảo ngược? Có lẽ nàng nghĩ tôi nói giọng bị ảnh hưởng dân miền Trung, nên nói ma thành me.

- Con me đảo ngược không là em thì là ai ở đây!

- Chời, cái chú này, dzậy mà cũng nói.

- Thế cô gọi tôi chuyện chi?

- Em thấy chú chạy vội vã như có chuyện gì gấp rút nên lên tiếng gọi mà. Thế xe đạp đâu mà chú hổng đi?

Lần trước, hơn tuần rồi mua cá, nàng xưng “Tui” mà lúc này đã đổi thành em, nghe dễ thương ghê nơi! Máu “Galăng” nổi dậy, tôi nói,

- Tôi chạy thể dục mà; xe để ở nhà; chẳng lẽ vừa chạy vừa dắt theo xe.

- Thế mà em cứ tưởng có chuyện chi gấp gáp khiến chú chạy thục mạng.

- Hôm nay, cô có chi bán vậy?

- Em có mấy con trê, hai con lươn và ít con rô. Chú mua cá trê hông? Nàng rời khỏi xe đạp, định mở hom chiếc giỏ đặt lọt vô chiếc thau sắt cũ đã phai màu sơn dùng chứa cá để bán, trong lúc miệng nói.

- Không đâu, trưa nay tôi định ăn bò lúc lắc hoặc nem thính Bắc kỳ cùng với canh rau mùng tơi nấu tôm khô, làm cho mau. Cá trê mà kho thì chiều hoặc mai mới ăn được.

- Hay chú lấy mấy con rô về chiên, chấm mắm ớt tỏi cho phê, em để rẻ cho chú mà.

Chẳng lẽ lại sinh chuyện giao tình sao, tôi nghĩ, mà cô nàng càng lúc càng trở nên thân mật với tôi hơn. Với ý nghĩ đó, tôi ỡm ờ,

- Tôi không có tiền mua cá đâu, chỉ có ít đồng mua rau và thịt. Cô có bán chịu không, nhưng dẫu có bán chịu, tôi cũng không có tiền trả; bởi ngày nào được tính theo ngày nấy. Thôi đi, cá rô chiên chấm mắm ớt tỏi đúng là tuyệt vời, nhưng cái túi của tôi không cho phép.

- Thế vợ chú đâu mà chú cứ phải đi chợ dzậy?

Ah, cô bé này bắt mánh tôi lần thứ hai, hèn chi cứ cố nhì nhằng. Cô bé cứ đẩy sôi máu thanh niên trong người, tôi thầm nghĩ, có nên gieo cho nàng chút niềm vui chăng. Tuy nhiên, hạnh phúc nào không kèm theo đau khổ, niềm vui càng lớn thì nỗi thất vọng càng to; đời người cái chi không phải trả giá. Tôi đâu có chút ý định nào lập gia đình nên nếu giả đò ỡm ờ với cô ta chỉ tội thêm cho nàng mà chớ. Nhưng cái máu lãng đãng cứ hùng hục trỗi dậy khiến tôi cảm thấy khó mà dứt khoát với lòng. Thanh niên gặp em gái thuận mắt, ai mà không muốn xáp lại. Nơi trường hợp của tôi, cứ như mỡ để miệng mèo, cố làm như con mèo mù vẫn cảm thấy mùi hương. Ai da, vận số đưa đẩy nhưng tôi cảm thấy không có dịp may để đạt vận số dẫu tràn đầy cơ hội. Hình như ý tưởng nào nổi lên trong tâm trí; có vợ chỉ đạt được dịp may một lần, nhưng mất tất cả những dịp may với các nàng khác. Tuy nhiên, sự đời là thế, dẫu mất tất cả dịp may với những nàng khác, vẫn còn hơn không có dịp may nào. Lập gia đình, được cả đàng nọ lẫn đàng kia, nhưng có ở trong chăn mới biết chăn có rận; cuộc đời nào có gì bỗng nhiên từ trời rơi xuống; chuyện gì cũng có giá của nó. Hạnh phúc chỉ là niềm vui đuổi bắt, và khi bắt được rồi, niềm vui chẳng được bao lâu; mà tâm tưởng đối diện với thực tại khổ ải thì kéo dài tới muôn đời, cho tới khi từ giã kiếp sống coi chừng vẫn bị đeo theo. Những ý nghĩ thoáng qua trong tâm trí khiến tôi thấy cảm thương cho cô bé mới lớn này, nên lã giã,

- Lần trước mua cá, tôi đã nói rồi, tôi đâu có vợ, nghèo quá mà, nhất là vào thời buổi này, chạy ăn từng bữa cũng sút mồ hôi thì còn nói chi đến vợ, đến đèo bồng. Dẫu miếng ăn sống qua ngày cho chính bản thân còn chưa lo được thì lấy vợ rồi cho nó đi ăn mày nghe sao được.

- Thế gia đình, ba má chú đâu mà không dzìa với họ?

- Chời, tôi thầm nghĩ, cô em này điều tra lý lịch tôi kỹ quá, chẳng lẽ “khớp con ngựa ô,” nên chấm điểm tôi rồi chăng. Tôi thở dài, nhẹ nhàng nói, ra bộ tâm sự, nhà tôi đông anh em lắm, gia cảnh lại cũng chẳng khấm khá chi. Có được hơn mẫu đất thì ngày ngày cúi mặt xuống đất, lưng bán cho trời. Tôi có về nhà chỉ thêm gánh nặng trong thời buổi gạo châu củi quế này mà thôi, nên lang thang kiếm sống cho qua. Thôi, cô ra chợ kẻo trễ bán không được giá. Tôi cũng phải về lo vài chuyện cho xong.

- Hay chú lấy mấy con rô về chiên ăn, em không tính tiền đâu. Nàng rút bao nylon mỏng đựng cá.

- Không được, tôi dứt khoát. Tôi không muốn ăn cướp hoặc ăn xin. Theo như lần trước, tôi biết, cá này là do tía cô đặt lờ, công lao, mồ hôi, sức lực của ông đổi lấy. Cô không được đem cho tầm bậy tầm bạ như thế.

- Em… em…, giời, thái độ em tình ghê nơi.

- Em ún gì, mau lo đi bán hàng kẻo trễ.

Tôi quay ngoắt chạy ra chợ. Thầm nghĩ, cái số đào hoa của mình chỉ khiến lòng thêm đau lòng. Thanh niên mà, nhưng sao tôi chưa bao giờ cảm thấy cần một người đàn bà bên cạnh dẫu thời đi học, đi lính nghĩa quân và cả bây giờ. Dĩ nhiên, đàn ông thích đàn bà, và đàn bà thích đàn ông là chuyện cần có, phải có, và nên có. Nhưng, cái ước mơ gì đó nơi tôi quá mạnh cho dù chẳng biết nó ra sao, là gì, chỉ cảm thấy tôi phải làm gì.

Nhớ lại thái độ cô nàng thật cuốn hút và đễ thương khi muốn cho tôi cá và bị thẳng thắn chối từ. Ah, nàng thích tôi, nàng biết nàng thích tôi nhưng không nói lên được. “Người biết không nói.” Ưh, người biết nhưng không thể nói, không nói ra được. Câu nói nơi Lão học này chỉ về trạng thái, tâm trạng chứ không nói gì tới thái độ hữu vi, nhân sinh. Hèn chi biết bao người, nghiệm chứng nó theo nhãn quan hữu vi đã chẳng bao giờ nhận thức được. Lòng tôi như mở hội. Thế còn, “Kẻ nói không biết.”

“Vì vậy, trở ngại lớn lao nhất trên con đường giác ngộ và giải thoát là tập quán tư tưởng, tức là lối suy nghĩ, hay phê phán theo một khuôn khổ hệ thống nào” (TTTH; Tr. 197), nghĩa là sao? Suy nghĩ theo khuôn khổ, thế nào là suy nghĩ không theo khuôn khổ? “Tiếng hát hay, không sao lọt được vào tai bọn dân quê: hát líu lo, bậy bạ vậy thôi mà chúng nao nức vui mừng. Thế nên, lời nói cao không thể vào được nơi lòng thế nhân. Lời hay không thể nói ra được là vì lời thô rất nhiều, và đầy lấp cả thiên hạ, và đã được bè đảng ủng hộ, phụ họa” (TTTH; Tr. 213).

Suy nghĩ theo một khuôn khổ, hệ thống; lời cao không thể vào được nơi lòng thế nhân. Lời hay không thể nói ra được, là sao? Thế nào là tiếng hát hay, thế nào là lời cao? Có nhận định về âm nhạc, “Nghe thấy hay thì nó hay, không có âm nhạc dở.” Tiếng hát hay rung động cõi lòng! Không, lời hát đánh động lòng người chứ không phải tiếng hát. Lời hát đi vào lòng người. Lời nói cao, thế nào là lời cao hay thấp? Cao thấp của lời nói tùy thuộc ý nghĩa, sự thể lời nói chứa đựng, không phải tùy thuộc ngôn từ. Ngôn từ văn hoa hay không chứ không có cao thấp.

“Kẻ nói không biết” cao, thấp nơi tính chất, ý nghĩa, trạng thái nào. Tiếng hát hay không lọt vào tai thế nhân; lời hát đi vào lòng người. Kẻ nói không biết sao có thể lọt vào lòng người. Kẻ nói không biết, hay bị cho là không biết? Tiếng hát hay không lọt tai thế nhân nên bị cho là hát dở. Người nói điều không quen sẽ bị cho là ngang, là khùng. Kẻ nói không biết.

Suy nghĩ tới lui, tôi chợt nhớ vào năm 1965, tin Apolo đưa người Mỹ lên mặt trăng tràn ngập trên báo chí và ra rả nhắc đi nhắc lại nơi đài phát thanh được nghe qua radio. Có một bà cố (mẹ của một linh mục) cứ lẩm bẩm, dám vượt quyền Thiên Chúa. Ah, đức Giêsu bị kết án là phạm thượng vì dám xưng mình là con Thiên Chúa. Tại sao những câu, “Thiên Chúa tạo dựng con người theo hình ảnh của Ngài” (Khởi Nguyên, 1:27), “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần Khí Thiên Chúa ngự trong anh em.” (1Cor. 3:16), lại được ít nhắc đến nơi diễn trình rao giảng của Kytô giáo? Có thể, người ta coi đó là những thành ngữ nói cho qua hầu nâng cao giá trị con người chứ không phải thực thể sự việc, sự kiện. Câu nói về tâm linh, về bản thể, bản chất của con người nhưng không được để tâm nhận biết, nhận thức. Câu nói cũng như không, bị cho là nói như không nói.

Cả buổi chiều, đọc cuốn Trang Tử Tinh Hoa mà đầu óc tôi cứ bị câu, “Kẻ nói không biết” quấy rầy, khiến suy nghĩ, lý luận lung tung. Thôi thì làm bạn với rau cỏ cho thanh thản tâm trí, tôi lấy đôi thùng gánh nước tưới rau. Nhìn những luống rau mơn mởn, xanh tươi khoe sắc dưới ánh chiều vương, tôi tự hỏi chiều nay nên nấu món gì. Bữa trưa đã ăn nem thính Bắc kỳ với canh mùng tơi nấu tôm khô và nước luộc thịt. Chiều nay, cơm với thịt kho và món rau trộn, nếu cần, câu lấy hai con rô phi đem chiên chấm mắm ớt tỏi, thế là thịnh soạn chán. Mai có nên ăn gỏi không, tôi tự hỏi. Ăn gỏi cá cần dấm mẻ, kiếm đâu ra mẻ nơi miền này. Dân Bắc kỳ rốn như tôi mà ăn gỏi với nước chấm me hoặc mắm tôm đánh với chanh và ớt thì chẳng khác gì như đấm vào miệng. Tôi thầm nghĩ, sao mình khó tính thế! Tiền nhân dân Việt để lại câu, “Đi nước Lào, ăn mắm ngóe,” hay, “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài.” Phỏng tôi có quá cố chấp trong vấn đề ăn uống chăng. Thử hỏi ông Tầm xem kiếm đâu ra mẻ, hoặc mai đi chợ kiếm quanh ai có mẻ xin một ít về gây giống. Ah, hỏi ông tiệm thuốc bắc, ông ấy là dân Bắc di cư năm 54, hoặc mua ít men rượu về gây giống, vài ngày là có mẻ.

Lấy xẻng, bới đám cỏ bên cạnh rạch dẫn nước trào ra chảy xuống ao khi ang đã đầy, bắt được mấy con giun, vô nhà bếp kiếm cần câu, tôi thấy có tấm chài nhỏ treo bên cạnh một chiếc cần câu tre. Thế ra ông Tầm cũng biết quăng chài; tôi thì không. Lấy chiếc cần câu mắc mồi, vừa quăng xuống, tôi đã giật được một con rô phi khá nhỉnh, cũng gần nửa ký. Con cá béo mọng, óng ánh dưới nắng buổi chiều. Đủ rồi, tôi thầm tính, bữa cơm chiều có rau trộn, thịt kho, và cá chiên, tuyệt. Chiên hay nấu, hoặc nấu cà chua ăn với rau diếp, tha hồ vương giả.

Danh ngôn của người Do thái có câu, “Đừng sợ rằng bạn không biết một cái gì đó. Hãy sợ rằng bạn không chịu tìm hiểu về nó.” Tìm hiểu, tìm hiểu bằng cách nào, “Kẻ nói không biết.” Chính người nói đã không biết thì tìm ở đâu? Thế mà sao nó cứ ám ảnh tôi. Phiền, tôi nghĩ, vất quách nó đi, không nghĩ đến nó nữa. Thực lòng, tôi không muốn nghĩ đến câu nói kỳ cục này chút nào, nhưng cứ bị nó làm phiền, quấy rối. Nơi trang 195 của cuốn Trang Tử Tinh Hoa, cụ Nguyễn Duy Cần viết, “Cho nên mới nói: bề ngoài của họ thì có vẻ hòa nhã với mọi người, mà kỳ thực, lòng họ cách xa với thế nhân.” Nghĩa là sao, người biết không nói; thế còn kẻ nói không biết? “Tiếng hát hay, không sao lọt được vào tai bọn dân quê;” lời nói cao xa người dân quê nghe không lọt tai, bị cho là không biết; kẻ nói không biết hay người nghe không biết? Người nghe không thể cảm nhận nên cho rằng kẻ nói không biết!


”Kẻ nói không biết,” không biết nói cách nào, hay nói ra không được, hoặc nói kiểu nào thì người nghe cũng không hiểu, không cảm nhận được. Cảm nhận, cảm nghiệm, người ta chỉ có thể cảm nhận hay cảm nghiệm nếu đã có kinh nghiệm, hoặc thực nghiệm sự việc tương tự. Cũng một vấn đề, sự việc xảy ra, không ai có cảm nhận, cảm nghiệm giống ai. Người nói bị cho là không biết bởi không thể diễn tả cho người khác cảm nghiệm được tâm tình, trạng thái như mình đã cảm nghiệm, đã trải qua. Người ăn được cay không thể hoặc giải thích vị giác tuyệt vời khi nhai miếng ớt thế nào cho người không ăn được cay. Thế nên, dù giải thích đến mấy thì người nghe cũng không cảm thấy cay trong miệng, cũng không bị phỏng lưỡi. “Kẻ nói không biết” nói về cảm nghiệm, nhận thức. Nhưng sao diễn giải cho hợp lý, hợp tình, thuận với suy tư.

Cỡ mười giờ đêm, ra bàn ăn định uống miếng nước vì hơi khát; có lẽ cơm tối tôi đã ăn hơi nhiều thịt kho, tôi thấy ông Tầm ngồi thinh lặng uống trà. Đêm rồi mà còn uống trà thì sao có thể ngủ, chẳng lẽ ông định thức trắng suy nghĩ việc gì.

- Đêm muộn rồi mà bác còn uống trà?

- Không sao, tôi quen rồi. Anh có chuyện gì mà thức khuya vậy?

- Cháu đang đọc cuốn Trang Tử Tinh Hoa, nhưng cứ bị câu “Người biết không nói; kẻ nói không biết” quấy rầy đầu óc, cố quên không được, đuổi đi không xong. Nó cứ như quỷ ám, ma đùa, luẩn quẩn suốt.

- Khi nào anh không suy nghĩ nữa thì mới có thể biết.

- Bác nói sao, không suy nghĩ thì sẽ hiểu.

- Tôi không nói hiểu, mà biết.

- Biết là thế nào?

- Biết thuộc về cảm nhận, cảm nghiệm, thực nghiệm, nhận thức, nghiệm chứng; trong cuốn Tân Ước, thánh Phao lô gọi là nghiệm xét. Anh ăn cơm chiều, anh biết anh no bụng, biết món cá chiên chấm mắm tỏi ớt tuyệt vời thế nào; anh nghiệm được bữa ăn ra sao thì đó là biết. Hiểu không phải là biết; hiểu thuộc về lý trí, không phải cảm nghiệm. Hiểu bữa ăn ngon không thể làm mình no bụng mà phải ăn. Ăn là thực chứng, nghiệm chứng, là biết mùi vị thực phẩm ra sao và ảnh hưởng mình thế nào.

- Giả sử có ai đó ghé qua đây vào lúc này mà vẫn chưa ăn tối, anh có thể giải thích, giảng thuyết về bữa ăn lúc chiều, giải thích món cá chiên chấm mắm ớt tỏi để người đó hiểu và no bụng được không?

- Người biết không thể nói; tôi lên tiếng.

- Thế còn người nghe anh giảng thuyết, giải thích về bữa ăn, họ thấy thế nào? Anh đọc cuốn Phật Học Tinh Hoa chưa? Có nhớ câu trả lời của Tổ Huy Sơn cho Hương Nham không?

Tôi im lặng nhớ lại, nơi cuốn Phật Học Tin Hoa, cụ Nguyễn Duy Cần có ghi, "Xưa Hương Nham hòa thượng tham học ở Bách Trượng thiền sư. Ông là bậc tuyệt thế thông minh, khôn ngoan lanh lợi, phàm hỏi một, trả lời đến mười. Thế mà khi tổ Huy Sơn hỏi: ‘Lúc cha mẹ chưa sinh ta ra, vậy thử nói một câu xem sao!’ thì tâm thần mờ mệt, chả còn biết trả lời ra sao được cả. Ông ta bèn trở về liêu, đem những sách vở bình nhật đã học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong tìm cho kỳ được câu trả lời, nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy. Chán nản, liền than: ‘Toàn là bánh vẽ, chẳng thể nào án vô!’ Nhiều lần ông khất cầu tổ Huy Sơn nói ra cho biết thì tổ Huy Sơn trả lời, ‘Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!’” (PHTH; Tr. 80).

“Kẻ nói không biết,” tôi thầm nghĩ, cái biết của tổ Huy Sơn không phải là cái biết của Hương Nham, nhưng sao lại nói, “Kẻ nói không biết.” Thấy tôi im lặng suy tư, ông lên tiếng,

- Thử đặt mình vào những vị thế của người giải thích bữa ăn và vị thế của người đang đói bụng vì chưa ăn cơm chiều, rồi đưa ra nhận định về đối phương, anh sẽ biết. Đoạn ông tiếp,

- Sáng nay đi chợ về thấy anh có sắc mặt vui nhưng lại mang nét trầm tĩnh, ngưng đọng; có chuyện gì đặc biệt hay sao?

- Bác biết coi tướng diện?

- Tôi muốn học cho biết nhưng không ngộ được.

- Thế sao không thấy bác chơi đàn sáo chi mà rành về âm nhạc vậy?

- Âm nhạc mang tính chất toán học, nên chỉ cần để ý nghiệm chứng mấy nguyên tắc thì đâu có gì để nói. Điều đáng nói nơi âm nhạc lại là tính chất cảm ứng của con người. Có điều, nhạc sĩ viết bản nhạc do cảm ứng với nghiệm chứng hay thực chứng nơi mình, nhưng diễn xuất, trình bày lại lệ thuộc ca sĩ và môi trường, thời điểm cũng như người hòa âm, phối khí. Tuy nhiên, nhà hòa âm, phối khí lại tùy thuộc tầng lớp khán thính giả. Có những bản nhạc dùng chuyển âm tuyệt vời nhưng nếu bị rơi vào trường hợp “Đàn gẩy tai trâu,” thì có hay, có giỏi cho mấy cũng bị trâu nó húc cho.

- Bác nói thế nghĩa là sao?

- Anh có biết luật chuyển âm không?

- Cháu nghe mấy người quen chơi nhạc nói chuyển âm theo công thức 1 – 4 – 5, nhưng không biết áp dụng thế nào vào hòa âm bản nhạc.

- Nghe những bản nhạc đang hiện hành, người ta thường chơi 1,3,4,5; tuy nhiên, nếu đánh hợp âm 1 rồi 3 thì âm thanh sẽ bị trùng hợp, âm thanh không nổi lên được. Thế nên, phải dùng nguyên tắc 1,2,4,5.

- Nghĩa là sao, hợp âm 2 đến hợp âm 4 không phải là 3 sao mà không hòa âm 1,3, lại dùng 2,4.

- Cho dù cố ý chăng nữa, không có bất cứ bản nhạc nào được viết theo trình tự hòa âm 1,3,4,5, hoặc 1,2,4,5. Tôi thử hỏi, nếu bản nhạc Đô trưởng thì 2,4,5 đối với Đô trưởng là những hợp âm nào?

- 2 là Rê, 4 là Fa, và 5 là Sol.

- Rê gì, trưởng hay thứ hay 7 hoặc 9?

- Rê thứ vì nơi bản nhạc Đô trưởng không có thăng hay giảm.

- Vậy anh thấy có bản nhạc nào mà hợp âm theo thứ tự Đô trưởng, Rê thứ, Fa trưởng, Sol trưởng bao giờ chưa? Như thế, cần đặt lại vấn đề chuyển âm một bản nhạc. Trở lại sáng nay, anh có chuyện gì vui nhưng hình như khó nói?

- Nào có chi đâu bác. Trên đường chạy tới chợ, cháu gặp lại cô bé bán cá. Hình như cô ta để ý cháu. Thì bác cũng thừa biết tính cách thanh niên mà, cháu ăn nói đò đưa mấy câu. Lúc cháu nói không có tiền mua cá, lại cũng không muốn mua chịu, vì mua chịu cũng sẽ không có tiền trả, cô ta muốn cho cháu mấy con cá rô về chiên, nhưng cháu chối từ nên thấy tội cho cô ta.

- Tội cho cô ta là sao?

- Lần đầu tiên đạp xe đi chợ mua của cô ta mấy con cá rô, theo giá chợ thì phải gần hai đồng, nói qua, nói lại, cô ta lấy cháu chỉ một đồng. Lần này gặp lại, cô ta hình như giả đò vô tình, lần thứ hai, hỏi vợ cháu đâu mà cháu phải đi chợ, rồi thẩm vấn luôn về nơi chốn gia đình của cháu nữa. Cháu giả đò lãng đãng thân thiện nhưng lòng e ngại cô ta có cảm tình sâu đậm với mình rồi sẽ bị thất vọng sau này nên dứt khoát không nhận cá và bỏ chạy.

- Có sao đâu, nghe anh kể tôi đâu cảm thấy gì. Thế cô ấy có nói chi về tâm tình của cô ta với anh không?

Ông Tầm buông một câu làm tôi giật mình. Lời nói của tổ Huy Sơn, “Cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả.” Nói như không biết, không thể khiến người nghe cảm nhận được tâm tình của mình. “Kẻ nói không biết. Kẻ nói không biết.” Tôi lặng người ngỡ ngàng với sự nhận biết câu nói ngang ngược. Vui, tôi thực sự cảm thấy vui. Thấy tôi ngồi im, ông Tầm lên tiếng,

- Kẻ nói không biết. Hiểu chứ, biết chứ.

Tôi gật đầu, thinh lặng. Làm sao mà nói để ông cảm nhận được trạng thái của tôi khi gặp cô bé sáng nay. Mới gặp qua lần thứ hai đã dám cho cá, tôi biết nàng thích tôi, muốn làm quen rồi thân thiết, nhưng tôi không dám quen thân với nàng vì sẽ khiến nàng đau khổ sau này. Tôi cảm thương cho nàng đã lỡ thích tôi. Ôi cái số đào hoa tai hại, số con mèo vừa mù, vừa tịt mũi. Cho dù có nói đến thế nào chăng nữa, ông Tầm cũng không thể cảm nhận được tâm tình của tôi. “Kẻ nói không biết.”

Vài phút sau, ông lên tiếng khuấy động màn đêm thinh lặng dưới ánh đèn mờ,

- Anh cảm thấy thích hay yêu hoặc thương cô nàng?

- Cháu cảm thương cô ta nhiều hơn; cô ta là một cô bé đơn thuần, chân quê, cháu không muốn cô ta bị tổn thương tâm tưởng sau này. Cháu biết mình có số đào hoa, đào hoa một cách lạ lùng, lại có hình dáng hợp nhãn phái nữ, nhưng chưa hề bao giờ có ý nghĩ hay ước muốn có một người nữ bên cạnh để cùng nhau xây dựng một gia đình. Cháu quen biết khá nhiều con gái và biết mình có sức hút tự nhiên với các nàng, nhưng có lẽ bởi được dưỡng dục dưới mái trường Công giáo, nói đúng ra, nơi tiểu chủng viện, nên quan niệm luân lý Công giáo ảnh hưởng, nếu không muốn nói là điều hành nhận thức cũng như giới hạn lối sống, liên hệ của mình hầu như nơi mọi phương diện. Cháu hiểu được bản năng tự nhiên của con người là đàn ông cần, thích, đàn bà và tương tự, đàn bà cần và thích đàn ông, nhưng lại cảm thấy cuộc đời buồn chán, ngày ngày sáng đi làm, chiều về ăn, ngủ, rồi lại sáng đi làm. Cuộc đời như thế quả là đáng nản, chẳng chi hưng phấn. Hơn nữa, cháu cảm nhận hình như có điều gì lôi kéo cháu nên cứ lỳ ra kiếm cách sống qua ngày và chờ đợi, chờ đợi điều gì xảy đến cháu cũng không biết. Nói cho đúng, cho đến lúc này, cháu cũng không biết mục đích cuộc đời của mình là gì dẫu đã nhiều lần tự hỏi. Thế nên, thái độ của cháu đối với cuộc đời chính là một sự thách đố, đồng thời muốn kiếm tìm sự khao khát nào đó mơ mơ màng màng lôi kéo tâm tư.

- Riêng về phương diện tình cảm với cô bé này, dĩ nhiên, với tâm lý thanh niên, như bác đã từng trãi qua, ai không thấy hưng phấn khi quen biết hoặc thân thiết với nàng nào đó hợp với mình nơi phương diện nào đó. Có điều, đối với các nàng, dẫu nhiều khi lãng đãng nói năng ám định thân thiết, cháu chỉ coi các nàng như những em gái nên không muốn chìm sâu vào cảm tình trai gái yêu đương, hoặc bất cứ gì tổn hại đến tâm tưởng của họ. Cũng có thể thái độ tránh tình, tình theo nên cháu trở thành cuốn hút hơn đối với các nàng chăng. Nếu đó là sự thực hiển nhiên, thì cũng là phận số, dẫu cháu không có chút ý định tán tỉnh nhăng cuội làm phiền bất cứ ai.

- Có bao giờ anh nhận thức được cảnh giới cao nhất của tình yêu đó là không dám đối mặt với người mình yêu không?

- Cháu tự kiểm chứng tâm tình của mình với câu nói, “Cuộc sống không có tình yêu giống như một hoang mạc,” nhưng hình như tình yêu của cháu không được dành cho một người đàn bà mà lòng cứ cảm thấy phiền hà khi thấy người người lầm than kiếm sống. Cháu muốn làm một cái gì may ra có thể cho họ có cuộc đời khấm khá hơn. Thực ra, sinh mệnh con người thì ngắn ngủi, nay cháu đã hơn kém 30 nào biết nói chi hơn, và điều khó khăn nhất là cháu chưa xác định được mục đích cuộc đời của mình. Sống để mà sống quả là nhàm chán.

- Tình yêu là thứ không thể nào quên được, nhưng vẫn có thể bỏ được. Còn tình yêu thực sự thì không cần nhớ đến, nhưng lúc nào cũng sống với nó, cho nên không có vấn đề quên hay từ bỏ. Thế anh có cảm thấy lo lắng gì không?

- Nếu có lo lắng gì thì cháu không theo bác tới đây. Như bác đã biết, hình như cháu đã nói, cỡ sáu tháng hay một năm sau cháu mới quyết định ở lại hay ra đi sao! Nói đúng ra, lo lắng chính là điều vô bổ đối với cháu. Tính toán, nhận định, và quyết định, mới là vấn đề. Do đó, cháu thách đố với cuộc sống, dám thử bất cứ gì nếu không làm phiền hà tới người khác; bởi cháu không muốn phải ăn năn vì những gì mình đã không dám thử.

- Thế anh nghĩ thế nào về tiền bạc, tài sản?

- Cuộc đời mới quan trọng; đã có thởi gian suốt sáu tháng, sáng nhịn, trưa rình mò ăn chực, tối uống nước lạnh đi ngủ mà vẫn còn sống thì tiền bạc chi là con ở chứ không thể là điểm đích cháu kiếm tìm; bởi cháu cũng nhận thức được kẻ nào cho rằng tiềm bạc làm được mọi sự thì họ cũng dám làm tất cả, kể cả muối mặt làm mọi sự để có tiền. Đối với cháu, làm gì thì làm sao cho hợp thời hợp cảnh, miễn sao lương tâm không cắn rứt hoặc phải hối hận. Thành công hay thất bại, chuyện phải đến tất nhiên xảy ra, cố tránh cũng chẳng thoát. Abraham Lincoln có câu nói, “Đừng buồn vì bụi hoa hồng có gai mà hãy vui vì trong bụi gai có hoa hồng,” quả thực sâu sắc. Qua mấy năm nay, cháu học được khá nhiều bài học sống động và nhận biết rõ trường đời là cơ hội nên cần mở rộng lòng để đón nhận.

- Thế anh có nhớ tới cô Lan ở Thanh Sơn, Gia Kiệm không?

- Cháu phải tự cảm ơn mình vì đã không một lần lãng đãng ăn nói đò đưa với cô ta nên không gì tiếc nuối, ăn năn hay ân hận. Có duyên thì gặp, không nợ thảnh thơi. Bác thử nghĩ, cuộc sống hôn nhân đâu giống như hạnh phúc mình mơ tưởng, mà trên răng dưới dép như cháu, khi chén bát đụng nhau sao có thể chấp nhận được dẫu chỉ lời nói nhẹ khinh khi. Có lẽ tự ái nơi cháu quá cao.

- Anh đọc được mấy cuốn sách rồi?

- Mới có mấy cuốn à. Thoạt tiên khi nhận sách từ bác, cháu nghĩ chỉ nội một tuần là xong hết, nhưng ngay từ tối hôm đầu tiên lúc vừa lật mấy trang đầu cuốn Lão Tử Tinh Hoa, đụng câu, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri; biết, không nói; nói, không biết,” cháu sửa lại là “Người biết không nói; kẻ nói không biết;” đã khiến đầu óc cháu lùng bùng. Cũng cảm ơn bác đã phân tích biết và hiểu lúc nãy. Hình như, cháu cần thêm thời gian để xem xét sự liên hệ của tư tưởng đạo học Đông Phương với Phúc Âm. Cháu đã đọc bộ sách Life and Teaching of the Masters of the Far East bằng Anh ngữ đã khá lâu, nhưng ngày đó đọc chỉ để cho hiểu giống như đọc những sách khác. Nói cho đúng, cả bộ sách đó cháu chỉ nhận được một điểm đó là tác giả dùng sinh vật để minh chứng có một quyền lực, năng lực tối thương đang hoạt động nơi mọi sự, được gọi là sự sống, sự hiện hữu. Sự thể này trùng hợp với câu Phúc Âm “Ta là đường, là sự thật, và là sự sống.” Bộ sách dùng tài liệu biên khảo sắp xếp thành sự việc được coi là hành trình đối diện các vị chân nhân mang nặng ảnh hưởng nơi lý thuyết rao giảng Kytô giáo, nặng phần tâm linh theo kiểu “fiction” Tây phương, phần nào khuyến khích nhận thức thực thể con người áp đặt trên đối tượng. Mấy cuốn khác nơi các bản Việt ngữ cũng thế, giảng giải sách đạo học, tâm linh dưới quan điểm hữu vi, nhân sinh. Thiển nghĩ, khuyến khích hay thách đố độc giả suy nghĩ, suy tư để nâng cao nhận thức hầu thức ngộ thì tốt hơn. Nhưng biết nói sao hơn, tác giả chưa ngộ thì chẳng khác gì “Kẻ nói không biết” mà thôi.

- Nhận thức của anh quả thật là thú vị. Anh có thể nói lý do nào dẫn đến nhận thức và cách đọc sách của anh được không?

- Có gì lạ đâu thưa bác, vì cháu thích đọc sách bởi muốn thăng tiến nơi tiếng Anh và tiếng Pháp. Riết rồi những quan niệm, nhận định, hay lý thuyết, chủ thuyết thâm nhập vào đầu cháu, nên khi nói chuyện với bạn bè cùng lớp, vô tình cháu xổ ra những điều khác lạ hoặc đối nghịch với quan điểm của họ đến nỗi họ đặt danh hiệu cho cháu là óc thối. Ở tuổi mới lớn mà, tâm trí còn đang mở rộng để thâu thập. bất cứ những gì thấy thuận lý, hợp tình là được in trí và thuận theo. Chẳng hạn, theo luân lý, đạo đức, chúng ta chi chấp nhận một vợ, một chồng trong khi quan niệm, “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng,” cứ nhan nhản nơi văn chương và trở thành thành ngữ trong cuộc sống dân gian. Đồng ý rằng, trong cuộc sống sự thể đa thê hoặc vợ nọ con kia không thiếu nơi đất nước Việt Nam; đàng khác, trên thế giới cũng có những phong tục đa phu, nhưng trong giới bạn học tuổi thanh thiếu niên chỉ toàn là nam, đang độ phương cương phát triển do đó cố níu kéo phần ưa thích về cho mình dẫu chỉ là lời nói cho qua. Hơn nữa, thói quen tạo thành tập quán lâu dần tạo quan niệm, chiều hướng, cháu thấy không nên, do đó lên tiếng điều chỉnh, và vì khác quan điểm nếu không nói là đối nghịch nên bị cho là đầu bùn.

- Hơn nữa, có những điều mới nghĩ ra, cháu tưởng là mình có được ý tưởng mới, còn đang suy tới, tính lui sao cho hợp lý, hợp tình và sao có thể áp dụng trong cuộc sống; thì đùng một cái, nơi cuốn sách nào đó mượn từ thư viện, nó đã chình ình nằm đó cả trăm năm. Càng đọc, càng thấy nhiều điều chưa biết nên càng thích đọc. Đọc sách vừa tăng thêm kiến thức vừa trau giồi ngoại ngữ. Tuy nhiên, đọc nơi sách Anh, sách Pháp, tác giả dùng lý luận nối kết thực nghiệm đoạn phân tích, diễn dịch rồi tổng hợp kiến tạo tri thức mới theo đường lối trình bày kỹ thuật thực nghiệm, khiến độc giả ít nhất có cảm tưởng hiểu được một cách rành mạch. Cháu nói, tưởng hiểu được rành mạch, chứ không chỉ cách cho độc giả làm sao có thể cảm nghiệm, cảm nhận thực sự sự thể đó như thế nào nơi mình. Thí dụ nơi bộ Life and Teaching of the Masters of the Far East, tác giả Baird Thomas Spalding, mà cuốn đầu tiên được Nguyên Phong dịch thành Hành Trình về Phương Đông, tác giả nêu lên sự kiện những con nhệch (lươn biển) được sinh sản tại đảo Bermuda chưa kịp lớn đã cắm đầu cắm cổ bơi về sinh quán của cha mẹ chúng rồi đưa lên vấn đề, “Ai đã ban cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên phải không các bạn?” Tác giả chỉ nêu lên sự kiện cho độc giả chiêm ngưỡng chứ không nói gì về sự liên hệ của quyền lực hướng dẫn những con nhệch bé bỏng ấy với độc giả. Sách Tây phương trình bày sự kiện như một quảng bá tư tưởng, quan niệm, nhận thức mà thôi.

- Nhưng, nếu đã quen đọc sách Tây phương, khi đối diện với sách Đông phương, thế là bù trớt. Những năm tháng trước, cháu thích đọc sách Anh, sách Pháp hơn vì đọc những sách dịch từ các kinh theo lối đọc sách Tây phương, cháu không thể nào hiểu được họ nói gì. Cháu học nơi tiểu chủng viện Công giáo, tham dự lễ nghi Công giáo và nghe các cha giảng giải Phúc Âm nhiều khi không chấp nhận được. Ngày xưa, khi còn học lớp đệ lục, đệ ngũ (lớp 7, 8) cháu có ý định đi tu làm linh mục. Qua sự giao tiếp tìm hiểu mỗi khi có dịp gặp các vị tu sĩ, linh mục, hỏi ra mới được trả lời là đi tu để cứu rỗi các linh hồn. Không dám hỏi thẳng, cháu tự tìm hiểu linh hồn là gì; linh hồn của cháu thế nào, liên hệ đối với cuộc đời, xác thân cháu ra sao thì không sách nào viết về sự minh chứng con người có linh hồn; chỉ có giáo lý nói linh hồn là tính thiêng liêng. Nơi nhà thờ, nhà trường, những lớp học giáo lý, cũng không ai đá động đến tính chất của linh hồn, chưa bao giờ cháu đọc được nơi sách vở hay nghe được bất cứ ai minh chứng con người có linh hồn. Thế là cháu bỏ ý định đi tu. Đi tu để cứu linh hồn người khác trong khi không biết linh hồn mình là cái gì thì cứu chi, chẳng khác gì “Kẻ nói không biết.” Mà đúng thật, họ nói điều họ không biết.

- Rồi có dịp đọc những cuốn sách viết về thành ngữ, tục ngữ, ca dao, phong dao của dân Việt, giời, một số tác giả viết những bài khảo luận và nhận định đều cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân, vô học, chân lấm tay bùn, tối ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Ngay như Nguyễn Tấn Long và Phan Canh cũng thế, họ cho rằng, “Các nhà nho học cũng đã dùng chữ nôm ghi nhận những mẫu tâm tư của lớp bình dân qua các bài khảo lục.” (Thi Ca Bình Dân VN; I. Nhân Sinh Quan; Xuân Thu; CA, USA; năm? Tr.14).

- Anh nói sao, Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân?

- Cháu đang muốn nói về một số tác giả các bài khảo luận, nhận định, một số tác giả cho rằng Tục Ngữ Ca Dao là sản phẩm của giới bình dân VN; chẳng hạn,

“Minh Hương trong cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội dùng Tục Ngữ, Ca Dao với mục đích "tìm về nguồn cội" (tr. 9) "Giới thiệu... cái độc đáo, cái cao đẹp, cái thâm thúy và cả muôn vàn kinh nghiệm xác thực quí báu chứa đựng trong những bài thơ nhỏ một bộ phận của nền văn chương truyền miệng" (tr. 7). Minh Hương cho rằng Tục Ngữ, Ca Dao, nền thi ca truyền miệng đã có từ thời lập quốc: "Như chúng ta đã biết, văn chương truyền khẩu đã xuất hiện rất sớm, vào cái thuở bình minh của dân tộc mới thành hình..." (tr. 8). Tác giả cuốn Hoa Đồng Cỏ Nội đưa ra nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao là một phần văn chương bình dân (tr. 9) hay văn chương đại chúng (tr. 8) "do tập thể sáng tác, bổ xung, sửa chữa và phổ biến liên tục." Nền văn chương này "đã góp phần đánh ngã được chánh sách đồng hóa thâm độc của người ngoài và đã kiên quyết bảo tồn được nền văn hóa dân tộc" (tr. 9). Mặc dầu tên gọi "văn chương dân gian," tác giả nhận xét Tục Ngữ, Ca Dao "là bộ bách khoa bình dân truyền miệng. Trong khi góp nhặt, phân tích, xếp loại và tìm hiểu những câu thơ truyền miệng ấy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà nhận thấy nền Văn chương dân gian đã đề cập gần đủ các ngành, các khoa: Y Dược, Sinh lý, Canh nông, Nghề nghiệp, Thiên văn, Vạn vật, Kinh tế, Di truyền, Tâm lý, Phân tâm v.v..." Theo Minh Hương, Tục Ngữ, Ca Dao phát xuất từ giới bình dân: "Người bình dân thường gần gũi với thiên nhiên, tháo vát với công việc lao động hằng ngày, không bị tiêm nhiễm sâu sắc một giáo lý, một tư tưởng nào trong sách vở nên họ rất đổi thực tế trong tư tưởng và trong cả hành động nữa. Sống thì đơn sơ, nói năng thì bình dị nên văn chương đối với họ cũng phải 'Văn hay chẳng lọ đặt dài, vừa mở đầu bài đã biết văn hay.' Thật thế, họ có thì giờ đâu mà 'con cà, con kê, con dê, con ngỗng' họ chỉ 'ăn một đọi, nói một lời.' Nói như thế, văn của họ đâu có phải cộc cằn, lúng túng, trái lại họ rất sành sỏi trong việc lựa chọn chi tiết thích thú để lôi cuốn người nghe. Nhiều khi họ lại táo bạo dùng nhiều hình thức mỹ từ để câu thơ trôi chảy một cách duyên dáng ý nhị hơn" (tr. 253).

Bảo Vân quan niệm Tục Ngữ, Ca Dao có trước thời kỳ Trung Hoa đô hộ và do những người bình dân diễn tả tư tưởng, tâm tình bằng những câu văn truyền miệng: "Riêng về mặt Văn học, Tổ tiên chúng ta đã học chữ Nho, viết chữ Nho, hấp thụ tư tưởng và học thuật của bọn người thống trị. Mãi tới đầu Thế kỷ thứ 13 (đời nhà Trần) mới có một số Nho sỹ Việt Nam, mô phỏng theo văn thơ chữ Hán mà sáng tác ra một số thi ca bằng chữ Nôm. Tuy vậy trước đó, những người bình dân đã đem tư tưởng, tâm tình của mình ra mà diễn tả bằng những câu văn vần rồi truyền miệng đi với nhau. Đó chính là hình thức đầu tiên của Tục Ngữ và Ca Dao. Trải qua năm, tháng, các câu đó được thêm bớt, sửa chữa, gọt giũa để rồi tới ngày nay, chúng ta đã có một kho tàng vô cùng quý giá trong nền Văn học Bình dân..." (Tục Ngữ Ca Dao và Dân Ca; tr. 3)”.

Nơi phần "Nhận Xét Chung về Ca Dao," Đào Vân Hội cũng cho rằng Ca Dao là sản phẩm của dân quê: "Ca dao tức là những câu hát thông thường của dân gian, là sản phẩm chung của dân tộc, truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ kia, là tiếng nói của tâm hồn nam nữ ở những nơi đồng lúa, rừng rú, núi đồi" (Phong Tục Miền Nam qua Mấy Vần Ca Dao; tr. 7). Nguyễn Tấn Long và Phan Canh có đồng quan điểm về văn học bình dân như tiếng nói phản ảnh của giới bình dân: "Trái ngược với văn học bác học, nền văn học bình dân phản ảnh tâm tư đại đa số quần chúng nghèo khổ, dốt nát, tiếng nói của họ là tiếng nói chung của lớp người cùng sống trong một hoàn cảnh, mà cũng là tiếng nói chân thành nhất của mỗi dân tộc trong sinh hoạt xã hội" (Thi Ca Bình Dân Việt Nam; tập 1; tr. 12).

Nguyễn Hữu Nghĩa, Diệu Tần, Minh Đạo, và Triều Khê trong những bài viết nơi Nguyệt San Làng Văn số 102 tháng 2 năm 1993; Toronto, Canada có những quan điểm hơi khác về Tục Ngữ, Ca Dao. Theo Nguyễn Hữu Nghĩa, "...bên cạnh đó, văn chương truyền khẩu lại rất phong phú, và là phương tiện phổ biến một phần các sáng tác của nhà nho..." (Làng Văn; số 102; "Sơ Thảo về Tục Ngữ, Ca Dao;" tr. 12). Diệu Tần cho rằng: "Không như văn chương bác học, văn thi sĩ thường chọn câu lựa chữ đẽo gọt lời ý rất chau chuốt; văn chương bình dân đơn giản, mộc mạc nhưng không thô tục." (Làng Văn; số 102; tr. 41). Nơi phần cuối bài viết khi đưa lên "cái khôn, cái nghịch ngợm dí dỏm của phái nam," Diệu Tần viết tiếp: "Tuy là tưởng tượng nhưng anh nông dân đã khéo dùng ngoa ngữ để biểu lộ tình thương yêu..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Những Chữ Tài Tình Trong Ca Dao;" tr. 43). Có thể nói Diệu Tần cũng đồng ý kiến Ca Dao phát xuất từ giới bình dân mặc dầu quan niệm "Ca dao là thơ là nhạc của đại chúng được gạn lọc qua nhiều văn thi nhạc sĩ khuyết danh" (tr. 41). So sánh một số câu Tục Ngữ, Phong Dao được phổ biến nơi miền Nam và miền Bắc Việt Nam, Minh Đạo xác quyết văn chương bình dân do người bình dân sáng tác: "Người bình dân miền Nam dùng nhiều câu, nhiều tiếng gốc Hán hơn người bình dân miền Bắc..." (Làng Văn; số 102; 1993; "Vai Trò của các Tiếng, các Câu Gốc Hán trong Văn Chương Bình Dân VN;" tr. 45). Minh Đạo đưa ra nhận xét văn chương bình dân là thành lũy ngăn chận văn hóa Hán cho nên ngày nay chúng ta có ngôn ngữ Việt mà không phải học tiếng Tàu: "Trong gần 1000 năm đô hộ người Việt, văn hóa Trung Hoa đã ảnh hưởng rất sâu đậm nơi triều đình và các tầng lớp sĩ phu, nhưng lại không thấm nổi xuống tầng lớp quần chúng. Cuối cùng người Trung Hoa bại cả về quân sự lẫn văn hóa. Nhờ thế ngày nay chúng ta mới có ngôn ngữ văn tự mà nói, mà viết, không cần phải học tiếng Tàu." (tr. 47-48). Trong khi Triều Khê lại quan niệm hơi khác qua bài viết "Cụ-Thể-Hóa và Kịch-Tính Trong Ca-Dao": "Trái với văn chương bác học, văn chương quần chúng là ca dao, không đủ từ ngữ trừu tượng để diễn tả ý tình, cho nên các tác giả khuyết danh của ca dao đã lấy những gì tả thực, có đủ kích thước ba chiều, để đưa vào những câu thơ bình dị." (Làng Văn; số 102; tr. 48). Tuy thế, qua bài viết, Triều Khê cho rằng hai đặc tính cụ thể hóa và kịch tính của Ca Dao có thể đã là nguồn phát xuất cho các bộ môn khác: "Thế mới biết, người Việt chẳng những đã giàu hồn thơ, mà ca-dao còn có kịch tính. Có lẽ chính vì hai đặc-tính này mà sau ca-dao, các bộ môn ca nhạc kịch bình dân như tuồng, chèo, hát bộ, cải-lương,... đã phát-triển mạnh và phổ-biến rất nhanh" (tr. 51).” (Trích từ Hương Hoa Dân Việt; Lã Mộng Thường; Xuân Thu; CA, USA; 1993; Tr. 5-8).

- Đọc Tục Ngữ, Ca Dao thấy phê ơi là phê, thế mà các vị ấy nhận định như vậy khiến cháu đặt vấn đề, tự mình suy nghĩ, vì nói điều gì, viết sự chi cần phải sao cho hợp lý, thuận tình. Thử hỏi bác, sao người dân quê khởi xướng được câu nói, “Khôn ngoan ở chốn nhà bay; dù che ngựa cưỡi, đến đây cũng hèn;” ai là người có đủ vị thế để nói lên câu ấy, thế nên, gặp được câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa,” cháu thấy tuyệt vời không bút giấy nào tả xiết. Chính gia tài Tục Ngữ, Thành Ngữ, Phong Dao, Ca Dao khuyến khích cháu suy tư nhiều hơn khi đọc sách. Tuy nhiên, đúng là “Cao nhân tắc hữu cao nhân trị.” Đụng đến kinh sách Đông phương đầu óc cháu trở thành mù tối, bí cứng, không biết cách nào xoay xở. Thí dụ, cháu nghĩ bác biết bộ Kinh Thánh của Kytô giáo được phát xuất ở Trung Đông và đặc biệt nơi phần Tân Ước có những câu ngang ngược, kỳ cục; chẳng hạn, “Ai có tai thì nghe,” cháu đếm được tám lần (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Một câu ngờ nghệch như thế mà những tám lần được nhắc đi, nhắc lại nơi Phúc Âm nhất lãm. Đến khi vô tình đọc nơi cuốn nào chả biết, thuộc sách nhà Phật, hình như nơi kinh Kim Cang thì phải, lại gán nơi miệng Thích Ca câu, “Lời ta nói như chiếc bè,” và đồng thời cháu cũng phải ngỡ ngàng với câu, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng.”

- Ai chả biết thế; chuyện đơn giản, bình thường như vậy đâu cần phải in vào kinh sách. Thế nhưng, khi đặt vấn đề tại sao phải dùng câu ngây thơ đó để nhắn nhủ, nó mới khơi ra ý định thâm trầm của câu nói. “Lời ta nói như chiếc bè, ngón tay ta không phải mặt trăng,” thách đố độc giả, hành giả tự mình tìm kiếm, theo dõi, chứ cái bè, ngón tay của ta, không phải là đích cho người đọc nhắm tới. Phúc Âm thì thâm trầm hơn, “Ai có tai thì nghe,” hiểu sao thì hiểu, biết được gì thì biết. Một hôm, chẳng hiểu sao cháu lại ngang ngang cò bứa đặt câu hỏi, tại sao lại nói “Ai có tai thì nghe;” chẳng lẽ có tai như không có tai, và cái tai có thể tự nó nghe được không? Mấy câu hỏi này cứ luẩn quẩn nơi tâm trí, và thế rồi cháu nghe tin đâu đó có người chết. Câu trả lời đến với cháu, tai hết nghe, và như vậy, tai chỉ là phương tiện cho cái gì nghe chẳng khác chi cái bút. Mình nói ai viết chứ không ai nói cái bút viết mặc dầu bút dùng để viết. Và từ nhận thức quá tầm thường này, cháu đặt vấn đề về cái gì dùng cái tai để nghe, cái đó liên hệ đến thân xác, cuộc đời cháu thế nào, cũng như hoạt động của cái đó ra sao, để rồi cháu chứng minh được một cộng một bằng ba. Ba là một và một cũng là ba, bất khả phân ly ngoại trừ chết.

- Một cộng một là ba nghĩa là sao?

- Thì cái hồn dùng cái tai để nghe, dùng cái mắt để nhìn, dùng cái miệng để nói, dùng bộ óc để truyền tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ.

- Anh không tin vào khoa học à?

- Các ông khoa học gia vẫn cứ vênh váo cho rằng tai nghe, miệng nói, mắt nhìn, óc suy nghĩ như mọi người, nhưng đã không thèm suy nghĩ; nên họ có biết cái hồn của họ là gì đâu. Bác thử nghĩ, các ông ấy nói óc suy nghĩ. Bộ óc thuộc về vật chất, mà vật chất thì không thể phát sinh tư tưởng, ý định, ước muốn. Nếu vật chất có thể suy nghĩ thì sao các ông ấy có thể ở trong nhà, hoặc coi chừng đêm đang ngủ bị hất tung ra khỏi giường. Thử hỏi, khi cái hồn rời khỏi cái xác, các ông ấy còn có thể, nghe, nói, nhìn, suy nghĩ được nữa không?

- Thế 1+1,

- Bình thường, ai chả biết 1+1=2; nhưng, bác thấy đó, nếu cái xác không, chỉ đem chôn; nếu chỉ hồn không, thì ai biết đấy là đâu. Tuy nhiên, khi hồn nhập vào xác lại phát sinh ra ước muốn, tham vọng, yêu thương, ham hố, tựu trung gọi là tâm trí. Như thế, một cộng một không ít nhất bằng ba thì bằng gì. Nó cũng chính là cái đạo âm dương nhất nguyên, hai nửa âm dương trong một vòng tròn, tăng trưởng đối nghịch nhưng không hề tách rời nhau, cũng chính là tâm điểm của dịch, của mọi sự biến chuyển. Cháu không ngờ, cái câu, “Ai có tai thì nghe,” lại thách đố người ta suy nghĩ, suy tư thâm trầm đến như thế. Chính lúc nãy khi bác phân tích, phân cốc “biết và hiểu” cháu mới nhận ra “Kẻ nói không biết” là thế nào, thì thấy nó lại liên hệ ám định với câu ca dao, “Đầu ngòi có con ba ba; kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Người dân quê chân lấm tay bùn, suốt ngày mặt bán cho đất, lưng bán cho trời dưới ánh nắng gay gắt, thì sao có thể phát sinh câu nói đối nhau từng cặp chữ chát chúa như thế. Giả sử lúc này, bác hay cháu thấy con ba ba đầu ngòi thì chỉ một phản ứng ắt có và đủ, và đó là bắt chú ta về làm thịt, xào nấu uống rượu chứ hứng thú nào mà nghĩ đến người nói thế nọ, kẻ tuyên truyền thế kia. Có lần khi nghĩ tới câu này, cháu đặt mình vô trường hợp vô tình thấy chú ba ba nơi đầu ngòi nên giả sử phân tích phản ứng sẽ ra sao, chợt thấy hứng thú với ý nghĩ, “Đầu ngòi thấy con ba ba, bắt về làm thịt tha hồ nhậu chơi,”chẳng có giờ nào mà nói đến người này, kẻ kia chút nào. Cháu cũng là sinh viên, sinh hòn rồi chứ bộ mà chỉ có thể phản ứng như thế phương chi đối với dân quê thì sao. Đúng là “Kẻ nói không biết.”

- Vậy anh nghĩ thế nào về Tục Ngữ, Ca Dao?

- Cháu nhận thấy những câu Vè, Phong Dao, Thành Ngữ, Tục Ngữ, Ca Dao, phải là sản phẩm của các bậc trí giả, thức ngộ tuyệt vời từ ngàn xưa tức cảnh sinh tình nên hứng khởi cảm ứng viết thành những câu nói lồng trong thể thức thơ văn. Những câu này mangý nghĩa ám định nơi những trường hợp độc lập nào đó nên dễ nhớ, thuận miệng phát biểu nơi ngôn ngữ Việt, nên được truyền bá rộng rãi nơi dân chúng. Bác thử nghĩ, nơi một xó rừng, một hốc bà tó nào đó, có anh dân quê và chị lầng nhầng nào đó hợp ý, thuận tình lên tiếng đối đáp dưới ánh nắng gay gắt, mồ hôi nước mắt đầm đìa thì lấy gì mà ghi chép lại. sao có thể phổ biến, và năng lực cảm ứng nào có thể phát sinh những câu đối đáp hoặc câu vè tuyệt vời lại mang đầy sắc thái văn chương như vậy? Đúng là mấy ông học giả chứ không phải học thiệt, chẳng khác gì các nhà khoa học, khoa môi múa mép tầm bậy, thiếu nhận thức, nghiệm xét.

- Thật là thú vị, hèn chi anh học ban C. Thế sau này anh có theo ban Văn Khoa ở đại học không?

- Cháu ghi danh theo học hàm thụ bên Văn khoa trong thời gian đi nghĩa quân.

- Tại sao đi nghĩa quân trong khi anh có tú tài hai?

- Có gì đâu bác, vào năm 1972, cháu đã xong tú tài I, ngay cái mùa hè đỏ lửa đó, sĩ quan vừa tập tễnh ra đơn vị thì đã được phủ tấm cờ vàng kèm thêm danh hiệu “Tổ quốc ghi ơn,” cháu bị rơi vào lệnh động viên, lại muốn học cho xong tú tài II nên giấu biệt văn bằng, và bỏ nhà vô miền Vũng Tàu tham gia nghĩa quân vì có bà chị họ lập gia đình sinh sống ở đó. Thế rồi nhờ khả năng sinh ngữ, làm thêm công việc dịch công văn, giấy tờ từ Anh sang Việt nên cũng vương giả lại được ưu đãi thì đi sĩ quan làm chi cho mau được phủ cờ trở về. Đại khái cũng chỉ là sợ chết non mà thôi, nhưng đúng ra chẳng những sợ chết mà còn e bố mẹ cháu đau lòng. Và thế rồi đang dang dở năm thứ hai Văn khoa, 30 tháng tư ập tới nên giờ đang ở đây.

- Anh có thể minh chứng Tục Ngữ, Ca Dao là sản phẩm của các bậc thức giả không.

- Khó gì đâu bác, cháu theo Văn khoa ban Hán Việt, tất nhiên phải học tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh, thường được gọi là truyện Kiều của cụ Nguyễn Du. Trong vè có câu, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” đó là vế cuối của hai câu kết nơi truyện Kiều, “Thiện căn ở tại lòng ta; chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.” Thử hỏi bác, là dân quê, không biết ngay cả ký cái tên của mình thì làm sao biết được thế nào là chữ tâm, thế nào là chữ tài. Hơn nữa, câu nói ám định về tâm thức so sánh với khả năng học vấn, tài năng, thì ngoài công việc đồng áng, cuốc đất vạt khoai, khai mương, xẻ rãnh, sao có cơ hội dầu chỉ nghĩ tới tài, phương chi tâm. Thế mà một số nhà học giả, học thiệt, dám cả gan cho rằng những câu nói thuận miệng, mang đầy tính chất bình dân, văn vẻ ấy là sản phẩm của những người không biết chữ nhất bẻ đôi là gì thì có bực sôi máu lên không. Đúng là trí thức với trí ngủ, chán mớ đời, tôi thở dài. Bác có nhớ đã một thời giai thoại “Chicken soup” không?

- Tôi biết chứ, tôi biết luôn cả gốc gác và biến thể của bài thơ “Hà Nội Tức Cảnh” của thi sĩ Dương Khuê nữa. Số là Dương Khuê, tiến sĩ, làm quan thời nhà Nguyễn. Bài thơ của ông ấy được viết là,

“Phất phơ ngọn trúc trăng tà,

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương.

Mịt mù khói tỏa ngàn sương,

Tiếng chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.

Ở Hà Nội có ngõ Thọ Xương và làng Thọ Khương. Nhưng nơi Huế lại có chùa Thiên Mụ bên bờ sông Hương và làng Thọ Xương nơi bờ bên kia. Thế rồi sau này trên báo Nam Phong lại có mấy câu thơ,

“Gió đưa cành trúc la đà,

Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.”

- Nói cho đúng, tôi cũng đồng ý với nhận định của anh, Tục Ngữ, Ca Dao gốc gác là những lời văn thơ của các bậc thức giả được truyền bá trong dân gian đôi khi bị hay được chuyển dịch hay đổi chữ, hoặc danh địa cho hợp với địa phương hay ý nghĩa ám định nào đó. Chẳng hạn câu tục ngữ, “Dâu ông ném tằm bà,” câu nói chỉ về sự bày tỏ ý tình lại bị nói thành, “Râu ông cắm cằm bà,” mang nghĩa tréo ngoe nơi cuộc sống. Tìm hiểu và thâm trầm nhận định chín chắn, chúng ta mới thấy đặc tính linh hoạt, sắc sảo, cũng như sức sống lạ kỳ nơi giòng giống dân Việt. Đọc lịch sử anh nhận biết, từ bao đời trước, Trung Hoa xâm chiếm mấy lần tổng cộng hơn kém 1008 năm đô hộ và cố đồng hóa dân Việt nhưng kết quả thế nào? Thời kỳ đô hộ dài nhất là hơn 700 năm, từ năm 111 trước Công nguyên tới năm 602 sau Công nguyên, họ có đồng hóa được mình không hay lại bị mình đồng hóa ngược lại nơi văn học. Mình đọc được chữ Hán Nho của họ, họ có đọc và hiểu chữ Nôm của mình không. Anh thấy rõ, tiếng Việt của mình bây giờ, mấy dân tộc láng giềng mơ tưởng và cố gắng bỏ công sức suy nghĩ kiếm cách nọ, kiểu kia, hầu thay thế chữ lăng quăng khó sử dụng, rườm rà ngô khoai, phát âm chồng chéo, bằng chữ Latinh mà có được đâu. Thử hỏi, nếu anh sống ở Trung Hoa, Đại Hàn, Đài Loan, Nhật Bản, hay Lào, Căm Bốt, Thái Lan, biết được tiếng nói của họ thì phải bao lâu mới viết được? Trong khi tiếng Việt mình, nếu đã biết nói, tôi bảo đảm với anh, chỉ nội tối đa hai tuần, mỗi tuần 10 tiếng học đánh vần, ghép chữ, là có thể đọc truyện, đọc sách ngôn ngữ Việt được. Nhưng, đất có tuần; dân có vận; không biết Trời định cho dân Việt mình rơi vào vận hạn này những bao lâu nữa; tiếng than hòa lẫn mồ hôi, nước mắt bốc hơi vượt quá cả ngàn tầng trời, nào biết sao hơn. Anh chưa nhận rõ thao thức nơi anh, nhưng tôi nhận biết qua gần hai năm dẫu vô tình theo dõi. Đâu phải vô lý mà tôi rủ anh về đây; tất nhiên, anh cũng biết ý định của tôi là không tự nhiên rước anh về làm của nợ đâu. Nhưng mệnh trời, đành chấp nhận đánh bạc với ông Xanh theo bước chân của tiền nhân dân Việt. Còn thành quả ra sao, tôi không dám nghĩ tới, chỉ biết làm những gì mình cho là phải và trong tầm tay với mà thôi. Có điều, tôi thành thật yêu cầu anh kiên nhẫn, chịu đựng trong thời gian đọc sách ít hôm. Mình sẽ nói chuyện sau. Thôi, cũng đã muộn rồi, chúng ta đi nghỉ.

Kinh Viên Giác, Kim Cang Đại Định, hai cuốn này thuộc Kim Cang Đại Thừa. Có lẽ hai tác giả không biết “Kiến tính thành phật” nên còn giải thích, giải nghĩa, đảnh lễ, phải tu hạnh, phải lắm thứ, nào chứng, nào đắc. Thế là quên luôn cái duyên. Thử hỏi, nhận thức không thể học, chẳng thể dạy, không thể cầu, thì nếu không có duyên lại càng luẩn quẩn vô minh. Nếu cứ theo pháp mà hành thì sao mà định. Thế rồi, ngay đầu sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, cụ Nguyễn Duy Cần trích lời Dịch Kinh, “Sách không hết lời, lời không hếtý,” và thêm một đoạn của Trang Tử, “Có nơm là vì cá; đặng cá hãy quên nơm. Có dò là vì thỏ; đặng thỏ hãy quên dò. Có lời là vì ý; đặng ý hãy quên lời. Ta tìm đâu đặng người biết quên lời, hầu cùng nhau đàm luận.” Đã “Đặng ý hãy quên lời,” mà cụ ND Cần còn giải thích, giải nghĩa chi cho mệt. Dịch hay diệt thì cứ để độc giả tự nhiên quên lời dẫu đặng ý hay không. Xem ra, cái duyên của nhà Phật không còn chỗ đứng. Vì nếu cứ cố gắng tu tập mà có thể kiến tính thì đâu cần duyên. Đàng khác, nếu đã “Kiến tính thành phật” rồi thì đâu cần các pháp của Viên Giác hay Kim Cang cho dù đại định hay tiểu định, Đại thừa, hay Tiểu thừa.

Tôi tự hỏi, vậy họ viết để làm gì. Theo Lão Tử, “Trong khi Khổng thì người trị nước phải hành theo đạo hữu vi, nghĩa là chữ Lễ, tác Nhạc và ‘làm’ rất nhiều… còn bậc trị nước theo Lão, trái lại, càng ‘làm ít’ càng hay, và ‘không làm gì cả’ lại càng tốt hơn. Là vì, theo Lão, việc đời đa đoan, việc người mà rối rắm chẳng phải vì những việc người ta đã lo cho đời quá ít, mà chính vì những việc mà người ta đã lo cho đời quá nhiều” (Lão Tử Tinh Hoa; ND Cần; Tr. 62-63). Bậc trị nước là chính tôi với cuộc sống, với những tập luyện, mới mơ ước, tham vọng; chẳng khác gì kẻ đứng giữa ngã ba, ngã bốn, ngã năm, nào Phật, nào Ấn, nào Lão, lại còn cái gốc Phúc Âm nơi mình nữa. Ối giào! Nào kinh Viên Giác, kinh Kim Cang, kinh Đại Niết Bàn, kinh Lăng Già Tâm Ấn, kinh Nam Hoa, Đạo Đức kinh, Kinh Thánh, kinh Badgavad Gìta… muôn thứ kinh; kinh nào cũng tuyệt vời; kinh nào cũng giúp con người thăng tiến. Lại còn mấy cuốn Đông Phương Huyền Bí, Xứ Phật Huyền Bí, Ai Cập Huyền Bí, Tây Tạng Huyền Bí; rồi mật tông, đường tông, thêm cả ba trang ghi danh sách biên khảo nơi tập bản thảo; coi chừng, “Lắm thày nhiều ma; đông cha con khó lấy chồng” thì chỉ khổ thêm, chỉ càng rối rắm như rợ vô rừng, hay đâu, tốt đâu chẳng thấy, lỡ thành nồi cám heo thì phiền.

Suy đi, tính lại, nghĩ tới, nghĩ lui, so sánh thiệt hơn, cuối cùng tôi quyết định thử sự đơn giản nhất, “Kiến Tính thành phật,” yếu chỉ của Huệ Năng. Lục tổ Huệ Năng không biết dù ngay cả chữ ký tên của mình mà có thể là lục tổ. Thế thì sao ngài có thể đọc bất cứ sách vở nào, bỗng hốt nhiên chứng ngộ khi nghe được câu, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Kiến tính chỉ cần ưng vô sở trụ; hèn chi nhà Lão, càng làm ít càng tốt, càng không làm gì lại càng tốt hơn. Ha ha… ít nhất, tôi đã nhận ra được hai nhà Phật và Lão đồng quan điểm. Vậy còn nhà Ấn, và Kinh Thánh thì sao? Chúa của tôi đâu khác chi Brahma nơi Ấn. Các nhà Đông phương gọi linh hồn là Thượng Đế nội tại thì cũng đồng nhận thức với Atman, Thượng Đế hành động, hoạt động nơi mỗi người. Tính của nhà Phật, Tào nơi nhà Lão, Thiên Chúa của Kinh Thánh, Brahma bên Ấn học, cũng chỉ là một nơi mình mà cụ Nguyễn Duy Cần gọi “Thực Tại Siêu Việt” ở mỗi người.

Những cuốn sách tuyệt vời đến độ không thể nào áp dụng những sự việc được trình bày nơi tâm não. Thì sách nào không tuyệt vời bởi do tâm huyết của tác giả nặn trí, bóp óc viết ra, dẫu chỉ là phóng tác, tưởng tượng. Ah, hèn chi nhà Lão khuyên, “Càng làm ít càng tốt, càng không làm gì lại càng tốt hơn.” Thế sao lục tổ Huệ Năng lại bảo phải kiến tính? Cái sự “làm” nơi nhà Lão chỉ về những động tác hữu vi; trong khi “kiến” của tổ Huệ Năng là tâm tưởng nhận biết, tìm tòi. Chao ôi, mỗi đấng mỗi kiểu, mỗi thày mỗi hay, khiến cho kẻ lần mò lạc lối. Lúc thì cái tâm như hoang ngựa, khi thì đồng bản thể với Chân Như, nào quán tưởng, nào ma chướng, nào pháp, nào định, nào hành tỏi, nào thiền tông, mật với đường, rối tung lên. Câu thơ nào đó của Trần Tế Xương nổi lên ỡm ờ trong tâm trí, “Biết thế ngày xưa đi làm quách; chẳng ký không thông cũng cậu bồi.” “Cái học nhà Nho” của Tú Xương thời ấy “đã hỏng rồi,” vậy cái đọc sách của tôi sẽ đi tới đâu? Càng đọc càng rối, càng chẳng biết phải thế nào, phải suy nghĩ làm sao.

“Kiến Tính” chính là nhận thức mà nhận thức không thể cầu, chỉ có thể ngộ. Vậy ngộ làm sao nếu chẳng có duyên, há không làm chi chờ ngộ tới, ngộ mà không tới, hỏng một đời. Hừ, học võ không luyện tập sao biết đánh; đánh võ vô quyền múa huênh hoang! Muốn kiến tính, muốn nhận thức phải suy nghĩ, không suy nghĩ sao có thể ngộ. Cơ hội chỉ tới với những ai kiên trì nỗ lực trong những điều kiện mình đang cố gắng theo đuổi. Tôi đang theo đuổi gì, đã sẵn có những gì nơi bản thân? Thì ít nhất gần đệ tứ đẳng huyền đai, tiếp tục luyện võ thăng cấp rồi sẽ tính; tôi tự nhủ. Hơn nữa, còn ít sách nên đọc may ra biết thêm được gì.

Cuốn Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh có “Sơ đồ chuyển pháp luân ‘Hườn Tinh Bổ Não,’” đâu thể so sánh với chuyển vận khí huyết lúc chạy của tôi. Vận chuyển khí huyết bao gồm ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đả thông kinh mạch. Ah, không là hành thiền thì là thứ chỉ. Không, không thiền, vì thiền thuộc về tâm tưởng, tôi thực hành pháp luân; có điều tôi dẫn khí thuận chiều đốc mạch, chưa bao giờ thực hành nghịch chiều nhâm mạch. Phỏng thử vận hành dẫn khí nghịch chiều khi chạy có hậu quả tai hại chi không, tôi thầm hỏi, và quyết định thử, bởi cùng lắm, nếu đau lưng, mỏi cổ tôi đã có cách giải, “Bởi vậy, nếu ai liều mạng muốn thử, khi nào cảm thấy mỏi phía đàng sau gáy hay ê ẩm ngang thắt lưng tất nhiên đã bắt đầu bị tẩu hỏa nhập ma. Muốn chữa thì đứng thẳng người một cách bình thường, dồn hết tâm trí vào hơi thở, từ từ hít hơi dẫn vô nơi nhức mỏi trong khi hai tay theo luồng hơi đang hít vào giang ra và từ từ đưa cao ngang bằng với vai. Khi không khí đã đầy phổi, từ từ thở ra và hai tay xuôi dần xuống hai bên thân. Làm như vậy ít nhất là năm lần thì máu huyết tắc đọng nơi đó sẽ được thông” (MBVN; Tr. 230).

Cái bản thảo với ba trang ghi chú tên sách được trích dẫn khiến tâm trí tôi bàng hoàng từng chập trong khi đọc. Dẫu diễn tiến câu truyện đầy mường tưởng (fiction) nhưng lại dùng những trích dẫn thực dụng nơi diễn trình suy nghĩ, suy tư để hướng dẫn độc giả thực tập, áp dụng nghiệm chứng, thực chứng, nghiệm xét, nơi hành trình nhận thức. Bản thảo xào xáo và thách đố tâm trí độc giả vật lộn với những công án, những thực nghiệm suy tư, suy nghĩ, phân định, đồng thời thách đố độc giả tự nghiệm chứng, nghiệm xét diễn tiến phản hồi nơi tâm trí hầu nhận biết diễn biến đang xảy ra nơi hành trình suy nghĩ của mình. Tôi hiểu được, chính sự phản hồi này nơi tâm trí được Huệ Năng gọi là kiến, nhận biết diễn biến trong diễn trình nhận thức “Tính,” cũng như khai phá tâm tư để giải đáp công án “Tôi là ai,” hầu nhận thức thực thể thực sự của mình là gì.

Tác giả cũng có lý khi dùng ngôn ngữ và lý lẽ khi đặt vô miệng những tay bán trời không văn tự lúc rượu bia ngà ngà, nói năng bất chấp ngôn từ, thứ tự, luật lệ trên dưới, hoặc tôn ty trật tự. Ưng là nói, nói lấy được, không cần biết đến ai nghe hay không, chọc chạch, bới móc bất cứ gì, từ quan niệm, luân lý, nghi thức đạo đức, thờ phượng cho tới ý đồ cố ẩn dấu vô tình lỡ miệng bị phanh phui, hay bị gán ép với mục đích nào đó, nửa đùa, nửa thật trong lúc say xỉn. Nếu không để ý đến những lời ngang ngược, bất thường, được trích dẫn từ sách nào đó, mà đọc như đọc truyện, tập bản thảo chẳng khác gì sự diễn tả nồi cám heo, muôn thực phẩm thừa, người ăn chẳng hết, nhào nháo quăng vào và khuấy lên đổ vào máng.

Dẫu theo đạo Công giáo, nhưng tôi giật mình vì câu nói, “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ” được trích từ Lâm Tế Lục; “không tin ai hết, không để ai lừa dụ.” Ah, nào khác gì thánh Phao lô khuyên nhủ, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes, 2:3). Tại sao nhà Phật thì “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ,” trong khi Phao lô lại khuyên, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã,” mà lại còn“theo đức Kitô?” Dĩ nhiên, là người Công giáo, lại theo học trong chủng viện mấy lời Kinh Thánh nơi Tân Ước đương nhiên đã trở thành nền tảng đối chiếu nơi tâm trí. Nghĩ như thế, tôi lại tự hỏi, theo thánh Phaolô, “Theo đức Kitô” mang nghĩa gì, áp dụng thế nào trong suy nghĩ, suy tư nếu “Đừng để ai đánh bã?” Theo nhà Phật, dẫu cố ép mình giảm bớt tham sân si để được giải thoát, và dẫu muốn tạo phước để cầu giải thoát thì vẫn còn bị ràng buộc bởi chính ý định muốn được giải thoát. Kiến có nghĩa nhìn thấy, nhưng nơi văn tự hay ngôn từ nhà Phật, kiến tức là nhận ra, nhận thực được. Kiến tính thành phật là nhận thực ra tâm Phật đã ở nơi mọi người. Tính là Chân Như, Thượng Đế nội tại. Ah, đức Kitô cũng là Thiên Chúa nội tại, Atman, Đại Ngã nội tại, Thần Khí, Thánh Thần nơi câu, “Thân mình, thân xác anh em là đền thờ của Thánh Thần ngự trong anh em” (1Cor, 4:19). Theo đức Kitô là tự nghiệm, tự suy nghĩ mà thôi.

Tuy nhiên, tôi tự hỏi, nếu tùy thuộc duyên sao lại đặt vấn đề kiến tính? Nếu có “Tính” để kiến mắc mớ chi nói đến duyên. Nếu duyên hội hợp tự nó vô chừng không lệ thuộc ý thức con người sao phải kiến tính bởi “Tính” đâu tùy thuộc duyên. Nhà Phật có tâm hay tính cũng là Chân Như nơi mỗi người, tại sao còn bày ra lý thuyết nhân duyên. Thân xác chỉ là hội hợp của tứ đại, chẳng lẽ duyên là cơ hội hay trường hợp của tâm tùy duyên hòa cùng tứ đại. Vậy định luật, sự sắp xếp nào để duyên tuân theo khiến ai cũng có hai mắt, một mũi, một miệng, hai tai đầy đặn đúng phương vị, muôn thứ, loài nào giống ấy, ngay cả cây cỏ, hoa lá. Phật học phát sinh từ Ấn Độ nên có lẽ lý thuyết phần tâm linh con người bắt nguồn từ Ấn học do đó lý thuyết tâm Chân Như chỉ khác tên và lối trình bày như nơi bản thảo được viết, “Như vậy, con người, các vật chung quanh, không khí, cây cối, là hiện thể của Chân Như, Quyền Lực Hiện Hữu… Tu chứng là hành trình đạt đến nhận thức này. Kiến tính là thời điểm thực sự đạt đến trạng thái này. Bởi thế, Phật học quan niệm mình không phải là mình mà chính là Chân Như hiện thể trong diễn trình biến chuyển. Nói cách khác, tất cả mọi sự, mọi vật, mọi ý niệm, ước muốn, toan tính, chỉ là những biến chuyển của Quyền Lực Hiện Hữu liên tục.”

Như thế, “Cái Tâm,” “Cái Tính,” nào khác gì linh hồn, Thượng Đế nội tại, Atman. Nơi Lão học, “Tào như nước,” “Thượng thiện nhược thủy,” động từ của nó là gì? Bực thật, không biết chữ Nho, chẳng hiểu luật chữ Hán, Nhưng thử đặt mình trong câu văn, “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu. Thánh nhân bất nhân, dĩ bách tính vi sô cẩu.” Nếu đặt mình nơi vị thế thánh nhân nơi hành trình kiến tính, thì vạn vật là tất cả những mơ ước, tham vọng, ý nghĩ, giận, yêu, thương, ghét; bởi, “Thị dĩ thánh nhơn, xử vô vi chi sự; hành bất ngôn chi giáo, vạn vật tác yên nhi bất từ, sanh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, công thành bất cư, phù duy phất cư, thị dĩ bất khứ.” “Vậy nên thánh nhân dùng vô vi mà xử sự, dùng bất ngôn mà dạy dỗ để cho vạn vật nên mà không cầu, sống mà không chiếm đoạt, làm mà không cậy công, thành công mà không ở lại, vì bởi không ở lại nên không bị bỏ đi.”Đây chính là diễn trình kiến tính. Tính, Tào, đã sẵn nơi mình, nhận biết, nhận thức, suy tưởng thì không “vô vi mà xử sự” thì là gì. Ối giào, dịch với diệt, luận với bình, lọ với chai!

Thế tư tưởng, tham vọng, cái dục, ở đâu mà có? Bộ óc thuộc vật chất không thể nào kiến tạo hay phát sinh tư tưởng. Vậy bản năng, khả năng chốn nào dựa dẫm. Một khi linh hồn thoát ra khỏi xác được gọi là chết thì mọi hoạt động hữu vi, nhân sinh, và khả năng bản năng cũng như suy tưởng, suy tư, hoàn toàn mất hết. Như vậy, bản năng, tâm trí đều phát xuất, lệ thuộc linh hồn, cái tâm, cái tính, cái thượng đế nội tại. Đánh võ lệ thuộc phản ứng do tập luyện cộng với nhận định phát sinh quyết định phản ứng. Cái ý phát sinh từ linh hồn; ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đả thông kinh mạch. Gốc của mọi hoạt động, ước muốn, ý nghĩ, tham vọng đều do linh hồn, cái tính, cái tâm, chủ động.

Yoga, dùng cái ý, định tâm, dẫn hơi thở đào luyện thân xác thì cũng chính là ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông kinh mạch. Nhà Phật chỉ “Kiến Tính,” nhận biết, đối diện để nhận thức cái tính, cái linh hồn. Kiến tính cần định tâm. Hành thiền, tâm trí dồn về một mối suy tư trong khi làm việc. Nhà Ấn, mật tông Tây Tạng, mật tông Ấn, quán tưởng, dùng ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông kinh mạch phát sinh lắm chuyện. Phỏng đây là cách luyện tập nội lực? Thế tôi vừa chạy vừa dùng ý định vận chuyển hơi thở theo đốc mạch thì sao?

Chạy và dùng tâm ý chuyển vận khí theo kinh mạch là áp dụng hành thiền, lúc nấu ăn hay trong khi ăn cũng hành thiển, trước khi ngủ cũng để tâm vận khí theo đường đốc mạch, nhưng không biết trong lúc ngủ có vận khí được chăng. Thực hiện như thế, bởi luôn luôn để tâm chuyển vận khí, tôi thực hành định tâm luôn luôn nên không để ý đến những chuyện xung quanh dẫu mắt vẫn nhìn thấy, tai vẫn nghe. Cũng phải cảm ơn tác giả bản thảo đã bày ra hay có chủ đích mượn cớ rượu bia say sưa cho thành viên nhóm nhậu phát biểu những điều khó nói, đôi khi bị coi như lãng nhách nhưng lại là những vấn đề then chốt cho hành giả thực tập hành thiền. Ít nhất, tôi đã nghiệm được định tâm trong khi các sách vở chỉ nhắc đến hay nói lên sự quan trọng của định tâm mà chẳng bao giờ đưa ra được phương pháp thực hành. Chẳng hạn, lục tổ Huệ Năng nêu lên, “Kiến Tính” với lý do, “Ngồi nhiều sinh bệnh;” Đạt Ma sư tổ phát minh Dịch Cân kinh, sau này Thiếu Lâm sửa đổi, bổ túc để có Thiếu Lâm Dịch Cân kinh, nhưng lại bị bó buộc nơi những thế tập luyện, vẫn không giải thích tại sao hay chứng minh sự phát triển, khai triển, các thế luyện tập đó tiến triển ra sao, chẳng khác gì các giáo điều nơi tôn giáo.

Cả thời niên thiếu của tôi được hướng dẫn và dưỡng dục với những giáo điều tôn giáo, cứ như từ trời rơi xuống. Đọc sách vở, truyện hay biên khảo cũng thế, sách vở chỉ nói lên cái nhìn phiếm diện, rồi giỏi lắm thì trình bày một cách khách quan tâm tình của tác giả chứ không đào sâu, hoặc nói gì về hiện trạng của thực thể vấn đề, giúp độc giả một cách nào đó liên tưởng hoặc nhận biết thực trạng cảm nhận, hay diễn tiến nơi lòng mình, hầu nhận biết phản ứng nội tâm của mình ra sao. Thí dụ nơi sách Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh, phần “Cách Luyện Chưởng Phong,” lời khuyên được viết, “Làm lập đi lập lại như trên nhiều lần khi mỏi thì đổi tập tay trái.” Thử hỏi những cử điệu, thế luyện chưởng như vậy không có ý định, chuyển vận năng lực nơi thế đánh, nào khác chi một người máy đánh võ; và nếu để một người máy đánh chưởng như thế liên tục cả ngàn năm phỏng có phóng được chưởng nào khiến tắt nến được không? Ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đả thông kinh mạch. Ý dẫn khí; khí dẫn năng lực phát huy thành chưởng phong. Tôi không luyện “Bàn Tay Xuyên Chuối” và chưởng phong vì lý do riêng nên miễn bàn sự diễn tiến, thành quả phát triển của chúng, nên chỉ dám nói đến sự quan trọng thiết yếu, hay ắt có và đủ chính là định tâm, dồn tâm ý dẫn khí nơi hành động thì mới đem lại kết quả tiến triển. Ai thực hành, sẽ biết.

Từ sự nhận thức về định tâm nơi hành thiền, tôi nhận ra sự thiếu sót của mình, hay của bất cứ ai, khi đọc sách đạo học, nói cách khác, đọc các kinh sách căn bản của tôn giáo. Ít nhất, suốt hơn kém mười năm, đầu óc tôi bị ray rứt, khốn khổ với câu Phúc Âm, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37). Tôi rất thương bố mẹ tôi; bởi chẳng những được bố mẹ ưu ái, cưng chiều. Cũng chỉ vì ốm yếu, mẹ tôi đã phải tiêu pha tiền để thuê thày dạy võ cho tôi dẫu gia đình tôi không khá giả gì, hầu tôi khỏi bị trẻ ở nhà trường bắt nạt. Mỗi khi nghĩ về lòng thương, lòng ưu ái của bố mẹ, tôi muốn khóc vì cảm nhận tình của bố mẹ đối với mình, với anh chị em tôi. Làm sao tôi có thể chấp nhận kính mến Chúa hơn yêu thương bố mẹ.

Nơi nhà trường, các thày cô dạy giáo lý giảng dạy về lòng kính mến Chúa, hết lòng hết sức, thì cũng chẳng khác gì lặp lại những thành ngữ, phát biểu giống như như những chiếc máy thâu băng, phét lác. Thực tế chứng minh, họ dùng tiền lo cho con cái họ hơn là đóng góp cho nhà thờ, mua sắm, nuôi nấng con cái họ hơn tiền cho nhà thờ trong khi hùng hồn giảng thuyết về tin, về kính mến Chúa nơi những giờ giáo lý. Đồng thời tôi cũng dược dạy dỗ rằng, Phúc Âm là lời của Chúa. Lời của Chúa là lời hằng sống, lời để mà sống, để thực hiện, thực hành trong cuộc đời, theo quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục thay đổi, biến chuyển theo thời điểm khác biệt.

Nơi tòa giảng, các linh mục cũng lặp đi lặp lại phải kính mến, thờ phượng Chúa trên hết mọi sự, trên hết ngay cả gia đình, bố mẹ, anh chị em, phải hy sinh vì Chúa, lại phải yêu thương người khác như chính mình. Nói thực lòng, tôi yêu thương bố mẹ tôi vì tôi cảm nhận được lòng của bố mẹ tôi đối với tôi; chứ đối với anh chị em tôi, sao tôi có thể yêu thương họ như chính tôi, phương chi người ngoài. Cha thì quyền năng, nhưng không phải vất vả làm lụng như những người khác nên khuyên dạy phải đi lễ, đi nhà thờ, phải thế nọ, phải thế kia, phải tin vào Chúa dẫu chẳng biết Chúa là gì, phải sống tốt lành kẻo mất linh hồn cho dù không biết linh hồn của mình là chi, thế nào, nhưng chỉ sợ bị phạt. Chúa gì mà kỳ cục, tôi nghĩ. Đôi khi làm điều gì không nên, bố mẹ tôi chỉ răn dạy, đâu có đánh tôi. Thật khó cho tôi hiểu bị xuống hỏa ngục đời đời là thế nào, chỉ được dạy rằng kinh khiếp lắm, nào lửa sinh, lửa diêm, thiêu đốt liên lỉ.

Lớn dần, tôi cảm nhận được lòng yêu thương của bố mẹ tôi bao nhiêu thì tôi lại thấy sự kính mến đối với Thiên Chúa mờ nhạt bấy nhiêu. Đọc Phúc Âm, đọc lời Chúa thì cứ cảm thấy vô lý, kỳ cục. Đang nói chuyện nọ lại xọ sang chuyện kia không thể sao hiểu nổi. Dẫu theo học nơi chủng viện, nhưng sao lời Chúa đối với tôi chỉ giống như những lời dạy cách ăn ở sao cho thuận với luân lý, đạo đức nơi nhà thờ. Các cha giảng thì cũng phân tích, giãi bày Phúc Âm theo lối sống được cho là tốt lành, được chấp nhận đứng đắn nơi xã hội. Tuy nhiên, tôi có cảm nghĩ mình bị coi là có lối sống hư hỏng, hoặc các cha đang dạy cho mình biết những điều chẳng ra gì. Kính mến Chúa là kính thế nào, phải làm sao, phải đi nhà thờ, phải đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện thế nào, được gì, không biết, không hiểu. Có lời giải thích, cầu nguyện là nói chuyện với Chúa. Không biết Chúa là gì, mông lung, cứ bày tỏ hy vọng, ước muốn rồi tưởng tượng được nghe, được nhận lời dù có được chuyện gì xảy ra hay không. Cầu thì cầu, chỉ nghe hay đọc nơi sách vở thấy ai được ơn nọ, phúc kia, chứ tôi thì không; Chúa có bao giờ nghe lời tôi cầu đâu; Ngài chưa làm cho tôi bất cứ chuyện gì. Bảo rằng Chúa ban cho gia đình tôi thuận hòa, an bình. Nếu bố mẹ tôi không chịu khó, làm lụng cực khổ để có cơm ăn áo mặc thì sao có thuận hòa, sao có an bình. Tôi thấy, cầu thì cầu, cầu cho an bình tâm tưởng, cầu để có hy vọng theo đuổi mà thôi.

Dĩ nhiên, tôi chăm học cho đẹp lòng bố mẹ bởi chẳng biết cách nào làm hài lòng bố mẹ hơn. Hơn nữa, học giỏi nơi chủng viện được các cha giáo cưng chiều, khen thưởng nên tôi thấy mình tốt lành, sáng giá, thích học, và càng cố gắng học hơn. Ai không thế, nếu mình khá về môn học nào thì thích ông thày ấy và lại chăm chỉ học môn ấy. Nơi chủng viện đa số theo học ban C, tôi lại thích đọc sách. Đọc sách biết thêm nhiều thứ mới, lại thăng tiến khả năng sinh ngữ. Hơn nữa, nơi thư việc của chủng viện, đa số sách được viết về Phúc Âm, về giáo lý Công giáo nhưng không có được sách nào thực tiễn minh chứng con người có linh hồn, minh chứng về Thiên Chúa để mình có thể rờ thấy được, chỉ tin, tin, và tin, chẳng khác gì huyền thoại khiến tôi cứ ấm ức, làm thế nào, phải thực hành những gì để có thể kính mến Chúa hơn yêu cha mẹ.

Lòng thì luôn luôn ấm ức bởi không biết cách nào để thực hiện kính mến Chúa hết lòng hết sức, hơn cả yêu cha mẹ, ngoại trừ sống tốt lành, siêng năng đi lễ, đi nhà thờ. Sách tây, sách ta đọc được thì chẳng có gì hơn lời các cha giảng về luân lý, đạo đức nhân sinh. Lớn dần, tiếng Anh, tiếng Pháp cũng thêm phần tiến triển, tôi tìm đọc sách ngoại quốc, thuộc các loại triết lý, tư tưởng mới; biết thì biết, hiểu thì hiểu nhưng tất cả, chẳng ăn nhập gì tới cuộc sống của mình, có chăng chỉ đem lại cho tôi cảm nghĩ mình biết nhiều thứ nên đôi khi nói chuyện, những tư tưởng, lý thuyết nào đó ăn nhập sâu nơi tâm trí vô tình thoát khỏi cửa miệng, đối nghịch hoặc phá ngang quan niệm hay luân lý nơi giới hạn cuộc sống bình thường, có người đã cho rằng tôi có óc bùn.

Cho tới thời gian đọc một số sách đạo học, đặc biệt nơi cuốn thứ nhất của bộ, Life and Teaching of the Masters of the Far East, khi đọc tới phần những con nhệch mới lớn đã tự bơi về nguyên quán của bố mẹ chúng, tôi chợt tỉnh, những gì được viết nơi sách vở là để khêu gợi nơi tâm trí tôi sự nhận thức, nhận biết điều gì đó tác giả không viết ra. Từ đó tôi kiếm những sách viết về Phật, Lão, Ấn, Điểm Đạo Ai Cập, mật tông Tây Tạng, mật tông Ấn v.v… Thực ra, đọc thì đọc kể như đọc để biết, để thỏa mãn biết thêm, nhưng cứ thấy ngang ngang thế nào ấy. Đến khi đọc tới bản thảo, gặp mấy lời ăn nói bán trời không văn tự, tôi mới nghiệm được nên đọc và suy nghĩ thế nào.

Không sợ xấu hổ vì sự dốt nát của mình, nói cho đúng, đã bao năm, tôi đã không biết cách đọc sách nên đã bị ấm ức với câu Phúc Âm nghịch thường, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta.” Thực ra, nếu bất cứ ai vẫn chưa biết cách nào áp dụng câu này nơi cuộc sống, có lẽ cũng chỉ dốt như tôi mà thôi; điều này có nghĩa, đã tiêu phí thời gian, tiêu phí mạng sống một cách ngu dốt như tôi để có cảm tưởng mình biết nhiều, hiểu lắm trong khi bị tác giả khinh bỉ từ bao năm trước, ít nhất hơn kém hai ngàn năm. Xin đừng vội cho tôi là nói ngoa; bởi có câu nói, “Một trăm năm sau khi chết cái hạnh phúc nhất cho bậc vĩ nhân là có được nhiều kẻ thù” (Stendhal; CCCTN. Tr. 390). Họ thuộc về bậc vĩ nhân vì họ nói lên cái dốt của mình nhưng chính mình đã chẳng nghĩ tới.

Nói có sách, mách có chứng; đã biết bao lần nghe được câu, “Ai có tai thì nghe,” hoặc, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng,” hay, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng,” tôi đã chẳng hiểu chi, không biết cách nào áp dụng những câu này nơi cuộc sống. Không nói chi xa vời, tôi tin, tôi nghĩ, tôi cho rằng mình có linh hồn, thử hỏi, linh hồn là gì, thế nào đối với một người? Nó hình dáng ra sao, mầu gì, liên hệ với thân xác và cuộc đời một người thế nào. Tin rằng mình có linh hồn nhưng không biết nó, không cảm nhận được nó thì tin có nghĩa gì?

Đọc sách lại càng tệ hại hơn bởi nếu tin vào sách thà đừng đọc sách, “Tận tín ư thư bất như vô thư,” (Mạnh Tử). Đọc sách mà không suy nghĩ từng câu xem phản ứng hoặc diễn trình tâm tưởng của mình như thế nào đối với câu đó, hợp hay không hợp, áp dụng vào cuộc sống thế nào, thì thà đừng đọc, chỉ giết thời giờ, giết cuộc đời mình một cách vô ích. Đọc để kiếm niềm vui, kiếm nụ cười, người đọc là kẻ đáng thương; không biết sống để làm gì; có thể nói, đọc mà không suy nghĩ, không nghiệm chứng để sao có thể áp dụng, thăng tiến nhận thức của mình chỉ là cách tự tử từ từ, thật uổng phí cuộc đời.

Tôi cảm thấy tiếc cho quãng đời son trẻ vì đã đọc sách chỉ để lấy kiến thức, không suy nghĩ, không kiếm cách áp dụng vào đời mình những điều nên, đáng học theo. Lý do cũng bởi nghĩ rằng, cho rằng mình hiểu, biết câu đó nói gì, nhưng thực ra chỉ hiểu phiếm diện theo nghĩa từ chương, hữu vi. Thí dụ, “Ai có tai thì nghe.” Tôi đã bị bật ngửa sau khi thực sự trả lời câu hỏi “Tôi là ai” trên giấy trắng mực đen bằng cách chia tờ giấy làm hai phần trái phải, với thực tâm, chân thành, một bên ghi xuống những sự tôi nghĩ, đã làm, tốt lành thánh thiện, và bên kia những gì không nên không phải tôi đã thực hiện. Ai không nghĩ mình biết rõ về chính mình, nhưng, bé cái lầm, mình mới thực sự lừa đảo mình hơn ai hết; mình không thực sự dám đối diện với chính mình. Vị nào bày ra câu hỏi “Tôi là ai,” có lẽ cười, bỡn cợt tôi đến trẹo quai hàm đã bao năm trước.

Có lẽ, tâm hồn tôi đã bị tôn giáo mê hoặc quá nặng; nói rằng mê hoặc thì cũng phần nào oan cho tôn giáo; mà nói rằng tại tôi quen thói ỷ lại chấp nhận những giáo điều được dạy dỗ như trong hệ thống gia đình thì cũng không sai. Tôn giáo nào không quảng bá những thánh nọ thần kia phù trợ, giúp sức, nên cầu khẩn, tin tưởng nơi họ đến nỗi in trí. Ngược lại, nếu tôi nhớ không lầm thì có câu kinh nào đó, “Chớ trông cậy quá lẽ kẻo khi sa ngã chẳng trở lại cho kíp.” Thế nên khi đọc bản thảo tới câu, “Ý định cứu giúp người, giải thoát người khỏi những lo âu phiền não vẫn chỉ là dục. Mà đã là bồ tát thì hoàn toàn đã diệt dục theo lý thuyết nhà Phật, sao còn có thể giúp ai giải thoát. Vì vậy, nếu nói rằng đức Thích Ca vì thấy con người trầm luân khốn khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, mà kiếm đường giải thoát cho họ, quả là sự bôi nhọ lớn lao tới danh phận của ngài; vì còn muốn giải thoát chính mình hay giải thoát cho người vẫn còn là dục,” tôi giật mình vì lý luận đơn sơ nhưng vững chắc của tác giả. Thế ra, bao lâu nay, niềm tin, sự tin tưởng của bao người đã rơi vào khoảng không, đã bị những thành phần thiếu suy nghĩ, nghiệm xét, lừa đảo. Suy nghĩ cho cùng, thực ra, họ không có ý lừa đảo mà chỉ vì tin theo sách vở theo nghĩa từ chương, hoặc những vị thầy trong chức vụ huấn luyện họ chẳng khác chi tôi đọc sách hiểu theo nghĩa đen, thiếu suy nghĩ, nghiệm chứng nên cứ bị bé cái lầm.

Càng đọc, tôi càng thấy mấy anh chàng to mồm lúc say sưa, đấm đá lung tung với cái miệng, chọc chạch niềm tin kẻ nọ, bêu riếu điều lỡ miệng của kẻ kia trong nhóm, chẳng khác gì nêu lên những câu hỏi nghịch luận thách đố tôi phải suy nghĩ. Tới khi ấy, tôi mới nhận ra các tác giả kinh sách quá tuyệt vời, nói đấy, nhưng thách đố, kích thích người đọc suy nghĩ, nghiệm xét, và nếu ai đọc mà không suy nghĩ, tưởng là chỉ có thế thì chẳng khác chi kẻ chết; kẻ chết đâu suy nghĩ gì. Viết đến đây, tôi chợt hiểu được câu Phúc Âm, “Hãy để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng” (Lc. 9:60). Tôi như kẻ chết đã bao lâu nay giờ mới biết. Nếu không để tâm nghiệm xét, độc giả đều cho rằng tác giả bản thảo (Không biết đã được in chưa) viết truyện lăng nhăng mua vui độc giả.

Như vậy, những kinh nọ, kinh kia nơi sách vở đạo học đều là kết quả nghiệm chứng, nghiệm xét của những tác giả trước tác, được viết ra làm phương tiện hay cơ hội cho độc giả suy nghĩ hầu thăng tiến nhận thức. Dĩ nhiên, nhận thức không thể học được, không thể cầu, mà chỉ có thể ngộ chẳng khác chi ăn uống. Ai ăn người ấy no bụng, ai uống người ấy hết khát; không ai ăn dùm hay uống dùm được cho ai thì cũng không ai suy nghĩ dùm được cho ai. Cũng chính nhận biết sự thể không cưỡng cầu được như thế, tôi cũng hiểu được tại sao Phúc Âm cứ lặp đi lặp lại câu, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con” (Mt. 9:22; 15:28; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 8:48; 17:19), mà không có câu nào nói Chúa chữa, Chúa cứu, như thiên hạ huênh hoang truyền bá. Quả thật mất lòng, phỏng họ không nghiệm xét Phúc Âm như thánh Phao lô đề nghị, hay không được dạy dỗ cần nghiệm chứng, hoặc có thể được dạy nhưng coi thưởng bởi, “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra đần độn” (Mt. 13:15). Quả thật, tôi đã bị coi là đần độn suốt cả cuộc đời thanh xuân cũng chỉ vì không suy nghĩ.

Suy nghĩ thế nào, theo chiều hướng chi, bằng cách nào để thăng tiến nhận thức. Nhận thức đã không học được thì cũng như cảm nghiệm, thực chứng. Hai người nhai hai trái ớt tương đương vừa bất (hái) từ một cây, mỗi người cảm nhận, thực chứng, và sẽ có những phản ứng khác nhau. Cùng một sự việc xảy ra, mỗi người có cảm nhận khác với những người khác tùy thuộc kinh nghiệm, nhận thức riêng của họ. Cũng một ngôn từ, cũng một lời nói đến tai hai người sẽ gây phản ứng, cảm nghĩ khác nhau. Ah, hèn chi Huệ Thi bỡn cợt, “Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Hoàng Xuân Việt chưa nghiệm được sự thể này nên ghi chú, “Không ai hiểu câu này nói gì.” Như vậy, những câu nói nơi các sách đạo học bày tỏ cảm nhận, phản ứng của người trong cuộc, không thể diễn tả bằng lời. Hương Nham của nhà Phật ngộ thế nào, ra sao, chỉ Hương Nham biết, dù được kể ra, cũng không ai có thể biết. Nhưng phương pháp suy nghĩ, cách nào suy tư để có thể nhận thức, cảm nhận, cảm nghiệm, những câu nói ngang ngang, ngửa ngửa, nghịch thường nơi sách vở đạo học?

Tại sao câu, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng,” câu nói quá thường tình, đứa trẻ lên ba cũng biết sao được nhiều học giả, tác giả nhắc nhở đến nơi kinh sách cả ngàn năm trước. Lý do gì câu nói, “Ai có tai thì nghe,” những tám lần được nhắc lại nơi Phúc Âm? Ai không hiểu được những câu này? Tại sao không nói tai cần nghe, hay nên để tâm, chú ý nghe những gì mà chỉ khơi khơi buông câu nói, “Ai có tai thì nghe?” Tại sao phải đặt vấn đề, “Nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng” đang khi chỉ mặt trăng?” Câu nói chỉ về thái độ, tâm trạng, điểm đích, chiều hướng. Mặt trăng mới là đích điểm cho người nhìn chú ý tới chứ không phải ngón tay. Ah, thiên hạ thường để tâm hướng về người nói, người rao giảng chứ không cần biết điều gì được rao giảng, được nói. “Ai có tai thì nghe,” không nói về cái tai nhưng nói về điều được nói tới. Cái tai tự nó không nghe được, nó chỉ là phương tiện cho cái hồn nghe. Thế nên, câu nói thách đố tìm hiểu về cái hồn, thách đố độc giả đặt vấn đề cái gì nghe. “Ngón tay ta không phải là mặt trăng,” ngón tay chỉ mặt trăng mà không để ý nhìn về mặt trăng lại cứ chú tâm về người nói như thế nào; mà điều cần biết là mặt trăng chứ không phải ngón tay hay người chỉ thì biết được điều chi. Thích Ca chỉ đường lối nên thực hiện thế nào để được giải thoát, thì không theo mà cứ nghĩ, cứ cho rằng Thích Ca giải thoát cho con người khỏi vòng sinh, bệnh, lão, tử. Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời thì không cần biết Tin Mừng là gì, lại cứ tuyên xưng Chúa đến chịu chết vì tội lỗi thiên hạ.

Làm sao, tôi phải thực nghiệm thế nào để có thể giải đáp, nhận thức những câu nói kỳ cục nơi sách vở đạo học, và phỏng những sự nhận thức này đem lại ích lợi gì mà ông Tầm đề nghị tôi đọc hết đống sách này. Phúc Âm thì không có gì mới đối với tôi, nhưng điều lạ, hình như đòi hỏi tôi phải tìm cho ra cách suy nghĩ, suy tư; đại khái tôi cần đặt mình nơi vị thế nào để nghiệm được những câu nói kỳ cục, đang được hỏi thế này, câu trả lời lại có kết luận nghịch thường, không đâu vào đâu. Bản thảo diễn tả cảnh rượu chè be bét, ăn nói tào lao thiên tướng, nhưng cũng giúp cho tôi hiểu và áp dụng định tâm vào vận chuyển khí huyết; kết quả ra sao, nào ai biết vì mới thử được một tuần lễ. Và tôi quyết định để một buổi sáng thư giãn, không suy nghĩ cho tâm hồn thảnh thơi.

Làm sao cho tâm trí ngừng suy nghĩ trong khi nỗi thao thức kiếm tìm phương cách suy tư cứ lởn vởn áp sát tâm tư. Hơn nữa, càng không làm gì, càng thảnh thơi thì đầu óc càng lộn lạo oánh nhau với lý này, lẽ kia cố tâm tìm cho ra, hoặc giải đáp vấn đề nào đó. Bởi vậy, sau khi ăn sáng, tôi chạy bộ ra chợ mua đồ nấu ăn cho bữa trưa. Mười lăm phút vừa chạy vừa vận chuyển khí huyết theo đường đốc mạch của Dịch Cân Kinh, tôi có gần hai tiếng lăng quăng nơi chợ. Mua thực phẩm sớm rồikè kè đem chúng theo hơi phiền, thấy quán cà phê có gần chục khách đang rôm rả nói chuyện, tôi ghé vô. Nơi quán, có bốn tay mặc đồ xanh, đeo băng đỏ bên cánh tay trái tụ nhau tại một bàn; ba người đàn ông trung niên có vẻ dân buôn bán thoải mái chuyện trò nơi góc phải gần quầy tính tiền. Còn lại ba người ăn bận lam lũ có lẽ thuộc loại dân phu xe chở mướn cho các hàng quán.

- Chú dùng đồ chi, cô thâu ngân rời ghế đến bàn tôi vừa ngồi xuống hỏi.

Tôi buột miệng nói, “Cho tôi cái nồi ngồi trên cái cốc,” theo thói quen diễu, dễ học khó chừa, mỗi khi ghé qua Sài gòn, nếu thấy nơi quán xá hay chợ trời có những anh bộ đội mới vào trong Nam hoặc công an từ miền Bắc mới được sai phái vô, mới chợt nhận ra bị hớ vì nơi miền khỉ ho, cò gáy này chưa có bộ đội hoặc ông an được sai phái tới mà chỉ là những người theo cái gọi là “Giải phóng miền nam” của địa phương trước thời 75. Có điều, tôi nói giọng Bắc nên sự thể vô tình biến tôi trở thành đối tượng được đặc biệt chú ý. Một vài cặp mắt hướng về phía tôi, nhưng dẫu vừa chợt tỉnh, nhận ra mình lỡ lời không đúng nơi, tôi giả vờ như dân Bắc mới vào Nam nên tiếp tục lên giọng.

- Cô vừa nói đồ là cái đồ chi?

- Quán em có bánh cuốn chả lụa, cháo lòng heo, cháo gà cho buổi sớm.

Cô này gọi tôi là chú, xưng em, dáng người son sẻ, khá hấp dẫn, tuổi chừng hơn hai mươi, có lẽ chưa chồng. Lùi vô phía trong quầy tính tiền, có người đàn bà trung niên đang sắp xếp ly, đĩa, muỗm, đũa, mới được rửa, vừa nghe thấy tôi nói, “Cái nồi ngồi trên cái cốc,” chợt quay ra nhìn, hình như mang vẻ có cảm nghĩ hơi lạ. Tôi cố tình làm ra vẻ dân “Bắc kỳ rốn” mới vào trong Nam, hỏi tiếp,

- Ở đây có phở không? Cháo ăn chán thấy mẹ.

- Dạ thưa không. Cháo lòng heo ở đây ăn hết xẩy, chú dùng thử sẽ biết, không nơi đâu có thể địch lại được. Chú nhìn coi, ai đến đây cũng gọi món này hoặc cháo gà. Vừa nói, cô vừa đưa tay hướng về phía những người đang ngồi trong quán; nơi đó, đa số là những tô, muỗm, và đũa trên bàn, cùng với những ly cà phê đang uống dở. Chú ở Bắc mới dzô Nam phải “hôn?” Người miền Nam chỉ dân Sài gòn mới ăn phở sáng. Dân miệt Tây dùng cháo sớm mai, nhẹ bụng lại dễ xơi. Chú dùng cháo lòng nghen, thử cho biết; coi chừng thử rồi từ “mơi” ghiền cho coi.

Cô bé này ăn nói hấp dẫn, dễ thương, lại chứng tỏ hiểu biết nhiều, đồng thời pha lẫn khả năng quảng cáo chuyên nghiệp. Chỉ mấy câu nói đã phân biệt được đặc tính của dân Sài gòn và dân tỉnh lẻ miền Tây, rồi nào là quảng bá cho món cháo lòng heo, nào là hỏi dò gốc gác của khách, lại khuyến dụ khách ăn thử. Có lẽ cô bé này cũng được ăn học nên cho đến nay vẫn chưa kiếm được người xứng đôi vừa lứa làm chồng nơi miền quê này chăng. Nghĩ thế, tôi mở lời hứa hão, đò đưa,

- Thôi để lần sau thử nghiện xem sao, cô làm ơn cho tôi một cà phê phin là được. Thế sao cháo của quán cô tuyệt vời như vậy mà cô vẫn giữ được vẻ thanh bai, hấp dẫn như thế. Cái miệng của tôi dẻo chưa? Tôi định nói, sao cô không mập như những người bán quán khác, nhưng, lần đầu, dùng cách đơn sơ, chất phác nịnh đầm rõ ràng, trắng trợn, mang vẻ thật thà, chân thành, mộc mạc, thấy sao nói vậy; quả là táo bạo, chừng như cá chưa kịp câu đã vội đớp.

Thì tướng mạo tôi cũng không đến nỗi tệ, cao ráo, sạch nước cản, lại có niềm tự tin mình thuộc dân sinh viên, sinh hòn, võ vẽ đâu thua kém ai mà chỉ có hơn. Đàng khác, với tuổi thanh niên quen thói ba hoa phóng đãng, tự cho mình là cái rốn của vũ trụ nơi trường hợp độc thân, cao ngạo quen thói thì nào tôi đâu cần kiêng nể chi ai. Có lẽ mấy người khách dùng sáng tại đây đã biết gia cảnh hoặc thân thế, vị thế của cô ra sao nơi miệt tỉnh lẻ này; nên không ai có thái độ bất thường nào khác, cùng lắm chỉ có người đưa mắt liếc thoáng qua tôi rồi tiếp tục uống cà phê hay ăn cháo. Tôi thấy vậy nên yên tâm đò đưa với cô bé. Thực ra, lòng tôi không ngán bất cứ ai nơi quán nên thả lỏng tâm tình tán hươu, tán vượn một cách thoải mái, nhưng cũng phải canh chừng chiếc miệng vì cảm thấy hình như cô bé này thuộc loại người được học hành ít nhất cũng hơn kém bậc trung học. Vả lại, bị nhiều lần, khi nói chuyện với bạn bè, tôi đã vô tình phát biểuý nghĩ, nhận định, điều thực sự đang xảy đến nơi tâm trí đôi lúc trái ngược với quan niệm bình thường do đó trở nên bất thường và bị coi là thế nọ, thế kia, óc bùn.

- Anh nên thử cho biết; không thử cho biết lại nghĩ rằng em nói láo.

- Tôi nào lạ gì cháo lòng, không tin cô thử ghé qua Bà Điểm, Hàng Xanh, Hố Nai, Gia Kiệm, hoặc Túc Trưng, Bàu Cá, đâu thiếu gì nơi bán cháo lòng. Nơi quán bà Tân ở Gia Kiệm còn có nem thính Bắc kỳ hoặc bê thui và cháo lòng, rượu đế Long An, cũng như bách nhật nếp than hay đế đậu nành.

- Sao anh biết nhiều thứ, nhiều nơi dzậy, bộ anh là Bắc kỳ 54 sao?

- Dĩ nhiên, không vậy sao có thể trôi lạc đến đây. Thế sao cô biết dân Sài gòn thích ăn phở buổi sáng?

- Em đi học ở Sài gòn mà; năm 75 sau khi thi tú tài hai, làm ăn khó khăn nên em trở về đây buôn bán với mẹ.

- Sao cô không tiếp tục học đại học mà ngưng ngang?

- Ba em còn đang ở trong trại cải tạo, đâu ai giúp mẹ em lo hàng quán và thăm nuôi ba.

- Ông là sĩ quan ở binh chủng nào?

- Sao anh biết ông là sĩ quan?

- Thì sĩ quan mới còn ở trại cải tạo. Những cấp bậc từ chuẩn úy trở xuống đâu ai phải ở trại cải tạo đâu.

- Thế sao anh không phải đi cải tạo?

- Tôi đâu thuộc loại sĩ quan. Năm 72 tôi vừa xong tú tài hai thì lệnh động viên xảy đến, và vì muốn lấy cử nhân văn khoa và luật khoa nên tôi gia nhập nghĩa quân để tiếp tục học, thì 75 tan hàng, rã nghé, có học thêm cũng chẳng làm gì được nơi xã hội này, và thế là ngày ngày chạy ăn từng bữa cho qua kiếp người. Thử hỏi, cử nhân văn chương thì làm được chi bây giờ trong khi người người phải lo từng miếng cơm, manh áo. Luật sư, kiến trúc sư ai thuê nơi xã hội hợp tác xã, bao cấp. Cô không nhớ Trần Tế Xương đã than sao, “Biết thế ngày xưa đi làm quách, chẳng ký không thông cũng cậu bồi.” Cô còn “Bồi bàn lắm khi buồn ngơ ngẩn,” phương chi tôi, thì cũng đành rơi vào cảnh, “Tứ cố vô thân chán chửa đời.” Cô hãy còn hơn tôi, còn có công việc cho quên ngày tháng cũ; riêng tôi, đối diện với “mộng ước xa xôi đã lỡ rồi,” nào có chi mà nói.

- Trúng đài, đúng là dân văn khoa, hèn chi khác người.

- Có chi mà khác, thời thế, thế thời phải thế mà thôi.

Bà trung niên thấy con gái tiếp tục nói chuyện, bưng cà phê ra cho tôi. Cô gái lên tiếng,

- Đây là mẹ em, chủ cái quán này. Má à, anh này là dân 54 giống ba đó. Thứ mà má hay nói Bắc kỳ dẻo miệng…

- Chào cậu; thế cậu về đây có việc chi.

- Cháu mới về đây được hai tuần, đang định kiếm công việc làm sống qua ngày, nhưng chưa biết tính sao.

- Thế gia đình cậu ở mãi đâu lận? Định về đây mần thì mần thứ chi?

- “Phi thương bất phú,” cháu đang tìm kiếm có thứ gì mang về Sài gòn buôn bán được không, chẳng hạn như trái cây hoặc rau quả.

- Lúc này, gạo còn không có mà ăn, phải ăn bo bo thì lấy tiền đâu mà mua rau quả. Hơn nữa, từ đây tới Sài gòn nào xa xôi gì, người ta thường dùng xe máy hoặc đi xe đò mang rau quả lên Sài gòn. Tôi nghĩ, buôn rau quả, trái cây không thuận đâu. Chi bằng mở quán ăn hay tiệm bán thực phẩm, cá khô, mắm muối, mới có tiền dzô ngay.

- Ở đây đâu có bao nhiêu dân cư mà mở thêm quán ăn!

- Nếu mở quán ăn thì mở nhỏ thôi, miễn sao sống qua ngày, mà mở nơi khu gần chùa Bà Đen. Tín đồ thập phương nhiều nơi thường về cúng bái, xin xâm, lễ hội. Nếu phát triển, sau này mở lớn thêm, và nếu thất bại thì cũng không đến nỗi nào. Thực ra, vấn đề làm ăn đều lệ thuộc phận số; bởi vậy, chỉ nên giới hạn trong tầm tay với. Nếu vung tay quá trán, và không tìm hiểu cũng như nhận định cho kỹ, coi chừng, “Chưa buôn vốn vẫn còn dài, buôn thì vốn đã theo ai mất rồi.”

- Sao bác nói năng văn chương quá vậy, tôi hỏi.

- Nhờ ba em đó, má em học từ ba em, ông bắc kỳ dẻo miệng, má em thường nói vậy, nghe riết rồi cũng quen.

- Sao cô gọi là ba mà không gọi là tía như tiếng địa phương?

- Ngày còn nhỏ, em gọi là tía, nhưng từ khi đi Sài gòn học, nói chuyện với bạn bè, nghe qua lại rồi nói theo luôn.

Có người gọi tính tiền, cô gái bỏ đi và bà mẹ cũng trở về bếp. Còn gần tiếng đồng hồ, tôi đi rảo qua các cửa tiệm quanh chợ. Ghé tiệm thuốc bắc, hỏi thử xem ai có mẻ xin một ít về gây giống, và được ông cho biết, chỉ cần, “Cho một chén cơm nguội và một ít nước đường vào một lọ thủy tinh sạch, rồi đậy thật kín. Sau hơn một tuần là có mẻ để sử dụng.” Thế thì dễ rồi, tôi sẽ thử, và nếu được, chỉ một tuần sau có gỏi nhậu. Vườn nhà có đủ mọi thứ lá thơm, rau, húng, ngò gai, lá mơ. Có cây vọng cách nơi góc vườn cạnh chân đồi. Ah, còn thiếu cây đinh lăng; ghé qua vườn bán cây kiểng, tôi mua chậu đinh lăng; trả tiền, hẹn sau khi mua đồ trở lại lấy. Trưa nay ăn món gì, tôi thầm tính, giả cầy nấu với bột me, ăn với bún, nhúng rau cải xanh. Cũng nhanh thôi, rau nhà có sẵn, riềng, hành tỏi không thiếu. Tới tiệm hàng xén, mua gói me chua, đoạn vô chợ mua cái chân giò, trở về vườn bán cây kiểng lấy cây đinh lăng. Thấy tôi ôm cây đinh lăng về tới, ông Tầm hỏi,

- Anh kiếm cây đinh lăng về làm gì vậy?

- Cháu mua về để ăn gỏi, nhưng bác có biết trồng và phân bón thế nào để nó phát triển nhanh không?

- Nhanh là thế nào, cỡ bao lâu?

- Cỡ tám đến mười ngày. Cháu muốn ăn gỏi cá rô phi với dấm mẻ bắc kỳ. Cháu đã biết cách làm mẻ, cỡ một tuần là có mẻ để nấu giấm ăn gỏi cá rô phi.

- Thế anh muốn uống rượu gì khi ăn gỏi?

- Bộ bác thừa tiền để uống rượu ngoại à?

- Vậy anh nghĩ tôi nuôi cá rô phi để làm chi? Anh nghĩ chỉ mình anh biết ăn gỏi dấm mẻ theo kiểu Bắc kỳ ư?

- Vậy bác định uống rượu gì?

- Rượu đậu nành! Ngạc nhiên hả, để đến lúc đó rồi sẽ biết. Nếu tôi không lầm thì hôm nay anh làm quen thêm được người đẹp mới phải không?

- Bác nói đúng, nhưng cháu vẫn chưa biết tên.

- Sao không hỏi, cô bé xinh xắn và có học thức đấy chứ?

- Cháu lỡ miệng chọc bộ đội nhưng không có bộ đội ở đó, quê quá, cháu kiếm cớ lãng đãng nói chuyện với cô bé thâu ngân; ai ngờ nàng chính là con bà chủ quán. Nói cho đúng, có lẽ tại cháu không có chút ý nghĩ, mơ ước, hay ý định, chiều hướng gì về có một gia đình nên chẳng cần biết gì thêm chăng. Mục đích sáng nay của cháu là kiếm dịp cho đầu óc thảnh thơi, không muốn suy nghĩ gì. Thực ra, nếu có ý định lập gia đình, có lẽ Lan, em của Ba như bác biết là sự lựa chọn tốt nhất. Nhưng…

- Được rồi, để tôi gây mẻ, nấu rượu đậu nành. Còn cây đinh lăng này thì trồng khôngkhó chi, miễn là không nơi đọng nước, đất xốp, có độ ẩm trung bình với phân chuồng. Thôi, tôi sẽ trồng cây; anh đi nấu ăn; mà hôm nay anh định ăn món gì vậy?

- Hôm nay nhân nghĩ đến giấm mẻ, cháu nhớ đến món giả cầy ăn với bún. Chưa có mẻ nên đành nấu với me vậy, nhúng rau cải xanh. Có lẽ mai, cháu sẽ ghé vô tiệm thuốc bắc cân lấy một vài thang lao tâm lao lực về ngâm, lỡ đôi khi có món khoái khẩu nhâm nhi cho cuộc đời thêm thi vị. Cũng đã lâu rồi, cháu chưa có cơ hội quên trời quên đất, quên cả thân mình.

- Cũng tốt thôi, trưa nay mình sẽ dùng rượu ngâm thuốc chống tê bại của đại tá hải quân Hồ Tấn Quyền cho thông máu. Tôi ngâm đã sáu tháng rồi.

- Bác để nơi nào mà cháu không thấy?

- Tại anh không có con mắt gián điệp.

- Bác nói con mắt gián điệp là sao?

- Nói chuyện với người ta cả tiếng đồng hồ mà không thèm biết tên. Tôi phải đi mua rượu để pha thêm cho dễ uống, rồi mình thử quên trời đất một buổi xem có thảnh thơi hơn không.

Ngày tháng vụt trôi, mới đó mà đã ba tuần, cái bản thảo khiến đầu óc tôi quay mòng mòng nhưng cũng giúp tâm trí lối nhìn mở rộng, chẳng những chân thành chấp nhận chính mình thực sự thế nào, giới hạn ra sao, mà còn nhìn sự việc, sự thể cuộc đời với nhãn quan nhẹ nhàng, thuận theo. Dĩ nhiên, trời nóng thì mặc đồ mát và rán chịu đựng nếu có thể; còn không, đành ở trong bóng râm cho dễ thở. Tối nay trong lúc uống trà sau khi ăn cơm, ông Tầm bỗng hỏi,

- Anh đã nhận ra con mắt nhìn trong giấc mơ của mình và đã biết cách áp dụng nó chưa?

- Nhận ra thì được, cách sử dụng thì chưa.

- Tôi không hỏi cách sử dụng, tôi muốn nói đến áp dụng.

- Bác nói áp dụng là sao?

- Con mắt nhìn trong giấc mơ chỉ có thể xuất hiện khi lòng mình thực sự định tâm. Nơi trạng thái ấy mình mới nhận biết mình nơi vị thế nào của sự việc hay sự thể để nhận ra ẩn ý được gọi là nhận thức.

- Bác có thể nêu lên một thí dụ được không?

- Hãy nói cho tôi biết, câu nói nào làm phiền tâm trí anh nhất, nó như đóng băng sự suy nghĩ của anh.

- Đó là câu nói nơi Đạo Đức Kinh, “Thượng thiện nhược thủy; thủy thiện lợi vạn vật,” được cụ Nguyễn Duy Cần dịch là, “Bậc thượng thiện giống như nước; nước thì hay làm lợi cho vạn vật mà không tranh.”

- Đó là sự hiểu biết, nhận địn của cụ Nguyễn Duy Cần, không phải của anh.

- Cháu đâu biết chữ nho nên…

- Thế anh không nhớ câu nơi Trang học, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời” rồi ư? Tôi cũng không biết gì về chữ nho, chữ hán, nhưng chỉ biết nguyên tắc ắt có và đủ để đọc mấy sách đạo học, và đó là những câu nói ngang ngang, bất thường đều là kết quả của những nghiệm chứng. Tác giả buông câu nói không đầu, không đuôi, hoặc có đầu thì đầu nói về chuyện này nhưng đuôi nói chuyện gì xảy ra nơi chính tâm tư người đọc; nói cho đúng, về chính trạng thái tâm tư, tâm hồn của anh; điều đã xảy đến nơi tâm tư của tác giả. Thí dụ, nơi cuốn Trang Tử và Nam Hoa Kinh, cụ Nguyễn Duy Cần có ghi lại câu nói của Huệ Thi, “Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng.” Nên để ý, trong tâm tư làm gì có lửa, nhưng tại sao lại nói “Tại vì mình cảm thấy nó nóng?” Có phải lửa đây được dùng để chỉ về điều gì khiến mình cảm thấy bực điên lên không? Được ý quên lời là thế, sấm đàng đông, động đàng tây là thế. Đặt mình vào vị thế nào đó của câu nói, suy nghĩ, đặt vấn đề sự việc, sự thể nơi trường hợp, trạng thái nào hầu biết được nhận thức của mình ra sao. Bây giờ, tự đặt anh vô câu nói, “Thượng thiện nhược thủy; thủy thiện lợi vạn vật,” anh có thể phân tích diễn biến, diễn trình suy nghĩ được không?”

- Thượng thiện nhược thủy, tôi lẩm bẩm lặp lại. Tôi đã thực hiện đặt mình nơi vị thế nào đó của câu nói nhưng vẫn cảm thấy áy náy bởi vì cho rằng thượng thiện chỉ được dành cho Thiên Chúa; thế nên lên tiếng hỏi lại,

- Nếu đặt mình nơi vị thế thượng thiện thì phỏng có là phạm thượng không, thưa bác.

- Trong suy nghĩ, tư tưởng, vấn đề xảy đến hoặc liên tưởng tới không đúng sai, phải trái chi hết, chúng hiện hữu chứ không đụng chạm đến thần thánh nào hay bất cứ ai. Chẳng hạn câu nói, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương.” Anh thử nghĩ xem, anh nên đứng nơi vị thế nào. Thượng Đế là toàn hảo, tuyệt hảo; quỷ vương là dối trá, đốn mạt. Mọi câu nói nghịch thường đều nói về chính mình, thì anh nhận thức được gì nơi câu nói này? Không phải là chính anh sao? Anh có những điều tốt lành, thánh thiện; đồng thời anh cũng có những điều đốn mạt chính mình cũng không chấp nhận nổi. Thượng Đế cũng là anh; quỷ vương cũng là anh thì có phạm thượng không?

- Cảm ơn bác, cháu đã hiểu.

- Anh đã đọc xong cuốn Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh; thế anh đã có thể áp dụng nguyên tắc vận khí của Taekwondo vào hành thiền chưa?

- Cháu không hiểu bác muốn nói áp dụng thế nào.

- Anh có biết tại sao tôi nói đi chợ không đi xe đạp chứ?

- Cháu chạy thay vì đi bộ. Trong khi chạy, cháu dẫn khí theo đốc mạch, chưa dám thử ngược lại theo nhâm mạch, đồng thời điều hòa nhịp thở vô hay ra mỗi chiều mười bước mới được hai tuần, thấy có điều gì khác lạ đôi chút nơi bản thân.

- Anh liều nhưng áp dụng kiến tính giỏi hơn tôi có thể nghĩ tới.

- Nghĩa là sao, thưa bác.

- Sở dĩ tôi muốn anh đi bộ với chủ đích anh có thể ngộ ra được thế nào là hành thiền. Thực ra, trước khi biết được hành thiền cần phải biết định tâm, không lệ thuộc giải thích nơi sách vở, nghĩa là không tin ai hết, không lệ thuộc quan niệm, lý thuyết nào để rồi áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí khi đi bộ. Đàng này, anh áp dụng vào chạy bộ và hòa hợp với nhịp chạy. Tôi nghĩ, qua hai tuần, anh đã có thể chạy 15 bước mỗi nhịp thở ra hay hít vô. Anh đã thử chưa?

- Chưa, bởi cháu e người ta sẽ chú ý.

- Anh luyện võ có thấy khác chút nào không?

- Hình như dễ dàng và nhanh hơn trước, nhưng chưa thực sự áp dụng hành thiền vô khi luyện vì còn phải chú ý tới thế đánh để phát huy biến thể.

- Mới đầu, chỉ có thể dồn năng lực vô từng thế đánh tới giai đoạn khí công đạt tới mực độ nào đó mới tự nhiên phát huy được. Tôi nghĩ, nội trong một tuần nữa, anh sẽ nhận ra nhiều điều bổ ích khi đọc tới phần Ấn học, mật tông Ấn. Nếu có lớp dạy võ, anh có đồng ý làm võ sư không?

- Đó cũng là điều tốt thôi, lại có nhiều giờ luyện hơn nữa. Nhưng việc nhà…

- Cảm ơn anh đã có lòng chiếu cố. Tuy nhiên, xưa nay anh chưa về đây, tôi vẫn tự xử được mà. Có điều, dàn xếp để anh dạy võ, nhưng tôi không dạy đâu. Nếu cần, tôi sẽ bàn luận và giải quyết trong vòng bí mật.

Một tuần sau, tôi được dàn xếp để trở nên võ sư của lớp luyện võ. Lớp luyện võ chỉ có 7 người. Tôi không muốn dạy nhiều người cùng một lúc bởi muốn theo dõi kỹ lưỡng sự tiến bộ của từng người, đồng thời muốn biết rõ tâm tính cũng như ước mơ của họ. Hy vọng có người tiếp tục có thể thực hiện gì, hầu giải tỏa bớt nỗi khốn khổ của dân chúng. Hơn nữa, với nhận xét và suy nghĩ của tôi, chỉ có 10 bài quyền cho cấp đai đen nếu học viên biết áp dụng nguyên tắc luyện khí vào vận khí phát triển nội công, tất nhiên sự thăng tiến chắc chắn sẽ vượt bực. Suốt 12 năm, kể từ thời tôi học lới tư đến nay bởi đã không biết thế nào là vận khí áp dụng vào luyện võ, dầu đã cố gắng vượt bực nhưng tiến bộ chẳng khác gì con rùa lê lết trong vũng bùn.

Một tuần từ khi nghe ông Tầm có ý định muốn tôi dạy võ, tôi đã tiêu tốn khá thời gian suy nghĩ phương pháp và lịch trình giảng dạy cũng như tập luyện chẳng những của chính tôi mà còn sao có thể áp dụng cho những học viên. Làm cách nào, thực tập ra sao để mấy người trẻ nhận ra nguyên tắc luyện khí và áp dụng vận khí để thực hành “Hành thiền” trong đời sống hằng ngày. Suy nghĩ đến đây, tôi mới nhận ra chính mình đã không để ý thực hiện nó. Cũng phải cám ơn mấy cuốn sách, nhất là tập bản thảo ông Tầm đã khuyến khích tôi đọc. Và thế là, sau một ngày suy nghĩ, tôi áp dụng vận khí nơi hành thiền, chỉ sáu ngày trước khi lớp luyện võ được khai sinh, tôi đã có sẵn một lý thuyết thực nghiệm hầu giúp học viên nhận thực được phương cách ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch áp dụng nơi hành thiền.

Nghĩ thì nghĩ như thế, nhưng với những đầu óc non trẻ của học viên, tôi lại phải đối diện với mớ ngôn từ hoàn toàn khác lạ nơi cuộc sống. “Ý là gì; khí là gì; ý dẫn khí là thế nào; thực tập ra sao để nhận ra ý dẫn khí. Kinh mạch là gì, trung tâm kinh mạch, huyệt đạo ở đâu. Huyệt đạo là gì v.v… Thiền là gì; thực thể là gì; chưa biết kiến tính là thế nào sao biết hành thiền. Rồi nào quán tưởng, định tâm, sao mà lắm thứ thế. Người ta nói không thể “Dạy thằng yếu đánh vật,” thế sao có môn “Nhu đạo” của Nhật? Không suy nghĩ nhiều, cứ để từ từ từng bước, đến đâu suy nghĩ đến đó, căn gốc, thực hành chưa có gì thì lấy chi mà đòi dàn trận diễn tiến.

Bài học đầu tiên phải thế nào, luyện tập ra sao, nói năng, giới hạn hiểu biết của học viên nơi trình độ nào, không thể theo phương thức “Monkey see, monkey đo” như nơi sách tiếng Anh dùng để chỉ sự việc học theo không hiểu biết. Tôi không phản đối lối học xưa, nhưng thật khó chấp nhận thành ngữ, “Bọn ngu xuẩn hữu ích.” Tôi thích và thường lẩm bẩm bài hát, “Không phải là lúc” của Nguyễn Đức Quang, “Không phải là lúc cứ ngồi đặt vấn đề nữa rồi, phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới. Hàng chục năm qua ta ngồi ngó nhau, nghi ngờ nhau, khích bác nhau cho cay cho sâu, cho thật đau. Không phài là lúc cứ ngồi mà cãi suông, Không tin nơi nhau, thế ta định nhờ ai dẫn đầu?” Những lời hát đơn sơ, bình dân, nhưng thâm thúy, cay đắng, nói lên sự thiếu nhận thức nơi con người. Đồng ý rằng, “Công bình bác ái không phải là phép tiên, đem ra rêu rao bốn năm ngày là ta có liền,” nhưng làm theo kiểu “Monkey see, monkey đo” thì tiến bộ thế nào, sáng kiến ở đâu? Thiếu suy nghĩ, không phát triển nhận thức thì suốt đời chỉ “Trâu chậm uống nước đục.”

Nhìn lại thực tế, người Việt rất thông minh, ham tìm hiểu, dám thử bất cứ chuyện gì, đến nỗi, chẳng ít khi “Lợn lành chữa thành lợn què.” Chỉ cần để ý nơi phương diện ăn nói, chúng ta thường dùng lối nói ngụ ngôn hay dùng Tục Ngữ, Ca Dao, trong lời phát biểu để cho câu nói ngắn gọn và mang ý tứ đầy đủ hơn. Chả thế mà cuộc sống dân chúng thuận theo luân lý, đạo đức xã hội; gia đình nề nếp trong cương kỷ. Những sự khôn ngoan nơi kho tàng văn chương bình dân trãi qua bao thế hệ thấm nhuần nơi giòng máu, xương tủy dân Việt phát sinh sáng kiến, óc tìm tòi, học hỏi hiểu biết. Tuy nhiên, cuộc sống khó khăn, luôn phải đối đầu với miếng cơm, manh áo đã vô tình tạo thành thói quen suy nghĩ hữu vi, nhân sinh, chỉ lo giải quyết nhu cầu vật chất, cùng lắm khuyến khích ham hố vô bổ, tiếng tăm, nhà cao cửa rộng, hào nhoáng bên ngoài một cách thiếu nhận thức.

Không nói gì xa xôi hay vượt tầm với, ngay như sự thể đọc sách, đã có câu nói, “Quyển sách là một cái gương soi; nếu một con khỉ nhìn vào, dĩ nhiên không thể có hình ảnh của một vị thánh hiện lên” (G.C. Lichtenberg). Đọc sách để tìm kiến thức nào khác chi loài khỉ chỉ biết, “Monkey see, monkey do.” Đọc sách cần suy nghĩ để thăng tiến nhận thức; sách chỉ là phương tiện cho con người phát triển nhận thức, phát huy tiềm năng kiến tạo nơi độc giả. Sách không phải mẫu mực cho mình theo, ngoại trừ loại kỹ thuật; thế nên, người đọc sách cần suy nghĩ. Đọc sách mà không suy nghĩ thì nào khác chi con khỉ ngó vô đám chữ. Thật tội cho những ai đã vô tình đọc sách theo loài lông lá đầy mình. Thế nên, nơi lớp đầu tiên, tôi phải giúp mấy người trẻ nghiệm được thế nào là ý, cái gì là khí, thế nào là ý đẫn khí, định tâm, hành thiền. Tôi có quá tham vọng không? Thử sẽ biết, chưa thử nghiệm, chẳng nên dự đoán.

Tôi đã chia sẻ nhận định trên với ông Tầm mấy ngày trước nên lớp học võ đầu tiên chỉ có 7 em, nhỏ nhất 14 tuổi và lớn nhất 17 tuổi. Quanh một chiếc bàn dài, các em ngồi ngay ngắn và đứng lên khi tôi bước qua cửa. Tiến đến chiếc ghế đầu bàn, tôi lên tiếng,

- Chào các em, mời các em ngồi. Sau khi mọi người ngồi xuống, tôi tiếp tục, tôi tên là Hoàng, các em gọi tôi là chú Hoàng. Tối nay là buổi hội ngộ đầu tiên, tôi muốn biết mục đích hay ý định của mỗi người khi muốn học võ. Nào, bây giờ tôi xin mời từng người giới thiệu tên của mình và nói lên điều mình ước muốn tại sao mình học võ. Mời em, tôi đưa tay hướng về em ngồi bên phải, em này coi bộ lớn tuổi nhất.

Nói chung, các em đều biết nhau nơi miền tỉnh lẻ này và sống không xa vùng chợ. Mọi người muốn trở thành một thứ gì, muốn tăng thêm sức khỏe, và muốn có thể giúp ích gì cho gia đình cũng như cải thiện mức sống. Sau khi cảm ơn các em đã trình bày mơ ước, tôi lên tiếng,

- Mục đích luyện võ không những phát triển thể xác bản thân, mà điều quan trọng nhất lại là thăng tiến tinh thần, thăng tiến nhận thức, và tuân giữ luật thượng võ hầu giúp con người của mình, cuộc đời của mình hoàn thiện hơn. Tôi nói hoàn thiện chứ không dám nói đến toàn thiện; bởi không ai có thể toàn thiện. Nói đúng ra, người mà không ai thấy họ có những thiếu sót, sai lầm chỉ là kẻ tuyệt vời giả dối, giả dối để lừa đảo người khác. Có câu hát, “Ai nên khôn không khốn một lần.” Nơi cuộc sống, lầm lỗi do thiếu suy xét là chuyện thường tình. Học võ không phải để bảo vệ mình mà để tránh bị nguy hại. Tinh thần thượng võ không phải để khoe khoang sức vóc, huênh hoang ra bộ ta đây tài giỏi mà sống thực với con người của mình, nhận biết mình hay, dở thế nào. Các em nên nhận thức rõ ràng, bất cứ ai, nơi một phương diện nào đó đều đáng bậc thầy của mình, cho dù ngay nơi tính chất gian xảo, đểu cáng. Mình không thể đểu cáng như họ, không có nghĩa mình hơn họ, nhưng không dám, không đủ khả năng muối mặt như họ, thì thua vẫn là thua; dẫu mình khinh chê sự xấu xa nơi họ. Bởi vậy, cho dù người khác thế nào, nên nhớ, thái độ, cách cư xử của mình đối với bất cứ ai đều cần biết lễ độ. Nên nhớ một điều, đã học võ rồi, cái giơ tay, giơ chân dẫu vô tình cũng có thể làm chết người hay ít nhất tổn thương đến người khác; do đó cần phải để ý từng cử động. Muốn kiểm soát cử động của mình thì phải nhận biết thái độ; muốn nhận biết thái độ, cần nhận biết tính khí con người của mình, cần suy nghĩ, nhận định thói quen, những sự thường tình, cho dù bình thường đến mức độ nào. Tôi muốn nêu lên một câu nói, tôi mời mỗi người giải thích mình hiểu thế nào. Chẳng hạn, “Đi khám bác sĩ, đi khám bệnh.” Mời anh Tân nói lên điều mình hiểu.

- Thưa thầy, là đến gặp y sĩ để chẩn mạch khi ốm ạ.

Cả 7 em đều phát biểu tương tự, dẫu có đôi ngôn từ khác nhau. Sau khi mọi người trả lời, tôi hỏi,

- Thế sao lại nói, “Khám bác sĩ?” Các em thử nghĩ coi, bác sĩ khám mình hay mình khám bác sĩ; y sĩ chẩn mạch mình hay mình chẩn mạch y sĩ mà nói đi khám bệnh; mình khám hay bị khám? Tôi chỉ đặt vấn đề để từng em tự suy nghĩ trả lời cho mình. Nào, bây giờ chúng ta đặt khuỷu tay phải lên bàn, để đứng tay lên, điều chỉnh ghế và cách ngồi cho thật thoải mái, đưa lưng thẳng lên, khép mắt lại, nghe và thực hành theo những gì tôi nói. Trước hết, từ từ hít hơi vào theo lỗ mũi theo nhịp đếm của tôi từ một đến năm. Nào bắt đầu, 1, 2, 3, 4, 5. Ngưng, từ từ thở ra, 1, 2, 3, 4, 5, thở bình thường. Có ai bị trục trặc gì không?

- Thày đếm hơi chậm làm em hụt hơi.

- Em nói đúng. Mọi người, từ nay, nhớ tập thở chậm lại bất cứ lúc nào. Nếu ai muốn thực hành thở chậm và dài hơi hơn, tập thổi harmonica, tập thổi kèn, hay tập nín hơi và từ từ hít vô và từ từ thở ra. Không khí mà mình thở ra, thở vô đó được gọi là khí. Nào bây giờ chúng ta để ý tới không khí khi thở ra hoặc hít vô nghen. Đưa ngón tay trỏ thẳng lên. Nhắm hờ mắt lại, từ từ hít vô, tưởng tượng rằng không khí hít vào từ mũi, chạy xuống cổ, chuyền qua vai, qua cánh tay, chạy tới ngó trỏ. Từ từ thở ra, tưởng tượng không khí từ ngón trỏ theo cánh tay, ngược về lỗ mũi, ra ngoài. Có ai cảm thấy gì không?

Em nhỏ tuổi nhất, lên tiếng,

- Thưa thầy, ngón tay em nó giật giật.

- Đúng, em đã làm đúng. Nào, chúng ta làm lại như thế cỡ ba phút, đến khi nào mọi người cảm thấy ngón tay trỏ giật giật thì ngưng. Mọi người, bắt đầu, khép hờ mắt lại, từ từ hít hơi vô, dẫn không khí tới ngón trỏ.

Chưa được hai phút, mọi người đã bỏ tay xuôi xuống bàn. Tôi nói tiếp,

- Sự để ý dẫn không khí được gọi là ý hay cái ý; để tâm dẫn không khí được gọi là định tâm. Như vậy, định tâm là để ý, dồn tâm trí, ý nghĩ, ý định của mình vào sự việc, sự kiện nào đó. Không khí được gọi tắt là khí. Xét thế, hành động của các em vừa thực hiện dẫn không khí tới ngón tay là ý dẫn khí. Nơi hoạt động thường ngày, mỗi khi thấy bất cứ phần nào, nơi nào trong cơ thể hơi khó chịu, hoặc cảm thấy nhức, cũng từ từ hít hơn vô, dẫn không khí đến nơi đau, ngưng lại một chút khi đã đầy hơi, đoạn từ từ thở ra trong khi tưởng tượng và ép cái đau nhức theo không khí thoát ra ngoài đi qua lỗ mũi. Hôm nay chỉ học như thế. Các em nhớ, tập từ từ hít vô và từ từ thở ra bất cứ lúc nào, nghĩa là luôn luôn. Tối mai chúng ta gặp lại và cho tôi biết kết quả. Xin chào các em.

Giảng lý thuyết, nói buông dẫu các em hiểu, nhưng vô ích chẳng khác gì những năm tháng tôi theo học võ. Định tâm thế nào, ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đả thông kinh mạch ra sao, vận hành khí thế nào vẫn mu ti mù tịt, thì đánh võ chẳng khác chi múa chân múa tay huênh hoang làm trò cho giống các chiêu thức, hèn chi suốt 12 năm mà tôi vẫn chưa đạt tới cấp bốn huyền đai. Nói đúng sự thật, mới chỉ ba tuần áp dụng vận khí theo chiều đốc mạch khi chạy đi chợ cũng như lúc chạy về, và dĩ nhiên bất cứ lúc nào nhớ đến, tôi thấy có phần tiến bộ khá nhiều nhưng chưa nói chuyện với ông Tầm.

Tôi so sánh sự thực hành chuyển vận khí lực này với sự luyện võ ngày trước, mới nhận ra kiến thức thiếu nghiệm chứng, thực hành, chẳng khác chi sự đọc sách mà không để ý, để tâm suy nghĩ. Cái thói quen, nói cho đúng, tưởng rằng hiểu điều gì là đủ khi đọc đã làm tiêu phí bao thời gian, tiền bạc mua sách, đồng thời chận đứng nhận thức từ bao lâu nay. Hèn chi Phúc Âm lên án, "Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào!” (Mt. 23:13). Giảng giải Phúc Âm dưới quan điểm luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục khiến cho người ta tưởng rằng đã hiểu, đã biết, tất nhiên chặn đứng sự suy nghĩ nơi họ. Như vậy, chìa khóa nước trời chính là sự suy nghĩ. Đọc, nghe, mà không suy nghĩ cũng chẳng khác chi con khỉ xem sách; dĩ nhiên, nước trời, vị thánh chẳng thể nào hiện lên.

Ông Tầm còn đang thức, ngồi uống trà, thấy tôi bước vô, lên tiếng hỏi,

- Lớp đầu tiên thế nào, khá không? Các em có cảm thấy hứng thú không?

- Không có thể nói chi, cháu chỉ mới cho thực nghiệm dẫn khí và giải thích mấy ngôn ngữ căn bản khi thực hành; chẳng hạn khí là gì, định tâm là gì. Tối mai, còn mấy khái niệm nữa, cháu muốn cho các em thực hành để dần dần phát huy nội lực, sự thể mà suốt hơn mười hai năm luyện võ cháu đã không biết. Cũng cảm ơn bác khuyến khích và cung cấp cho cháu một số sách để đọc, đặc biệt là tập bản thảo. Nói đúng ra, cháu mới chỉ thực nghiệm đúng đắn diễn trình dẫn khí huyết theo đốc mạch được ba tuần, thế nhưng, khi luyện lại những bài quyền, cháu thấy có nhiều điểm cần gia tăng biến hóa. Cháu đang suy nghĩ để phân tích những thế đánh nơi những bài quyền ra thành những thế đánh riêng biệt rồi xắp xếp theo nhiều diễn trình, bằng cách xáo trộn các thế đánh với nhau, đồng thời, thử khai triển từng thế đánh qua các dạng khác nhau. Bác nghĩ thế nào?

Ông Tầm yên lặng nhìn tôi một vài giây và nhẹ nhàng lên tiếng,

- Anh thừa biết có câu nói, “Không có đệ tử ngu mà chỉ có lão sư dốt.” Và vị lão sư tuyệt vời nhất của mình lại là chính mình. Thử nhìn lại căn bản cho luyện võ chỉ là các thế đánh trong 10 bài quyền mà sự thăng cấp cao thấp lại tùy thuộc người sử dụng các thế quyền. Nói cách khác đó là phản ứng đúng lúc, đúng trường hợp để thắng đối phương. Anh đã bao giờ nghĩ, thử biến phóng tác của Kim Dung trong truyện kiếm hiệp thành sáng kiến riêng của mình chưa? Phương tiện, cơ hội đầy ngập, nhưng chúng ta có dám thử hay không. Hãy nhìn cách nằm thoải mái, thư giãn của con mèo, so sánh với lối nghỉ ngơi của chính mình, anh học được gì, có được nhận xét gì, có thể áp dụng trong cuộc đời mình điều chi?

Nơi ngành võ học; nếu chỉ luyện theo bất cứ phương thức nào thì cũng chỉ đạt tới cực hạn nơi giới hạn của phương thức đó, và khả năng hoặc kỹ thuật, phản ứng vẫn không phải là của anh; nói cách khác, anh sẽ không bao giờ đạt tới cực hạn của mình trong khi, thực ra, không có giới hạn nào cả. Học theo người khác, cái giơ tay, cú đấm không phải là của anh, dẫu anh đấm; bởi vậy, cú đấm không thể đạt tới cực hạn. Võ công có thể học người khác mà thành cao thủ, nhưng muốn đạt đến mức tuyệt đỉnh lại chỉ có thể học từ chính mình. Có thể nghiên cứu, tìm hiểu để có bằng cấp cao, nhưng muốn tiến đến thức ngộ cần tự nghiệm chứng. Kinh nghiệm này có lẽ anh đã rõ trong ba tuần qua. Thế nên, bất cứ chuyện gì, hãy mở rộng lòng để thử, miễn là đừng để bất cứ di chứng nào phiền hà đến chủ đích của mình.

- Riêng nơi dạy các em luyện quyền, anh có ý định gì không?

- Cháu đã suy nghĩ vấn đề này ngay từ hôm bác nói dạy võ. Cháu đặt ra mấy phương án có thể, nếu không thực hiện được cái này thì mình làm cái khác. Tiện lợi và nhanh nhất, vì chỉ có bẩy em, với cái phòng nơi tiệm thuốc bắc, chỉ cần dẹp bàn ghế, trãi một lớp nệm trên nền nhà là được. Cháu thấy, điều quan trọng nhất là luyện khí công bằng cách áp dụng “Hành thiền;” có điều, làm cách nào để ngay từ ban đầu các em có được hứng thú tập luyện tại nhà. Cháu biết, dục tốc bất đạt, nhưng phải làm sao để nội trong hai năm, nghĩa là 100 tuần các em có thể thực tập hết 10 bài quyền; như thế, cứ ba tuần đầu của mười tuần, các em cần được thông suốt bài quyền, phân tích, và chỉnh sửa những thế quyền cho hợp với từng em. Hai tuần tiếp theo, các em tự thực tập cho nhuần nhuyễn. Tuần thứ sáu và tuần thứ bẩy, phân tán bài quyền thành từng thế đánh riêng biệt; tuần thứ tám, tổng hợp thành võ tự do của tất cả thế đánh nơi những bài quyền đã học, và tuần thứ 10 giảo nghiệm, điều chỉnh. Riêng tuần thứ 20 của mỗi khóa, thì lên đai. Như thế, nội trong 100 tuần, nghĩa là hai năm, phải xong căn bản cho đệ nhất đẳng huyền đai. Cháu thấy chương trình bốn năm, mỗi năm một cấp quá uổng phí thời giờ, nhưng điều quan trọng là cần phải thực hiện thế nào để các em thực hành “Hành thiền” luôn luôn, bất cứ lúc nào, mới là điều chính yếu. Tiến triển hay không đều tùy thuộc sự thực hành này. Thế nên, lớp luyện võ lại cần được quy tụ mỗi tuần hai tối, mỗi tối ba tiếng, hai tiếng ngồi luyện khí; một tiếng luyện quyền.

- Thế còn nơi chốn?

- Đây là lý do tại sao cháu không muốn nhiều em tham dự. Tuy nhiên, nơi trường hợp không sử dụng được phòng ở tiệm thuốc, có thể đưa các em về đây; nếu ở đây không tiện, cháu nghĩ, cần liên lạc với nhà chùa xin được dùng phòng nào đó, và nếu cùng lắm, phải huênh hoang làm to chuyện, cho các em thực tập tại chợ. Sau hai năm, các em đã đệ nhất đẳng huyền đai, mỗi em có thể tự mở một lớp nho nhỏ, 7 người; đồng thời hàng tuần tiếp tục một tối diễn tập, chia sẻ sáng kiến và thao luyện, lên đai. Cháu nghĩ, nếu thực hiện được như thế, chỉ nội 10 năm, chúng ta đã thiết lập xong một hệ thống làng võ và để nó tự vận hành.

- Tôi muốn biết nguyên tắc chính yếu, theo anh thế nào?

- Đối với 7 em hiện giờ, dứt khoát, nội trong 20 tuần không lên được một đai, cháu sẽ loại bỏ vì thiếu tự luyện; mặc dầu hành thiền mới là điều quan trọng nhất. Phụ với hành thiền, đó là nguyên tắc của nhà Phật, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Riêng phương diện này, cháu quan niệm cần khuyến khích mỗi em phát triển sáng kiến bất cứ kiểu cách nào cho thuận hoặc hợp với thể chất hoặc thân xác của em đó. Phiếm diện, nó được coi như Taekwondo, nhưng có những thế võ Thiếu Lâm thực dụng để phá đối thủ mạnh hơn mình cũng cần được trọng dụng. Nói cho đúng, mỗi em là một thực thể riêng, có lối đánh hoặc phản ứng chuyên biệt tùy thuộc cơ thể của mình, sao cho khả năng và năng lực phát triển đến mức tối đa trong tinh thần thượng võ. Dĩ nhiên, sự phát triển tùy thuộc sáng kiến và thể chất của mỗi em thế nào, dứt khoát sẽ không lệ thuộc cháu mà tùy thuộc chính em ấy. Thực ra, cháu nghĩ, nếu các em còn trẻ, lắm sáng kiến, mà có thể áp dụng, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” các em không sớm thì chầy, sẽ vượt qua cháu là chuyện bình thường. Đó là chuyện nên xảy ra và phải xảy ra; “Chẳng có gì lạ dưới ánh mặt trời” (Ecc, 1:9).

- Sao anh có thể tiên đoán như thế?

- Cháu nghĩ, đó là lẽ thường vì tất nhiên, sóng sau đè sóng trước. Nói thì nói vậy, chứ thực ra, như bác biết, căn bản thực nghiệm của võ học là nội lực, nội công, mà dẫu luyện võ, cháu đã không biết. Nay nếu các em thực hành “Hành thiền,” thì kết quả chắc chắn phải hơn cháu, nào có chi lạ. Cháu thực sự không dám nhận định, “Không có học trò ngu mà chỉ có vị thầy dốt;” cháu nghĩ, các vị thầy đã không để tâm nghiệm chứng mà chỉ học theo; đồng thời có lẽ họ cũng đã không có cơ hội đọc sách về tâm linh hầu phát triển nhận thức để áp dụng vô ngành võ thuật.

- Tôi hỏi anh, biết bao người đọc sách mà tại sao nhà Phật vẫn chưa có thất tổ; cả ngàn năm trôi qua, vẫn chỉ được nhắc đến lục tổ; mà lục tổ lại không biết chữ thì chẳng lẽ lục tổ xem phim trong khi thời đó nào có phim đâu mà xem. Như vậy, phải giải thích sự thức ngộ thế nào đây? Đồng ý rằng, trãi qua thời gian hiện hữu, tất có nhiều vị thức ngộ mà không ai biết, chỉ người ấy biết; bởi nhận thức không học được, không dạy được, không cầu được, mà chỉ có thể ngộ. Đổ cho vận số thì lấy gì chứng minh; tuy nhiên, nếu nhận xét theo thực tại, tất nhiên sự thức ngộ phải là con đẻ của suy nghĩ, suy tư, không phải học thức, vị thế, hoặc cầu mong. Cầu mong mà không thực nghiệm thà đừng cầu. Anh thử nghĩ coi, bao nhiêu người đọc sách và được mấy người biết cách đọc trong khi những lời khuyến dụ cách đọc sách đầy rẫy kiếm đâu không có. Cứ thử xét nơi trường hợp của anh, bất cứ ai luyện võ đều thuộc lòng đến độ nhập tâm, “Ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đến đả thông kinh mạch.” Thử hỏi, được mấy ai có thể áp dụng hầu phát triển nội lực, khí lực? Nếu tôi không lầm, biết được anh theo học ban C nơi trung học và đọc rất nhiều sách chẳng những nơi tiếng Việt mà còn nơi tiếng Anh, tiếng Pháp, mà mãi đến nay mới có thể nhận ra đã lãng phí mười mấy năm không biết cách phát triển, thăng tiến nội công, nội lực. Nói cho đúng, lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được nghe từ miệng anh nói lên ý nghĩ sẽ tách rời những thế quyền từ những bài quyền thành những thế riêng biệt, và sắp xếp thành những bài quyền mới hầu biến từng thế quyền thành phản ứng tự nhiên; đồng thời lại khuyến khích các em thực hành cũng như sử dụng sáng kiến phát triển thế đánh tùy thuộc cơ thể cũng như khí chất của mỗi người. Phỏng sách nào viết khuyến khích sự việc này hay do suy nghĩ, nhận xét đưa đến nhận định từ nơi anh. Nói cho đúng, nên và cần làm như thế thì mới có thể phát triển khả năng võ nghệ của một người tới cực hạn.

Tối tiếp theo, tôi vẫn để các em ngồi quanh bàn và hỏi về sự thực tập thở chậm lại cũng như thực tập ý dẫn khí; các em đều trả lời hay bị quên nên tôi đưa ý kiến,

- Nếu hay quên, hãy đeo sợi dây thung vào cổ tay, tay nào cũng được, và muốn cho dễ nhớ, đeo thêm chiếc lục lạc; mỗi lần cử động là nó nhắc nhở các em. Có điều các em nên để ý, tôi chỉ nói một lần, không muốn phải nhắc lại lần thứ hai. Những gì tôi nói đều là sự thực hành; ai không muốn thực hành hay không thể thực hành dẫu chỉ một lần, tôi không chấp nhận người đó tham gia lớp võ thuật.

- Có ai thắc mắc gì về ý dẫn khí không?

- Thưa không.

Phát cho mỗi em một bản “Sơ đồ vận chuyển pháp luân” theo đồ hình nơi cuốn Thiếu Lâm Dịch Cân Kinh mà tôi đã mất cả tiếng đồng hồ hí hoáy vẽ dẫu chẳng đẹp đẽ gì. Đoạn hỏi,

- Có ai không biết đọc tiếng Việt không, và được trả lời không.

- Đó là đồ hình các trung tâm huyệt đạo nơi mỗi người. Khi áp dụng vận hành ý dẫn khí; khí dẫn huyết, từ từ hít không khi vô đàng mũi, tưởng tượng không khí chạy lên tới giữa hai chân mày, lên tới đỉnh đầu, xuôi xuống gáy, tiếp tục theo xương sống ngang trái tim, xuyên dọc xương sống xuống thắt lưng ngang rốn và tới cuối xương sống. Lúc này, hơi hít vô đã đầy, ngưng một chút đoạn bắt đầu từ từ thở ra dẫn không khí ngược lên theo bụng, ngang qua gần dưới rốn cách bề ngang ba ngón tay khép lại, ngược lên ngang tim ở ngực và hơi thở ra vừa hết. Có ai thắc mắc chi không?

- Dạ thưa không.

- Bây giờ chúng ta thực tập; khép mắt lại, từ từ hít hơi vô dẫn không khí theo đồ hình nơi thân thể. 1, 2, 3, 4,5, thở ra, 1…, 2…, 3…, có ai hỏi chi không?

- Dạ thưa không.

- Khi thực hành một mình, càng hít thở chậm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Các em có thể thực hành vận khí bất cứ lúc nào, đứng cũng được, ngồi cũng được, và nằm cũng được, càng nhiều càng tốt; làm luôn luôn lại càng tốt hơn. Sự thực hành vận chuyển khí qua cách trung tâm kinh mạch này gọi là vận khí. Tôi nhắc lại một lần nữa, đeo lục lạc vào cổ tay để luôn luôn nhớ vận khí. Mỗi tuần chúng ta gặp nhau hai ngày, tối thứ hai và tối thứ sáu. Tối thứ hai tuần tới, tôi hy vọng không còn ai phải đeo lục lạc nơi cổ tay để nhắc nhở vận khí nữa vì đã quen luôn luôn vận khí bất cứ lúc nào. Ai không thực hiện được như thế, yêu cầu đừng tham gia luyện võ nữa. Chúng ta có thể thực hành vận khí ngay từ lúc này.

- Bây giờ chúng ta dẹp bàn ghế vô một góc phòng, trãi nệm ra và ngồi theo vòng cung vận khí. Chân bắt chéo lên nhau để ngồi cho vững, khỏi té lăn đùng nếu ngủ gật; thế ngồi này gọi là ngồi kiết già. Hôm nay, chúng ta ngồi vận khí mười lăm phút.

Sau khi bàn ghế đã được thu vào góc phòng xong và nệm được trãi ra, tôi ngồi xuống khoanh chân theo thế kiết già bắt đầu vận khí. Bẩy em ngồi theo hình vòng cung hướng về phía tôi bắt đầu thực tập.

KỶ LUẬT VÕ ĐƯỜNG

Mười lăm phút vụt qua rất nhanh trong khi đầu óc tôi bận rộn suy tính nên bắt đầu hướng dẫn các em theo phương thức thực dụng nào. Ý niệm, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” yếu chỉ của kinh Kim Cang hiện về nơi tâm trí. Không lệ thuộc, không dựa vào, không để cho bất cứ quan niệm, lý thuyết, sự vật, sự việc, tâm tình nào ảnh hưởng, hay làm điểm tựa để suy nghĩ, mà đối diện với thực tại hầu nhận định, nhận ra điều gì, sự việc nào cần được thực hiện. Cuộc đời một người, ai cũng phải đối diện với “sinh, bệnh, lão, tử.” Thế nên, sức khỏe là điều kiện ắt có và đủ cho mọi sinh hoạt chẳng những nơi thể chất mà còn ảnh hưởng sự phát triển tâm linh, nhận thức. Sức khỏe không có nghĩa sức vóc phải cao to, có sức mạnh rời núi lấp sông mà là không bệnh tật, có năng lực chịu đựng bền bì, đối diện với mọi hoàn cảnh trong cuộc đời, nghịch với loại “Ăn no, vác nặng.” Thân xác một người đâu phải cứ cao to, phốp pháp là có sức khỏe đâu; mang vác được trăm ký lô thì đó là sức mạnh, nhưng sức khỏe tùy thuộc năng lực của một người. Một con kiến có thể nâng vật nặng gấp 50 lần trọng lượng cơ thể của nó, thì nếu so sánh sức khỏe với năng lực; năng lực mới đáng được dùng làm bàn cân, mẫu mực cho sự thể sinh động. Như vậy, sự việc đầu tiên là sự thực hành nào giúp các em bảo vệ, phát triển năng lực, tránh ốm đau không cần thiết, hầu có sức khỏe dẻo dai, bền vững. Người xưa thường nói, “Một tinh thần minh mẫn, trong một thân thể tráng kiện.”

Thời gian gia nhập quân trường, mới bắt đầu, kỷ luật sắt được áp dụng khiến ai nấy bất mãn, nhưng chỉ một tuần lễ sau đã có được thói quen quân ngũ, tâm tình bình thản hơn, để rồi khi ra trường có được lối sống nghiêm chỉnh, khuôn khổ hơn. Thế nên, dẫu khuyến khích các em, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” hầu phát huy sáng kiến, thăng tiến trong sự thực hành võ học nhưng cũng cần được đào luyện nơi tinh thần thượng võ và kỷ luật sống của một võ sinh.

Có đòi hỏi quá nhiều nơi các em không, tôi tự hỏi. Những kỷ luật sống có ngăn cản sáng kiến, phát triển tâm trí của các em không? Có đóng khung suy nghĩ, có giới hạn tưởng tượng không? Bổ túc hay triệt hạ, làm hao mòn nhận thức, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm?” Tôi không muốn khuôn mẫu các em, mà muốn các em tự nhiên, sinh động phát triển; sao cho các em phát huy tối đa sáng kiến, dám cố gắng toàn lực thử bất cứ gì trong nhận thức giới hạn nơi mình; không thế, chỉ thuộc thành phần học theo, chẳng mong gì đạt đến cực hạn. Tôi không muốn áp đặt lầm lỗi, thiếu sót của mình trên bất cứ ai. Phát triển, phát triển từ tinh thần tới thể xác không giới hạn mới có thể đạt tới cực hạn. Một người có thể theo đuổi để thực hiện giấc mộng của mình, đó chính là một việc vô cùng hạnh phúc. Tôi không thể đem hạnh phúc tới bất cứ ai vì hạnh phúc là trạng thái nơi tâm tư của một người trong hành trình, diễn tiến thực hiện mơ ước của mình. Không thể và không nên bơm lý tưởng, quan niệm, nhận thức cho bất cứ ai; bởi đó là lừa đảo, gian dối, ăn cướp cơ hội phát huy nhận thức của họ. Không có gì phải cả, nếu đã có một tinh thần minh mẫn trong một thân xác cường tráng, tất nhiên, người đó nhận thức được nên hay không nên thế nào khi đối diện với cuộc đời đầy biến động nơi xã hội con người.

- Tôi không muốn áp đặt bất cứ chuyện gì hay vấn đề nào nơi các em. Ngược lại, tôi muốn thấy các em tự nhiên phát triển đến mức tối đa nếu mỗi người có thể. Sự phát triển này bao gồm hai phần, thể xác và tinh thần. Đối với thể xác, không phải bất cứ gì mình thích, hoặc ăn ngon miệng là có thể giúp ích và đem lại đầy đủ bổ dưỡng hay sức khỏe; cũng như không phải thân xác cao to, mập mạp là con người khỏe mạnh. Sự khỏe mạnh tùy thuộc năng lực của một người, không lệ thuộc hình tượng hoặc sức mạnh của người đó. Một người cao to, mập mạp, cân nặng một trăm ký lô, nâng vác được một vật nặng một trăm ký, năng lực không thể so sánh với một người khác chỉ cân nặng 50 ký mà có thể nâng vác được 75 ký lô. Thêm vào đó, một tinh thần minh mẫn chỉ có thể có được nơi một thân thể tráng kiện, đầy năng lực.

- Chương trình luyện võ, nói cho đúng, sự thực hành, luyện tập võ nghệ chỉ giới hạn trong mười bài quyền thuật, nhưng thăng tiến, phát triển thế nào đều tùy thuộc sáng kiến và sự luyện tập của mỗi người. Một điều rất rõ ràng, nội trong hai năm, các em cần đạt được đệ nhất đẳng huyền đai. Sự thể này chỉ có thể đạt được trong sự tuân giữ một kỷ luật sắt hầu thăng tiến chẳng những võ thuật mà còn tinh thần. Thế nên, trước hết, tôi muốn nói rõ, nội trong 20 tuần, nếu em nào không thể đạt được cấp một đai, sẽ bị loại không thương tiếc.

- Sự thăng tiến nơi võ thuật lệ thuộc trên căn bản nội công, nội lực. Đánh võ không có nội lực chẳng khác gì múa may cho đẹp mắt; mà người thực sự mang võ nghệ, chỉ một cử động giơ tay, giơ chân là có thể hại đến người khác; do đó, tuân giữ kỷ luật trong tinh thần thượng võ cần được tuyệt đối tuân theo. Phạm kỷ luật này cũng sẽ bị loại ngay lập tức bất kỳ thời điểm nào. Xét như vậy, chúng ta cần để ý và phải tuân giữ hai điều kiện, sức khỏe và tâm trí.

- Để bảo vệ và thăng tiến sức khỏe, chúng ta cần thực hành Dịch Cân Kinh mỗi ngày trước khi luyện võ. Để phát huy khả năng võ thuật, chúng ta sử dụng sáng kiến đến mức tối đa và nguyên tắc căn bản phát sinh sáng kiến lại là, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm nghĩa là gì, nghĩa là không lệ thuộc bất cứ gì, chỉ tùy thuộc điều kiện thực tại nơi mình mà biến hóa, thực hiện. Tuy nhiên, sức khỏe và tinh thần phát triển được hay không đều tùy thuộc sự vận hành, ý dẫn khí; khí dẫn huyết; huyết đến đả thông kinh mạch. Bởi vậy, kết quả hiển nhiên để minh chứng một người có tiến bộ trong võ thuật hay không đều tùy thuộc người đó có luôn luôn thực hành vận khí hay không.

- Xét về kỷ luật sống một võ sinh cần tuân giữ, chúng ta sẽ tử từ phân định nơi những sự kiện và sự việc diễn tiến. Từ nay, thái độ đầu tiên mọi người phải tuân giữ là khi gặp võ sư, hay bước vô võ đường, hoặc đối diện với người thi đấu phải nghiêm chỉnh bái. Bái không phải là bái quỳ, mà nghiêm chỉnh cúi người với tâm tình tôn trọng, không lơ là, không thực hiện cho qua. Tuy nhiên, khi bái đối thủ, cũng không nên đứng quá gần mà luôn luôn cảnh giác, lỡ khi mình đang bái, đối thủ vung chân đá sao có thể phản ứng kịp.

Tôi không muốn nói tất cả những gì các em nên theo, nên giữ, được gọi là kỷ luật võ sinh e khiến các em bối rối, nên chỉ nêu lên thái độ cách cư xử đầu tiên một võ sinh cần có. Và tiếp theo, dạy các em những thế luyện tập Dịch Cân Kinh cho thông máu huyết để giữ gìn sức khỏe. Điều quan trọng nhất tôi muốn biết, lại chính là thực hành vận khí luôn luôn, cũng đành chờ thứ hai tuần tới. Tiếng rưỡi đồng hồ rảo qua 12 động thái của Dịch Cân Kinh để các em thực tập theo kể là cũng quá ép đối với lần đầu tiên luyện võ trong sự cố gắng của các em, nhưng tôi phải làm thế nơi bước đầu hầu tạo tinh thần cố gắng hết sức lấy đà cho những lớp thực luyện sau này. Điều mà tôi luôn luôn nhắc nhở các em khi thực luyện đó là luôn luôn áp dụng vận khí trong mọi trường hợp, mọi cử động. Hai lần, nơi động thái số 10 và12, tôi suýt bật cười thành tiếng nhưng đã cố kìm hãm lại được, khiến đau cả bụng, đồng thời máu dồn lên mặt khá khó chịu. Ai thử sẽ biết, thuở ban sơ, khi đầu óc đang chú tâm dẫn khí chạy theo dương mạch mà khom người xuống đoạn đưa một chân lên giống như con chó vãy đuôi trong cử điệu, “Ngạ hổ phác thực,” thế là một em lăn quay, té cái hụych, không tức cười chết sao được, thế mà tôi phải cắn răng nín thở cố gắng giữ nghiêm trang thì có khổ không. Nơi dạng “Điệu vĩ,” có lẽ vì hăng hái quá, một em khi khom người xuống cho hai bàn tay đặt trên hai mu bàn chân trong khi hai chân cố giữ trong thế thẳng, em đã cúi hơi quá về phía trước, cắm cái đầu xuống, may mà vội đưa hai tay đỡ được khiến em lộn luôn một vòng chẳng khác chi làm xiệc. Chỉ một thời gian ngắn mà phải chịu hai lần nín thở, cắn răng, máu dồn lên mặt, quả là phiền.

Về tới nhà, ông Tầm vẫn đang ngồi ở bàn ăn hình như có ý đợi tôi. Chưa kịp lên tiếng nói, ông đã hỏi,

- Hôm nay thế nào? Coi chừng ông khá chú ý tới lớp luyện võ, dầu chỉ mới là lớp học thứ hai.

- Hy vọng các em hăng hái đủ để kiên nhẫn tiếp tục và cố gắng tập luyện. Có điều, cháu phải suy nghĩ, sắp xếp lại mầu đai; thay vì sáu màu đai, cháu định chia thành tám.

- Tại sao phải chia thành tám?

- Trước tiên, hôm nay cháu dạy các em thực tập vận khí theo dương mạch; mà vận khí theo dương mạch sẽ phát triển năng lực tính dục coi chừng bất lợi cho các em. Có lẽ cháu sẽ thử vận khí theo nhâm mạch nội tuần này xem sao. Thêm vào đó, bác thử nghĩ coi, cháu muốn rốt ráo chỉ nội trong hai năm, nhờ vận khí theo “Hành thiền,” các em phải đạt được đệ nhất đẳng huyền đai thay vì bốn năm. Tất nhiên cần tuyệt đối cố gắng và kiên trì, như vậy, lại cần năng lực khuyến khích bằng những thành quả có thể nắm bắt được. Thử tính, hai năm vị chi có 100 tuần. Nếu chia thông thường sáu đai, trắng, vàng, xanh, tím, đỏ, đen, thì 16 tuần lên một đai, nghĩa là 4 tháng. Nếu chia thành 4 thăng cấp và lại chia mỗi cấp thành hai lần đấu luyện để có 8 lần đổi mầu đai, có thể thêm phần kích thích cố gắng tập luyện hơn.

- Tại sao không chia thành 12 lần lên đai mà chỉ có 8 lần. 12 lần khuyến khích hơn chứ? Nếu tính 2 năm, gồm có 100 tuần, chia cho sáu đai, mỗi đai 16 tuần, đem 16 tuần chia hai tức là cứ hai tháng có cuộc thi sẽ kích thích hơn. Mỗi cuộc thi sẽ lên nửa cấp, thêm nửa mầu, có lẽ trẻ sẽ phấn chấn hơn, lại ít phải tính toán nhiều. Đàng khác, lịch trình luyện tập đã được chia sẵn trong sách, nếu chia theo thăng nửa cấp thì dễ nhớ và dễ thuần thành hơn là thăng từng cấp. Như vậy, vấn đề còn lại chỉ là pha mầu dây đai.

- Sao bác rành về Taekwondo quá vậy?

- Không rành mà mới chỉ ba thế anh đã phải ngưng à? Tôi chỉ hơi ngạc nhiên, không ngờ anh ngộ được sự áp dụng “Hành thiền” nơi việc vận khí quá nhanh, đồng thời có ý định ứng dụng thử vận khí theo đường nhâm mạch, nghịch chuyển pháp luân, lại dám xâm mình thực hiện miên tục. Chỉ có điều, anh có biết triệu chứng tẩu hỏa nhập ma, và cách giải nếu lỡ vô tình vận khí trục trặc chưa?

- Dạ cháu biết. Nơi bản thảo có nói rõ.

- Có người ủng hộ cho các em đồng phục luyện võ nhưng muốn giấu tên, lần tới sẽ có thợ may đến đo quần áo. Tôi sẽ nói họ may luôn cho mỗi em một bộ mười hai dây đai thăng cấp. Anh muốn họ tới đầu giờ hay cuối giờ tập luyện và vào ngày nào?

- Cháu nghĩ vào 5 giờ chiều thứ hai, vì mỗi tuần sẽ có hai lớp tập luyện vào tối thứ hai và tối thứ sáu.

- Được rồi, cứ tính như thế. Có điều, anh có nghĩ đến cách diễn xuất chưa?

- Bác muốn nói đến trạng thái diễn giảng?

- Và trình diễn quảng cáo nữa.

- Cháu chưa hề nghĩ tới quảng cáo, quảng chồn. Tuy nhiên, qua lần dạy về 12 tập thế của Dịch Cân Kinh, cháu thấy cần giải thích trong lúc trình tập thật chậm để các em làm theo, đồng thời cũng phải nhắc nhở coi chừng những động thái quá lố. Tuy nhiên, cháu đang suy nghĩ phải thế nào để khuyến khích các em phát huy sáng kiến khi luyện tập trong giới hạn cơ thể trong lúc vận khí.

- Thế anh đã cho các em biết cách nhận ra triệu chứng vận khí lệch lạc và cách giải chưa?

- Cháu định nói lần tới vì e nói quá nhiều, coi chừng các em khó thâu nhận.

- Anh có nghĩ đến lệ phí chưa?

- Cháu nghĩ, hãy chừng lại ít nhất ba tuần, khi các em đã phần nào cảm nhận được chút thành quả mới nên đặt vấn đề.

- Tại sao không để bốn tuần sau khi thăng nửa cấp. Đàng khác, chỉ có 7 em, tôi nghĩ nếu tính lệ phí thì cũng chẳng được bao nhiêu. Tôi đã dò hỏi ý kiến của các phụ huynh từng em, nói chung, họ không đặt thành vấn đề lệ phí. Tôi nghĩ, cứ để họ tự nguyện, có lẽ khá hơn. Về sự việc này, anh cứ để tôi giải quyết; miễn sao anh khuyến khích được các em cố gắng tập luyện đến mức tối đa là được. Tôi nghĩ, theo phương thức áp dụng thực hành vận khí liên tục trong khi luyện võ, kết quả thành tựu sẽ không thể ngờ.

- Kể từ lúc có ý định thử vận khí nghịch hành theo âm mạch, cháu thấy hình như lối vận khí này không nên chia thành hai phần hít vô nửa mạch, thở ra nửa mạch mà hít vô nghịch hành toàn mạch rồi thở ra mới thuận chu kỳ.

- Tôi không nói trước bất cứ điều gì e chận đứng nghiệm chứng của anh. Anh nói đúng, vận khí nghịch chiều pháp luân chỉ có một đường từ từ hít vô, dẫn khí thông suốt kinh mạch chứ không phân chia rồi từ từ thở ra. Thăng tiến mau hay chậm cũng tùy thuộc hơi thở chậm hay mau. Vận khí nghịch hành đúng là nghịch, thở chậm, thì tăng mau, mà thở mau thì tăng chậm, đúng là nghịch.

LUẬN BÀN NHẬN ĐỊNH

- Anh có định thực tập cho các em “Kiến tính” không?

- Cháu đã đôi lần tự hỏi có nên không. Tuy nhiên, nhiều nghịch lý, lắm phản biện nổi lên nên chưa có ý nghĩ gì. Trước hết, thiển nghĩ, chúng ta đang đối diện với một thực tại trầm luân; dân chúng khổ cực chạy ăn từng bữa, muôn nhu cầu cấp thiết căn bản nhân sinh dồn ép mà lại khuyến khích “Kiến tính,” sẽ phát sinh nhận thức sai lầm về “Huyền đồng” theo quan điểm hữu vi, có lẽ chỉ mang tai hại cho người ta. Bác thử xét coi, “Huyền đồng” thuộc về nhận thức, tâm linh, nhưng với quan điểm hữu vi, tất nhiên sẽ bị hiểu là sống hòa hợp với tự nhiên, trở về cảnh ăn lông ở lỗ, thiếu hay bỏ quên ý chí tiến thủ, chẳng khác gì những tuyên truyền, khuyến khích hãy tự lo, hãy chỉ biết đến mình, ích kỷ, ai chết mặc ai, ta no đủ đã, với bất cứ thủ đoạn nào. Thêm nữa, qua nhãn quan hữu vi, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” cũng trở thành nguyên nhân hoặc lối khuyến khích chụp giựt cơ hội, sẽ tàn phá tâm đức. Đọc qua những hồi ký, nhận định về thực trạng xã hội nơi các quốc gia Cộng Sản, hoặc theo chủ thuyết Chủ Nghĩa Xã Hội, bác thấy các nền luân lý, đạo đức của các nước chẳng hạn, Trung Hoa, Iran, Bắc Hàn, Venezuela, Cuba, kinh tế càng ngày càng suy sụp, dân chúng lâm vào cảnh lầm than, đói rách, vô luân, vô đạo đức. Con người chẳng khác gì những con thú, chỉ biết lần mò kiếm gì bỏ bụng cho yên cái dạ dày luôn luôn thiếu thốn, đói khát. Dân chúng trở thành những đối tượng cho các quan chức moi tiền; thế nên, quan chức thì càng ngày càng đông tiền lắm bạc, mà dân chúng, ngược lại càng ngày càng tiến dần tới khố rách áo ôm. Không nhớ cháu đọc đâu đó, dân Venezuela phải vác cả bao bố tiền mới mua được ổ bánh mì trong khi ngày trước, Venezuela là một nước dầy đặc dầu khí, giầu có, nay thì sao. Thế nên, đối với hiện trạng này nơi đây, nếu trình bày, hoặc khuyến khích “Kiến tính,” lỡ bị hiểu theo nghĩa hữu vi, nhân sinh, cháu cảm thấy coi chừng đó chính là gieo rắc mối họa hại người, hại nước, chỉ vô tình tiếp tay cho quan chức làm nhụt nhuệ khí dân tộc, biến dân tộc thành nô lệ cho miếng cơm, manh áo theo thành ngữ đang được cổ võ, Cơm Áo Gạo Tiền.

- Những điều anh vừa nói chỉ là nhận thức về sự hiểu biết sai lầm, thay vì suy nghĩ nơi hiện trạng tâm linh lại hiểu biết theo đường hướng hữu vi, nhân sinh mà thôi.

- Bác nói đúng; thực tế minh chứng, biết bao người viết sách, đọc sách, rồi nào học giả này, tác giả kia đa số, nếu cháu không lầm, đều diễn giải, trình bày theo quan điểm hữu vi, thế tục, không thoát ra được. Quan điểm của họ, nhận định, suy diễn đều lệ thuộc lối nhìn nhân sinh chưa vượt lên được; họ vẫn còn bị nặng nề ảnh hưởng của những cặp kiếng mắt thịt, may ra chỉ một đôi câu, nếu không lầm, mới chạm tới tâm linh.

- Diễn giải, suy luận là hành động hữu vi, đó là điều ắt có và đủ, không thế sao có sách vì sách vở thuộc vật chất. Anh không nhớ câu, “Một con khỉ nhìn vào cuốn sách không thể thấy vị thánh hiện lên” sao? Tất nhiên, sách vở phải dùng sự việc, sự kiện hữu vi để kiến tạo, nhưng nhận thức tùy thuộc độc giả. Nói cho đúng, tác giả cũng không thể nào biết được nhận thức của bất cứ độc giả nào sẽ phát sinh khi đọc sách của mình. Biết bao cuốn sách anh đọc; nếu tôi không lầm, bởi anh theo ban C nơi trung học, lại cố gắng cải thiện ngôn ngữ bằng cách đọc sách ngoại ngữ; nếu chỉ tính mỗi năm anh đọc cỡ trên dưới 20 cuốn sách thì ít nhất sáu năm tính từ đệ tứ cho hết hai năm đại học, vị chi 120 cuốn. Thử hỏi, nơi phương diện nhận thức, anh đã đạt được gì? Thế tại sao mấy cuốn Đạo Đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Niết Bàn, Kinh Viên Giác, Pháp Bảo Đàn Kinh, Kinh Thánh, Kinh Koran, Bhagavad Gìta, kiếm đâu chẳng có mà vẫn được coi là kinh điển. Tất nhiên, nhận thức không thể học, không thể dạy, không thể cầu, mà chỉ có thể ngộ. Nhưng thức ngộ hay không tùy tâm trí độc giả. Cứ suy từ kinh nghiệm đọc sách của anh sẽ thấy, nhận thức phát sinh từ suy nghĩ nếu đọc mà không suy nghĩ sẽ chỉ có thể hiểu chứ không thể nào nhận thức. Thực tế minh chứng, con người tự bẩm sinh đã mang khả năng suy nghĩ; bởi vậy, cuộc sống mới thăng tiến. Tuy nhiên, bởi phải liên miên đối diện nhu cầu vật chất nhân sinh, người ta đã không để tâm đến hiện trạng tâm linh, nên không suy nghĩ, không để ý đến diễn tiến tâm trạng của mình nơi những trường hợp của sự việc, sự thể được ghi lại một cách ám định thế nào, do đó không nhận thức được. Như vậy, vấn đề lại là cách nào và thế nào khuyến khích, đánh động được tâm trí người ta lọt vào suy nghĩ tâm linh. Đó là lý do tại sao tôi nói thực tập cho các em “Kiến tính.” Tôi nói thực tập chứ không phải diễn giải, hoặc trình bày lý thuyết, giải thích, giải buồn, hoặc mua vui.

- Tôi nghĩ, đến lúc này, anh cũng thừa nhận ra rất rõ ràng; đó là hiểu không phải nhận thức. Sự thể được gọi “hiểu biết” thuộc về hữu vi, nhân sinh, thế tục. Nhận thức thuộc về tâm tình, cảm nhận, cảm nghiệm; nhận thức thuộc về trạng thái nơi phương diện nào đó của tâm hồn. Chẳng hạn câu, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng,” là câu nói hữu vi chỉ về tính cách, trạng thái ăn ở, đối xử, lại mang ám định về tâm tình, tính cách, tâm linh. Như vậy, các kinh sách chứa đựng những câu nói như thành quả, kết quả về sự thể diễn tiến nơi tâm hồn, tâm cảm, cảm nhận, cảm nghiệm, và muốn biết sự thể diễn tiến ra sao cần nghiệm chứng, nghiệm xét. Điều hiển nhiên, đó là cho dù kinh sách hoặc các loại sách vở, tất cả đều là sản phẩm của con người. Kinh sách là kết quả, thành quả của nghiệm chứng, giúp độc giả thăng tiến nhận thức. Nhận thức lại là kết quả của suy nghĩ tâm linh, nên muốn nhận thức được những câu nói nơi kinh sách cần phải suy nghĩ, đặt mình vô các vị thế của câu nói, phân tích từng phần trạng thái hay phương diện nơi câu nói để cảm nhận; được gọi là nghiệm chứng hay nghiệm xét. Tuy nhiên, một thực thể hiển nhiên nơi mọi người, đã trãi qua bao thời đại, nhưng ít ai để ý. Thử hỏi, ai ngủ cũng mơ không nhiều thì ít. Khi mơ, đẫu đôi mắt thịt đang nhắm lại, không biết gì đến những chuyện gì đang xảy ra bên ngoài, ngay cả thân mình; thế mà thấy rõ ràng mọi sự trong giấc mơ. Vậy con mắt nào nhìn trong giấc mơ. Ai cũng có, nhưng được mấy ai để tâm tìm hiểu con mắt nhìn trong giấc mơ nơi mình không. Anh đã nhận ra con mắt nhìn trong giấc mơ là gì chưa; nó liên hệ đến anh hoặc cuộc đời của anh thế nào? Điều tôi muốn nói là phương cách nào, phải đặt vấn đề nơi phương diện chi, để nhận biết hoặc giải đáp hiện trạng con mắt nhìn trong giấc mơ. Các nhà khoa học chỉ có thể phân tích và giải đáp những hợp chất, sự vật, sự việc hữu vi; nếu xét về thực thể hoặc tâm linh, coi chừng họ cũng chỉ giống như các thày bói mù rờ voi mà thôi; bởi họ đã quá quen, quá lệ thuộc suy nghĩ hữu vi như mọi người. Thử hỏi, đã có vị khoa học gia nào chứng minh được 1+1=1, trong khi thực thể liên hệ hồn và xác của một người ai dám nói là hai? Lý luận rằng hồn và xác là hai thực thể riêng biệt thì có tách hồn và xác của một người riêng ra mà người đó còn có thể sống được không? Tuy nhiên, có câu nói, tôi không nhớ được châm ngôn của nước hay dân tộc nào, “Khi con vật ăn no, chúng ngủ, nhưng khi con người có đủ cơm ăn, áo mặc thì họ suy nghĩ,” nhưng suy nghĩ nơi phương diện, trạng thái nào lại là một vấn đề. Điều này có thể chứng thực được nơi trạng thái đọc sách của anh đã bao lâu nay và mấy ngày vừa qua.

- Nhưng…

- Tôi hiểu anh muốn nói nhưng về điểm gì khi dân chúng đang phải đối diện với thực trạng nhân sinh khó khăn, khốn khổ. Có lẽ anh chưa có cơ hội đọc được mấy câu thơ, tôi không nhớ được của tác giả nào,

“Em nhớ giữ tính tình con gái Bắc

Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền

Nhớ khiêm nhường nhưng thâm ý khoe khoang

Nhớ duyên dáng ngây thơ mà xảo quyệt.”

- Dù tác giả là người miền Nam, cay đắng viết lên đặc tính con gái Bắc, nhưng nhìn vào lịch sử dân tộc Việt, cả ngàn năm qua mấy lần bị bắc thuộc và thử hỏi những thời điểm xa xưa ấy, dân tộc mình đâu có súng ống, xe hơi không; sao 13, 14 lần chiến đấu chống phương bắc vẫn thắng. Những thời hai bà Trưng, Quan Trung, Lê Lợi, bộ dân chúng có gan hùm ăn thay cơm hay sao mà vẫn xua đuổi được bắc phương. Thử nhớ lại coi, lần bắc thuộc lâu dài nhất là 700 năm, tụi Tàu có đồng hóa được người Việt mình chăng hay bị đồng hóa ngược lại; những con dân bắc thuộc có muốn trở về quê hương sinh quán của họ không, hay chôn chân, chôn cuộc đời nơi đất Việt? Người Việt coi bộ yếu hèn đấy, nhưng phía sau nét ngoan hiền, khiêm nhường, ngây thơ là cả một sự bất khuất, kiên cường nếu không muốn nói là cao ngạo. Có câu nói, “Cầu mong không bằng vận may; vận may không bằng tốt số; tốt số cũng thua ý trời.” Tôi không hiểu được “Đất có tuần; dân có vận” ra sao; do đó càng không hiểu được thân phận con dân Việt sẽ thế nào, nhưng phải làm gì để nâng cao nhận thức của con người thì đó là điều ắt có và đủ cho dân tộc vươn lên.

- Bởi thế, làm sao áp dụng, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” nơi hiện tình thực tại mới là điều thiết yếu. Mình chưa thức ngộ mà e ngại người khác hiểu lầm là thế nào? Tôi cảm nhận được nỗi thống khổ dằn vặt nơi tâm tư anh. Bộ anh tưởng tôi là cục đá hay sao mà không biết. Thử hỏi, vì cớ gì, cô Lan, em gái người bạn, thắm thiết đợi chờ anh ngỏ lời mà anh lại bỏ đi. Bố mẹ cô cũng đã giáo toa chia cho cô hai mẫu tây rãy chuối, thế mà anh cũng trốn lánh. Mấy hôm trước, hai nàng con gái mới gặp đã chấm điểm anh, mà ngay tên của các nàng anh cũng không cần biết. Có phải vì anh sợ bị chui vào cái lồng hôn nhân, rồi rơi vào tròng bán mặt cho đất, bán lưng cho trời kiếm miếng cơm manh áo chỉ biết lo cho vợ con? Người ta đầy đầy chan chan ra đấy, bộ chỉ mình anh là đàn ông nơi đất nước này sao? Suy nghĩ, suy nghĩ, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm.” Anh biết, “Kiến tính” đòi hỏi định tâm và “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ,” không tin ai hết, không để ai lừa dụ, là thế nào chăng? Nơi Kinh Thánh của anh thì nào, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì móc mà quăng chúng đi; nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm thì chặt mà quăng chúng đi.” Và rồi, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta.” Anh có nghiệm được các câu này nói gì và áp dụng vào thực tại theo ước mộng của mình thế nào không? Tôi nghĩ, anh cần suy tư thâm trầm với câu nơi Đạo Đức Kinh, “Không làm gì nhưng không việc gì không làm.” Riêng tôi, tôi nghĩ, nên đổi lại câu nói thành, “Không làm gì là làm tất cả.” Anh hiểu sao thì hiểu.

- Nhưng thưa bác, có lẽ bác còn nhớ câu bác nói, “Một người có thể theo đuổi để thực hiện giấc mộng của mình, đó chính là một việc vô cùng hạnh phúc;” dẫu biết rằng hạnh phúc chỉ là trạng thái đuổi bắt ước vọng của mình nơi tiến trình theo đuổi, thì đâu có gì ngoại tại đáng được để ý tới. Theo cháu thấy, đôi khi niềm hạnh phúc của người này có thể là sự khổ ải, gò bó cho người khác, hoặc niềm mơ năm nào lại trở thành cay đắng hôm nay. Cái kiếp người này, mục đích còn chưa biết, đành chấp nhận sống cho qua thì sao có thể nhẫn tâm kéo người khác vô vòng đày đọa. Cuộc đời thiếu gì cảnh, “Cá trong lờ đỏ hoe con mắt; cá ngoài lờ ngúc ngoắc muốn vô.” Càng yêu ai chỉ càng làm cho người ấy đớn đau, càng gây khốn khó cho mình. Ai không thích hay không muốn mình có số đào hoa, nhưng kẻ nào được sinh ra với số đào hoa mới thực sự cảm nhận được khốn khổ vì nó, như vậy, thì đành gồng mình chấp nhận mà thôi; bởi nghiệp, vận, hay duyên thì nào khác gì cá đã ở trong lờ. Thời gian cũng chỉ là giai đoạn đợi chờ lên thớt. Đức Phật, đức Chúa nào có cứu được ai nếu người đó không muốn được cứu, mà được cứu khỏi điều gì phỏng có biết chăng. Nhìn lại cuộc đời mình, “Tam thập như lập,” nhưng cuối cùng thì “vào đời tay trắng, ra đi cũng trắng tay,” nên, thiển nghĩ, sống cho vui vẻ, an định, an hưởng niềm hạnh phúc đuổi bắt ước mơ còn đòi gì hơn. Dẫu nhà Phật cho rằng, ước mơ hay ý định cũng chỉ là dục; vậy diệt dục thì là gì? Phỏng diệt dục là nhắm mắt đưa chân học theo loài khỉ cho giống mọi người dẫu lòng mình khác hẳn (Trang Tử)? Trái ớt chín đỏ đầy vẻ ngon ngọt, hấp dẫn, nhưng ngon với ai chứ đối với cháu, nó cay lắm không dám đụng đến; cho dù nó được phơi bày đầy vẻ mời gọi trên bàn. Đâu phải cứ “Yêu ai, thì yêu cả đường đi; ghét ai, ghét cả tông chi, họ hàng.” Cuộc đời này, ai thì cháu không biết, nhưng nếu sống mà như chết thì đâu còn sinh thú gì để tiếp tục. Chẳng lẽ ra ngoài trời nắng không đội mũ, nón, rồi cứ kêu than sao không có mây mà hết nóng nực được chăng. Cháu nghĩ, coi chừng xỉu chết giữa đường, nên thà kiếm mũ hay nón mà đội, lỡ vận chết ập đến thì cũng không phải ăn năn vì đã không ai giúp mình.

- Nói chung, những gì anh vừa nêu lên chính là nhận thức đối diện với thực thể biến chuyển của cuộc đời. Xét thế, lại cần phân định cho rõ ràng đâu là giá trị của một người, tạisao được sinh ra, có cuộc sống; mục đích cuộc đời của một người là gì. Chưa nhận ra giá trị của cuộc sống thì sao có thể đặt vấn đề nhận biết mục đích cuộc đời của mình. Đồng ý rằng, mỗi người đều có cuộc đời, nhưng được sinh ra không ai giống ai, và cuộc sống không có mục đích chẳng khác gì tiêu hao công sức một cách vô ích như mũi tên được bắn đi vô định hướng, và như vậy, cuộc đời không mục đích, nếu chỉ chấp nhận được sinh ra để sống thì cứ sống, để rồi miệt mài, tốn công sức, chạy theo những ý thích nhất thời, chắc chắn chết khó nhắm mắt; và trong những ngày gần cuối kiếp nhân sinh phải đối diện với muôn nỗi ăn năn, khắc khoải nuối tiếc vì đã vô tình lãng phí những cơ hội nhận ra giá trị cuộc sống của mình. Tâm tình này đay nghiến không biết bao người nơi cõi nhân sinh; do đó, chỉ đành chấp nhận sống để dạ, chết mang theo, quả là đáng thương cho kiếp người, bởi vì thiếu nhận thức. Thực tại này quả hợp với câu, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.” Ngu dốt vì đã thiếu suy nghĩ; nói cho đúng, không dám đối diện với niềm khát khao bẩm sinh nơi mình.

- Có điều, anh còn trẻ; sở dĩ tôi nói hơi nhiều vì một sự thể đắng cay cho kiếp người, dẫu muốn cũng không thể được; đó là cuộc đời này không có loại thuốc nào chữa để chữa lành sự hối hận. Dĩ nhiên, thuở ban đầu, người ta chỉ mơ ước điều mình chưa có và càng không có cái gì thì lại càng khát vọng nó. Nhưng như anh đã biết, đôi khi ước mơ thời non trẻ ngày xưa, đang trở thành gánh nặng nếu không muốn nói là án phạt cho ngày hôm nay. Tôi không muốn chúng ta phải ăn năn bởi đã thiếu suy nghĩ; vì ăn năn, hối hận là vết thương sát phạt tâm tưởng luôn đè nặng gây áp lực ưu tư không thể lành lặn do sai lầm; mà sai lầm nào đã không đi vào quá khứ. Tất nhiên, quá khứ thì đã chết, không thể sửa chữa hay đụng tới, nhưng vết thương lại luôn sống động, luôn dằn vặt tâm tư. Nói cho đúng, sự thể này chỉ xảy đến với những tâm hồn ngay chính, chân thành. Anh đã dám thực sự chân thành đối diện chính mình để nhận ra thiếu sót nơi cách đọc sách hơn mười năm trước tất nhiên cảm nhận được những gì tôi nói. Đồng ý rằng, không ai tránh thoát được lầm lỗi; vì “Ai nên khôn không khốn một lần;” thế nên, để ngăn ngừa hoặc tránh phần nào sự tiêu phí cuộc đời kiến tạo nỗi ăn năn, hối hận sau này, chúng ta cần suy nghĩ chín chắn, thâm trầm hơn để nhận ra mục đích cuộc đời của mình là gì, cần phải thực hiện thế nào hầu biết giá trị cuộc sống thay vì lây lất tiêu hao tháng ngày một cách vô ý thức.

- Bởi vậy, thay vì đắm chìm trong đám mây thực tại đang miên tục biến chuyển, thay đổi muôn chiều khiến tâm trí rối rắm như rợ vào rừng khó bề cân nhắc, chọn lựa, chúng ta cần phân tích, nhận định sự thể cuộc sống hầu tìm ra điểm khởi đầu cho suy tư. Dĩ nhiên, hành trình suy tư này khó thì không khó nhưng dễ thì cũng chẳng dễ dàng chi, như anh đã trình bày; bất quá, chúng ta chỉ cần kiên nhẫn, bình tâm xét lại mà thôi. Thử đặt vấn đề một cách thực tiễn, lý do gì hoặc nguyên nhân nào đã khiến anh cảm thấy hối tiếc thời gian hơn mười năm đọc sách? Có phải đã vì anh không suy nghĩ nên đọc sách với tâm trạng thế nào, hoặc phương cách thực nghiệm nào khi đọc sách hầu nâng cao nhận thức chăng? Bình thường, ai cũng thế, chỉ đọc mong kiếm tìm kiến thức để rồi cứ nghĩ biết nhiều kiến thức là cách nâng cao giá trị đời người; vì kiến thức là những kinh nghiệm, sự hiểu biết không phải tốn công sức trả giá, đồng thời giúp con người có thái độ đối diện với cuộc đời chính xác hơn để đạt được chủ ý hay mưu đồ nào đó của mình. Sự thể này hoàn toàn đúng và hữu ích, nhưng chỉ hữu ích một phần trong giới hạn nhân sinh, nơi cuộc sống thế tục. Thử hỏi, giá trị một đời người phỏng chỉ là sự hơn thua danh giá, tiếng tăm, bằng cấp nọ kia, vị thế, chức vụ, nhà cao cửa rộng, quần áo lụa là hợp thời, hợp cảnh, hay xe sang mắc mỏ, hoặc đông tiền, nhiều của để rồi cuối cùng, ai cũng như ai, vào đời đơn độc, ra đi lạnh lùng, tay trắng trở lại trắng tay; trong khi lòng ôm theo nỗi hối hận, ăn năn, luôn đè nặng tâm tư chẳng thể dứt bỏ? Như vậy, giá trị đời người lại chính nơi nỗi lòng, tâm tư, chứ không phải bất cứ gì thuộc thế giới nhân sinh này; dẫu những sự kiện, sự việc, hoạt động, một người đã thực hiện ghi lại những dấu ấn khó thể tàn phai nơi tâm trí.

- Thế cái nỗi lòng, cái tâm tư từ đâu phát sinh. Nỗi lòng, tâm tư là gì nơi một người? Muốn biết nó, chúng ta phải đối diện với chính mình, với con người thực của mình. Mình thực sự là gì? Chỉ là vẻ bên ngoài? Thế tại sao có câu nói, “Hơn nhau tấm áo, manh quần; nếu đem lột trần, ai cũng như ai?” Tôi không nghĩ ai cũng như ai nếu đem lột trần; vì đó chỉ là cái nhìn phiến diện; cái mà không ai có thể biết ngoại trừ chính người đó mới được gọi là giá trị của đời người. Chính cái giá trị này được gọi là nỗi lòng, được gọi là tâm tư. Người ta chỉ có thể nhận biết giá trị của một người khác qua lối sống, tư cách dưới nhãn quan luân lý, đạo đức nhân sinh tùy thời, tùy nơi, nhưng giá trị đích thực của người đó lại tùy thuộc nhận thức. Chính sự nhận thức của một người kiến tạo nên nỗi lòng, tâm tư người đó. Điều này có nghĩa, nhận thức của một người phân định giá trị làm người của họ, chứ không phải tấm áo, manh quần, hoặc ngoại hình thân xác, hay tiền của, hoặc vị thế nơi xã hội. Bởi vậy, muốn nhận ra giá trị đời người, lại cần biết mình thực sự thế nào, là ai, thực thể sự sống nơi mình là gì?

- Nói cho đúng, không sách vở nào, không một ai có thể nói lên, hay dạy cho mình nhận biết mình thực sự thế nào, ra sao, là ai, lý do, “Nước nóng lạnh, người uống tự biết,” như nhà Phật đã nói. Cho dù người thân nhất, ngay như chính mình, vẫn thực ra luôn luôn “Đồng sàng dị mộng.” Con người thường mộng tưởng về chính mình, cho rằng, nghĩ rằng mình thế nọ thế kia, nhưng, tất cả đều là thiên vị, đều là thăng hoa, đều là tự lừa đảo, hầu an tâm theo đuổi ước vọng hay mưu đồ nào đó. Đâu phải đơn giản mà câu nói của Blaise Pascal, “Người ta đâu phải là thánh, chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú,” lại có thể đứng vững qua bao nhiêu năm giữa bao biến chuyển, thăng tiến của cuộc đời. Khi anh nói về phương pháp đối diện chính mình bằng cách thực sự chân thành viết xuống tất cả những gì xảy đến và phản ứng cũng như nhận biết nơi mình trên giấy trắng mực đen, tôi nghĩ anh đã nghiệm được câu, “Cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương.” Đồng ý rằng, những câu nói, kinh sách, hoặc lý thuyết, quan điểm đều là sản phẩm của con người, không có bất cứ gì tự trời rơi xuống dẫu được gán cho là thần này, thánh kia dạy bảo thế nọ, khuyên răn thế khác. Thực ra, không có con người, sẽ chẳng có thần, chẳng có phật gì ráo trọi; bởi không có con người thì có gì mà nói, có gì mà suy, và vì thế sao có thể nhận biết.

- Bởi vậy, căn bản, gốc gác, điểm khởi đầu cho bất cứ suy tư, suy nghĩ nào, đều bắt nguồn từ sự nhận biết chính mình, và phải tự nơi mình. Tất cả những gì cho dù khôn ngoan, thông thái bên ngoài, đều chỉ là phương tiện hay cơ hội. Và tất nhiên, nhận biết sự thể này hay không đều tùy thuộc tâm hồn mình có đủ can đảm đối diện với chính mình hay không.

- Bác nói can đảm đối diện với chính mình là sao?

- Có gì mà quan trọng hóa thế. Anh đã thực hiện nhưng có lẽ không để ý. Thử hỏi, được mấy người nơi cuộc đời này, nói cho đúng, được mấy người từ ngàn xưa tới nay dám đặt bút, thực lòng chân thành viết xuống tất cả những gì mình cảm nhận về chính mình, tốt cũng như xấu, hay ho, tốt lành cũng như chẳng ra gì. Dám thực sự nhận biết mình thế nào bằng cách trực diện, dĩ nhiên cần sự can đảm cùng cực. Dân tộc Nga có câu chuyện huyền thoại, “Số là có một con rồng lần đầu tiên nhìn bóng của nó phản chiếu trên mặt nước, thấy xấu xí quá, nó kinh hoảng chết ngay lập tức” (Chấp Nhận Cuộc Đời; Luise Rinser; NH Lê dịch; Tr.102). Tác giả dùng hình ảnh con rồng trong truyện huyền thoại mà còn phải kinh hoàng chết ngay lập tức thì phỏng có ai đọc mà đủ can đảm dám thử; nếu ai dám thử không phải là họ can đảm tuyệt vời ư? Nói cho đúng, đối diện với sự việc, sự thể cuộc đời, cùng lắm thì bị hoảng hốt rồi cũng qua, nhưng đối diện chính mình cần năng lực can đảm, hay được gọi là dũng cảm. Thử duyệt qua tâm trạng của anh thì biết, nếu anh chưa nhận ra con người mình thực sự đốn mạt, ma mãnh, đểu cáng thế nào, sao có thể nhận biết lòng độ lượng, tha thứ, và tuyệt đối thương xót của Thiên Chúa, nếu nói theo quan niệm Công giáo nơi anh. Thử đặt anh nơi vị thế của Thiên Chúa xem sẽ có phản ứng thế nào đối với sự thể được gọi là anh, có phải là muốn vật chết chính mình ngay lập tức không? Thế sao anh vẫn còn đang sống. Vậy Thiên Chúa của anh là gì, thế nào, liên hệ với cuộc đời, thân xác anh ra sao?

- Anh cũng như mọi người đều tin rằng mình có linh hồn vậy linh hồn anh thế nào dẫu đã nghiệm được mọi phần tử cơ thể của anh, cũng như con người, thân xác, và cuộc đời của anh chỉ là phương tiện cho cái hồn hoạt động. Có phải vì cần trả lời những câu hỏi như thế này, anh lại cần đọc sách, cần suy nghĩ, để tìm câu giải đáp không. Nhưng đọc sách nào nếu không phải là những kinh sách đạo học. Chắc chắn rằng anh sẽ không thể có được câu trả lời nào cho thỏa đáng nơi sách vở tôn giáo; bởi tôn giáo chỉ là tổ chức nhân sinh, con đẻ của nhận thức đạo học, và vì tôn giáo giải thích, giải nghĩa đạo học dưới nhãn quan luân lý, đạo đức hữu vi, với mục đích quảng bá, chiêu dụ tín đồ, dựa trên cảm nhận e ngại trả giá cho những lầm lỗi, thiếu sót của con người dưới nhãn quan luân lý, đạo đức. Nói cho đúng, sở dĩ anh không thể tìm thấy những câu trả lời nơi sách vở tôn giáo bởi chúng là sản phẩm của những tác giả thiếu nghiệm chứng; nói theo thánh Phao lô nơi Kytô giáo của anh, đó là thiếu nghiệm xét. Thử đặt câu hỏi đơn giản, phỏng những bậc rao giảng nơi Kytô giáo có biết nghiệm xét là gì, có biết áp dụng nghiệm xét vào suy nghĩ, suy tư lời Kinh Thánh ra sao không? Thí dụ, làm sao áp dụng câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta, không xứng với Ta” trong cuộc đời một người? Phỏng đức Giêsu đến, hay được sai đến để dạy người ta bất hiếu sao? Phỏng đã có vị nào trong Kytô giáo trình luận án về câu Kinh Thánh này hợp lý, hợp tình để có thể áp dụng, hay chân thành thực hiện trong cuộc đời một người mà có thể kiến tạo nên nỗi an bình như đã được hứa ban chăng? Suy nghĩ, suy nghĩ cách nào chắc anh đã rõ, nhưng làm sao có thể giãi bày lý do tiếc nuối mười mấy năm uổng công sức và tiền bạc đọc sách? Phỏng nguyên nhân có phải chỉ là phương cách đọc sách, phương cách suy nghĩ, suy tư? Dĩ nhiên, mọi sự nơi cuộc sống đều chỉ là phương tiện cho con người thăng tiến nhận thức; nói cách khác, tất cả đều là cơ hội để con người nhận biết thực thể hiện hữu của mình là gì, nhưng sao đã bao ngàn năm con người vẫn còn lận đận, vẫn còn ngụp lặn trong vòng vô minh, nếu nói theo nhà Phật, vẫn chưa nhận biết thực thể mình thế nào.

- Bởi thế, tôi đề nghị anh bỏ thêm thời giờ suy nghĩ và so sánh những câu phát biểu nơi mấy cuốn sách đạo học với nhau, may ra sẽ rất ích lợi cho sự vận khí phát triển nội lực. Thực ra, nói về thăng tiến nội lực thì còn tùy thuộc thực hiện vận hành khí huyết; tuy nhiên, nếu để tâm suy nghĩ, áp dụng câu nói, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời,” anh sẽ thấy lắm điều ngạc nhiên. Thí dụ, anh thấy được những câu nào nơi các đạo học tương đương với câu, “Gặp phật, giết phật; gặp tổ, giết tổ?”

- Sao bác nghĩ ra lắm phép, nhiều trò thế?

- Không thế mà tôi dám rủ anh về đây à? Có lẽ anh hơn tôi về khả năng ứng phó và chấp nhận cuộc đời, cũng như phân biệt lợi ích, đồng thời dám thử bất cứ gì, ngay cả thái độ thách đố cuộc sống hầu tìm ra giá trị con người trong lẽ sinh tồn. Những tính chất này đòi hỏi cũng như chứng tỏ một năng lực tiềm ẩn khá cao. Tuy nhiên, gần hai năm trời, dẫu vô tình, nhưng cứ phảng phất gặp anh, tôi cảm thấy hình như chúng ta có duyên phận gì đó; nhất là khi hỏi anh có muốn đi với tôi, anh dám nhận lời không đắn đo khiến tôi vô cùng ngạc nhiên, dẫu được anh cho biết ý định thử sáu tháng hay một năm. Thế rồi, nội trong ba tuần, qua những trang sách đạo học, anh đã nhận ra vận khí, điều kiện căn gốc thăng tiến của võ học. Anh biết tôi phải mất bao lâu không? Hơn kém 30 mươi năm. Đâu phải đơn giản mà tôi thừa giờ nói chuyện phân tích cơ cấu của âm nhạc với anh đâu. Đối với tôi, như anh thấy, tôi không sử dụng bất cứ nhạc khí nào, ngoại trừ cây guitar. Dẫu có ít lần tôi thử tự tập đánh trống, thổi sáo, thổi harmonica, hay piano nhưng chỉ thử cho biết mà thôi. Sở dĩ không chơi nhạc nhưng có thể đào sâu vào âm nhạc chỉ vì tôi thường đặt câu hỏi tại sao để tự tìm hiểu và trả lời, đồng thời nếu có cơ hội thử, thử bất cứ điều gì hầu kiếm cho ra nguyên tắc. Tuy nhiên, cũng chính vì hiếu kỳ, muốn thỏa mãn hiểu biết bất cứ thắc mắc nào nên đã mấy lần gần tẩu hỏa nhập ma; cũng may mà gặp được mấy trang bản thảo.

- Nói cho đúng, bảo là duyên, tôi không chịu; cho rằng phận số, tôi thấy chỉ phần nào; bởi hình như, nếu tôi không lầm thì tâm ý, thao thức, khát vọng muốn nhận biết, cộng thêm bản tính thách đố cuộc đời, không chịu chấp nhận bó tay trong mọi hoàn cảnh, đã giúp tôi vượt qua hầu hết khó khăn trắc trở nơi cuộc sống. Ai nói chi thì nói, lý thuyết nào dù được ca tụng đến đâu tôi cũng đặt vấn đề xét lại, dùng nhận thức, lý luận để nghiệm chứng đồng thời thử, thực chứng nơi bản thân xem có hợp lý, hợp tình trong trường hợp hoặc trạng thái nào chăng. Có điều, nếu nói về nhẫn nhịn hoặc chấp nhận để chỉnh đốn, thay đổi nơi hành trình thăng tiến nhận thức, có lẽ anh hơn tôi. Đừng vội phản bác, hãy để tôi chứng minh. Anh đã không có bất cứ ý định trả thù năm người hùng nhau đánh anh một trận thừa sống, thiếu chết, phải bóp thuốc, dưỡng thương suốt hai tuần mới bước được ra khỏi cửa nhà người chị, nhưng lại cảm thấy biết ơn những kẻ đã đánh anh vì cho rằng, nhờ cơ hội đó học được bài học lễ độ cuộc đời. Thái độ này đáng được kính phục chứ? Hình như anh coi thường, mà chấp nhận nó như một bản tính, nhưng đối với tôi, không dễ chi chấp nhận và quên được. Tôi còn đang chờ xem cảm ứng hay kết quả ứng dụng vận khí nghịch pháp luân của anh thế nào. Tôi chưa bao giờ thử nên không muốn bình luận chi. Thế nên đề nghị anh suy nghĩ để so sánh kiếm ra điểm chung của mấy đạo học Đông phương hầu thăng tiến nơi nhận thức đạo học và may ra có thể áp dụng nơi võ học.

- Bác nói sao, nếu…

- Có gì mà lo, nếu thất bại hoặc cảm thấy không hợp lý, thuận chiều, hay cùng lắm thì đã biết phương pháp giải. Có lẽ anh chưa để ý phân tích tính chất của những câu nói nơi kinh sách; bởi chúng được ráp nối như được viết thành sự việc, hay sự kiện nào đó, bất chợt, câu kết khiến tâm trí độc giả chẳng ngờ, đôi khi cảm thấy tá hỏa đâu khác chi bị viên đá ném vào đầu. Thí dụ, tôi thử lấy một câu nơi Phúc Âm cho anh dễ nhận ra. Câu truyện người gieo giống, có hạt rơi bên vệ đường bị chim ăn mất, có hạt rơi trên sỏi đá, đâm mầm và vì thiếu nước chết queo, lại có những hạt rớt vào bụi gai, mọc lên bị chèn ép, chẳng sinh lợi lộc gì, còn đa số được rãi trên đất tốt sinh sôi nảy nở. Và câu kết thế nào? “Ai có tai thì nghe.” Thử phân tích câu truyện này anh thấy lắm điều coi bộ hợp lý nhưng khá nghịch luận không. Thử xét việc đem hạt giống ra đồng, sao có thể rơi bên vệ đường, trên sỏi đá, nơi bụi gai. Có ai đựng hạt giống nơi chiếc bị hoặc chiếc thúng lủng không? Bộ người ấy đường không đi lại vượt lối tắt hay sao mà hạt giống có thể rơi nơi bụi gai; vả lại có ai dốt đến nỗi cứ xông vào bụi gai mà đi thay vì đi trên đường; hơn nữa, sao có thể đi qua bụi gai cho dù có giầy, dép như ngày nay, phương chi với đôi chân trần của thời xa xưa? Và câu kết thì sao, “Ai có tai thì nghe.” Quả là vớ vẩn, vừa giải thích tùm lum tà la, lại nói “có tai thì nghe,” thế thì giải thích làm gì? Thử hỏi, câu truyện có hợp lý, hợp tình không? Điều phi lý hơn lại là, nó đã và đang đứng vững cả hai ngàn năm, chịu đựng, thách đố biết bao biến chuyển rồi đó.

- Có phải chính điều nghịch thường thách đố, kích thích, hoặc khuyến khích tâm trí suy nghĩ, đặt vấn đề hay không? Thế nên, đọc sách mà không để tâm ngưng lại, suy nghĩ, đặt câu hỏi nghịch luận để giải đáp chẳng khác gì tự giết cuộc đời của mình, giết thời gian, một lối từ từ tự tử trong vui vẻ, kiêu hãnh với sự hiểu biết hữu vi, uổng phí bao cơ hội thăng tiến nhận thức và tuyệt vô bổ. Tôi nghĩ, anh cũng đã nhận biết, những câu nghịch thường nơi kinh sách đạo học là kết quả hay thành quả của diễn tiến suy nghĩ, suy tư nơi tâm trí trong phương diện hay trạng thái nào đó. Nếu độc giả không nhảy vào câu truyện đóng những vai trò, vị thế của những nhân vật hay sự kiện để nhận định biến chuyển nơi tâm tư thì quả là coi thường công sức chẳng những tác giả mà còn chứng tỏ khinh chê, tác phẩm. Thiệt thòi, uổng phí thời gian do không biết phương cách đọc sách mà ra. Nơi trường hợp, giả sử kết quả nghiệm xét cá nhân của tác giả không hợp với mình thì sao? Xin thưa, thì mình có nhận thức chỉnh chu hơn, đàng nào thì cũng mang lại lợi ích; mà nếu nhận thức của tác giả nghịch với mình, lại càng có lợi hơn; vì mình đã có cơ hội suy nghĩ thâm trầm hơn. Có câu nói, “Đường ngắn nhất để tiến tới chân lý lại là con đường nghịch luận.”

Tôi nghe nhưng trong lòng cứ thắc mắc về đề nghị so sánh điểm chung của mấy đạo học Đông phương. Lẽ đương nhiên, nếu để tâm nhận định sơ sơ cũng có thể nhận ra các câu nói nơi những sách vở đạo học đều thuộc loại ý tại, ngôn ngoại; thế thì điểm chung lại ở nơi ý chứ không phải nơi ngôn từ hay lời phát biểu, câu nói. Phương cách nào để tìm điểm chung, tôi tự hỏi, phải làm sao, mặc dầu, mờ mờ nơi tâm trí thấy có gì đó tương đồng, nhưng tại sao ông Tầm lại khuyến khích nên so sánh; so sánh để làm gì, do đó lên tiếng,

- Bác nói so sánh những điểm chung nơi sách đạo học; tuy nhiên, so sánh điểm chung nơi phương diện nào, thực nghiệm hay ý niệm, lý thuyết, quan điểm, hoặc nơi phương diện quảng bá, lề luật, hay thực hành, áp dụng?

- Không ngờ anh thông minh và có cái nhìn sâu rộng hơn tôi nghĩ. Tôi chỉ đơn giản nêu lên đề nghị so sánh ít điểm chung nơi một vài đạo học trong khi phân tích đặc tính của những lời phát biểu nghịch thường ở kinh sách; mà anh đã phân tích vấn đề thành một số phương diện của những câu nói. Có lẽ anh đã nhận thấy, đặc tính chung của những câu nói đạo học là gây ngạc nhiên, bất thường nơi tâm trí độc giả; đang nói đàng nọ, xọ sang đàng kia dường như chẳng ăn nhập chi với chủ đề đang được nêu lên và thường có vẻ nghịch thường với diễn trình lý luận cũng như luân lý và đạo đức nhân sinh tạo nên sự ngỡ ngàng chẳng khác gì tác giả vô tình nói sai lệch. Đôi khi có những câu nói quá thường tình đến nỗi khiến tâm trí độc giả coi rẻ mà bỏ qua, không thèm để ý; chẳng hạn, “Lời ta nói như chiếc bè,” hoặc, “Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng.” Anh là người Công giáo nên có lẽ chẳng lạ gì với mấy câu, “Ai có tai thì nghe,” hoặc, “Tin mừng nước trời,” hay, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hay những câu chuyện dụ ngôn, “Mười nàng trinh nữ, ba người làm công.” Có điều chúng ta thường ít để tâm nghiệm chứng về những câu này bởi chúng được viết thành câu kết luận của một vài sự kiện đang diễn tiến dưới dạng hữu vi. Có lẽ anh cũng đã nhận ra được, những câu nói bất thường hay quá thường tình này là thành quả, kết quả của nghiệm chứng; nghĩa là chúng nói về tâm linh, chúng nói lên diễn tiến, trạng thái tâm tư đang xảy ra nơi người đọc. Thế nên, nếu so sánh, chỉ có thể so sánh ý niệm, thực nghiệm về diễn trình tâm tưởng. Nói cho đúng, dẫu những câu đó nói về sự việc, sự kiện hữu vi, nhưng câu kết luận lại nói về sự gì đang biến chuyển nơi tâm tưởng độc giả mà thường thì đang nơi tiến trình đọc sách, người đọc thường chỉ để ý sự kiện, sự việc được nêu lên. Tác giả của kinh sách đạo học nói về diễn tiến trạng thái tâm tư, tâm linh; dùng sự kiện, sự việc nhân sinh để khuyến khích, kích thích, thách đố độc giả nhận ra chuyện gì, điều gì đang xảy đến nơi tâm tư người đọc, nhưng người đọc đã không để ý. Thử hỏi, mắc mớ chi phải nói, “nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng;” phỏng có phải điều này muốn nói lên điều gì không đúng nơi lối nhìn của độc giả. Anh theo đạo Công giáo cả đời, được nghe nhắc đi nhắc lại phải tin vào Thiên Chúa, phải tin vào đức Giêsu; thế anh có biết tin vào Thiên Chúa là thế nào không; tin vào đức Giêsu là tin làm sao. Tin vào ai là tin vào, cho rằng, những gì người ấy nói hay thực hiện là điều có thật hay sẽ xảy ra; nhưng nếu không biết Thiên Chúa là gì thì tin vào Thiên Chúa là tin thế nào; không biết tin mừng đức Giêsu rao giảng thì tin gì, hay chỉ lặp lại thành ngữ, sáo ngữ, tin vào, tin ra, hoặc cùng lắm chỉ tin vào danh hiệu; mà danh hiệu đâu phải là thực thể. Có những người ăn uống không có ớt sẽ cảm thấy mất thi vị để rồi ca tụng, bày tỏ, giải thích lợi ích của ớt thế này, thế nọ, nhưng anh có tin theo và ăn theo họ không, phương chi nói tin vào Thiên Chúa?

- Nhưng, bác có biết phương cách nào để có thể so sánh nhanh nhất?

- Càng nói chuyện với anh, tôi càng cảm thấy thú vị; sao anh học ban C mà lại có lối đặt vấn đề kiểu này?

- Có lẽ tại lười chăng, bác thử nghĩ, không nói chi nhiều, chỉ đọc lại một vài cuốn kinh, suy nghĩ từng câu để kiếm ra điểm tương đồng nào đó nơi kinh khác, thì đến bao giờ; ấy là chưa nói đến cuốn Kinh Thánh Tân Ước cháu chưa kịp đọc lại. Dĩ nhiên, khi đọc mấy cuốn kinh nơi đạo học Đông Phương, cháu đã cảm thấy lờ mờ vài điểm tương đồng nào đó mặc dầu ngôn từ phát biểu kể như hoàn toàn khác biệt. Thế mà bây giờ phải đọc lại, ghi chép rồi phân tích, so sánh để nhận ra những điểm tương đồng thì nào có khác chi đội đá vá trời?

- Nói hay, lý luận, và phân tích hay, nhưng tôi nghĩ, nếu để anh tự nhận định thì cũng chỉ tối đa một hoặc hai ngày là anh có thể kiếm ra phương cách xử lý sự việc. Thôi thì nói ra cũng không ảnh hưởng chi tới nhận thức của anh. Tôi đề nghị thế này, anh đã theo học nơi chủng viện, nên đọc và nghe nhiều về Kinh Thánh, do đó hãy dùng Kinh Thánh Tân Ước làm tiêu chuẩn so sánh là thuận lợi nhất. Vấn đề chỉ tùy thuộc sự thể khả năng áp dụng nhận thức câu, “Được ý quên lời” của Trang Tử thế nào thì tùy. Bởi vậy, trước hết đọc lại cuốn Kinh Thánh Tân Ước, rồi dùng nhận thức về Tân Ước làm gốc để so sánh thì nhanh hơn. Tôi nghĩ, có lẽ chúng ta nên ngừng đàm luận nơi đây, sau khi anh đọc lại Tân Ước rồi sẽ nói chuyện. Hơn nữa, giờ này cũng đã muộn, nên đi ngủ thôi.

Dĩ nhiên, là người Công giáo, lại được trưởng thành từ nền giáo dục tiểu chủng viện, thế nên, cũng như mọi tín đồ, tôi rất tôn trọng Phúc Âm. Ai không biết Phúc Âm là tin mừng, là lời Chúa, nhưng tại sao ông Tầm lại nói, tin mừng đức Giêsu rao giảng. Nguyên nghĩa của danh hiệu Phúc Âm đã là tin mừng, sao lại phân biệt tin mừng đức Giêsu rao giảng; chẳng lẽ tin mừng đức Giêsu được sai đến khác với Phúc Âm. Ông Tầm chủ ý nói vậy hay vô tình; ông đâu theo đạo Công giáo.

Cho tới thời điểm này, do có thời giờ để tâm hơn khi đọc kinh sách, tôi đã, một cách nào đó, nhận thực được mọi sự, mọi việc, dẫu được coi là vô tình hay hữu ý, đồng thuận hay đối nghịch với quan điểm, hay ưa thích của mình, đều là cơ hội hay phương tiện cho mình thăng tiến nhận thức. Chính ngay nơi những giấc mơ cũng cần được để tâm tìm hiểu, để tâm đặt vấn đề. Sự hiển nhiên như mọi người nghĩ đã xảy đến với tôi và đã bao lâu nay đã không hề đánh động được tâm tư; chẳng hạn, con mắt nào nhìn trong giấc mơ. Tôi đã chứng thực sự kiện đã nhìn thấy trước trong một giấc mơ. Mấy cuốn kinh sách đạo học phân tích, trình bày những sự kiện, sự việc rất thường nơi ngay mọi người, ai cũng nhận thấy và được chấp nhận là sự bình thường. Tuy nhiên, khi để tâm suy nghĩ, đặt vấn đề, chúng lại trở thành gốc gác cho suy diễn vấn đề cần được để tâm tới. Hèn chi, mọi sự trong cuộc đời đều là cơ hội hay phương tiện cho một người suy tư, nghiệm xét để tăng thêm nhận thức, nhưng được mấy ai để ý!

Tuy nhiên, nói gì thì nói, tuyên xưng, tuyên dương, quảng bá gì thì cứ việc, miễn sao ít nhất phải hợp lý, hợp tình, có thể chấp nhận được. Tôi không hiểu sao, dẫu theo học ban C nơi trung học, lại thêm hai năm học văn chương ở đại học Văn khoa, được dạy dỗ, được nghe giảng giải về tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Thiên Chúa, vào đức Kitô nhưng hình như mối nghi ngờ to lớn nào đó cứ trầm trầm đè nặng nơi tâm trí. Tôi theo đạo, đọc kinh, cầu nguyện hằng ngày nhưng cứ cảm thấy mình cầu như không, chẳng được bổ ích, lợi lộc gì. Hình như Chúa chẳng tử tế gì với tôi; Ngài làm theo ý của Ngài, không theo ý tôi cầu; bởi thiên hạ tuyên dương phép lạ này, thành quả kia, mà tôi chẳng hề nhận được gì theo lời cầu, hầu chứng thực niềm tin, đức tin, và mãnh lực tin tưởng của tôi.

Nói đúng sự thật, tôi chưa bao giờ đọc hết cuốn Kinh Thánh; hay rõ hơn nữa, cũng chưa bao giờ đọc hết mọi phần trong Tân Ước, nhất là các thư. Hình như chỉ phúc âm Mác Cô là tôi đã đọc hết được một lần vì nó ngắn. Lần này có thời gian, tôi sẽ đọc hết cuốn Tân Ước. Có điều, xem chừng những lời giới thiệu, “Hội thánh không loan báo, không giảng dạy điều gì khác ngoài lời Chúa;” thêm vào đó, khẳng định, “Người tín hữu chúa Kitô là người luôn khao khát được nghe, được đọc lời Chúa và có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa;” khiến đầu óc tôi lùng bùng tự hỏi, bao năm tôi chỉ được nghe giảng giải về lời Chúa dưới nhãn quan luân lý và đạo đức nhân sinh; đồng thời nếu nói rằng người tín hữu chúa Kitô là người luôn khao khát được nghe, được đọc lời Chúa, thì thử hỏi, được mấy người đọc Tân Ước chứ chưa nói đến toàn bộ Kinh Thánh. Sự thể này tự phát từ dân Chúa, từ người tín hữu, hay đó chỉ là sự tưởng tượng, một mơ tưởng. Chính tôi là người được theo học nơi tiểu chủng viện, lại dùng sự siêng năng học hành như nghĩa vụ báo đáp công ơn sinh thành, nuôi dưỡng, của bố mẹ mà còn mới đọc hết phúc âm Mác cô được chỉ một lần, thì tuyên bố rằng khao khát được đọc được nghe là thế nào, có đúng sự thực không? Sở dĩ tôi đặt vấn đề như thế bởi mới đọc được 6 chương nơi phúc âm Matthêu, tôi giật mình ngỡ ngàng với câu, “Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi. 34 Vậy chớ lo đến ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy.” Bao lâu nay, tôi cố gắng tìm hiểu mục đích cuộc đời của mình là gì, mình được sinh ra để làm gì. Trời, câu trả lời đã hơn kém 2.000 năm được in rành rành ra đấy mà không biết. Tìm kiếm nước trời, tin mừng nước trời; muốn biết nước trời, cần biết tin mừng đức Giêsu rao giảng. Đức Giêsu rao giảng gì? Theo phúc âm Matthêu, đức Giêsu rao giảng giống Gioan, “Trong những ngày ấy Yoan Tẩy giả xuất thân rao giảng trong sa mạc xứ Yuđê, rằng: "Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17). Vậy nước trời là gì, đã gần bên, sao cần tìm kiếm?

Hình như nơi bản dịch khác, câu Mt. 6:33 được viết, “Tiên vàn, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa, và sự công chính của Ngài;” tôi thích lối dùng ngôn từ nơi câu này hơn vì cảm thấy nó trang trọng hơn, nhưng lòng lại bối rối vì hai ý nghĩ nhập nhằng giằng co chưa biết quyết định thế nào, hoặc là nên từ từ đọc cho hết cuốn Tân Ước rồi tính sau, hoặc tìm cho ra Nước Trời là gì và tin mừng đức Giêsu rao giảng như thế nào; bởi đây là mục đích cuộc đời khiến tôi thao thức nhận biết bao lâu nay, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa.” Hơn nữa, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17) là thế nào? Hối cải là thế nào, hối cải điều chi? Ngôn từ hối cải được dịch từ đâu ra? Nếu nước trời đã gần bên thì cách nào để nhận biết, tại sao không nhận biết mà cần hối cải; hối cải nơi phương diện, trạng thái nào; nước trời là gì, tin mừng nước trời là gì.

Phần Phật học của bản thảo có ghi lại nơi kinh Tăng Nhất Tập lời kệ, “Đừng tin điều gì do kinh sách. Đừng tin điều gì do tập quán lưu truyền. Đừng tin điều gì vì được người ta nhắc đi nhắc lại. Đừng tin điều gì do bút tích của thánh nhân. Đừng tin điều gì do người ta tưởng tượng ra rồi gán cho thần phật nói. Đừng tin điều gì vì uy tín của thày dạy. Nhưng hãy tin vào điều các con đã từng trãi, đã kinh qua và suy xét cho là đúng, có lợi cho các con và kẻ khác. Lòng tin ấy sẽ thăng hoa đời con, và các con hãy lấy đó làm tiêu chuẩn.” Và nơi kinh nào đó của nhà Phật cũng ghi lại lời Thích Ca, “Đừng vội tin những gì ta nói mà hãy nghiệm chứng. Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.”

Quái, nhà Phật thì đừng tin bất cứ gì; Gioan và đức Giêsu thì hối cải. Hối hận, hối thúc, hối lỗi, ăn năn; lại còn “cải,” mang nghĩa thay đổi, cải thiện, chỉnh đốn. Chỉnh đốn gì, cải thiện gì, thay đổi điều chi. Huệ Năng chỉ cần “Kiến tính,” nhưng ngồi nhiều sinh bệnh nên hành thiền. Kiến tính là mình ên suy nghĩ, suy tư, không lệ thuộc, không dựa vào bất cứ gì. Ah, kiến tính, suy tư nói về tâm trí. Như vậy, hối cải cũng thuộc về tâm trí. “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17). Bí cứng vì không hiểu hối cải thế nào, nơi phương diện chi và nước trời là gì. Không muốn ngưng đọc thì cũng đã ngưng để suy nghĩ, tìm hiểu. Không tin bất cứ gì để tự mình ên “Ưng vô sở trụ,” lại càng mù tịt. Chủ đích của tôi là gì lúc này? Tôi muốn nhận biết những điểm chung của mấy đạo học, nhưng vừa đọc được mấy câu, thì đã chẳng khác gì như rợ vào rừng.

Nơi đạo học Đông Phương, linh hồn, tính, là Thượng Đế, Thiên Chúa nội tại, và tất cả các đạo học đều dồn về một điểm, và đó là có một quyền lực tối thượng, được mệnh danh khác nhau, đang hiện diện và hoạt động mọi nơi, mọi loài. Kiến tính là nhận biết, nhận thực sự thể này, nhận biết linh hồn. Vậy linh hồn, tính, liên hệ đến nước trời, đến tin mừng ra sao. Nước trời là gì, tin mừng nước trời là gì. Tại sao lại nói, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17). Gần bên là thế nào? Thôi đành tiếp tục đọc Kinh Thánh Tân Ước để xem “Nước trời,” và “Tin mừng nước trời” là gì. Tôi quyết định.

Quyết định đọc là một chuyện; đọc để phân định cho rõ ràng những gì, lại cần được sắp xếp phân chia thành từng mục để có được nhận định đúng đắn thì cần được xếp loại từng phần cho khỏi bị lộn xộn đầu óc khi suy nghĩ cũng là điều cần thiết. Nếu áp dụng, “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm,” thì lấy gì làm căn bản cho lý luận khi suy tư. Có lẽ nên cảm ơn tác giả tập bản thảo vì đã phân tích phương pháp nơi hành trình tìm hiểu, nhận biết, chứ nếu cứ “Ưng vô sở trụ” thì cho đến bao giờ mới có thể “Nhi sinh kỳ tâm!” “Có ba con đường đồng hành nơi hành trình nhận thức thực thể chính mình tùy căn cơ mỗi người. Ai được sinh ra với lòng khát vọng mạnh mẽ, cuộc đời họ sẽ đi vào con đường chiêm nghiệm dù hoàn cảnh sống thế nào. Con đường khác, nhà Phật mệnh danh là minh triết, con đường thức ngộ nhanh nhất là dùng kiến thức, khả năng suy lý một cách ý thức để thức ngộ. Và hành trình còn lại đối vớiđại đa số quần chúng là tôn giáo.” Theo đường chiêm nghiệm thì hãy dành cho các tu sĩ đội đèn nhà Phật; tôi cảm thấy vui vui, nực cười, khi mường tưởng vị sư nào đó ngồi chăm chú quán tưởng rồi “vô thức đồng ý, gật một cái,” thế là đèn đổ ào xuống khiến dầu loang ra tấm áo cà sa dẫn lửa bốc lên và sư “hốt ngộ,” không phải, nhà sư hoảng hốt giật mình để rồi bị phỏng, hay may mắn lắm cởi phăng cà sa đang cháy lộ rõ thân mình trần trùng trục, cuống cuồng dập lửa. Ôi, vị thầy chùa nào phát minh ra phương cách “đội đèn quán tưởng,” quả là tuyệt vời minh mẫn. Nếu theo hành trình của đại đa số quần chúng thì đã bao lâu nay tôi chấp nhận tin tưởng, cầu nguyện mà vẫn chưa biết nước trời, tin mừng đức Giêsu rao giảng là gì, ấy là đã được học hành nơi tiểu chủng viện. Minh triết cần kiến thức, cần sự suy lý thì phải đọc, phải suy nghĩ, phải phân định cho rõ ràng, ngủ thôi, tôi tự nhủ.

Mà nào có ngủ được, tại sao lời rao giảng đầu tiên của đức Giêsu lại cũng giống như Gioan công bố, “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt. 3:1-2; 4:17)? Có phải dân chúng Do Thái thời đó khát khao nhận biết sự thể “Nước trời” hay sao mà Gioan khuyến dụ cần hối cải để nhận ra được nước trời đã gần bên. Hối cải là thế nào? Dân chúng đổ dồn về nghe Gioan rao giảng bao gồm đủ mọi hạng người chứ đâu phải tất cả đều thuộc loại đầu trộm, đuôi cướp thì sự hối cải phải là điều cần thiết và nên có nơi hết mọi người. Hối cải là thế nào? Tại sao nơi chương 1 của phúc âm Matthêu lại được viết, “Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vị tiên tri nói rằng: Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi” (Mt. 1:22-23)? Tên Ngài là Giêsu, tại sao lại viết, “Và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel?” Hình như có điều gì trục trặc; nhớ lại ngày xưa, nơi bản tiếng Anh nào đó được viết, “And they shall call him Emmanuel.” Tên là do cha mẹ đặt cho. Người ta gọi ai đó là gì thì đó là danh hiệu. Như vậy hình như mấy ông bà học giả, học thiệt, soạn thảo phúc âm Matthêu đã dịch theo nghĩa từ chương lại thiếu tính chất văn chương, nếu không muốn nói là thiếu suy nghiệm, suy nghĩ. Nếu đức Giêsu có tên là Emmanuel thì sao lại cứ gọi ngài là Giêsu? Hơn nữa, danh hiệu của một người nói lên thành quả công việc, hay chức vụ, hoặc vị thế của người đó. Gọi thánh Gioan làm phép rửa là Gioan Tẩy Giả thì “Tẩy giả” là danh hiệu của ngài vì tên của ngài là Gioan. Danh hiệu của đức Giêsu là Emmanuel, có nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi,” chẳng lẽ ngài được coi là Thiên Chúa ở với loài người? Thiên Chúa được gọi là ông Trời, ông Xanh, Thượng Đế, Brahma, Chân Như, Tào, Quyền Lực Hiện Hữu, Thực Tại Siêu Việt. Không ai gọi đức Giêsu là Quyền Lực Hiện Hữu bao giờ, cũng không tác giả nào ghi nơi sách vở kiểu này. Như vậy Emmanuel chỉ về sự việc, công việc, nhiệm vụ của đức Giêsu. Nhiệm vụ, sự việc này liên hệ đến, “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi.” Nói cách khác, Ngài rao giảng, Thiên Chúa ở cùng chúng tôi; Thiên Chúa ở cùng chúng ta; thế nên Emmanuel là danh hiệu. Phỏng như vậy, công việc mà đức Giêsu thực hiện là rao giảng, “Thiên Chúa ở cùng chúng tôi?” Thế sao lại viết, ngài rao giảng Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên,” giống như Gioan khuyến dụ? Nói rằng Gioan rao giảng, Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên,” điều này chứng tỏ dân chúng khao khát nhận biết nước trời và theo Gioan, muốn nhận biết nước trời cần phải hối cải. Đức Giêsu cũng rao giảng như thế thì nước trời có liên hệ chi đối với danh hiệu của ngài? Danh hiệu cũng như giá trị của một người do chính người đó tạo ra. Chợt nhận ra tâm tư luẩn quẩn với khúc mắc nhận định lung tung, tôi tự giục mình phải ngưng, ngủ là cần thiết, ngày mai, đọc Tân Ước xem sao. Sự lý luận kiểu “Ưng vô sở trụ” này chỉ rối tung lên thôi.

Sáng hôm sau, đi chợ, tôi mua một cuốn vở, một cây bút bi, rồi về nhà viết nơi mỗi trang một đề tài, chẳng hạn, nước trời, hối cải, gần bên, tin mừng nước trời, đức tin,…, rồi cặm cụi đọc đọc, ghi ghi, chép chép, từng câu phúc âm có liên hệ vào trang mang đề mục được ấn định. Kể ra tôi cũng thông minh, nhưng khi làm việc này, mới thấy, quả thật, xưa nay, nhiều vấn đềtôi đã tưởng mình nhận biết nhưng thực ra không biết gì. Thí dụ, nghĩ rằng, cho rằng mình tin vào Thiên Chúa nhưng chẳng biết Thiên Chúa là gì thì tin vào điều chi, hay chỉ tin vào danh hiệu. Nói rằng tin vào Thiên Chúa nhưng coi chừng thực ra vô thần, chỉ lặp đi lặp lại những thuật ngữ, sáo ngữ chẳng khác gì chiếc máy thâu băng. Có lẽ tệ hơn vô thần vì vô thần có nghĩa không nhận ra thực thể chính mình là gì, là ai; còn tôi, cũng như bao người, tuyên dương, tuyên xưng rằng tin thế nọ, tin thế kia nhưng cũng chẳng khác chi con vẹt, chỉ biết luẩn quẩn với điều mình không biết, với những danh xưng một cách ngu ngơ, rỗng tuếch.

Cho rằng mình thông minh cũng không sai, nhưng dốt, thông minh dốt, tôi tự diễu. Cuối cùng tôi cũng nhận ra được vài điểm tương đồng nơi các đạo học; chẳng hạn,

- Nơi Lâm Tế Lục có câu, “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ” thì phúc âm nhắc đi nhắc lại với nhiều kiểu cách khác nhau. Nào là, “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt. 5:29-30), hoặc “Quả vậy, Thầy đến để gây chia rẽ giữa người ta với cha mình, giữa con gái với mẹ, giữa con dâu với mẹ chồng. Kẻ thù của mình chính là người nhà. Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai hay con gái mình hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai giữ lấy mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm thấy được” (Mt. 10:35-39). "Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa". Một người khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã". Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa" (Lc. 9:60-62).

- Nhà Phật nói “Kiến tính,” Tân Ước dùng, “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt. 6:33-34); thánh Phao lô khuyên, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khi thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-22).

Nhà Phật khuyên nơi Tăng Nhất Tập qua lời kệ 10 điều không tin, và lời Thích Ca nhắn nhủ, “Đừng vội tin những gì ta nói mà hãy nghiệm chứng. Tin vào những lời ta nói mà không nghiệm chứng tức là khinh ta.” Nơi Tân Ước, Phao lô dạy, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Hoặc, “Chẳng ai lấy vải mới mà vá áo cũ, vì miếng vá mới sẽ co lại, khiến áo rách lại càng rách thêm. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, bầu sẽ bị nứt: rượu chảy ra và bầu cũng hư. Nhưng rượu mới thì đổ vào bầu mới: thế là giữ được cả hai” (Mt. 9:16-17). “Mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ” (Gioan 10:8).

Phương pháp kiến tính bên Đông phương là định tâm, hành thiền; nơi Tân Ước cầu nguyện, suy tư, “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.” (Mt. 6:6). Bên đạo học Đông Phương, Tào của Lão, Brahma của Ấn, Chân Như của nhà Phật, hiện diện, hoạt động nơi mọi sự. Thế nên, chẳng có ta, không gì là tôi, không chi là mình, tất cả chỉ là biến chuyển của năng lực, quyền lực uyên nguyên. Phúc Âm nói về mọi kiểu cách, khía cạnh của Nước Trời, Nước Thiên Chúa, "Ở trong các ông" (Lc. 17:21), "Ở trên các ông" (Mt. 12:28; Lc. 11:20), "Ở giữa các ông" (Lc. 15:21), "Đã đến gần" (Mt. 3:2), "Như hạt cải" (Mc.4:26; Lc. 13:19), "Như men trộn bột" (Lc.13:21), bởi vậy Phúc Âm khuyến khích suy nghĩ, suy tư để nhận biết, "Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người" (Mt. 6:33) (Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn).

Nhà Lão nói, “Kẻ trước hết sẽ trở nên sau hết” (Tao of Leadership; Tr. 4), Phúc âm ghi, “Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót. Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít" (Mt. 20:16). Đây là câu kết của dụ ngôn, “Thợ làm vườn nho” (Mt. 20:1-15). Riêng đối với câu đính kèm, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít,” gây áp lực phản cảm nặng nề trên tâm trí của tôi. Nơi bản tiếng Anh cũng được viết, “So the last shall be first, and the first last; for many be called, and few chosen” (Holy Bible; National Public Co.; PA, USA). Một số người được nhận cho làm vườn nơi những thời điểm khác nhau trong ngày. Cuối cùng vào lúc hết giờ làm việc, ai cũng chỉ nhận được một đồng. Như thế, công sức làm việc tuy khác biệt, nhưng lương trả như nhau; thế mà chẳng hiểu các học giả, học thiệt thế nào lại lấy “Râu ông cắm cằm bà,” ghép câu nhận định, “Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít,” chẳng khác gì cố tình biến độc giả thành những con khỉ, “nhìn vô sách sẽ không thấy vị thánh hiện lên.” Có ai bị loại đâu mà đặt vấn đề chọn lựa. Không hiểu các vị học giả Kinh Thánh có biết gì về nghiệm chứng, thực chứng hay chăng, nên thay vì soạn, dịch, lại biến thành diệt lời Chúa. Tuy nhiên, cũng nên cảm ơn các vị ấy, dẫu vô tình hay hữu ý, hoặc cho dù thế nào chăng nữa, cống hiến độc giả cơ hội động não. Thiển nghĩ, hình như các vị ấy không biết gì về lời khuyên của thánh Phao lô, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes, 2:3); thành ra, mãi cho tới ngày nay, lời Chúa vẫn còn cứ bị cho là huyền nhiệm. Thử tự vấn lương tâm, nếu đã không nghiệm nên thiếu nhận thức, tại sao không dám nói thẳng thừng là không hiểu, mà lại cứ rao giảng lời Chúa dưới nhãn quan luân lý thị dục, đạo đức nhân sinh, hằng luôn thay đổi tùy thời, tùy nơi? Có câu nói, “Không thể bổ đầu bò mà nhét óc chó vô được, và cho dù cố tình làm như thế, thì con bò cũng không thể sủa gâu gâu.” Phúc âm cực lực lên án những kẻ rao giảng lời Chúa dưới quan điểm luân lý, đạo đức thế tục, “Khốn thay cho các ngươi, Ký lục và Biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng để cho vào” (Mt. 23:13), có lẽ, cũng bởi vì thiếu suy nghĩ, nghiệm xét, nên luôn nặng nề mang tội phạm đến Thánh Thần. Đồng ý rằng, phúc âm cũng có câu, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo; kẻo chúng dày đạp dưới chân, và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6), nhưng dẫu sao thì đó cũng chỉ do lòng sốt sắng thiếu nhận thức, giá phải trả cho hợp với câu, “Tội lỗi bởi sự ngu dốt mà ra.”

Vào một buổi tối sau mấy ngày nghiền ngẫm cuốn Tân Ước, tôi chia sẻ một vài nhận định tương đồng của mấy đạo học Đông Phương với ông Tầm. Ông điềm tĩnh và nhẹ nhàng nói,

- Có như vậy, tôn giáo mới còn đất tiếp tục sống. Thử hỏi, nếu ai cũng để tâm nghiệm chứng kinh sách, tôi muốn nói, chỉ cần tự nghiệm được một câu, bất cứ câu nào, thì xã hội đã có bộ mặt khác, tươi sáng và thăng tiến hơn. Anh có nhớ câu nói của Tristan Bernar, “Thượng Đế đã tạo ra thế gian, nhưng chính quỷ vương mới làm cho thế gian sống,” và câu khác của Jules Renard, “Đâu phải vì đóa hoa hường mà con chim đậu trên cây hường; chính vì những con sâu bọ trên cây ấy.” Con người rất thông minh, nhưng vì áp lực nhu cầu và tham vọng nhân sinh, người ta đã không để ý tới khát vọng bẩm sinh là nhận biết, nhận thức thực thể hiện hữu của họ là gì. Nhìn lại chính mình, đã bao năm anh thao thức kiếm tìm mục đích cuộc đời của mình, trong khi câu trả lời đã hai ngàn năm nằm chình ình trong sách, và đó là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài.” Dĩ nhiên, muốn biết nước Thiên Chúa là gì, cần biết Thiên Chúa là gì, lại cần biết mình là ai, linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác và cuộc đời mình ra sao. Tất cả chỉ là suy nghĩ, suy tư hay nghiệm chứng, nghiệm xét. Thử hỏi, có ai dám đối diện với chính họ; trong khi họ đang lo chạy ăn từng bữa, thì biết nói sao. Nhất là thời buổi này, nhu cầu thiết thực nhân sinh, nói cách khác, cơm áo gạo tiền, không cho phép họ dầu chỉ nghĩ đến hai chữ “Tương lai.” Người ta đang ra sức biến con người thành những con thú, ngày ngày chỉ biết lo sao cho yên cái dạ dày. Đoạn ông hỏi,

- Qua những gì anh nói, nếu tôi không lầm, anh đã đọc hết cuốn Tân Ước?

- Cháu mới đọc được một lần nhưng vì để tâm kiếm mấy điểm tương đồng; nên có lẽ cần từ từ đọc lại.

- Không ai có thể tự hào là đã hoàn toàn nghiệm chứng được bất cứ đạo học nào; bởi những câu nói nơi kinh sách đạo học là thành quả của nghiệm chứng, và cũng không ai biết rõ ai là tác giả của câu nói nào. Anh học Văn khoa, nhưng chắc chưa có cơ hội biên khảo văn chương bình dân Việt Nam. Sở dĩ tôi nhắc đến văn chương bình dân vì nó cũng giống như kinh sách đạo học, nói một đàng, hiểu một nẻo, và không biết tác giả nào sáng tác câu nào.Thí dụ, đâu ai biết tác giả của mấy câu, “Con gà cục tác lá chanh; con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi; con chó khóc đứng khóc ngồi; mẹ ơi, mẹ hỡi mua tôi đồng riềng.” Có điều, trong khi nói chuyện, người Việt mình thường dùng văn chương bình dân mà không để ý; bởi nó chính là ngôn ngữ dân Việt. Tuy nhiên, đối với kinh sách đạo học, đó là những công án, không biết do ai đề xướng, được ráp nối thành câu truyện cho người đọc dễ nhớ. Nhưng có một điều, muốn nghiệm chứng mỗi câu, phải nhảy vào, phải đặt mình vào từng vai trò, vị thế của những sự vật, sự việc, hoặc nhân vật trong câu nói, và tự nghiệm tâm tình của mình nơi phương diện hay tâm trạng vị thế đó xem diễn tiến thế nào. Lý do cần phải như thế bởi công án, hay câu nói do chính tác giả nghiệm ra. Như vậy, khi đọc, tưởng tác giả nói về chuyện gì đó, nhưng thực ra, tác giả đang nói về chính tâm tư bản thân, cũng tương tự nói về tâm tư người đọc. Nói qua, nói lại cũng chẳng đi tới đâu. Bây giờ, anh thử nghiệm chứng câu, “Mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp; nhưng chiên đã không nghe họ.” Tôi không nhớ rõ câu này thuộc đoạn mấy câu mấy nhưng chỉ biết nó ở nơi phúc âm Gioan, có lẽ anh còn nhớ.

- Bác nói đúng. Khi đọc câu này, cháu giật mình. Giật mình không phải vì nó nghịch thường hay bất thường bởi cháu chẳng lạ gì kiểu cách diễn xuất đòi hỏi “Được ý quên lời,” nơi ba phúc âm Matthêu, Mác cô, và Luca. Cháu giật mình vì lối nói quá đa quá độ, không kiêng nể bất cứ thần thánh nào; có thể nói, tuyệt đối cao ngạo, tuyệt đối ngang ngược, “Vuốt mặt không nể mũi.” Nhưng đến khi đóng vai những vị thế trong câu nói, cháu lại bị chưng hửng. Nó cũng đồng ý nghĩa với câu nơi Lâm Tế Lục, “Gặp phật giết phật; gặp tổ giết tổ,” hay nơi lời khuyên của Phao lô, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô” (2Thes, 2:3), hay mười lời khuyên không nên tin nơi Tăng Nhất Tập. Nói cho đúng, nếu đọc phúc âm mà không suy nghĩ, nghiệm xét, luôn luôn bị “Bé cái lầm.”

- Anh có biết, phải mất bao lâu, câu này làm phiền trí óc, tôi mới có thể hiểu được nó nói gì không?

- Không dự đoán được vì sự nhận thức không thể cầu; hơn nữa, cũng còn tùy thuộc cơ hội; bởi xưa nay, cháu cứ bị luẩn quẩn với những câu phúc âm coi bộ khó chấp nhận, nhưng nhờ mấy cuốn sách bác đưa và đặc biệt bản thảo, nên khi đọc Phúc âm, cháu cảm thấy khác hẳn.

- Những sách này tôi đã đọc nó cỡ 15 năm trước đây, nhưng tập bản thảo mới có được nó cỡ 7 năm. Câu phúc âm cao ngạo đó làm phiền tâm trí tôi hơn kém gần chục năm trời, nhưng cũng nhờ nó mà tôi hiểu được tại sao người ta vẫn an vui chịu đựng những khổ ải cuộc đời. Nói đúng ra, họ đã không suy nghĩ, không dám đặt vấn đề vì e sợ.

- Bác nói e sợ gì? Cháu…

- E sợ sai lầm; e sợ vì tự kỷ ám thị rằng mình dốt nát, không đủ hay không có khả năng suy nghĩ, suy tư, e sợ vì lười suy nghĩ, vì bị hay được nghe những sự giải thích đầy suy luận hữu vi, nhân sinh, thế tục, từ các vị chân thành, hăng hái rao giảng, nhưng thiếu nghiệm chứng. Anh thử để tâm một chút nhận định những bình chú, nhận thức, giải nghĩa, của cụ Thanh Giang Nguyễn Duy Cần, của cụ Nguyễn Hiến Lê, cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản; các cụ được gán cho danh hiệu học giả, nhưng có lẽ chỉ trong giới hạn từ chương, hữu vi, nhân sinh. Nói cho đúng, cũng phải thậm phục mà cảm ơn các vị ấy bởi đã dầy công sức suy luận viết sách. Ít nhất, chúng đã kích động độc giả động não. Tuy nhiên, tôi nghĩ, phải vậy mới viết được, coi chừng nếu đã ngộ, lại không viết được chi hết; bởi anh có nhớ câu nói, “Biết không nói, nói không biết,” cụ Nguyễn Duy Cần ghi lại ngay nơi trang đầu của cuốn Lão Tử Tinh Hoa chăng? Cụ chép lại câu Hán ngữ, “Tri giả bất ngôn; ngôn giả bất tri.” Tôi nghĩ, nên dịch là, “Người biết không nói, kẻ nói không biết” mới sát nghĩa.

- Cháu vẫn còn bị luẩn quẩn với câu này; bởi nếu đã không biết thì sao mà nói!

- Có phải nơi câu nói, “Mọi kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp” (Gioan 10:8), ngay khi anh đặt mình vào vị thế “Ta” nơi diễn tiến suy tư, nên đã nhận ra câu đó muốn nói gì phải không. Vậy nơi vị thế nào, hoặc ở phương diện nào, người nói không biết điều mình nói, hoặc bị cho là không biết điều mình nói?

Tôi thầm tự hỏi, ủa, sao mình không nghĩ tới điểm này nên vẫn im lặng. Ông Tầm lại nói tiếp,

- Trong suy tư, tất cả những tư tưởng, ý nghĩ đều không đúng, không sai, chúng hiện hữu. Được phân định đúng sai thuộc về hữu vi, nhân sinh; khi suy nghĩ, chỉ có hợp lý, hợp tình, và có thể chấp nhận được hay không mà thôi. Nếu không hợp lý, không thể chấp nhận được thì vất ngay, không phải là “Gặp phật giết phật, gặp tổ giết tổ,” thì nghĩa là gì. Nhà Phật thì nói như thế; thánh Phao lô nhà anh nói, “Đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi đánh bã anh em theo thể thống người phàm, theo nhân tố trần gian” (2Thes, 2:3) nào có khác chi, có lẽ chỉ khác ngôn từ. Nói như thế, anh thừa hiểu phúc âm nhà anh nói, “Nếu mắt làm cớ vấp phạm thì móc quăng đi,” mang ý nghĩa gì.

Tôi hơi ngỡ ngàng nhưng hoàn toàn đồng ý, và chợt nhận ra phúc âm viết về diễn trình nơi diễn biến suy tư, nghiệm xét, chứ không tùy thuộc luân lý, đạo đức nhân sinh, thế tục; hèn chi có những câu phản luân lý, đạo đức; chẳng hạn, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con trai, con gái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta.” Không ngờ cái nhà ông ngoại đạo này thấu hiểu phúc âm hơn cả mấy nhà học giả Kinh Thánh; có lẽ bởi thế, nơi phúc âm có câu, “Và Ðức Yêsu nói: ‘Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù’" (Gioan 9:39). Hừ, tôi thầm nghĩ, phỏng tâm trí tôi đã bị đầu độc bởi những vị học giả, những vị rao giảng lời Chúa thiếu nghiệm chứng? Tại tôi đã không dám suy nghĩ, hay tại cái tham vọng mở mang nước Chúa một cách dốt nát, hoặc cố ý ngu dân để trị?

Ba tuần lễ êm đềm trôi qua, tôi âm thầm thử vận khí nghịch chiều theo âm mạch. Mới thoạt đầu, người cứ như say say; sau hai ngày, đường khí vận chuyển đã quen, tôi cố tập vận khí nghịch hành trở thành như hơi thở. Thì nó đúng là hơi thở, chỉ thở chậm hơn và thay vì hít hơi vô tự nhiên, tôi tưởng tượng dòng hơi hít vô từ mũi chạy xuống huyệt đản trung, thần khuyết, đan điền, vĩ lư, hội âm, ngược lên mạng môn, giáp tích, ngọc chẩm, bách hội, trở xuống ấn đường, đoạn thở ra đường mũi. Mỗi tối tôi ngồi vận khí tới nửa đêm, đoạn nằm xuống, vẫn tiếp tục vận khí đi vào giấc ngủ; không hiểu trong lúc ngủ đường khí vận hành có liên tục vận chuyển hay không. Lý do phải ngồi vì tôi muốn dồn hết tâm trí, định tâm quán tưởng, trong khi vận khí dẫn qua các huyệt đạo. Ai thử thì biết biến chuyển sẽ xảy ra thế nào, nhưng nhớ dùm, nếu thấy mỏi cổ sau gáy hoặc nhức ngang thắt lưng, coi chừng cần làm những cử điệu giải huyệt cho các huyết tích tụ nơi các huyệt đạo được giải tỏa tránh tẩu hỏa nhập ma.

Mỗi ngày, sau thời gian luyện võ và dùng sáng, tôi tiếp tục chạy ra chợ mua thực phẩm về nấu cơm trưa. Ở tỉnh lẻ này, chợ quê thường chỉ họp từ sáu giờ sáng tới mười giờ là những hàng thịt cá tươi và rau rợ, bánh trái dọn dẹp về chuẩn bị cho buổi chợ ngày mai, ngoại trừ những cửa tiệm, những sạp đồ khô, hoặc quần áo, hay những đồ hàng không thể hư thối.

Dĩ nhiên, ngồi, định tâm dẫn khí thì dễ dàng, nhưng cũng dễ rơi vào cơn ngủ. Tôi bị như thế mấy lần, nhưng áp dụng hành thiền vào vận khí lúc luyện võ, hoặc chạy, hay làm việc gì khác quả không dễ chút nào; có lẽ con người luôn muốn thuận vô vi theo nghĩa hữu vi. Tôi muốn thực hành vận khí như một thói quen tự nhiên hay bản năng, thầm nghĩ, tích tiểu thành đại, mỗi vòng vận khí dù chỉ tạo được một phần ngàn hạt bụi năng lực thì một phút, bình thường hít thở 12 lần, một ngày 17 ngàn 200 bẩy mươi lần tích tụ lại cũng đâu phải là ít. Có điều, nơi bản thảo nhắc nhở, “Tuy nhiên, những quyền năng như kết quả phát triển năng lực nội tại theo phương pháp Yoga sẽ là những cạm bẫy ngăn cản bước đường tu chứng vì càng có quyền năng bao nhiêu, con người càng dễ rơi vào vọng chấp bấy nhiêu và phát sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Bậc thức giả phải biết vượt lên trên nữa để đi tới thiền định hầu đạt tới địa hạt huyền diệu tuyệt đối, hòa nhập làm một cùng quyền lực vũ trụ tức Thượng Đế (Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ; Nghiêm Xuân Hồng; Tr. 256). Nói cho đúng, tôi không sợ trật đường rầy nhưng lại e ngại chính mình. Trật đường vận khí thì đã có phép giải, nhưng tham vọng phát sinh lòng kiêu căng, tự mãn nơi con người thì không có phép tắc nào hoặc thuốc chữa ăn năn, hối hận; bởi dẫu sao thì tôi vẫn chỉ là con người.

Và rồi chuyện đến vẫn phải đến; vận khí nghịch chuyển theo chiều âm mạch cũng trở thành hầu như bản năng kiến tạo năng lực, nội lực thăng tiến chẳng ngờ; khiến tôi phải dặn lòng luôn luôn tự nhắc nhở “mình chỉ là con người.” Đó là chuyện sau này. Hiện tại, qua năm tuần luyện võ, sự tiến triển của các em có thể trông thấy, nhưng tôi vẫn chưa dám dạy các em vận khí nghịch chuyển mà nhấn mạnh về tinh thần thượng võ cùng tuân giữ luật lệ một võ sinh cần tuyệt đối tuân theo, cũng như tập luyện bất cứ lúc nào có thể. Nội trong hai tuần, với bốn buổi tối thực tập, bài quyền nhập môn các em đã thuần thục. Tuần thứ tám tới vội như trong chớp mắt. Tôi mời ông Tầm và chủ tiệm thuốc bắc tham dự cuộc thi đấu lên “nửa đai” trắng vàng của các em với mục đích khuyến khích tinh thần. Ai nấy hồ hởi với thành quả các em đạt được; tôi mời ông Tầm và chủ tiệm, mỗi người thay đai cho ba em, tôi chỉ thay đai cho em nhỏ tuổi nhất. Ông Tầm hỏi tôi có gì đặc biệt trong việc khuyến khích các em luyện tập để đạt được thành quả như thế mới chỉ hai tháng, tôi kể chuyện khuyến khích các em tự luyện theo cách thường xuyên khảo hạch mỗi lần tập luyên nơi võ đường như đã thực hành khi lập đoàn hướng đạo ở Vũng Tàu.

Tôi đã được học võ từ khi học lớp tư (bốn) và từ khi theo học tại tiểu chủng viện, tôi lại tham gia đoàn hướng đạo Lâm Đồng, Bảo Lộc. Khi gia nhập nghĩa quân ở Vũng Tàu thay vì đi lính, và nhờ có khả năng sinh ngữ, được đặc phái phiên dịch công văn hoặc mật báo từ quân đội, tôi có nhiều giờ rảnh nên muốn lập đoàn thiếu sinh. Có điều, tôi không muốn làm thiếu trưởng mà chỉ muốn làm ủy viên điều hành. Suốt sáu tháng trời mò mẫm tìm kiếm được thiếu trưởng và bốn người phụ tá cùng với nhà chùa làm nơi hội họp. Thuở ban đầu, có được 12 em gia nhập và có thêm 7 sinh viên tham gia. Tất nhiên, tôi phải gửi 7 sinh viên tham dự một khóa huấn luyện tráng sinh. Thế rồi bày ra 5 cửa khảo hạch đối với 12 em nhỏ. Lần đầu tiên nhóm họp, ông thiếu trưởng nói sơ qua tinh thần hướng đạo, để bốn người khác nói về nguyệt liễm, sinh hoạt, v.v…, đồng thời tôi giải thích ý nghĩa đồng phục và cũng nêu lên cuộc khảo nghiệm cho lần tới đại khái với tiêu chí muốn xứng đáng được mang y phục hướng đạo cần phải qua được khóa khảo hạch.

Thực ra, đâu có đoàn thể nào đòi hỏi bất cứ điều kiện gì cho mang mặc đồng phục bao giờ; tuy nhiên, nguyên tắc căn bản của hướng đạo là thi đua thực nghiệm; đồng thời, nơi Ca Dao có câu, “Già được bát canh, trẻ được manh áo mới,” bởi vậy, bày ra sự khảo hạch giúp các em phần nào ý thức hơn khi mang đồng phục. Tôi bàn với 5 ủy viên của đoàn chia thành 5 cửa khảo hạch, mỗi cửa chỉ hỏi một câu, chẳng hạn, khăn quàng mang ý nghĩa gì, có thể sử dụng làm gì, hoặc huy hiệu nói lên điều chi, hay tại sao hướng đạo bắt tay trái, hay ý nghĩa cách chào của hướng đạo sinh, v.v… Năm cửa, năm câu hỏi và mỗi cửa có một tráng sinh giải thích ngắn gọn cho mỗi em câu hỏi ngay trước khi em vô cửa khảo hạch. Và kết quả thật tuyệt vời; tuyệt vời bởi các em có được cảm nghĩ bộ đồ hướng đạo, khăn quàng, huy hiệu, dẫu do bố mẹ các em bỏ tiền mua, nhưng do công sức các em đạt được. Cảm nghĩ này khuyến khích các em trân trọng và hãnh diện với đồng phục mang trên người. Áp dụng vô võ đường, khảo hạch trước khi luyện võ khuyến khích các em ra sức tự luyện ở nhà.

Mười sáu tuần trôi qua, bẩy em mang 7 đai vàng trông thật phấn khởi, nhưng niềm vui mới chớm nở đã dẫn theo phiền hà ập tới. Mấy người mang băng đỏ nơi cánh tay trái của đám “Giải phóng miền nam” xuất hiện ngay tối thứ nhất của tuần 17, đòi hỏi giấp phép mở võ đường. Tôi chỉ ỡm ờ nói luyện tập thể dục cho khỏe người, nhưng cái ông xã trưởng nói quanh nói quẩn vòi vĩnh tiền trà nước cho anh em giữ an ninh. Cuối cùng, ông chủ tiệm thuốc bắc cũng đành phải xì ra 5 đồng trà nước bồi dưỡng cách mạng. Cũng nên biết rằng, công một người làm thuê thời ấy chỉ có 2 đồng một ngày vì mới đổi tiền. Tôi bực muốn điên lên nhưng cố nín nhịn, thầm nghĩ, có lẽ từ nay phải đem ra chợ luyện võ; vì tôi không thâu tiền từ các em nên không có tiền bồi dưỡng cho bất cứ ai. Coi chừng đó cũng là một lối quảng cáo đồng thời cũng là cơ hội giải trí miễn phí cho đám dân khốn khổ miền tỉnh lẻ này.

Với năng lực của tôi lúc hiện giờ, cho dù chúng mang súng ống mà đứng gần nhau như thế, chỉ trong chớp mắt là đã bị hạ gục. Mười hai tuần vận khí nghịch hành, tôi cảm thấy sự thăng tiến công lực và cử động của thân xác nhẹ nhàng, uyển chuyển. Có điều hơi lạ, khi cho các em quần thảo lên đai, tôi thấy hành động của các em quá chậm chạp trong khi ông Tầm không hết lời khen ngợi sự thăng tiến nơi các em. Theo định giá của ông, khả năng luyện võ của các em dẫu trong bài quyền giới hạn, nhưng sự thuần thục và khả năng ứng biến vượt trội võ sinh nơi các võ đường lấy bốn năm làm chuẩn cho đệ nhất đẳng huyền đai. Ông vui vẻ nói, khi nghe tôi muốn rút ngắn thời gian thành hai năm cho đệ nhất đẳng huyền đai, ông không trả lời gì nhưng trong lòng nghĩ coi chừng tôi quá vội và sẽ mang đến hậu quả không đúng mức. Nhưng, nếu giữ được mức thăng tiến luyện tập này, nội trong hai năm, các em có thể đạt tới đệ nhị đẳng huyền đai. Tôi thầm tính toán, nếu có thể áp dụng vận khí nghịch hành vô hành thiền, đệ nhị đẳng huyền đai là chuyện nhỏ, nhưng lại e tạo thành tham vọng và kiêu căng nơi các em thì lợi không bỏ hại. Nghĩ như thế, tôi mới cảm nhận được tại sao nơi Yoga Ấn Độ lại có Védanta và Jnana Yoga trước khi tập luyện Hattha Yoga.

Ông Tầm im lặng, trầm ngâm khi nghe tôi nói về xã trưởng và mấy anh cách mạng băng đỏ đến nhà hàng thuốc bắc vòi tiền bồi dưỡng. Cuối cùng, tôi nhẹ nhàng đặt vấn đề, không biết vận số dân tộc Việt Nam sẽ đi về đâu!

- Còn đi về đâu nữa, ông nói, đoạn thở dài. Cứ nhìn vào các nước có chính quyền Cộng Sản hay Chủ Nghĩa Xã Hội thì biết. Một Venezuela, ngày xưa giầu có, thịnh vượng thế nào mà bây giờ ra sao. Nước Tầu giáp Bắc Việt đó, dân chúng thế nào. Một Cuba, một Bắc Hàn, thử hỏi cuộc sống dân chúng ở những nơi đó ra sao. Quan chức thì càng ngày càng giầu có; trong khi dân chúng càng ngày càng khốn khổ, đói nghèo, không đủ thực phẩm cho no bụng. Luân lý suy đồi, đạo đức xuống cấp. Người dân chẳng khác gì những con thú chỉ luôn chạy theo tham vọng lợi ích bất kể giới hạn nào. Cổ nhân ngàn xưa đã nói, “Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan,” thời nào cũng chẳng sai.

- Mình có thể giúp dân chúng được điều gì không?

- Giúp làm sao, ếch còn chưa lo nổi phận ếch sao có thể lo đến chuyện ểnh ương. Cứ tìm hiểu đời sống dân chúng nơi các nước Cộng Sản, anh sẽ biết ngay con dân Việt sẽ có kết quả thế nào, đâu cần phải hỏi. Không nói chi chuyện đâu xa; hôm nay nó đòi bồi dưỡng 5 đồng; mai mốt nó lại đòi bồi dưỡng 5 đồng thì anh lấy tiền đâu bồi dưỡng cho chúng. Có lẽ hoặc là đưa các em về đây hay nhờ nơi một nhà chùa nào đó; mà về đây thì cũng thế thôi.

- Cháu thấy như bác nói, đưa mấy em về đây không được bởi chẳng những hơi xa, nhiều khi mưa nắng cản trở. Hỏi nhờ nhà chùa lại càng xa hơn. Có lẽ làm đương đường tại đình chợ dưới dạng mua vui, trình diễn võ thuật, tất sẽ có đông người xem, không ai dám vòi tiền bồi dưỡng giữa dân chúng đâu.

- Anh không sợ người ta học lóm à?

- Thì cùng lắm cũng như cháu đã học lóm hay học theo hơn kém mười năm trời rồi. Nói cho đúng, những khẩu truyền, mật truyền lại là căn gốc phát triển. Nói đến chuyện này, cháu nghĩ, cần có thêm ít nhất một buổi tối một tháng, thay đổi nơi họp nhau, còn luyện võ tại đình chợ thì cứ coi như biểu diễn. Nhân tiện, cháu có hai sáng kiến may ra có thể giúp dân chúng có thêm lợi nhuận. Đó là làm xà phòng và làm đường mía. Hai thứ thật khan hiếm vào thời điểm này. Kiếm giống mía làm đường cho dân chúng trồng quanh nhà, nơi bờ bụi nương rẫy thay vì để cỏ mọc, rồi mình thu mua làm đường. Riêng việc kiếm mối mua mỡ động vật hơi khó và dầu thực vật cũng không dễ chi.

- Sáng kiến hay và thiết thực, nhưng cần thời gian và ngân quỹ. Nội trong hai năm, sau khi các em đạt nhất đẳng huyền đai, anh chuẩn bị vượt biên sang Mỹ. Tôi có mấy người quen thừa điều kiện giúp anh kiếm tiền thực hiện dự tính. Tuy nhiên, sống để dạ, chết đem theo, không tin ai hết, không để ai lừa dụ, dứt khoát không nói cho ai biết, và chúng ta chỉ biết thế, không bao giờ nhắc lại nữa. Phỏng anh có chấp nhận được không?

- “Heo chết nào sợ nước sôi;” đã chịu chơi thì đành chịu chết, đâu có chi mới lạ dưới ánh mặt trời. Cuộc đời nào không phải trả giá, chỉ e ân hận vì ước mơ hôm nay trở thành cay đắng ngày mai mà thôi.

- Những người ân hận chính là kẻ đã không làm gì hoặc không dám làm gì vì không có hoặc không dám thực hiện bất cứ ước mơ nào. Cái mối ân hận cay đắng nhất lại là đã bỏ lỡ những gì nên làm. Riêng vấn đề kiếm giống mía làm đường, tôi bảo đảm với anh, nội trong sáu tháng, mía sẽ mọc tràn ngập vùng này. Vốn liếng mua máy ép mía cũng không là bao; quả là sáng kiến hay và thực dụng. Cũng cảm ơn anh, người xưa có nói, “Trí giả khác người thường ở chỗ suy nghĩ của họ luôn luôn đi trước!” Nhưng vấn đề lại là “Phải ngu hơn người ngu mới trị được kẻ ngu.” Tuy nhiên, hành động bất bạo động được sinh ra từ nhận thức về đau khổ, được nuôi dưỡng bởi tình thương, và chính là cách hiệu quả nhất để đối đầu với nghịch cảnh. Đó là lý do tại sao từ xưa tới nay, người làm nên việc lớn không những có tài hoa hơn người mà còn cần có ý chí. Hơn nữa, dũng khí thứ nhất của người mưu cầu chuyện lớn lại là biết chấp nhận mình sai; nhận ra điều sai nơi mình. Thế nên cần học cách ôn nhu. Những người có chí khí hơn người thì nhu hòa như nước.

- Tuy nhiên, thưa bác, “Nhân từ với kẻ tà ác là bất nhân với chính mình.”

- Đọc lại lịch sử, trêи đời này chỉ có thế gia ngàn năm chứ không có triều đại ngàn năm. Chỉ cần thế gia lớn mạnh thì bọn họ sẽ giống như con chuột, không ngừng gặm nhấm lãnh thổ, khiến đất nước vốn tốt đẹp cũng xuất hiện đầy lỗ hổng. Hơn nữa những thế gia này vì tham vọng lợi ích sẽ không từ thủ đoạn nào. Bởi vậy, vấn đề giải quyết phải đặt tâm điểm là các con chuột nhỏ vì nếu không, trước sau gì chúng sẽ thành những con chuột cống; cho dù có tức giận cũng chẳng có tác dụng gì. Thử bình tâm nghĩ lại, cuộc đời chẳng khác gì hành trình luyện võ. Trên con đường võ đạo, “kiên trì” vốn là đức tính quan trọng nhất. Võ giả có thể kiên trì, hẳn là nhân vật có nghị lực lớn. Thế nhưng “kiên trì” thì cũng phải tìm hướng đúng, nếu kiên trì sai hướng, thì rất có thể càng lúc càng cách xa mục tiêu. Đồng ý với anh, phải biết e ngại chính mình bởi kẻ thù độc hại nhất của mình lại là chính mình. Đâu phải phi lý mà phúc âm có câu, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi cũng ở đó” (Mt. 6:21). Tham vọng tiền tài, quyền lực áp đặt trên một người kinh khủng hơn bất cứ gì. Chẳng thế mà đã biết bao tình thân, nghĩa trọng đã bị tan nát.

- Thế sao lúc nãy bác nói, “Phải ngu hơn người ngu mới trị được kẻ ngu?”

- Anh là người Công giáo mà vẫn chưa nghiệm được câu, “Hãy để người chết chôn kẻ chết của chúng” (Lc. 9:60) sao? Người ngu hay bị cho là ngu cũng thế mà thôi. Có lẽ anh còn nhớ câu, “Thường nghị luận khuyết điểm của người khác, chính là kẻ dưới đáy chuẩn mực đạo đức, nhưng nhận ra và nghị luận khuyết điểm của nhân loại lại chính là tư tưởng gia.” Cuộc đời này, “Đắc thời đắc thế thì khôn; sa cơ rồng cũng như giun khác nào;” đâu có gì mà nói. Thế anh còn phép tắc nào nữa không?

- Dạ thưa, còn thì còn nhưng không biết có thực dụng chăng. Đó là trồng Đông Trùng Hạ Thảo; thứ này chỉ dành cho những người dư ăn, dư mặc, lại cần được quảng cáo. Cái khác nữa là trồng sâm đất. Sâm đất đối với đất Việt mình thì giống như cỏ, dễ ăn hơn mùng tơi. Tuy nhiên, mình lại chuộng sâm Cao Ly, sâm Nam Hàn. Nó không phải là rễ sâm đất được ướp tẩm thì là gì?

- Tôi nghe nói cây sâm đất chỉ là một thứ rau ít người dùng. Cũng có người thích ăn canh sâm đất hơn rau mùng tơi bởi nó không có vị hăng. Nó mọc đầy rẫy, mọi nơi mọi xó trên đất Việt mà.

- Bác có nhớ dịch trứng cút không? Thế mà cũng nhiều người bị tán gia bại sản đó. Hơn nữa, đã từ bao đời, lời khuyên đừng cho thỏ uống nước lan truyền trong dân gian; bởi uống nước thỏ sẽ bị đau bụng. Và thế rồi dân ta đã bao người tuân theo “lời khôn ngoan độc hại” ấy khiến biết bao thỏ mẹ vừa đẻ xong đã vội ăn thịt con của nó. Có điều, khoảnh đồi phía sau nhà mình thuộc về của ai, cháu nghĩ, phá hết cây cỏ rồi trồng mía làm đường kể cũng bộn đó. Nếu có thể được, dùng công việc phá rừng để huấn luyện các em vận khí nghịch kinh mạch ít nhất trong vài tuần, có lẽ đem lại lợi ích không nhỏ cho các em. Bác nghĩ sao? Hơn nữa, luyện võ trên đất bằng không cần nhiều cố gắng quan sát; coi chừng, nơi mảnh đồi lồi lõm bất thường đó lại là cơ hội tốt; vì các em phải để ý nhiều hơn khiến phát triển khả năng nhận xét toàn diện hiện trạng linh hoạt hơn.

- Làm đường mía chỉ là mở cơ hội cho người ta trồng mía hầu có thêm thâu nhập đôi chút. Sự việc này mang tính chất khuyến khích người người tham gia. Đất trên đồi thuộc về nhà mình cũng cỡ hơn hai sào. Dùng hai sào này cho các em thực tập cho quen và khuyến khích các em năng động giúp gia đình trồng mía, tôi nghĩ hợp tình, hợp lý hơn. Tôi dự đoán không lầm, thì chỉ nội sáu tháng sau khi hai sào mía mọc lên, cái đồi ấy sẽ chẳng còn cây để mà chặt. Người ta sẽ phá cây trồng mía và lấy củi đun bếp. Nếu tôi không lầm, vùng đồng bằng sông Cửu Long trồng rất nhiều mía đường. Có thể sau đôi tuần, tôi sẽ làm một chuyến đi Mỹ Tho, và xuống tới Trà Vinh kiếm ít ngọn mía về trồng chung quanh nhà làm giống. Chung quanh ao, và chung quanh đất có thể trồng cả mấy trăm bụi. Nếu được, tôi sẽ trồng thành hai hàng. Nội trong hai tuần mà anh có thể dọn sạch hai sào trên đồi, không chừng chỉ bốn tháng sau đã ngập mía. Tôi sẽ chỉ cho anh hai góc đất trên đồi. Anh nghĩ coi, khi nào anh có thể bắt đầu?

- Cháu nghĩ, sớm nhất cũng phải hai tuần nữa. Mấy ngày này bác có cách nào loan truyền chương trình trồng mía đường kiếm thêm thu nhập; đặc biệt khuyến khích và giải thích cho cha mẹ các em hiểu mục đích phá cây trên đồi. Cháu không muốn bị hiểu lầm là lạm dụng các em. Thực ra, luyện võ mà không biết vận hành khí lực thì chỉ được coi như múa võ Sơn Đông bán thuốc dạo. Biết vận hành khí lực nhưng không có nội công cũng chẳng hơn gì, cũng bị đo ván khi bị bề hội đồng như cháu đã lãnh thất bại. Bốn tháng qua cháu đã thử vận khí nghịch hành, thấy chỉ có tiến chứ không gì nguy hiểm nên cháu nghĩ, đã đến lúc giúp các em thực hành theo nguyên tắc hành thiền vận khí. Nói đúng ra, vận khí hành thiền chưa trở thành bản năng nhưng cháu nghĩ, một năm sau hy vọng cháu sẽ đạt được thói quen hành thiền. Điều khó khăn nhất đối với cháu bây giờ chính là ăn nói, giải thích thế nào để các em ý thức giá trị làm người, và luyện võ chỉ là phương tiện nâng cao nhân phẩm chứ không phải để hơn người khác. Bác nhắc đến nhận định về dân chúng nơi các nước Trung Hoa, Bắc Hàn, Venezuela, Cuba, khiến cháu liên tưởng dự đoán đến dân Việt mình, 10 năm, 20 năm sau sẽ ra sao, nghĩ mà đau lòng.

- “Đất có tuần, dân có vận,” mỗi việc đều do thiên định, thế nhân không đủ phép nhiệm mầu đổi thay thế sự được. Trời trao trách nhiệm cho người nào thì sẽ hành hạ người đó trước. Người Nhật có thành ngữ, “Đừng sợ đi chậm. Chỉ sợ đứng yên.” Nếu coi danh lợi là điều lớn nhất của cuộc đời thì hết sức ngu xuẩn. Nói cho đúng, quyền lực kéo theo tham vọng, giống như thuốc độc, một khi dính phải thì rất khó thoát thân. Cuộc đời như một giấc chiêm bao, có giấc mộng đẹp, có ác mộng đen tối, chúng ta phải biết tỉnh giấc để biết mình là ai, sống vì mục đích gì.

- Nhưng thưa bác, còn nỗi nhục nào hơn khi thấy người dân mình quằn quại trong nỗi nhọc nhằn, khổ ải, trong khi mình không thể làm được gì để giúp họ.

- Anh nên nhớ, cơ hội vĩnh viễn chỉ tới với những ai có chuẩn bị, và cơ hội cũng chỉ đến với những người xứng đáng nhận nó mà thôi. Ngựa thường dễ bị khuỵu chân trên những con đường đất mềm; con người dễ ngã gục, mất chí tiến thủ trong những lời êm ái, đường mật. Tuy nhiên, đã là người đi chân đất sao còn sợ mang giày. Thế nên, chỉ cần có hy vọng, liền có động lực cố gắng.

0-0-0

VẬN KHÍ NGHỊCH HÀNH

- Bắt đầu từ từ hít vô, dẫn hơi xuống huyệt đản trung, thần khuyết, đan điền, vĩ lư, hội âm, ngược lên mạng môn, giáp tích, ngọc chẩm, bách hội, trở xuống ấn đường, đoạn thở ra đường mũi. Tiếp tục, từ từ hít vô, dẫn hơi xuống…

Bảy em ngồi kiết già theo hình vòng cung chặn cửa ra vào đối diện với tôi, nơi chân đầu bàn phòng khách tại nhà ông Tầm. Sáng sớm nay, ông đã dùng xe Honda đi Mỹ Tho kiếm ngọn mía. Đây là buổi chiều thứ năm ôn lại cách vận khí nghịch hành trước khi tiếp tục dọn hai sào đất trên đồi chuẩn bị trồng mía. Nhìn các em, kẻ mặc áo rách cùi chỏ, người đeo chiếc quần bạc thếch đắp vài miếng vá mà lòng tôi quặn thắt. Tương lai con dân đất nước tôi đó. Chỉ mới mấy năm mà nhiều nơi, chiếc lều để tránh mưa, che nắng, trông chẳng khác gì chiếc váy đụp mọc lên như nấm, quả là đối nghịch với cảnh thời 54 khi tôi còn nhỏ, gia đình di cư từ Bắc vào Nam. Mỗi lần đi ngang qua những căn lều xiêu vẹo, đắp vá bằng những miếng bạt nhựa xanh xanh, đỏ đỏ, khá hơn thì mái lá cỏ bái hay lá dừa, vách phên nứa, lại có nhà đắp vách đất, lời hát nào của Phạm Duy trước 75, “Trên một cành cây, có một tổ kiến; có con đi ra lại có con đi vào; trời hôm nay nắng, yêu em biết bao…” lại quanh quẩn vang lên nơi tâm trí, khi thấy kẻ đi ra, người chui vô những chiếc váy đụp ấy, thúc dục tôi tự hỏi phải làm gì. Phải làm gì, biết gì có thể làm hầu cải thiện mức sống người dân?

- Các em đã rõ thế nào là hành thiền, tôi nhắc lại, hành thiền tức là luôn luôn nghĩ về sự việc hay tính toán công chuyện nào đó bất cứ lúc nào hoặc khi đang làm việc gì. Áp dụng vận khí theo chiều âm mạch vào hành thiền sẽ phát triển khí lực hay còn gọi là nội công nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, phát triển hay không lại tùy thuộc thực hành vận khí. Chẳng hạn, khi đi bộ bình thường, cứ năm bước thì vận khí được một vòng, hoặc chạy, mười bước được một vòng. Càng hít hơi vô chậm thì càng tốt. Khi vận hành khí, để ý tới không khí lọt qua mũi, dẫn nó theo đường âm mạch sao cho khi đã đầy hơi thì không khí đã đi vừa đủ một vòng. Vận khí nghịch hành chỉ điều khiển luồng hơi hít vô, thở ra không cần phải nhanh chậm chi hết. Vận khí lúc chạy hay đi bộ hoặc làm việc gì lợi ích hơn ngồi đả tọa. Nếu trước khi ngủ có thể đả tọa thì nhớ đếm mỗi khi thở ra để tập trung chú ý vào việc dẫn khí. Nằm xuống trong khi chờ ngủ cũng tiếp tục vận khí. Như vậy, luôn luôn vận khí được gọi là hành thiền vận khí hay vận khí hành thiền. Tôi sẽ kiểm chứng các em hằng ngày trong suốt hai tuần dọn đất. Các em cũng biết, công việc dọn đất chỉ là phương tiện thực tập vận khí trong lúc làm việc. Tối muốn thấy sự vận khí trở thành bản năng, nói cách khác, vận khí phải là thói quen thực hành luôn luôn theo nhịp thở của mình bất cứ lúc nào đến nỗi, khi ngủ cũng tiếp tục vận khí. Em nào không thể thực hiện vận khí được, không nên học võ. Những lần tới, khi khảo hạch lên đai, mỗi em phải đấu với một võ sinh sẽ có cấp bậc cao hơn một đai được mời về từ võ đường khác. Các em để tâm tiếp tục thực hành vận khí hay không sẽ được chứng thực. Nếu em nào không thắng, sẽ bị loại không lý do. Bởi chính vận khí sẽ tạo nên nội công hay năng lực nơi một người, đồng thời giúp cử điệu của người đó linh hoạt hơn. Đánh võ nếu không có nội công, thiếu năng lực, thì chẳng khác gì múa tay, múa chân, biểu diễn cho vui mắt. Tôi không muốn thấy các em là những vũ công mà là võ sinh đầy năng lực. Tôi chỉ có thể nói thế, tiến triển ra sao đều tùy thuộc công phu thao luyện và thực hành vận khi nơi mỗi người.

Mấy ngày đầu, nhìn các em chậm chạp dọn cỏ, chặt cây, tôi thầm hỏi, mình có ép các em quá không. Vừa vận khí, vừa làm việc, tâm trí bị chia hai mà lại mới thực tập sao có thể làm nhanh. Nhưng chỉ sau năm ngày, mỗi ngày chừng hai tiếng vào buổi chiều vì các em tới trường vào buổi sáng, kết quả đã thấy rõ. Cử động cẩn trọng hơn, ít nhất là được như thế, tôi thầm cảm thấy vui vui.

Những lớp luyện võ nơi công cộng tại đình chợ chỉ là những trận đấu áp dụng các miếng đánh được tách rời từ bài quyền. Sau khi học xong bài quyền thứ hai, để các em tự luyện một tuần cho nhuyễn các thế đánh, tôi khuyến khích các em đánh ngược thứ tự của bài quyền, quyền cuối thành quyền đầu và quyền đầu thành quyền cuối. Sau đó, tôi khuyến khích tách rời các thế quyền thành những thế đánh riêng biệt hầu giúp các em luyện tập, phát triển thành những phản ứng tự nhiên; đồng thời khuyến khích các em suy nghĩ bằng cách tưởng tượng đánh thế nào cho thuận với cơ thể của mình nhất, hầu kiến tạo công phu riêng. Tôi lập đi lập lại cho các em in trí, công phu của bản thân chính là đạo lý của chính mình; chỉ có mình hiểu rõ mà người khác không ai biết được. Vì thế, vận dụng ảo diệu thế nào đều do phản ứng nơi lòng mình, không bị bó buộc mà trở nên thuận tay, biến hóa không hạn chế. Đây là nguyên lý của võ đạo. Võ kỹ có hạn nhưng võ đạo thì vô hạn.

Dĩ nhiên, các bài quyền của Taekwondo thì võ đường nào không luyện tập giống nhau; bởi vậy nơi trận đấu, đối thủ vừa giơ tay, hoặc cử động chân thì mình đã biết họ xuất miếng nào. Vấn đề chỉ là nhanh hay chậm. Điều hơi lạ đó là sau năm tháng cố thực hiện vận hành nghịch khí, tôi thấy động tác của các em sao quá chậm. Có thể nói, tôi có thể vẽ cử điệu của các em trên bút giấy. Chợt nhớ lại lần đầu ông Tầm muốn thử năng lực của tôi và tôi đã ngưng sau hai cú đấm và một cú đá trật, tôi nhận ra có lẽ năng lực của ông khá cao. Hèn chi đã có lần ông nhắc đến đệ thất đẳng huyền đai với phần thăng tiến nội công. Tôi thầm nghĩ, có bao giờ nên thử lại với ông lần nữa. Hỏi thì hỏi thế nhưng tôi đã vội nghĩ ngược lại, có nên không?

Nhìn các em từng cặp quần thảo trên tấm thảm dầy được kết bằng “xơ dừa” trãi giữa chợ, đám đông bu quanh reo hò cổ võ. Có những người say mê, hò hét, vung chân múa tay như chính mình đang tham dự cuộc đấu. Tôi đã căn dặn các em, đấu với nhau tối ngày thứ sáu mỗi tuần chỉ là thực tập duyệt những thế đánh của bài quyền đang tập luyện tại nhà. Đánh không theo thứ tự những thế võ của bài quyền, tự do xuất chiêu, chỉ vừa tới và chú ý huy động phát triển phản ứng lanh lẹ, đúng mức. Tuy nhiên, cho dù cố gắng kiềm hãm chiêu thức thế nào, thì sai sẩy cũng không sao thoát khỏi. Hai lần đầu, bốn em sẩy tay khiến bạn đấu phải nhăn mặt, và kẻ sẩy tay phải rối rít giải thích, xin lỗi. Tôi phải mua loại nệm mút mỏng cắt thành áo giáp đơn giản nhất mặc bên trong bảo vệ các em trong trường hợp lỡ sẩy tay. Tôi biết lý do lỡ sẩy tay; chính là tại tôi ép các em thực hiện hành thiền khi luyện võ, và luôn luôn, bất cứ lúc nào. Chẳng những thế, lại phải để ý nhận định thế đánh cho thêm phần sáng tạo. Nếu chỉ luyện tập ở nhà các em có thể luyện chậm lại một cách ý thức, nhưng khi có bạn đấu, phản ứng sao cho chuẩn và lanh lẹ, thì sẩy tay là chuyện thường tình. Thêm vào đó, phân tích bài quyền thành những thế võ riêng biệt, sử dụng tự do phát chiêu thì sao đối thủ có thể dự đoán trước.

Từng đôi một, hai em như hai con gà chọi, bái võ sư, bái nhau, xáp vô và quần thảo túi bụi tạo hưng phấn cho đám khán giả bình dân. Có em đang đánh thế này, chợt đổi sang thế khác khiến đối thủ ngỡ ngàng luống cuống đỡ. Danh ký các em được đặt theo số từ 1 đến 7 và được chia đấu theo từng cặp. Như vậy, để cho các em có cơ hội song đấu với nhau một cách công bình, nghĩa là mỗi em sẽ có sáu lần đấu với 6 em khác, vị chi cứ 42 lần đấu mới hết lượt. Tôi theo ban C nơi trung học, lại tiếp tục hai năm văn khoa nên suy tới nghĩ lui cũng không biết cách nào dàn xếp cho hợp lý hợp tình. Các em, mới qua bốn tháng luyện võ nên em nào em nấy háo hức, năng động có lẽ còn hơn gà chọi khiến tôi đau đầu chưa biết tính sao.

Dĩ nhiên, trong 42 lần đấu thì mỗi em cần đấu 6 trận, và như vậy, hai năm sẽ có 100 tuần, trừ đi 16 tuần đã qua, còn lại 84 lần trình diễn. Mỗi lần trình diễn một tiếng và cứ 5 phút cho một cặp. Thế là đầu óc tôi bối rối chẳng khác gì tâm trạng của “Bố vợ bị đấm.” Tính làm sao, phân chia cách nào cho đồng đều. Thôi thì thử nghiên cứu toán học xem sao. Suốt cả một buổi tối, cặm cụi viết tới viết lui phân chia từng cặp, 1-2, 3-4, 5-6, 7-1, 2-4, 3-5, 4-6, 5-7… ráp nối đối thủ chẳng biết bao nhiêu lần, cứ rối tung lên. Tôi đành xoay kiểu khác, vẽ thành những ô, bề ngang 7 em, chiều dọc 6 lần đấu và đánh viết chữ x cho những giao điểm.

Suốt một buổi tối, sắp xếp lại những trận đấu sao cho tránh trùng hợp, tôi có được 21 cặp không bị trùng hợp

1-2, 1-3, 1-4, 1-5, 1-6, 1-7

2-3, 2-4, 2-5, 2-6, 2-7

3-4, 3-5, 3-6, 3-7

4-5, 4-6, 4-7

5-6, 5-7

6-7

Như thế, không thể nào phân đều mỗi tối 12 cặp đấu cho chẵn một cách hợp lý hợp tình và thuận tiện, nên đành phải chia thành 7 cặp trình diễn một buổi tối, và như vậy, cứ ba lần trình diễn em nào cũng chỉ ra trận mỗi tối hai lần. Xét thế 7 trận, mỗi trận đấu 5 phút, cộng thêm đôi phút giới thiệu và khuyến khích cho mỗi cặp. Giả sử có cách nào kiếm được quảng cáo, có lẽ cũng bộn tiền. Và như thế, để cho hợp lý, hợp tình, lịch trình đấu võ trình diễn được sắp xết theo lập số sẽ là 7 em, mỗi em mang số từ 1 đến 7 và được chia cặp đấu theo ba tuần như sau.

12 34 56 71 23 45 67, cho tuần thứ nhất,

13 24 57 61 72 35 46, cho tuần thứ hai, và

14 25 36 47 15 26 37, cho tuần thứ ba để rồi hết lượt bắt lượt. Thời trước, Trần Tế Xương ca thán, “Biết thế, ngày xưa đi làm quách,” giờ đây, tôi đành chấp nhận, bởi dốt toán, nên nay phải mò. Tôi tự hỏi, không biết có nên nói với ông Tầm kiếm người bảo trợ cho các trận đấu hàng tuần hay không; nếu được các cửa tiệm bảo trợ thì đó cũng là lối quảng cáo.

Ông Tầm vui vẻ theo dõi các em “trình diễn” trong một buổi tối của ngày thứ sáu tuần 30 tính từ thuở ban đầu. Chỉ còn hai tuần nữa là đến hạn lên đai xanh cho các em, nhưng tôi không an tâm bởi thấy các em ra đòn quá chậm mặc dầu thiên hạ vây chung quanh la ó rùm trời, tỏ vẻ rất hào hứng. Có một số em cả trai lẫn gái sau những buổi trính diễn gặp tôi xin được theo học võ, nhưng tôi chỉ trả lời để khóa tới hãy ghi tên. Chia sẻ nỗi thiếu tin tưởng vì thấy các em ra đòn quá chậm, ông Tầm mỉm cười nói nhẹ,

- Đôi khi cũng không nên tin vào mắt mình.

- Bác nói sao?

- “Trước khi ngộ, thấy ngọn núi là ngọn núi; nơi hành trình thức ngộ, thấy ngọn núi không phải là ngọn núi, và khi đã ngộ, thấy ngọn núi lại là ngọn núi.” Mừng cho anh. Có võ đường tôi quen, nghe tiếng võ đường biểu diễn ở đây nên mời chúng ta đấu giao hữu, hay là chọn vào tối thứ hai sau tuần tới đưa các em đi đấu giao hữu một chuyến; tiện thể cho các em lên đai, anh nhận thấy thế nào?

- Theo nhận định của bác thì sao?

- Tôi nghĩ, anh sẽ có ngạc nhiên rất lớn.

Tôi im lặng, trầm tư suy nghĩ. Chỉ mới hai lần nói chuyện với ông Tầm, tôi nhận thấy ông ẩn dấu một kiến thức rất lớn; đồng thời, những lời ông phát biểu đầy vẻ ám định; do đó, tôi không muốn vội trả lời mà nén lòng suy tư, nhận định cho rõ ràng hơn. Tôi đã nói với các em cần chăm chỉ luyện tập, dạy và khuyên các em luôn luôn thực hành vận khí theo đường âm mạch mới chỉ có tám tuần nên chưa biết được kết quả ra sao; đồng thời lại thấy các em ra đòn chậm nên e ngại “Đem chuông đi đánh xứ người,” bởi, “Những trận đại thắng đều là những trận đại bại,” được lợi gì chưa biết, nhưng chắc chắn sẽ tổn ải, hao quân. Nhớ có lần đọc một bài nhận định về Gia Cát Lượng, tác giả cho rằng người người đọc Tam Quốc Chí đều thán phục Gia Cát Lượng, nhưng nếu so sánh thành quả với Bàng Thống, Gia Cát Lượng nắm quân tiêu hao quá nhiều.

Mặc dầu chưa tin tưởng nơi các em nhưng nghe thấy lời đề nghị đưa các em đi đấu giao hữu, tôi thầm nghĩ, có lẽ ông Tầm đã có ý định gì chăng, nêu sau chút suy nghĩ, tôi nói,

- Nếu bác thấy nên thì đi, tùy bác.

- Anh ngại vì e các em thiếu năng lực hay vì gì?

- Nếu nắm chắc được phần thắng, cháu thấy nên đi hầu giúp các em thêm hăng hái. Tuy nhiên, bởi đàng nào thì những trận đại thắng cũng đều là những trận đại bại; chấp nhận phí tổn thì được, nhưng lỡ làm tiêu hao nhuệ khí các em thì cháu không biết phải tính sao.

- Không ngờ mấy cuốn sách mang lại cho anh khá nhiều lợi ích. Biết nghi ngờ chính mình nên cần chứng nghiệm là điều ắt có và đủ để thăng tiến nhận thức. Anh thấy trẻ ra đòn chậm bởi anh đã vượt qua được đệ ngũ huyền đai, đặc biệt nội công do vận khí nghịch hành dẫu anh chưa thi giám định. Tôi nghĩ, danh hiệu không cần thiết. Điều cần thiết lại chính là thực lực, năng lực và võ đạo nơi bản thân mình. Đừng e ngại gì, dẫu các em đang nơi tiến trình luyện tập bài quyền đai xanh, nhưng theo nhận định của tôi, chưa chắc đai xanh nơi các võ đường đã có thể đụng chạm tới, nói cách khác, coi chừng bị đo ván nếu thực sự chiến đấu. Tôi có thể đoan chắc bởi chính giới hạn anh đã đặt ra, và sự khuyến khích sáng kiến thăng tiến võ đạo nơi mỗi em. Mục đích của anh không phải vì tiền và lại cũng dám liều thử áp dụng hành thiền vào vận khí. Hơn nữa, nơi các võ đường khác, người ta dạy võ vì lợi ích cuộc sống; anh giúp các em vì đam mê cũng như vì muốn thử chính mình. Yên chí đi, một chuyến xe lam cũng không bao nhiêu; chúng ta tham dự đấu giao hữu chỉ có lợi chứ không thua thiệt gì. Tôi sẽ cho họ biết chúng ta sẽ tới Gò Vấp chiều thứ hai, cỡ bốn giờ vì 5 giờ cuộc đấu bắt đầu. Tối đa nửa tiếng sau, mình có thể ra về và tới nhà hơn kém 9 giờ đêm. Như vậy, chúng ta sẽ khởi hành tại chợ lúc 1 giờ chiều.

THI ĐẤU LÊN ĐAI

Bẩy em cùng với tôi và ông Tầm chiếm trọn hai băng ghế chiếc xe lam. Vì không muốn bị chậm trễ nên ông Tầm bao luôn cả chuyến xe; do đó, tương đối xe chở nhẹ và cũng rộng rãi cho chín người. Các em lộ rõ tràn đầy hưng phấn qua nét mặt và thái độ cũng như cử điệu. Tôi bàn với ông Tầm hãy để về nhà, và sẽ cho các em lên đai xanh tối thứ sáu như một khích lệ và tiện thể quảng bá tinh thần thượng võ cho dân chúng. Các em thuộc dân tỉnh lẻ, lại đã phải trình diễn đấu luyện mười mấy lần trước công chúng nên thái độ rất điềm tĩnh. Võ đường Gò Vấp có hơn kém 50 người, và lớp đai vàng gần hai chục. Sau khi sắp xếp những cặp đối thủ, võ sư trưởng có đôi lời chào đón khách và ra lệnh cho 7 cặp song đấu cùng một lúc; thời gian tỷ đấu là 5 phút, thay vì đấu từng đôi mất nhiều thời giờ. Chưa hết 5 phút thì đội bẩy người của võ đường đã bị quật ngã. Võ sư trưởng của võ đường không tiếc lời ca ngợi các em đội khách. Dẫu thế, có lẽ vì quá quen với đấm đá biểu diễn, các em đội khách nét mặt vẫn thản nhiên trở về đứng hàng ngang cạnh tôi. Ông Tầm nói đôi lời cảm ơn và chúng tôi leo lên xe lam trở về. Trên đường trở lại, tôi hỏi mấy em cảm thấy thế nào với trận đấu thì được các em cho biết đối thủ ra đòn quá chậm và thiếu ứng biến. Tôi hiểu lý do nhưng không giải thích, để khi nào về nhà phân tích cho các em rành rẽ hơn. Các em còn quá trẻ để có thể phân biệt võ kỹ và võ đạo. Võ đạo không lệ thuộc phương pháp, thế đánh nào, mà chính là phản ứng tự nhiên hợp thế không cần suy nghĩ bởi đã thành thói quen. Có lẽ tôi cần nhấn mạnh về sự trầm tĩnh, khiêm nhu, vì coi chừng vô tình giơ chân, động tay của người mang năng lực cao rất có thể hại người. Sự việc này không khác chi con trâu cui bước vô cửa hàng với những tủ kiếng. Cái vẫy đuôi nhẹ nhàng của nó đụng phải những tấm kiếng nơi quầy hàng thì phỏng còn chi.

Xe chưa ra khỏi Gò Vấp, ông Tầm nói bác tài xế ghé vô một quán cơm bên đường, đoạn gọi cho mỗi người một tô phở tính luôn cả bác tài xế. Bác tài ngồi riêng một bàn, 7 em, tôi, và ông Tầm ngồi chung quanh hai chiếc bàn kê liền nhau, ông Tầm một đầu, tôi một đầu, và bẩy em chia thành hai, một bên bốn, bên kia ba ngồi dọc theo chiều dài của hai bàn kê lại. Bẩy em đều là dân nhà quê nên không biết chọn loại phở nào, ông Tầm kêu cho các em cùng một loại, tái, gầu, gân, sách, nạm. Trong lúc chờ đợi, tôi lên tiếng,

- Các em hôm nay đáng được khen ngợi về tư cách của một võ sinh, thái độ điềm đạm, kiên nhẫn và ổn định. Đấu thắng rồi mà không tỏ vẻ huênh hoang, chỉ bình thường trở về sắp hàng như đợi chỉ thị. Điều đáng khen nhất là biết ngừng tay ngay khi đối thủ đã rơi vào thế hạ phong mà không tấn công tiếp. Đó là biểu hiệu của con người độ lượng, biết tôn trọng đối thủ, giữ thể diện cho họ. Chính thái độ này đã khiến võ sư trưởng vô cùng khen ngợi các em. Giả sử các em không dừng tay khi các đối thủ đã rơi vào thế hạ phong mà cố đánh cho đối phương gục tại chỗ, chắc chắn chúng ta sẽ trở thành kẻ thù của họ. Thế nên, từ nay các em nhớ, không những khi đấu giao hữu hoặc nơi trường hợp nào khác, và ngay cả lối ăn nói cũng như thái độ, cho dù nơi hoàn cảnh nào chăng nữa, nên giữ chẳng những cho mình mà còn cho đối thủ một lối lui và cố tránh để không trở thành kẻ thù của bất cứ ai.

- Các em có biết tại sao các em thấy đối thủ ra chiêu chậm chạp không? Thứ nhất, các em đã luyện vận nghịch hành khí huyết gần chín tuần; sự vận khí nghịch hành kiến tạo nội công căn bản cho võ nghệ. Sở dĩ tôi khuyến khích các em vận khí liên miên ngay cả khi ngủ vì nếu đánh võ mà không có nội lực thì chẳng khác gì múa võ vườn hoang, múa cho đẹp mắt người xem mà thôi. Thêm nữa, sự luyện tập không theo bất cứ khuôn khổ nào sẽ tạo nên cho các em những phản ứng tùy theo hoàn cảnh được gọi là võ đạo. Có phải khi luyện bài quyền ngược lại từ cuối lên khởi đầu rất ngượng và khó không; thế rồi lại phân chia bài quyền thành từng thế võ riêng biệt sẽ khiến các em tạo nên những phản ứng tự do, bất chợt, cộng thêm sáng kiến sao cho thuận phản ứng giúp các em không lệ thuộc bài quyền bất cứ phương diện nào. Thế nên, từ nay, tất cả sự thăng tiến đều tùy thuộc sự vận khí và thao luyện tại nhà của các em. Các em cũng nên biết rõ, lớp đai vàng của võ đường đã được thăng đai từ năm tháng trước và vì ít tập luyện tại nhà, chỉ tập luyện nơi võ đường nên năng lực chỉ được như thế. Lần này, chúng ta sẽ đấu lên đai vào ngày thứ sáu. Tuy nhiên, bốn tháng nữa, nếu em nào không thắng được đai đỏ của võ đường, sẽ không được lên đai mà còn bị loại. Tôi sẽ thẳng tay loại. Tất cả đều tùy thuộc vào sự cố gắng luyện tập và sự vận khí luyện công của các em.

Phở được bưng ra, mỗi em một tô, em nào cũng như em nấy lóng ngóng không biết giải quyết ra sao. Tôi biết ý, lau muỗm và đũa, đoạn múc tương ớt, giá, rau thơm cho vô bát phở của mình để các em học theo. Thì nào tôi có hơn gì cho cam, từ nhỏ cho tới hết năm tú tài 1, tôi có bao giờ được ra phố vô tiệm phở, nên lần đầu đi theo bố vô quán ăn, tôi cũng lóng ngóng như thế,và đó cũng là lý do tại sao tôi phải vội làm trước.

Cỡ 9 giờ đêm, xe lam dừng tại chợ cho các em xuống; ông Tầm nói muốn cùng tôi đi bộ về nhà hưởng không khí mát mẻ ban đêm cho giãn gân cốt. Làng xóm ngủ yên như âm thầm chịu đựng bầu khí lắng đọng do áp lực khó khăn cuộc đời luôn đè nặng trên đám dân cần cù chất phác. Thỉnh thoảng có ánh đèn nhỏ nhoi nào đó le lói chiếu qua cặp mắt như khắc khoải gióng lên nỗi thống hận khó được cảm thông chẳng khác chi ánh mắt van lơn của người tử tù trước giờ bị hành quyết. Con dân tôi đó, một tương lai bi thảm đang dần ập xuống chẳng khác gì dân chúng nơi Bắc Hàn, Venezuela, Cuba. Đi được chừng hơn nửa cây số, ông Tầm bỗng hỏi,

- Anh có thấy nội trong hai năm ép các em tập luyện hầu đạt tới đệ nhất đẳng huyền đai là quá sức chịu đựng không?

- Cháu đã suy tính nhiều về điểm này. Mục đích chính là giúp các em nhận thức được năng lực bẩm sinh nơi bản thân sẽ không có giới hạn nếu thực sự bền chí theo đuổi. Hơn nữa, nơi thời điểm cơ thể đang phát triển chính là cơ hội uốn nắn chẳng những thể xác mà cả tâm trí. Thời nhỏ cháu được cưng chiều trong gia đình, thân xác ốm yếu, nhưng vì áp lực bất công của những bạn học bất chính và cả từ anh em họ nơi trường học, nên vì quyết chí chống lại bằng cách luyện võ do đó mọi sự thay đổi. Đàng khác, phương pháp vận khi nghịch hành tương đối mang lại kết quả khả quan. Theo như các em nhận thấy võ sinh nơi võ đường phản ứng chậm chạp, cũng như cháu thấy các em ra đòn chậm, mà bác nói đôi khi không nên tin vào những gì mình thấy, cháu nhận ra sự tiến bộ do luyện tập đều bị ảnh hưởng của vận hành khí huyết. Thêm vào đó, cháu cố gây áp lực để các em luôn thực hành vận khí bất cứ lúc nào hầu trở thành thói quen liên tục, tất nhiên không gì có thể trở nên quá sức.

- Thực ra, cháu nhận thấy muốn cuộc sống dân chúng vươn lên, cần cải thiện kinh tế. Mà muốn cải thiện kinh tế lại cần kiến tạo cơ hội, hay phương tiện, công việc, một cách bền vững cho người ta. Ý chí, cố gắng, là một chuyện, nhưng không có cơ hội, phương tiện thì tất cả cũng chỉ là viễn vông mơ ước; mà mơ ước suông chẳng thể nào khiến người ta ăn củ khoai có thể ngon hơn miếng thịt. Bác cảm thấy thế nào với câu nói, “Ăn cơm thì phải ăn rau, chớ ăn thịt cá mà đau dạ dày?” Quả đúng là bôi bác, lừa đảo, nhưng biết nói sao lúc này. Cháu muốn ép để các em cố gắng đến mức tối đa hầu nhận ra mình có thể thực hiện những gì bình thường bị mọi người coi là không thể. Chính sự nhận biết này sẽ thúc đẩy các em nhận ra những phương cách mới may ra thay đổi cuộc sống. Từ sự quan sát, nhận định, rồi thử mới có thể phát sinh điều mới. Bác không thấy sao, bởi lười đi bộ người ta mới nghĩ ra xe đạp, rồi xe máy, rồi xe hơi, và đến ngay cả phi cơ. Nếu không lầm, ngày xưa, người nghĩ ra chiếc xe cho bò kéo để chở nông phẩm bị những người cùng thời cho là rách việc, và những bao năm sau mới được chấp nhận.

- Cháu rất tức giận khi thấy tên xã trưởng và mấy đứa băng đỏ đến vòi tiền bồi dưỡng. Nếu không sợ liên quan đến chủ tiệm thuốc bắc, cháu đã cho chúng đo ván rồi đến đâu thì đến.

- Thế rồi sao? Ông Tầm nhẹ hỏi. Rồi anh định cao bay xa chạy ư? Và rồi dân chúng sẽ bị lãnh những hậu quả gì phỏng anh có thể dự đoán được không?

Mấy lời nhẹ nhàng của ông Tầm khiến tôi giật mình nên chợt nghĩ lại. Mình náo động lúc này không nên, cần phải có những người khác tiếp tay, tôi thầm dự tính. Cứ đào tạo 7 em cho tới đệ nhất đẳng huyền đai, trong khi các em tự luyện cho tiến triển hơn, mỗi em mở một võ đường quanh vùng phụ cận, sẽ có ít nhất 70 người nội trong 4 năm nữa, và thêm 4 năm nữa sẽ được bao nhiêu người. Nếu tụi xã trưởng và băng đỏ làm quá, sẽ có người trị chúng. Chỉ một vài lần xem còn đứa nào dám ho he chăng. Nghĩ như thế, nhưng tôi chỉ im lặng không nói chi. Dục tốc bất đạt, tôi âm thầm tự nhủ. “Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sư cẩu,” câu nói nơi Lão học nhắc tâm trí tôi liên tưởng đến câu, “Đất có tuần, dân có vận,” nên lại tự lý luận, không làm gì thì sao có thể nói tuần với vận?

Tôi thở dài, thầm nhớ mấy câu vè dân gian ngâm nga nơi những quán cà phê hè phố. Mới chỉ mấy năm mà đã lắm lời than ngậm ngùi,

Ai về qua tỉnh Nam Hà

Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông;

Tớ ơi mày có biết không,

Chúng ông là chủ mà không bằng mày.

Nơi văn học lớp đệ nhị, ai cũng nực cười khi đọc thơ Nguyễn Công Trứ viết nơi bài “Hàn Nho Phong Vị Phú,” “Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch; người quân tử ăn chẳng cầu no.” Ngày nay, tiểu nhân mang danh đầy tớ khiến ngàn dân nhắc nhở,

Ai sinh ra củ khoai mì?

Hỏi: Để làm gì? Đáp: Để mà ăn!

Nước nhà còn mãi khó khăn

Dân mình còn phải chịu ăn củ mì

Làm việc hợp tác xã nào khác chi cảnh “Cha chung không ai khóc” phát sinh lắm mối nực cười,

Thi đua làm việc bằng hai

Để cho cán bộ mua đài, mua xe

Thi đua làm việc bằng ba

Để cho cán bộ xây nhà lát sân

Công nhân, vợ ốm, con côi

Lãnh đạo nhà gác, xe hơi bộn bề

Bao giờ cho hết trò hề?

Để rồi biết sao mà nói nơi cảnh cá chậu chim lồng.

Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa

Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền

Xuất trình giấy phép liên miên

Chứng từ thị thực ở miền nào qua

Trăm năm trong cõi người ta

Ở đâu cũng được đi ra đi vào

Xa xôi như xứ Bồ Đào

Người ta cũng được đi vào đi ra

Đen đủi như Ăng Gô La

Người ta cũng được đi ra đi vào

Chậm tiến như ở nước Lào

Người ta cũng được đi vào đi ra

Chỉ riêng có ở nước ta

Người ta không được đi ra đi vào

Dẫu chỉ nhớ thoáng qua, tôi muốn ứa nước mắt. Dân chúng nước tôi, vận nào khiến con dân Việt phải đối diện với muôn nỗi khó khăn chẳng kể xiết. Ôi dân Việt, ôi con người. Nỗi đau nào âm thầm đay nghiến lòng tôi mỗi khi nghĩ đến những con người lầm than vất vả ngày ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời vẫn trầm luân trong thiếu thốn, làm lụng cực khổ mà vẫn không đủ ăn, phương chi nói tới tương lai, ngày mai. Nồi cơm nở hoa với khoai khô, sắn trấp, thấp thoáng vài con cá lẹp nơi tô canh, hoặc cá khô nướng lỏng chỏng trên đĩa. Thịt mỡ giá mắc ngang bằng với thịt nạc, thịt thăn, ít khi được bày nơi bữa ăn ngoại trừ những ngày tết, lễ.

Về tới nhà, ông Tầm lấy đồ tắm rửa, tôi lặng ngồi gậm nhấm nỗi ưu tư, cảm thấy bất lực vì cánh tay quá ngắn. Cảnh vòi tiền bồi dưỡng trở lại khuấy động tâm tư như muốn thúc đẩy tôi phải làm gì. Hình ảnh những làn mía vươn cao gần đầu người xào xạc trong gió chiều báo hiệu ít nhiều hy vọng. Ông Tầm nói định thiết lập máy ép mía làm đường nơi nhà chùa nào đó; vì mục đích để giúp người ta có thêm công ăn, việc làm chứ không phải kiếm tiền riêng cho mình. Nhớ lại trên đường đi, tôi đã hỏi,

- Vậy tiền đâu bác trang trải cuộc sống.

- Không sao, hiện giờ chưa cần, có chăng, nếu có được chương trình gì giúp người ta kiếm thêm được chút ít cho cuộc sống dễ thở hơn thì đó mới là điều quan trọng. Riêng anh, nếu chương trình dạy võ được thực hiện đúng theo dự tính, anh bắt đầu chuẩn bị học tiếng Anh là vừa. Tuy nhiên, cũng chưa cần học nói lúc này, mà chỉ cần đọc sách trau dồi thêm từ ngữ, và nếu có thể được, đọc loại sách liên hệ về hệ thống điện thoại sẽ ích lợi hơn. Tôi nghĩ, những ngôn từ đàm thoại thông thường có lẽ anh đã quá quen thuộc vì anh đã theo học ban C.

- Tôi có người em rể, là người Mỹ, làm giám đốc một chi nhánh của hãng điện thoại AT&T. Khi anh vượt biên ra khỏi Việt Nam, tôi sẽ liên lạc để chú ấy bảo lãnh anh sang Hoa Kỳ và đi làm trong hãng điện thoại. Nhưng nói chuyện bây giờ chỉ mong anh để ý chuẩn bị. Tôi cũng đã liên hệ được với một chi nhánh của hãng lọc dầu Mobileđể mua nguyên liệu làm xà phòng, nhưng cần phải nghiên cứu thêm sao có thể điều chế với giá thấp nhất. Anh cũng biết, người dân Việt quá nghèo không có tiền mua đồ chất lượng và cao cấp, nên nếu biến chế theo công thức chất lượng cao sẽ không thể tiêu thụ nơi đất nước này. Có điều, rất nhiều sản phẩm cần thiết có thể chế tạo nơi đây chẳng hạn gầu múc nước, thùng đựng nước bằng nylon thay vì bằng nhôm. Hoặc rổ rá bằng nhựa, giá bán chỉ bằng một nửa loại đan bằng tre; tuy nhiên, vì không có luật lệ bảo vệ chủ quyền phát minh nên coi chừng chưa lấy lại được vốn, sản phẩm nhái, giá rẻ hơn đã tràn lan thì quả là tai hại.

- Tôi đang suy nghĩ có nên kết hợp với chủ doanh thương nào đó, nhưng lại chán ghét liên hệ với chính quyền, nên chưa có quyết định. Tóm lại, anh không cần phải suy nghĩ gì về vấn đề sinh sống, mà nên lo chuẩn bị trau dồi khả năng kỹ thuật nơi hệ thống điện thoại cho thời gian sắp tới. Tôi muốn nhấn mạnh, anh nên tự học về ngành kỹ sư viễn thông dẫu cũng cần biết phần nào về kỹ năng của chuyên viên kỹ thuật. Xét về bằng cấp, ở Mỹ, chỉ cần vượt qua được những bài thi là có chứng chỉ chứ không lệ thuộc thời gian đến trường lớp. Nếu đã có đủ năng lực, cùng lắm là theo học một hoặc hai năm về toán, điện toán, và vật lý nơi những lớp tối để nhận văn bằng. Hệ thống trường lớp ở Mỹ khác xa ở đây; bởi người ta giám định theo khả năng và năng lực chứ không đặt nặng vấn đề bằng cấp. Bằng cấp chỉ nói lên khả năng đã được huấn luyện mà thôi.

- Có điều, anh cũng thừa hiểu được, mọi sự đều có giá phải trả. Trên đời này làm gì có miếng bánh nào tự trên trời rơi xuống. Hơn nữa, cẩn thận tính toán cả đời không thừa, mà sai lầm thì coi chừng một lần cũng quá đủ. Dẫu cuộc đời bao gồm những cơ hội nhưng sự học hỏi, quan sát, và nhận định thực tại phần nào tránh khỏi phải trả giá quá mắc mỏ. Tôi tin rằng, với nhận thức rộng mở của anh mang đầy sáng kiến, đôi khi có vẻ liều lĩnh và dám thực chứng sẽ đem lại kết quả chẳng ngờ. Và tôi đã liên lạc với nhóm xuất ngoại của người Hoa chuẩn bị cho những chuyến đi Hồng Kông ở Minh Hải để lo giấy tờ cho anh thay vì vượt biên.

- Thưa bác, sách vở viết về ngành viễn thông hiện đại đâu có thể tìm được ở Việt Nam. Sao…

- Cỡ chừng một tháng nữa sẽ có sách bằng tiếng Anh được gửi về cho anh. Bởi anh theo ban C nên cũng cần thêm sách toán và điện toán căn bản cho ngành kỹ sư. Vấn đề chính yếu tùy thuộc khả năng hấp thụ nơi anh. Tôi nghĩ, khi sang tới Mỹ, vừa đi làm, vừa ghi học thêm, và nếu có được kiến thức lý thuyết về ngành viễn thông, nội trong hai năm, hoặc tối đa ba năm anh sẽ lấy xong bằng kỹ sư.

- Sao bác biết rành rẽ về hệ thống học hành ở Mỹ thế?

- Tôi không tiện trả lời anh về câu anh hỏi lúc này. Hiện giờ, tôi chỉ có thể nói khái quát những gì anh cần biết để chuẩn bị cho những gì sắp tới giúp anh an tâm, bớt phần nào lo lắng, ưu tư; vì cơ hội chỉ đến với những ai đã chuẩn bị và chủ động và sẵn sàng chờ đợi nó. Có điều, những người ngu thường tự cho mình thông minh nên dù cơ hội ngay trước mắt vẫn không thể nắm bắt.

0 – 0 – 0

Hơn một năm sau, tôi đã sang tới Hồng Kông ngay khi bẩy em võ sinh đã hoàn thành cấp bậc võ sư đệ nhất đẳng huyền đai được một tháng. Phải mất ba tháng chờ đợi tôi mới sang tới Mỹ theo diện bảo lãnh của giám đốc hãng điện thoại AT&T, người em rể của ông Tầm tại tiểu bang Oklahoma. Bởi theo học ban C, khả năng đọc sách, học hỏi của tôi cũng không đến nỗi tệ. Hơn nữa, tuổi cũng đã lớn, cộng thêm khả năng luận lý, cũng như sắp xếp, dàn trãi định luật, định đề, định lý thành hệ thống cho dễ nhớ, các môn toán học, điện toán, vật lý dành cho ngành viễn thông đã không làm khó dễ được tôi; và chỉ hai năm rưỡi, vừa đi làm nơi hãng điện thoại, vừa ghi học những lớp tối, tôi đã hoàn thành chương trình kỹ sư viễn thông. Người Mỹ, em rể của ông Tầm khuyên tôi nên lấy thêm mấy tín chỉ về tâm lý cũng như điều hành và lãnh đạo. Ông không giải thích gì nhưng khi hãng điện thoại mở thêm chi nhánh, tôi đã được chọn làm giám đốc hai năm sau. Và qua mười năm làm việc, khi hệ thống “Electronic micro systems phone” phát triển sau khi máy vi tính (computer) được sử dụng rộng rãi thời tổng thống Bill Clinton, hãng AT&T đóng cửa chi nhánh tôi đang làm việc. Tôi được chọn một trong hai chương trình, tiếp tục học thêm một năm để làm giám đốc nơi một cơ sở với hệ thống viễn thông mới, hoặc nghỉ với lương hưu bao gồm tiền an sinh xã hội và chương trình 401k của hãng bởi đã có đủ 40 tín chỉ làm việc. Tôi chọn nghỉ hưu và trở lại Việt Nam cuối năm 1993.

Mười hai năm hòa mình theo sự thăng trầm cuộc sống, nhàm tai với những tuyên truyền đổi mới theo đà triền dốc giật lùi về vực thẳm dân sinh, tôi âm thầm tự hỏi phỏng chồi sinh mới nào đã và đang được chuẩn bị với đống đổ nát như thành quả của sự tàn phá luân lý, đạo đức con người của chế độ xã hội này. Nhìn vào lịch sử dân tộc, những bao lần dân ta bị chìm đắm trong vòng nô lệ ngoại bang vẫn có thể vượt qua để bùng lên sức sống mới. Có lẽ với nhận thức của một người đang ở thời điểm đối diện với mùa thu cuộc đời, tôi không thể tưởng tượng được sự biến chuyển của dân tộc sẽ thế nào; chẳng khác gì trí tưởng tượng của điều mộng tưởng thời trẻ về thần giao cách cảm; nay, kỹ thuật viễn thông đã minh chứng điều không thể đã trở thành hiện thực. “Đất có tuần, dân có vận,” đất nước Việt sẽ thế nào; dân Việt sẽ ra sao; điều mơ ước đơn giản của tôi chỉ là sao cho người người có được những bữa ăn đầy đủ hằng ngày, phỏng chỉ là mộng tưởng!

Ngày 01 tháng 9 năm 2023

Lã Mộng Thường.



Cùng tác giả

Tiếng Nói Con Tim          1990

Linh Mục Người Là Ai I    1991

Hương Hoa Dân Việt       1993

Linh Mục Người Là Ai II   1993

Ước Vọng Mùa Xuân        1995

Mảnh Vụn Suy Tư           1996

Câu Hỏi Lãng Quên         1997

MâyBay Về Ngàn             2019

Khai Phá Tin Mừng           2021

Loạn Bàn Phúc Âm           2021

Suy Nghiệm Phúc Âm C    2021

Linh Mục Người Là Ai III   2022

Hồng Ân Dốt Nát              2022

Lời Gọi Thâm Sâu             2023



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả