Lã Mộng Thường
[Tiểu Sử | Thi Hữu | Nhắn Tin]



NGHIỆM XÉT PHÚC ÂM CHỦ NHẬT năm B

THAY LỜI TỰA

Đọc Tân Ước, một số câu nói nơi Phúc Âm hình như ám chỉ điều chi đó, không thể nào áp dụng nơi cuộc sống, nếu không muốn nói là chẳng nên, hoặc vô phương áp dụng một cách thực tiễn nơi cuộc đời một người theo nghĩa đen, nghĩa từ chương. Chẳng hạn, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị xô vào hỏa ngục. Và nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi; vì thà mất một chi thể còn lợi cho ngươi hơn là cả toàn thân bị sa hỏa ngục" (Mt. 5:29-30; Thánh Kinh; NTThuấn; DCCT; Sàigòn; VN; 1976), hoặc, "Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình, và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36), hay, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta; ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta; ắt không xứng với Ta" (Mt. 10:37).

Thế thì dân Chúa, những người tin theo đức Kitô, những người tin tưởng vào Thiên Chúa, tất cả những ai vỗ ngực xưng danh là có đức tin, sống đạo ra sao, và truyền bá Tin Mừng thế nào? Đặt vấn đề như vậy, câu hỏi căn bản cho những ai tuyên xưng đức tin phải thực lòng đối diện đó là, Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu đã rao giảng hơn hai ngàn năm trước là gì? Đức tin là chi?

Thực tại, thẳng thắn nhìn nơi lòng mình, thử hỏi đã bao giờ mình dám tự trả lời hay lục lọi nơi sách vở, internet, hoặc tham hỏi bất cứ ai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Tin, là gì bao giờ chưa, hay chỉ nghe đây, hóng đó để rồi cho rằng Tin Mừng Nước Trời là lời đức Giêsu, Lời Chúa rao giảng, và Đức Tin là tin vào Chúa dẫu chẳng biết Chúa là thế nào; cho dù ngoài miệng nói rằng tin vào Chúa mà trong lòng không cần biết, vì nói tin hay không cũng không có chi khác biệt với tâm trạng kẻ bị gán cho danh hiệu "Vô thần" hoặc tin nơi ngẫu tượng; nói cách khác, nghĩ rằng tin vào Thiên Chúa mà không biết Chúa là gì, tất nhiên, chính là mù mờ tin vào danh hiệu đã được tuyên truyền, quảng bá do những người cũng không biết Thiên Chúa là gì.

Truyền bá Tin Mừng, truyền bá Phúc Âm mà không biết Tin Mừng Nước Trời là gì thì truyền bá cái chi? Rao giảng Phúc Âm làm sao, đối với những câu nói ngang ngược không bao giờ dám áp dụng nơi cuộc đời mình, thì phỏng kẻ nghe có lòng tin, đức tin, có tâm trạngthế nào vào Chúa, vào đức Kitô? Nhận ra thực thể sự việc, sự thể như thế, nói rằng hay tuyên xưng có đức tin chỉ là tuyên xưng điều mình không biết; chẳng khác gì sự thể mà tiền nhân dân Việt để lại câu nói, "Đầu ngòi có con ba ba; kẻ gọi con trạnh, người la con rùa."

Bình thường mà nói, cho rằng, hay nghĩ rằng, tin vào ai là sống hay đang hưởng thụ thành quả thực thể sự việc, hay sự thể người ấy tuyên xưng hoặc rao giảng. Tin tưởng rằng đức Giêsu xuống thế, chịu chết trên thánh giá để chuộc tội cho loài người là tin theo thánh Phaolô; vì ngài rao giảng, "Vì chưng, trong khi Do Thái đòi có dấu lạ, và Hilạp tìm sự khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một vị Kitô đã bị đóng đinh Thập giá, cớ vấp phạm cho Do Thái, sự điên rồ đối với dân ngoại" (1Cor. 1:23).

Nơi Phúc Âm, đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa hay Tin Mừng Nước Trời, "Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. Nhưng Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến'" (Lc. 4:43). Không câu nào nơi Phúc Âm được đức Giêsu rao giảng rằng Ngài được sai đến để chết vì, và chết cho tội lỗi loài người. Nơi Phúc Âm Gioan, chỉ có câu, "Quả thật Thiên Chúa đã yêu mến thế gian như thế, đến đỗi đã thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời" (Gioan 3:6), nhưng Phúc Âm Gioan lại là kết quả sự chiêm nghiệm của con người khi đối diện với sự thể hiện hữu của đức Giêsu. Hơn nữa, đức Giêsu cũng chỉ sai các môn đồ đi rao giảng Nước Trời, Nước Thiên Chúamà thôi.

Phúc Âm nói về mọi kiểu cách, khía cạnh của Nước Trời, Nước Thiên Chúa, "Ở trong các ông" (Lc. 17:21), "Ở trên các ông" (Mt. 12:28; Lc. 11:20), "Ở giữa các ông" (Lc. 15:21), "Đã đến gần" (Mt. 3:2), "Như hạt cải" (Mc.4:26; Lc. 13:19), "Như men trộn bột" (Lc.13:21), và Phúc Âm khuyến khích, "Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người" (Mt. 6:33) (Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn).

Dẫu các chuyên viên, học giả Kinh Thánh nghiên cứu, giải thích, và trình bày Phúc Âm theo nghĩa từ chương, biên khảo, đều cho rằng Phúc Âm Nhất Lãm (ba Phúc Âm Mathêô, Marcô, và Luca) viết về diễn trình cuộc đời Chúa Giêsu và những lời dạy của Ngài theo truyền khẩu, nhưng không có bất cứ định nghĩa nào về Tin Mừng Nước Trời, Nước Thiên Chúa; phỏng vì thế quan điểm rao giảng của thánh Phaolô được chấp thuận và tin theo, thay vì lời rao giảng cũng như mục đích cuộc đời Chúa Giêsu được sai đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời?

Một diều rõ ràng, cho đến nay, chưa có ai, hoặc sách vở nào, (hoặc có mà chưa được biết) minh chứng được nghiệm chứng của thánh Phaolô, "Anh em không biết sao, anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thần khí Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 3:16). Dĩ nhiên, vì đó là nghiệm chứng, nghiệm xét của thánh Phaolô. Lẽ tất nhiên, nghiệm chứng, nghiệm xét, của một người chính là nhận thức, sẽ không giống của bất cứ ai; cũng như nhận thức về người thân trong một gia đình.

Tin theo lời rao giảng của thánh Phaolô, nhưng đã có ai dám thực hành lời đề nghị của ngài, “Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhöng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữa lấy! Hãy kị điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào!” (1Thes. 5:19-21). Thánh Phaolô cũng đề nghị thêm nguyên tắc cốt cán nữa, và đó là, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mỗi rỗng tuếch đánh bã anh em thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Thiển nghĩ, hơn hai ngàn năm trước, lời đề nghị này quả là táo bạo, nhưng nhờ đó, Phaolô trở thành vị thánh cột dường của Kitô giáo. Vị thánh bắt đạo bị Chúa Giêsu bắt cóc lại làm lu mờ Tin Mừng Nước Trời, sự việc mà Chúa Giêsu được sai đến để rao truyền cho nhản loại.

Tin Mừng bị lu mờ hay tại con người chưa dám “liều mạng” nghiệm xét Phúc Âm hầu nhận thức thực thể Tin Mừng đức Giêsu rao giảng?

Lã mộng thường.



CHỦ NHẬT I B MÙA VỌNG(Mc. 13:33-37)

33 "Coi chừng! Hãy tỉnh thức! Vì các ngươi không biết bao giờ đến lúc đó. 34 Cũng như người kia trẩy đi xa để nhà lại, và cho tôi tớ quyền hành, mỗi người mỗi việc, và că dăn người canh cửa lo tỉnh thức, 35 vậy các ngươi hãy tỉnh thức vì các ngươi không biết chủ nhà đến, chiều nay hay nữa đêm, gà gáy hay tảng sáng, 36 Kẻo thình lình Ngài đến lại gặp các ngươi đang ngủ. 37 Ðiều Ta nói với các ngươi Ta cũng nói với hết mọi người: Hãy tỉnh thức!"

Mới nghe hoặc đọc bài Phúc Âm, lời khuyên đến với chúng ta rõ ràng và đó là "Chúng con hãy tinh thức và cầu nguyện, vì chúng con không biết đó là lúc nào... Điều Ta bảo cho chúng con, thì Ta bảo cho tất cả mọi người là hãy tỉnh thức" (Bản dịch Linh mục Nguyễn Thế Thuấn, DCCT). Suy nghiệm về bài Phúc Âm, nhiều câu hỏi đã đến với tôi, chẳng hạn, tỉnh thức là gì, và tỉnh thức thế nào? Tại sao phải tỉnh thức? Phương cách nào để chúng ta có thể luôn luôn tỉnh thức? Kết quả của sự tỉnh thức này như thế nào, và chúng ta cần áp dụng ra sao. Phỏng hai mươi thế kỷ qua đã có những ai áp dụng được sự tỉnh thức theo Phúc Âm nhắn nhủ? Và vấn đề cuối cùng đó là Chúa muốn nói với chúng ta điều gì qua bài Phúc Âm?

Chúng ta biết chắc chắn một điều đó là Cựu Ước trình bày nhãn quan của người Do Thái về Thiên Chúa. Theo lối nhìn này, Thiên Chúa được nhận định tùy thuộc những kinh nghiệm, cảm nghiệm cá nhân. Chúa nơi Cựu Ước chẳng khác gì một quyền lực vô song mang đầy tính chất con người, và xét xử nhân loại theo luân lý nhân sinh. Ngài cũng được nhận định như một Thiên Chúa thiên vị, ấp ủ dân Do Thái, luôn luôn đứng về phe họ. Thế nên, bất cứ dân tộc nào, bất cứ ai chống lại người Do Thái hoặc làm điều gì phạm đến lề luật của dân tộc này đều bị coi như phạm đến Thiên Chúa; ngay cả những người dùng danh xưng khác biệt để chỉ về Ngài cũng bị coi như chống nghịch, tà đạo, hoặc đáng bị hất hủi, trừng phạt. Theo lối nhìn Cựu Ước, Thiên Chúa rất hay ganh tị và dường như thích thú trừng phạt những kẻ không làm đẹp lòng mình; dẫu họ nhận biết Ngài hay không.

Điều này cũng có nghĩa; không xưng tụng Ngài giống như người Do Thái là đã đi vào con đường sai lầm. Bởi vậy, thời điểm được mệnh danh là ngày phán xét, ngày tận thế, ngày sau hết, ngày của Chúa, ngày Chúa đến, ngày công thẳng, ngày của Yavê... chẳng hạn, "Rú lên đi! Vì ngày của Yavê đã gần" hoặc "Này, ngày của Yavê bạo tàn đi đến" (Is. 13:6,9). Vì thế, ngày Chúa đến thường được hiểu theo nghĩa ngày trừng phạt, ngày đáng sợ hãi hoặc ngày khốn khổ. Bởi đó, người ta đã tạo nên những ý niệm theo luân lý con người rằng, Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Kẻ nào lỡ vô tình hay cố ý vướng mắc phải lầm lỗi luân lý thế nhân sẽ bị trừng phạt muôn đời. Chúng ta đã được dạy dỗ như thế qua bao đời đến nỗi những quan niệm về một Thiên Chúa khắt khe tràn đầy thị dục thấm nhập vào xương tủy ông bà cha mẹ chúng ta, và truyền lại cho chúng ta theo huyết thống Công Giáo. Thế nên, chẳng lạ gì khi chúng ta nghe nhắc nhở tới, hãy tỉnh thức và cầu nguyện, một sự lo âu sợ hãi ám ảnh tâm trí chúng ta. Sự thể này không khác gì tâm trạng của bất cứ ai khi bước lên đoạn đầu đài, giống như Cao Bá Quát diễn tả, "Một nhát gươm đưa bỏ mẹ đời." Thật là đáng sợ!

Phúc Âm trình bày cho chúng ta một Thiên Chúa đối nghịch với Thiên Chúa theo quan niệm Do Thái. Thiên Chúa của Đức Giêsu nhân lành và rộng lượng, "Ngài sai mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác" (Mt: 5:45). Ngài là một Thiên Chúa đầy lòng lân tuất và rất thương xót vì đã sai Con Một của Ngài là Đức Giêsu đến rao giảng tin mừng nước trời để giải thoát mọi người khỏi vòng u mê tối tăm của thị dục nhân sinh. Ngài liều lĩnh vì thương xót đến độ bỏ rơi 99 con chiên nơi đồng hoang để tìm kiếm chỉ một con chiên lạc. Thiên Chúa mà Đức Giêsu rao giảng là Thiên Chúa của mọi người, mọi sự, bất kể sự gì. Ngài là một với Đức Giêsu; Ngài là một và ngự trị, đồng thời hoạt động nơi mỗi người chúng ta. Thiên Chúa của Đức Giêsu không thiên vị, không đứng về phe phái nào dù đàn ông hay đàn bà, dù da trắng hay da vàng, hoặc da đen, nhưng tất cả thuộc về Ngài và ngài hoạt động nơi tất cả. Ngài nhân từ và kiên nhẫn đợi chờ con người nhận biết Ngài như người cha đêm ngày mong đợi những đứa con phung phá biết nhận ra bản thể đích thực của mình, nhận ra vị thế cao trọng của mình.

Qua Phúc Âm, Đức Giêsu chỉ dẫn cho chúng ta những điều kiện của tâm trí để nhận biết tin mừng nước trời đó là hãy suy nghĩ khác thường, hãy dứt bỏ quan niệm cũ, hãy có lối nhìn mới, hãy tẩy não cho sạch sẽ những vết nhơ ám ảnh của thị dục nhân sinh vì kẻ nào còn bám víu vào những quan niệm tiền công đồng Vatican thứ nhất sẽ không thể nào nhận biết được tin mừng. Lời Phúc Âm nhắc nhở, "Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa." Chúng ta cần có lối suy tư mới, cần có những nhận định khác thường vì lời Phúc Âm đã khuyến dụ từ hai ngàn năm qua, "Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải (Metanoia) và tin vào tin mừng" (Mc. 1:15). Như thế, chúng ta không những cần cải thiện lối sống mà điều thiết yếu là cải thiện lề lối suy tư, giũ bỏ tất cả những quan niệm cũ để có lối nhận định mới, nhận định chính xác về Chúa và về chính mình. Đây chính là lý do tại sao Phúc Âm được viết,"Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con cái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta." Bất cứ ai còn vô tình hay cố ý bám víu nơi những quan niệm cũ sẽ không thể nào chấp nhận được Thiên Chúa của Đức Giêsu, sẽ không thể nào nhận thực được Tin Mừng Nước Trời.

Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi mỗi người chúng ta. Ngài chính là quyền lực khiến tim ta đập, khiến phổi ta thở. Ngài là quyền lực sự sống nơi hàng tỉ tế bào cấu tạo nên xác thân mỗi người. Những tế bào này chất chứa quyền lực của Thiên Chúa vì chúng đã có thể thay đổi hoàn toàn cách kết cấu tạo nên con mắt khác lỗ tai hoặc khác chiếc mũi. Đã bao lâu nay chúng ta không để ý nhận ra quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mình mà chỉ coi đó là sự thường tình. Thử hỏi, đâu phải vô lý mà ai cũng có hai con mắt, một cái mũi, v.v... cái nào cũng ở đúng vị trí của chúng nơi mỗi người mặc dầu mỗi người được sinh ra từ những lòng bà mẹ khác nhau. Thế thì những sự thường tình này biểu hiện điều gì? Xin thưa, chúng đang hét nơi tai chúng ta, đập vào mắt chúng ta để chứng tỏ rằng, có một quyền lực tối thượng mà chúng ta gọi là Thiên Chúa đang điều hành, hoạt động nơi chính mình. Nói như vậy hay nói rằng "Thiên Chúa ở cùng chúng ta" đều có nghĩa như nhau.

Tóm lại, lời Phúc Âm nhắc nhở chúng ta hãy tỉnh thức, và nhận định cho rõ ràng, cặn kẽ, Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người. Thời điểm mà bất cứ ai nhận thực được sự bình thường cả thể này nơi mình đó là ngày của Chúa, ngày Chúa đến, ngày Chúa tỏ mình ra cho người đó. Nói theo ngôn từ nhà Phật, đó là thời điểm thức ngộ hay giác ngộ. Những ai đạt tới sự nhận biết này sẽ nhận ra mình là thánh vì Thiên Chúa là Đấng Thánh. Các thánh tử đạo Việt Nam chấp nhận cái chết xác thân để đạt tới sự hoà nhập làm một với Thiên Chúa nơi cõi vô cùng. Hãy tỉnh thức để nhận biết Thiên Chúa hiện diện và hoạt động ngay nơi mình và xin Ngài soi sáng cũng như chúc lành cho mọi người. Amen.

CHỦ NHẬT II B MÙA VỌNG (Mc. 1:1-13)

1 Khởi nguyên Tin Mừng Ðức Yêsu Kitô Con Thiên Chúa.

2 Như đã viết trong (sách) tiên tri Ysaya: Này ta sai thần sứ Ta đi trước mặt ngươi kẻ sẽ dọn đường cho ngươi 3 Tiếng của ngươi hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi. 4Trong sa mạc, Yoan Tẩy Giả xuất hiện rao giảng thanh tẩy hối cải, để được tha thứ tội khiên. 5 Và cả xứ Yuđê và tất cả dân thành Yêrusalem trẩy dấn với ông và nhờ ông thanh tẩy cho trong sông Yordan mà xưng thú tội lỗi.

6 Yoan mình mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thì thắt xiêm bằng da thú vật, và ông nuôi mình bằng châu chấu và mật o­ng dại. 7Ông rao giảng rằng:" Sẽ đến sau tôi, Ðấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Ngài. 8 Phần tôi, tôi đã thanh tẩy các người bằng nước; còn Ngài, Ngài sẽ thanh tẩy các người bằng Thánh Thần"

9 Và xảy ra là trong những ngày ấy, Ðức Yêsu bỏ Nazaret, xứ Galilê, và đã được Yoan thanh tẩy cho trong sông Yorđan. 10Vừa lên khỏi nước, Ngài thấy trời xé ra và Thần khí, như con chim câu, đáp xuống trên Ngài; 11 Và một tiếng phát ra tự trời:"Con là con chí ái Ta, kẻ Ta sủng mộ "

12 Và ngay sau đó, Thần khí xua Ngài vào sa mạc. 13Và Ngài ở trong sa mạc bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, Ngài ở giữa dã thú, và các thiên thần hầu hạ Ngài.

Qua ba bài đọc từ sách tiên tri Isaia, thư Phêrô, và Phúc Âm, chúng ta thấy lời kêu gọi con người chuẩn bị cho một sự việc cả thể rất rõ ràng, "Hãy dọn đường Chúa, hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng... Đây ta sai sứ thần của Ta đến trước mặt ngươi để dọn đường cho ngươi." Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta không thấy bất cứ ai thực hành lời kêu gọi này theo nghĩa từ chương. Sự thể này chứng tỏ những ngôn từ hoặc văn từ của Kinh Thánh cần được hiểu theo nghĩa ám định để nói về hành trình tâm linh, hành trình tâm hồn nơi mỗi người. Qua thư Phêrô, ngày Chúa đến lại được ví như kẻ trộm và là một ngày kinh khủng đến nỗi trái đất cùng mọi công trình kiến tạo đều bị thiêu hủy. Sự diễn tả này quá ư đối nghịch với lời loan báo của tiên tri Isaia, "Người chăn dắt đoàn chiên Người như mục tử. Người ẵm chiên con trên cánh tay, ôm ấp chúng vào lòng, và nhẹ tay dẫn dắt những chiên mẹ." Điều này chứng tỏ đã có những quan niệm khác nhau về thời điểm được gọi là "Ngày của Chúa" hay "Ngày Chúa đến" nếu hiểu lời Kinh Thánh theo lối nhìn được diễn tả qua hình ảnh của sự vật hữu hình.

Đọc Kinh Thánh hay bất cứ kinh sách của các đạo học nào đó, chúng ta nên để ý một điều; đó là tất cả các kinh sách đạo học đều dùng những hình ảnh con người dễ nhận biết để diễn tả phần nào trạng thái tâm linh hoặc những linh ảnh mà người thực hành chiêm nghiệm đạt tới nơi mức độ nào đó. Chẳng hạn đọc nơi Đạo Đức kinh của Lão học, chúng ta thấy câu nói mới thoạt nghe mang đầy vẻ ngớ ngẩn, "Người biết không nói, kẻ nói không biết." Câu nói này nghịch thường ngang ngửa với câu Phúc Âm, "Hãy ở khôn như con rắn và hiền lành như chim câu" hoặc câu khác, "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng làm môn đệ Ta; kẻ yêu con trai con gái hơn ta không đáng là môn đệ Ta," hoặc là, "Ai có tai thì nghe." Để ý suy tư và nghiệm chứng, chúng ta sẽ nhận ra tâm trạng của những nhà chiêm nghiệm. Đó là thực trạng tâm linh họ đạt tới không thể nào giải thích dù bằng ngôn từ hay văn từ bởi "Ngữ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý" nên chỉ còn một cách duy nhất đó là nói về một hình ảnh hay một câu mang ý tứ nghịch thường hy vọng bất cứ ai để ý suy gẫm may ra đạt tới được phần nào nhận thức tâm linh.

Nhận xét như vậy, Lời Chúa qua các bài đọc hôm nay trình bày cho chúng ta trạng thái ở mức độ nào đó nơi tâm hồn của bất cứ ai thực sự nghiệm chứng tin mừng nước trời, thực sự suy gẫm để nhận thức thực thể chính mình sao cho phù hợp với lời Đức Giêsu rao giảng, "Thiên Chúa ở cùng chúng ta," "Nước trời ở giữa các ông, ở trong các ông, ở trên các ông." Đạt tới mức độ nào đó nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh này, con người sẽ nhận thực được rằng chính Thiên Chúa đang dẫn dắt mình từng giây từng phút và mọi sự việc xảy ra nơi cuộc sống đều là những cơ hội cho mình thăng tiến trên đường tiến tới sự thiện hảo, trọn lành. Thế nên, tất cả những ưu tư lo lắng thế tục chỉ là kết quả phát sinh từ sự thiếu nhận thức về tin mừng nước trời. Đồng thời, một khi con người đã nghiệm thực được quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động và dẫn dắt mình thì tất cả những quyền lực được nhận biết qua ngũ quan đều không đáng cho mình để ý đến bởi chính những sự thể đó cũng thuộc về quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi hành trình biến chuyển vô cùng. Và như vậy, cuộc đời của mỗi người chúng ta chính là sự hiện thể của Thiên Chúa giữa các sự hiện thể khác của Ngài nơi vũ trụ. Con người và vũ trụ hữu hình cũng như vô hình là một trong Thiên Chúa mà thôi.

Tóm lại, Lời Chúa hôm nay trình bày về một trạng thái tâm hồn nơi hành trình nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời, nghiệm chứng thực tại Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người. Đồng thời Lời Chúa cũng khuyến khích chúng ta nên để tâm suy nghiệm lời Kinh Thánh, thực hiện lời khuyên nơi Phúc Âm thánh Mátthêu, "Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của người, và các điều khác sẽ được ban thêm cho các ngươi." Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.

CHỦ NHẬT 3B MÙA VỌNG (Gioan. 1:6-8, 19-28)

1:6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 1:7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 1:8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 1:19 Và đây là lời chứng của ông Gio-an, khi người Do-thái từGiê-ru-sa-lem cử một số tư tế và mấy thầy Lê-vi đến hỏi ông: "Ông là ai?" 1:20 Ông tuyên bố thẳng thắn, ông tuyên bố rằng: "Tôi không phải là Đấng Ki-tô." 1:21 Họ lại hỏi ông: "Vậy thì thế nào? Ông có phải là ông Ê-li-a không?" Ông nói: "Không phải." - "Ông có phải là vị ngôn sứ chăng?" Ông đáp: "Không." 1:22 Họ liền nói với ông: "Thế ông là ai, để chúng tôi còn trả lờicho những người đã cử chúng tôi đến? Ông nói gì về chính ông?" 1:23 Ông nói: Tôi là tiếng người hô trong hoang địa: Hãy sửa đường cho thẳng để Đức Chúa đi, như ngôn sứ I-sai-a đã nói. 1:24 Trong nhóm được cử đi, có mấy người thuộc phái Pha-ri-sêu. 1:25 Họ hỏi ông: "Vậy tại sao ông làm phép rửa, nếu ông không phải là Đấng Ki-tô, cũng không phải là ông Ê-li-a hay vị ngôn sứ?" 1:26 Ông Gio-an trả lời: "Tôi đây làm phép rửa trong nước. Nhưng có một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết. 1:27 Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép cho Người." 1:28 Các việc đó đã xảy ra tại Bê-ta-ni-a, bên kia sông Gio-đan, nơi ông Gio-an làm phép rửa.

Sau những lời giới thiệu về Gioan Tẩy Giả, "Ông đến như chứng nhân, để làm chứng về sự sáng," Phúc Âm đặt nơi miệng những vị tư tế và các thầy luật sỹ câu hỏi đơn giản nhất nhưng cũng khó khăn nhất đối với bất cứ ai đã được sinh ra làm người. Câu hỏi đó là "Ông là ai?" Nếu đem áp dụng nơi mỗi người, câu hỏi trở thành, "Ông, bà, anh, chị là ai?" Khi đối diện với chính mình, câu hỏi được đổi thành "Tôi là ai?" Nếu trả lời theo lối bình thường, "Tôi là ông A" hoặc "Tôi là Trần văn A" hay bác sỹ này, kỹ sư kia v.v... Đây chỉ là tên, nghề nghiệp, hay chức vị, tước lộc v.v... Những danh hiệu này không nói lên được con người đích thực là gì; mà có chăng chỉ như một ám hiệu, danh hiệu để chỉ về một thực thể đã bao người qua đi, và cho đến lúc chết họ cũng không thể nào trả lời được bởi suốt cuộc đời, cũng như chúng ta, họ rất ít khinghĩ tới hoặc không dám nghĩ tới. Nói cho đúng, hầu hết mọi người không biết mình là ai; mình thực sự là gì; mình từ đâu tới; được sinh ra để làm gì; và cuối cùng sau khi chết mình sẽ đi về đâu! Tuy nhiên, nếu có ai dại mồm dại miệng dám nói rằng không biết được sinh ra để làm gì và như thế, họ đã bị sinh ra, có cuộc sống thì phải sống... có thể chúng ta vội có ý nghĩ người đó không biết chính họ nói gì. Ngược lại, nếu vô tình, nơi thời điểm khó khăn, khốn khổ cùng cực nào đó chúng ta liều mạng đặt vấn đề hầu có câu trả lời xứng hợp may ra có thêm ý chí phấn đấu nơi cuộc sống thì có lẽ chỉ còn cách chấp nhận mình dại dột vì đã dám đối diện với sự thực không giải đáp nơi chính mình.

Nơi Phúc Âm, Gioan đã trả lời, "Tôi là tiếng kêu trong hoang địa: Hãy sửa cho ngay đường Chúa đi." Tiếng kêu, hay lời la hét, hoặc lời nói thì cũng là một. Đức Giêsu đến rao giảng nên được gọi là Ngôi Lời. Gioan cũng như chúng ta, chính là những tiếng kêu trong hoang địa. Được gọi là hoang địa bởi không có người biết nghe, không có người có tai phù hợp để nghe. Xét như thế, chính Đức Giêsu cũng chỉ là tiếng kêu trong hoang địa, không hơn không kém vì những lời Ngài rao giảng đã không được nhận biết. Tôi nghĩ, có thể đây là lý do tại sao Phúc Âm đặt vào miệng Ngài bẩy lần câu nói nghịch thường "Ai có tai thì nghe." Thử hỏi, ai trong chúng ta không có tai, và dẫu bị nặng tai vì tuổi tác hoặc chẳng may bị điếc thì cũng vẫn là tai thế mà Phúc Âm năm lần bẩy lượt lặp lại "Ai có tai thì nghe." Phỏng có tai mà không nghe được thì cũng giống như không có tai hoặc nghe được nhưng không nghe nào có khác gì. Đàng khác, nếu có tai, nghe được, lại chú ý nghe mà không hiểu được điều mình nghe thì nào được ơn ích chi! Đặt vấn đề như thế và để ý tìm hiểu nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận ra những điều kiện tâm trí một người cần có để có thể nhận biết lời rao giảng của Đức Giêsu, để nhận biết tin mừng nước trời.

Không hiểu vô tình hay cố ý, thôi thì cứ tạm cho là việc Chúa xếp đặt để lời thư thánh Phao Lô nơi bài đọc hai được xếp trùng với bài Phúc Âm hôm nay. Bài đọc này rất rõ ràng và mạnh mẽ giãi bày cũng như khuyến cáo chúng ta điều phải thực hiện để có cặp tai nghe và nhận biết Lời Chúa. Chúng ta hãy nghe thánh Phao Lô lên tiếng, "Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào!" Nói theo giáo lý về bí tích Công Giáo, khi chúng ta được rửa tội, chúng ta được thông phần vương quyền, tư tế, và tiên tri của dân Chúa. Bổn đọc rang rang nhưng hình như chúng ta đọc để đỡ tốn tiền điện mở radio hay TV; vì chúng ta có để ý mình đọc gì đâu! Kinh cũng thế, kinh Lạy Cha thì ai mà không biết, vậy mà vẫn có người đọc "Xin cứ để chúng con sa chước cám dỗ." Kể ra Chúa cũng khá kiên nhẫn; thế nên chẳng bao giờ hết tội. Dẫu tôi mới thử dùng đôi tuần, dành vài giây trước khi lễ thinh lặng xét mình thì đã bị kêu không cho phép đọc kinh cáo mình. Chúng ta đang tự dập tắt thần khí nơi chính mình vì có mà không biết sử dụng. Nếu chúng ta đã có thể sống tới lúc này, nghĩa là đã biết tính toán, chăm lo cho đời sống tất nhiên chúng ta có thừa thần khí, có thừa khả năng để suy nghiệm về Phúc Âm. Vấn đề chỉ là chúng ta có sử dụng khả năng tính toán này để suy luận về Phúc Âm hay không.

Đa số chúng ta dùng câu nói "Lời Chúa ai mà hiểu được," có người coi thường Lời Chúa, không thèm suy niệm, lại còn dám cả gan ngăn ngừa kẻ khác suy tư về Phúc Âm bằng cách cho rằng ai dám suy nghiệm về Phúc Âm là phạm thượng. Tôi đề nghị, nếu ai nghĩ như thế, hãy suy nghĩ câu Phúc Âm, "Khốn cho các ngươi, luật sĩ. Các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Chính các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản." Kể tất cả những chi nhánh hay bè phái của Thiên Chúa Giáo, nơi vấn đề rao giảng và luận chứng Phúc Âm, không ai hơn được thánh Phao Lô, thế mà ngài đã nói, "Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ, bất cứ dưới hình thức nào!" Phỏng ai trong chúng ta có lý lẽ nào cao trọng hơn để nhận biết Tin Mừng Nước Trời mà không cần sử dụng thần khí nơi mình hoặc ơn tiên tri nơi mình.

Nghe lời Phúc Âm mà không chịu suy nghĩ, không để tâm nghiệm xét chính là khinh thị Lời Chúa, coi thường thần khí nơi mình, tự biến mình thành không có tai, và cũng chính là tự khóa đường hiểu biết. Tôi nhắc lại, thánh Phao Lô khuyến dụ mọi người chúng ta nghiệm xét mọi sự. Khi chúng ta nghiệm xét điều gì, việc gì, chúng ta không tin nơi bất cứ ai; chúng ta thử cho tới tận cùng. Nghiệm xét cũng giống như ăn hay uống. Không ai ăn dùm, uống dùm được cho ai thì cũng không ai có thể suy nghiệm Lời Chúa cho bất cứ ai. Những lời giải thích của các cha hay những nhà nghiên cứu kinh thánh chỉ là cho chính họ chứ không thể giúp chúng ta nghiệm được như họ. Cuộc đời này không ai có thể chỉ nghe nói về ăn hay uống mà no bụng hay giảm được cơn khát thì cũng không ai chỉ nghe suông mà được rỗi đâu. Chúa muốn cứu mình mà chính mình không để cho Chúa cứu thì thiên đàng đâu mà lên... điều rõ ràng, chẳng trước thì sau, chết là cái chắc... Khinh thị Lời Chúa, không chịu suy tư lời Phúc Âm, không dám nghiệm xét mọi sự được viết nơi Phúc Âm thì có muốn được cứu, Chúa cũng không thể cứu được. Tôi thật sự tin rằng, Chúa không chê chúng ta dốt, Chúa cũng không coi thường chúng ta vì bất cứ điều kiện nào, nhưng nếu khinh thường Lời Ngài đã phán dạy, chúng ta đã tự lên án chính mình thì phỏng còn gì để cứu.

Tóm lại, Lời Chúa hôm nay thách đố chúng ta tự tìm hiểu chính mình. Muốn biết về mình, chúng ta cần đọc Phúc Âm để nhận biết Tin Mừng Nước Trời. Muốn biết Tin Mừng Nước Trời, chúng ta cần suy tư, cần nghiệm chứng mọi sự, không nên khinh thị thần khí nơi mình, không nên coi thường ơn tiên tri nơi mình nhưng sử dụng một cách tối đa. Chúng ta đã có thể tính toán lo cho cuộc sống, chúng ta có thừa khả năng suy niệm Lời Chúa. Chúng ta là tiếng kêu của lời Chúa giữa sa mạc vì đã quá nhiều người có tai nhưng nghe Lời Chúa mà khinh thị, không để tâm suy tư. Xin Thánh Thần Chúa soi sáng và chúc lành nơi quý ông bà anh chị em nơi hành trình suy nghiệm tin mừng nước trời amen.


CHỦ NHẬT 4B MÙA VỌNG(Lc. 1:25-38)

Khi ấy, thiên thần Gabriel được Chúa sai đến một thành xứ Galilêa, tên là Nadarét, đến với một trinh nữ đã đính hôn với một người tên là Giuse, thuộc chi họ Ðavít, trinh nữ ấy tên là Maria.

Thiên thần vào nhà trinh nữ và chào rằng: "Kính chào trinh nữ đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng trinh nữ". Nghe lời đó, trinh nữ bối rối và tự hỏi lời chào đó có ý nghĩa gì.

Thiên thần liền thưa: "Maria đừng sợ, vì đã được ơn nghĩa với Chúa. Này trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao trọng và được gọi là Con Ðấng Tối Cao. Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngôi báu Ðavít tổ phụ Người. Người sẽ cai trị đời đời trong nhà Giacóp, và triều đại Người sẽ vô tận".

Nhưng Maria thưa với thiên thần: "Việc đó xảy đến thế nào được, vì tôi không biết đến người nam?"

Thiên thần thưa: "Chúa Thánh Thần sẽ đến với trinh nữ và uy quyền Ðấng Tối Cao sẽ bao trùm trinh nữ. Vì thế, Ðấng trinh nữ sinh ra sẽ là Ðấng Thánh và được gọi là Con Thiên Chúa. Và này, Isave chị họ trinh nữ cũng đã thụ thai con trai trong lúc tuổi già và nay đã mang thai được sáu tháng, người mà thiên hạ gọi là son sẻ; vì không có việc gì mà Chúa không làm được".

Maria liền thưa: "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên thần truyền". Và thiên thần cáo biệt trinh nữ.


Bài Phúc Âm vừa được công bố kể về sự việc sứ thần truyền tin nhập thể của Đức Giêsu cho Đức Mẹ. Bài Phúc Âm dùng sự đối đáp giữa sứ thần và Đức Mẹ để nói lên thực thể nhập thể của Đức Giêsu chính do Thiên Chúa an định. Suy niệm rộng hơn, bài Phúc Âm cũng phần nào nói thêm điểm quan trọng đó là Thiên Chúa tôn trọng ý muốn hay ý định hoặc sự chấp thuận của con người về bất cứ sự kiện nào có thể được xảy ra nơi cuộc sống.

Dẫu bài Phúc Âm được viết như thế nhưng sự chấp nhận cho là đúng hay không, hoặc đó là sự kiện thực tế đã xảy ra hay chỉ là câu chuyện ám định, hoặc nên được hiểu theo chiều hướng nào đều tùy thuộc nơi tâm trí người đọc. Đồng thời, sự chấp nhận hoặc hiểu biết của mỗi người lại tùy thuộc nhiều điều kiện hoặc môi trường đã ảnh hưởng cấu tạo nên tâm trí người đó. Xét như thế, câu hỏi được đặt ra, sự nhập thể của Đức Giêsu nơi cung lòng Đức Mẹ mang ý nghĩa gì? Và phương cách nào chúng ta nhận ra thực thể Đức Kitô sống nơi mình?

Khi bàn luận về một vấn đề hay chiêm ngưỡng một sự kiện hoặc tin tưởng nơi quyền lực nào đó, thực tâm nhận định, chúng ta nhận thấy nếu những ý nghĩ, sự kiện không đem lại lợi ích thiết thực hoặc ảnh hưởng nào nơi cuộc sống mình, những sự bàn luận, chiêm ngưỡng hoặc tin tưởng đó có cũng như không. Có thể nói chúng vô ích, chỉ làm mất thời giờ và tốn hơi sức vì ít nhất chúng đã làm phiền đến con người. Chẳng hạn, chúng ta trầm trồ khen ngợi chiếc xe mắc tiền, đẹp, quí giá nhưng không thể dùng nó làm phương tiện di chuyển thì nào được lợi ích chi. Sự thật đã xảy ra đó là có người nơi vùng California mua xe Mercedes hoặc BMW về trùm kín để đó. Lái xe e lên mile, chỉ lâu lâu, dẫu đã được che đậy kỹ càng, vẫn phải đem ra chùi rửa, có lẽ cho mòn bớt lớp sơn đi chăng. Như vậy, lợi đâu không thấy, sang nào chẳng rõ, chỉ thấy phải trả tiền, phải lau chùi, phải e ngại lỡ vô tình đụng phải trầy lớp sơn bên ngoài.

Đọc Phúc Âm hoặc các sách đạo đức hay nghe lời giảng giải, chia sẻ Lời Chúa cũng thế. Điều rõ ràng đó là không ai có thể dạy bất cứ điều gì cho ai nếu người được dạy không muốn hoặc không đủ khả năng hiểu biết để lãnh nhận. Có lẽ vì thế tiền nhân ta có câu, "Dạy người yếu đánh vật." Bất cứ điều gì chúng ta nghe, hay nhìn, hoặc đọc mà có thể hiểu được, tất nhiên chúng ta đã được sinh ra sẵn có điều đó. Những lời giải thích hoặc dạy dỗ, chẳng qua chỉ là phương tiện nhắc nhở để chúng ta nhận ra điều đang tiềm ẩn nơi mình mà chưa nhận biết. Chúng ta đọc Kinh Thánh, hiểu được nghĩa đen, hoặc theo khuynh hướng luân lý v.v... điều này chứng tỏ chúng ta đã được sinh ra với năng lực khôn ngoan nội tại nào đó mà thường thì rất ít khi, hoặc có thể nói, chưa bao giờ nhận biết. Qua sách báo, các nhà chiêm nghiệm để lại được viết rất rõ ràng, mỗi người chúng ta được sinh ra dầu nơi thân phận nhân sinh nhưng chứa sẵn quyền lực tối thượng của Thiên Chúa. Quyền lực này được gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau chẳng hạn, linh hồn, đức tin, thực thể tâm linh, Thiên Chúa nội tại, bản ngã, tâm, pháp thân, hoặc tiểu ngã, v.v...

Suy như vậy, câu chuyện truyền tin nơi Phúc Âm có thể được hiểu ám chỉ về chính sự nhập thể của linh hồn, thực thể tâm linh, nhập thể nơi thân xác mỗi người tự giây phút đầu tiên có sự hiện hữu. Thực thể này là một với Thiên Chúa, là một với Đức Kitô. Nói cách khác, theo sự so sánh, Thiên Chúa được ví như biển cả và chúng ta là những ngọn sóng lớn nhỏ khác nhau. Ngọn sóng là hiện thể phần nào của đại dương thì chúng ta cũng chính là những hiện thể của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình. Phúc Âm nói về thực tại này của con người. Tự nghiệm để nhận ra mình là gì tùy mỗi người chúng ta.

LỄ VỌNG GIÁNG SINH 1997 (Mt. 1:1-25)

1 Gia phả Ðức Chúa Yêsu Kitô, Con Ðavít, con Abraham: 2 Abraham sinh Ysaac, Ysaac sinh Yacob, Yacob sinh Yuda và các anh em ông, 3 Yudda sinh Pharê vào Zara bởi Thamar,

Pharê sinh Esrôm, Esrôm sinh Aram, 4 Aram sinhAmminaddab, Aminaddab sinh Naassôn, Naassôn sinh Salmôn, 5 Salmôn sinh Booz bởi Rahab Booz sinh Yôbedd bởi bà Rut, Yobedd sinh Ysai, 6 Ysai sinh vua Ðavít, Ðavít sinh Salomôn bởi vợ của Urya, 7 Salomôn sinh Roboam, Roboam sinh Abya, Abya sinh Asa, 8 Asa sinh Yôsaphat, Yôsaphat sinh Yôram, Yôram sinh Ôzya, 9Ôzya sinhYôatham, Yôatham sinh Akhaz, Akhaz sinh Êzêkya, 10 Êzêkya sinh Manassê, Manassê sinh Amôn, Amôn sinh Yôsya, 11 Yôsya sinh Yêkhônya và các anh em ông thời lưu đày Babylon, 12 Sau thời lưu đày Babylon, Yêkhônya sinh Salathiel, Salathiel sinh Zorobabel, 13 Zorobabel sinh Abiudd, Abiudd sinh Elyakim, Elyakim sinh Azôr, 14 Azôr sinh Saddôc, Saddôc sinh Akhim, Akhim sinh Eliudd, 15 Eliudd sinh Elêazar, Elêazar sinh Matthan, Matthan sinh Yacob, 16 Yacob sinh Yuse, chồng của Maria, bởi bà thì Ðức Yêsu, gọi là Kitô, đã sinh ra. 17 Tổng cộng các đời lại thì: từ Abraham đến Ðavít có mười bốn đời; từ Ðavít đến thời lưu đày Babylon, có mười bốn đời; từ thời lưu đày Babylon đến đức Kitô, mười bốn đời.

18 Ðức Yêsu Kitô sinh ra thế này: Maria, mẹ Ngài đã đính hôn với Yuse; trước khi ông bà phối hợp cùng nhau, thì xảy ra là bà đã có thai do tự Thánh Thần. 19 Yuse, chồng bà, vì là người công chính và không muốn tố giác bà, thì định âm thầm ly dị. 20 Sau khi ông đã quyết tâm như vậy, thì này: Thiên Thần Chúa hiện ra cho ông trong mộng bảo rằng: "Yuse, con của Ðavít, chớ sợ lấy Maria vợ ông: thai sinh nơi bà là do tự Thánh Thần; 21 bà sẽ sinh con, và ông sẽ đặt tên cho người con là Yêsu, vì chính Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi tội lỗi".

22 Sự đã xảy ra tất cả là để được nên trọn điều Chúa đã phán nhờ vịtiên tri nói rằng: 23 Này, nữ trinh sẽ thụ thai và sinh con và người ta sẽ gọi tên Ngài là Emmanuel, dịch được là Thiên Chúa ở cùng chúng tôi. 24 Tỉnh giấc, Yuse đã làm như Thiên Thần Chúa truyền cho ông, và ông đã rước vợ về nhà; 25 và giữa ông và bà không có việc giao tri vợ chồng, cả đến lúc bà sinh con, và ông đã đặt tên cho là Yêsu.

Trong khi suy nghiệm bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe để soạn giảng, có nhiều vấn đề chẳng hiểu sao chợt đến làm tôi hơi băn khoăn. Theo thứ tự diễn tả nơi bài Phúc Âm, trước hết, một nghi vấn đến với tôi đó là tại sao thánh Giuse biết được Đức Mẹ có bầu trước khi về chung sống với nhau đến nỗi ngài định bỏ đi cách kín đáo? Thứ đến linh mục nào vào thời đó chứng giám bí tích hôn nhân của Đức Mẹ và thánh Giuse hoặc là vì lý do nào đó Phúc Âm bị quên không được viết? Vấn đề thứ ba, cứ như Phúc Âm viết, "Chúa dùng miệng tiên tri phán xưa rằng: Nầy một trinh nữ sẽ thụ thai, hạ sinh một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Câu này được trích trong sách tiên tri Ysaia đoạn 7, câu 14. Tuy nhiên, tại sao con trẻ lại không được đặt tên là Emmanuel mà lại được đặt tên là Giêsu trong khi lời tiên tri nói rõ ràng, "Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta?" Xét như thế, Emmanuel là danh hiệu tiên tri Isaia đã loan báo về Đức Giêsu.

Chúng ta gọi ông Clinton là tổng thống vì ông làm công việc của một nguyên thủ quốc gia. Chúng ta gọi ông nào đó là tỉnh trưởng vì ông ta làm công việc của người chịu trách nhiệm các công việc cho một tỉnh. Chúng ta gọi vị nào là linh mục vì vị đó làm công việc và được đào luyện, truyền chức coi sóc phần thăng tiến tâm linh của giáo dân. Như thế, chúng ta thấy rằng, khi chúng ta gọi ai đó với một danh hiệu nào, thì người đó thực hiện công việc của danh hiệu đó. Xét trở lại bài Phúc Âm với câu, "Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta," chúng ta có thể hiểu được lời tiên tri muốn nói Đức Giêsu được gọi với danh hiệu Emmanuel vì Ngài làm công việc rao giảng Tin Mừng, đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Mọi người thấy rõ, nếu cắt con tim bỏ lên bàn, tất nhiên, nó ngưng đập và người không có tim sẽ chết. Con tim không thể đập tự nó. Như vậy, phải có một quyền lực nào đó giúp con tim của mỗi người liên tục đập nhịp nhàng. Tương tự thế, lá phổi của chúng ta không thể nào thở tự nó mà cần có quyền lực bổ xung. Ai cũng nhận thấy, khi ngủ, chúng ta quên cả thân xác thế mà con tim cứ đập, lá phổi cứ thở. Đàng khác, nếu ai đó có trái tim mạnh khỏe, hai lá phổi tốt lành, nhưng gan ruột, lá lách hư hại hoặc bất lực thì cũng không tiếp tục sống nổi. Bởi vậy, điều rõ ràng, có một quyền lực nào đó nơi mỗi người khiến con tim đập, lá phổi thở, quyền lực này cũng liên kết các bộ phận nơi thân xác tạo thành sự sống mỗi người. Xét kỹ hơn, hàng tỉ tế bào nhỏ li ti tạo thành cơ thể con người; những tế bào này có khả năng tự sinh trưởng, lớn lên, và chết đi mà chúng ta không bao giờ để ý. Cũng chính những tế bào bé nhỏ này có một năng lực lạ kỳ và đó là tự hoàn toàn biến đổi để tạo thành những phần cơ thể khác biệt cấu tạo thành một người. Tự ban đầu, chỉ một vài tế bào nhỏ li ti sinh trưởng, thế mà chúng ta có cặp mắt hoàn toàn khác biệt với cái miệng. Cũng trong một cái miệng, những tế bào này biến đổi tạo thành răng khác biệt với đôi môi. Xét cho cùng lý, có một quyền lực kinh khủng và tuyệt vời nào đó đang hoạt động nơi mỗi người. Tôi tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu. Nói cách khác, quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người. Quyền lực này khiến con tim đập, lá phổi thở, hòa hợp các cơ phận của thân thể, và giúp các tế bào sinh trưởng cũng như thay đổi để cấu tạo thành những cơ phận khác biệt.

Như vậy, Đức Giêsu đến đem Tin Mừng cho nhân loại, và tin mừng đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài đã được loan báo danh hiệu là Emmanuel vì Ngài rao giảng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống, quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người. Nói rõ hơn, chính Chúa ngự trị nơi mỗi người và Ngài đang hoạt động từng giây từng phút. Nếu quí ông bà anh chị em gặp ai đó dám nói rằng họ không tin có Thiên Chúa, không tin có Đấng Toàn Năng, không tin có Đấng tạo thành vũ trụ, xin đừng giải thích hoặc đàm luận lý nọ lẽ kia với họ. Tôi đề nghị, chỉ đơn giản trả lời họ rằng, không cần nhiều, nội chừng ba đến bốn tích tắc của đồng hồ, con tim của họ ngưng đập, họ sẽ nhận ra ngay Thiên Chúa là đấng nào.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Giáng Sinh, kỷ niệm ngày Đức Giêsu chào đời với thân xác con người. Ngài đến để nói cho chúng ta nhận ra Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Từng nhịp đập của con tim, từng hơi thở của lá phổi chính là quyền lực Thiên Chúa đang thực hiện. Như vậy, từng nhịp đập con tim, từng hơi thở của lá phổi chính là những lễ Giáng Sinh liên tục tiếp diễn trong cuộc sống mỗi người. Nói như thế, vấn đề được đặt ra, vậy khi mình phạm tội thì Chúa cũng phạm tội với mình sao? Xin thưa, đúng như thế. Từng lời nói, từng ý nghĩ, từng hành động, từng thái độ nơi mỗi người dù là bất cứ ai đều do chính Chúa đang thực hiện. Con người với Thiên Chúa là một. Cuộc đời thế nhân diễn tiến thế nào, Chúa đang hoạt động cách ấy. Chúng ta đang rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu đem đến bằng từng giây phút của cuộc đời mình. Bởi vậy, ai thực sự nhận ra Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình, xin đừng bắt Chúa phạm tội với mình trong bất cứ chiều hướng, hoàn cảnh, lời nói, việc làm, và những ý nghĩ suy tư. Hiểu như vậy, chúng ta có thể nói, phúc cho những ai không nghe biết Tin Mừng... vì khi đã hiểu Tin Mừng là gì, nói theo thế tục, ôi thật khó sống...

Xin Đức Giêsu kiên nhẫn chịu đựng chúng ta được đến lúc nào, hay lúc ấy amen.

GIÁNG SINH B(Gioan. 1:1-18) Lễ trong ngày.

1:1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 1:2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 1:3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. 1:4 Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 1:5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 1:6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 1:7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 1:8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 1:9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 1:10 Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 1:11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 1:12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 1:13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 1:14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 1:15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: "Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." 1:16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 1:17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 1:18 Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.

Hôm nay chúng ta mừng ngày sinh nhật của Đức Giêsu. Bình thường, khi tham dự những cuộc hội họp hay đình đám, sự hiện diện của chúng ta mang rõ ràng một mục đích nào đó, hoặc là vì mang hơn hay cảm mến, hoặc có chủ đích riêng hay vì sự thể không cho phép vắng mặt với bất cứ lý do nào. Đặt vấn đề như thế, tôi mời gọi mỗi người tự nhận biết ý định hay chủ đích về sự hiện diện của mình lúc này nơi nhà thờ khi mừng lễ giáng sinh.

Nếu nói rằng chúng ta hy sinh thời giờ, tạm gián đoạn các công việc làm ăn sinh sống để tuân theo luật giáo hội buộc thật quả là vô ích vì điều này chỉ nói lên sự e sợ bị phạt do không tuân giữ lề luật. Nếu nói vì thói quen hoặc không tham dự thánh lễ hay không tổ chức ngày giáng sinh sẽ bị những người chung quanh chê cười hay nói nọ kia thì cũng chẳng hơn gì bởi mình đã không dám sống thực với lòng mình mà đương nhiên chấp nhận trở thành nô lệ cho những lời phê bình hay quan điểm của người khác. Điều này chứng tỏ mình đã không biết mình sống để làm gì và chủ đích của cuộc đời mình ra sao... Đại khái, dùng lý luận đạt tới nhận thức và nhận thực nơi lòng mình, chúng ta thấy rằng sự hiện diện của mình khi mừng lễ giáng sinh được đặt trọng tâm nơi Đức Giêsu; Ngài đã nhập thể hơn kém hai ngàn năm qua.

Nhận xét như vậy, câu hỏi khác được đặt ra, đó là tại sao chúng ta mừng lễ sinh nhật Đức Giêsu? Mừng lễ giáng sinh của Ngài mang ý nghĩa gì? Tại sao những ngày sinh nhật của các vị khác đã có quyền cao chức trọng, hoặc được nhiều người tôn sùng chúng ta lại không để ý tới? Chắc chắn, câu trả lời đầu tiên sẽ là vì chúng ta là người Công Giáo, những người đang bước theo đường tâm linh được gọi là hành trình đức tin Ngài đã rao giảng, và những lời rao giảng của Ngài vẫn còn được ghi lại nơi bốn Phúc Âm. Suy đến đây, câu hỏi hóc búa thách đố mỗi người chúng ta; vậy Phúc Âm nói về những vấn đề nào? Mục đích hay nhiệm vụ của Đức Giêsu là gì nơi trần thế?

Phúc Âm thánh Luca đoạn 4 câu 43 được viết, "Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem tin mừng nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì mục đích này mà Ta đã được sai đến.'" Tôi muốn nhắc lại, Phúc Âm cho chúng ta biết, Đức Giêsu được sinh ra với mục đích rao giảng tin mừng nước trời. Nhiệm vụ của Ngài nơi trần thế là công bố tin mừng nước trời. Vậy tin mừng nước trời là gì? Cách nào chúng ta có thể sống tin mừng nước trời?

Theo Phúc Âm, Nước Trời còn được gọi là Nước Thiên Chúa. Thế nên, muốn biết tin mừng nước trời là gì, chúng ta cần nhận biết nước trời hay nước Thiên Chúa như thế nào. Đàng khác, muốn nhận biết Nước Thiên Chúa, chúng ta lại cần phải đặt vấn đề Thiên Chúa là gì, liên hệ với chúng ta ra sao. Xét như vậy, hành trình nhận biết thực thể tin mừng nước trời rõ ràng đi ngược với chiều hướng đặt vấn đề nhận thức.

Mọi người chúng ta không phân biệt sang hèn, giầu nghèo, từ những người thông minh xuất chúng đến những ai chữ nhất bẻ đôi không biết đều có thể nhận thức được đó là mình có một thân xác, có trí khôn để suy nghĩ, tính toán. Có điều, sự kiện rõ ràng ngay trước mắt hoặc ngay nơi chính mình lại bị coi thường nên ít khi chúng ta đặt vấn đề. Thử suy, tại sao chiếc mũi luôn luôn ở giữa mặt của mọi người hoặc không ai có cặp mắt nơi đầu gối hay ở sau lưng. Thêm vào đó, ai cũng có con tim nhịp nhàng đập mà không để ý tại sao hay quyền lực nào làm cho nó đập. Nhận xét xa hơn, sự vật chung quanh nơi cuộc sống, quyền lực vô biên nào đó đang điều hành tạo vật từng giây từng phút. Quyền lực này hiện hữu nơi mọi vật, mọi loài, chúng ta gọi là Thiên Chúa. Đây chính là lý do tại sao chúng ta được dạy Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Nhận thức thâm nghiêm hơn, Phúc Âm thánh Gioan viết, "Ngài có trong thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà được có, mà thế gian đã không biết Ngài" (Gioan 1:10). Điều này có nghĩa Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự. Bất cứ gì có sự hiện hữu đều bởi Thiên Chúa mà ra. Chúa là quyền lực hoạt động mọi chốn, nơi mọi loài, nơi mọi sự hiện hữu, từ ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ đến thân xác, hành động, lời nói, và ngay nơi những sự vật vô tri vô giác như cây cối, cát đá, nước sông, nước biển. Nói chung, Chúa ở khắp mọi nơi thế nên nước Thiên Chúa hay nước trời là chính Ngài. Và như vậy, tin mừng nước trời phải là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta". Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi loài mọi tạo vật; không có sự vật, sự việc nào không có sự hiện diện của quyền lực Thiên Chúa. Có thể nói đây là lý do tại sao Phúc Âm nói đem tin mừng đến cho những người nghèo khó.

Tóm lại, tham dự lễ giáng sinh, chúng ta tuyên dương, tuyên xưng sự hiện hữu của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người. Mừng lễ giáng sinh, chúng ta tỏ lòng biết ơn Đức Giêsu đã công bố cho chúng ta nhận biết ngôi vị cao trọng của con người, của muôn loài. Chính Thiên Chúa, chính quyền lực tối thượng đang ngự trị và điều hành từng ý nghĩ, ước muốn, từng lời nói, hành động, từng nhịp đập con tim, từng lời than oán hay khuyến khích phát ra từ cửa miệng con người. Và như thế, bất cứ ai nhận thực được bản thể đích thực của mình chính là Thiên Chúa đang hoạt động, người đó sử dụng được mọi quyền năng trên trời dưới đất. Điều này Phúc Âm nhắc đi nhắc lại nhưng cũng như nhịp đập con tim nơi mình, chúng ta đã bao lâu nay không để ý. Cũng thế, khi tham dự các nghi thức hoặc bí tích Công Giáo, câu đầu tiên các giáo sĩ tuyên xưng "Chúa ở cùng anh chị em," và chúng ta trả lời "Và ở cùng cha." Đây chính là sự lặp lại tin mừng nước trời Đức Giêsu đã công bố nhưng thường có lẽ ngay cả vị nào soạn sách lễ hoặc các sách nghi thức cũng không để ý mình đã viết xuống điều gì mà coi chừng chỉ cho rằng đó là lời chào cho có vẻ Công Giáo, khác với những lời chào ngoài đời. Bởi vậy, từ nay, chúng ta nên để ý từng lời đối thoại hay cầu nguyện nơi Thánh lễ hoặc những kinh hạt đọc nơi nhà thờ, tại tư gia hay lời cầu nguyện của chính mình. Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình, và như thế, con người và sự vật đều là hiện thể của quyền lực tối thượng nơi thế giới hữu hình. Xin Thánh Thần của Đức Giêsu soi sáng cho mỗi người chúng ta nhận biết tin mừng nước trời nơi chính mình, nhận biết quyền lực Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình từng giây từng phút amen.

LỄ THÁNH GIA B(Lc. 2:22-40)

22 Và khi đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật Môsê, thì Ông bà đem Hài nhi lên Yêrusalem tiến dâng cho Chúa - 23như đã viết trong Luật Chúa là mọi trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh dâng kính Chúa, 24 và chiếu theo điều đã dạy trong luật Chúa - để dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay hai bồ câu tơ.

25 Và này, ở Yêrusalem có một người tên Symêon, một người công chính và mộ đạo, những ngóng đợi niềm an ủi của Israel, và Thánh thần ở trên ông. 26 Ông đã được Thánh thần linh báo là sẽ không phải chết, trước khi thấy được Ðức Kitô của Chúa. 27 Ðược linh cảm ông đến Ðền thờ; và khi cha mẹ bồng Hài nhi Yêsu đến để làm theo điều lệ Luật dạy về Ngài, 28 thì ông đã ẵm lấy Ngài trên tay, mà Chúc tụng Thiên Chúa và nói:

29 "Giờ đây, lạy Chúa, xin thả tôi tớ Người về, chiếu theo lời Người trong bình an, 30 Bởi chưng mắt tôi đã thấy ơn Người cứu độ, 31 Người đã dọn sẵn trước mặt muôn dân,

32 Ánh sáng mạc khải cho dân ngoại, và vinh quang của Israel dân Người".

33 Cha mẹ Ngài kinh ngạc về những điều nói về Ngài. 34Và Symêôn chúc lành cho ông bà, rồi nói cùng Maria mẹ Ngài: "Này! Ngài có mệnh làm cớ cho nhiều người bổ nhào và chỗi dậy trong Israel, và làm dấu gợi lên chống đối, - 35 và hồn bà, mũi gươm sẽ đâm thâu - ngõ hầu ý nghĩa của nhiều tâm hồn phải bày ra".

36 Và có nữ tiên tri Anna, con của Phanuel, thuộc chi tộc Aser. Bà đã cao niên lắm. Mãn thời xử nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, 37 và đã ở góa nay là tám mươi bốn năm. Bà không rời khỏi Ðền thánh, thờ Chúa đêm ngày trong chay kiêng và cầu nguyện. 38 Vào giờ ấy, bà đã đến bên tán tạ Thiên Chúa; và bà đã nói về Ngài cho mọi kẻ ngóng đợi phúc cứu chuộc của Yêrusalem.

39 Khi đã xong mọi sự theo luật Chúa, ông bà trở về Galilê, đến Nazaret, thành của ông bà. 40 Còn Hài nhi thì lớn dần và nên dũng mạnh, tràn đầy khôn ngoan. Và ân sủng của Thiên Chúa đậu trên Ngài.

Bài Phúc Âm vừa được công bố tuyên xưng Đức Giêsu như một thực thể gây nên những kết quả đối nghịch tùy thuộc chiều hướng nhận thức tâm linh của những người tìm kiếm nước Thiên Chúa theo lời Ngài giảng dạy. Câu đó được ghi, "Đây trẻ này được đặt lên khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng là mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ." Đọc nơi bốn Phúc Âm, chúng ta thấy nhiều câu nói nghịch thường được ráp nối nhiều khi khiến chúng ta ngỡ ngàng.

Chẳng hạn Phúc Âm thánh Gioan chép,"Và Đức Giêsu nói: Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy và kẻ tấy được lại hóa ra đui mù" (9:39). Hoặc là nơi Phúc Âm Luca, Ngài nói, "Các ngươi nghĩ: Ta xuất hiện để ban bình an trên mặt đất ư? Không đâu! Ta bảo các ngươi, không gì khác ngoài sự chia rẽ!" (12:51). Phúc Âm Matthêu ghi lại lời khuyên quá ư thâm trầm nhưng không gì nghịch thường hơn, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng lấy chân dày đạp và quay lại cắn xé các ngươi" (7:6) trong khi lời dạy khôn ngoan của Ngài đã được ghi lại những hai ngàn năm. Nhiều khi những lời giảng dạy của Đức Giêsu thật khó cho chúng ta có thể chấp nhận. Chẳng hạn, "Này Ta sai các ngươi như chiên vào giữa sói. Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu" (Mt. 10:16), hay, "Hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước đã, và sự công chính của Người, và các điều khác sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vậy chớ lo đến ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy" (Mt. 6:33-34).

Qua Phúc Âm, Đức Giêsu dạy chúng ta những lề lối và đường hướng hoàn toàn khác biệt nếu không muốn nói là nghịch lại với tất cả những sự suy nghĩ thường tình thế tục. Tất nhiên, thực hành những lời Ngài dạy sẽ trở thành cớ vấp phạm cho nhiều người. Ngược lại, vấn đề được nêu lên, đâu là ý nghĩa cũng như nhận thức nơi những lời Ngài rao giảng, và phương cách nào để chúng ta thực hành trong cuộc sống? Một điều chắc chắn, bất cứ ai đã dám đặt vấn đề làm thế nào để áp dụng sự khôn ngoan nơi Phúc Âm trong cuộc đời đều phải thực thi lời thánh Phao Lô đề nghị nơi thư thứ nhất gửi giáo đoàn Côrintô, "Đừng dập tắt Thần Khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sư,ï điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (5:19-21). Dĩ nhiên, khi nghiệm xét điều gì, chúng ta không để tâm trí lệ thuộc bất cứ vấn đề nào cho dù khôn ngoan hay quí giá đến đâu; vì sự khôn ngoan quí giá đó không thuộc về mình, không phải của mình. Tự chúng ta cần tìm kiếm cho chính mình do đó nơi thư gửi giáo đoàn Côlôsê, thánh Phao Lô dặn dò khá kỹ lưỡng, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô" (2:8). Dĩ nhiên, nếu những ai dám áp dụng lời khuyên của thánh Phao Lô để nghiệm chứng lời Phúc Âm, chẳng sớm thì chầy sẽ bị những người chung quanh cho rằng thế nọ thế kia như một số người thời Đức Giêsu đã cho rằng Ngài bị mất trí (Mc. 3:21).

Đọc Phúc Âm và suy nghĩ, nghiệm chứng những lời nói khôn ngoan được ghi lại chúng ta sẽ nhận ra nhiều điều thật tầm thường nhưng lại là căn bản đánh đổ tất cả những tham vọng thế tục đang hành hạ cuộc đời chính mình. Thế nên, tôi đề nghị quý ông bà anh chị em làm ơn ghi nhớ lời Đức Giêsu đã căn dặn, "Nếu các ngươi thuộc về thế gian, thế gian đã yêu dấu như của riêng nó; nhưng vì cácngươi không thuộc về thế gian, và Ta đã chọn các ngươi từ giữa thế gian bởi vậy mà thế gian ghét các ngươi" (Gioan 15:19). Chúng ta không thể sống lưỡng chừng vì Ngài đã nói rõ nơi Phúc Âm thánh Matthêu, "Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và tham vọng thế tục" (6:24).

Đọc Phúc Âm, cố gắng để ý suy tư tìm hiểu đến tận cùng, thời điểm sẽ tới, và chắc chắn Đức Giêsu sẽ thực hiện lời hứa của Ngài đó là sai Thánh Thần soi sáng cho những ai thực tâm tìm kiếm nước trời.

MẸ THIÊN CHÚA (Lc. 2:16-21) năm ABC

Các mục đồng hối hả ra đi tới Bethlehem và đã gặp Maria và Giuse cùng Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy rồi, họ nói ra cho biết điều họ đã được phán dạy về hài nhi. Và mọi người nghe đều kinh ngạc về các điều mục đồng đã thuật lại cho mình. Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng. Rồi các kẻ mục đồng lui về tôn vinh và ca ngợi Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được nghe và được thấy chiếu theo lời đã phán dạy họ. Mãn tám ngày, đến lúc phải làm phép cắt bì cho hài nhi, thì hài nhi đã được đặt tên là Giêsu, chính tên thiên thần đã gọi Ngài trước khi đầu thai lòng mẹ.

Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa. Giáo Hội Công Giáo Mỹ nhận Đức Maria với danh hiệu này làm quan thày và tôn kính vào ngày đầu năm. Ngôn xưng Mẹ Thiên Chúa là danh hiệu Giáo Hội tôn vinh Đức Maria vì ngài đã cưu mang và sinh ra Đức Giêsu, Thiên Chúa nhập thể làm người.

Bốn Phúc Âm viết về Đức Maria rất ít. Nơi bài Phúc Âm hôm nay chúng ta thấy chỉ có một câu "Còn Maria thì bà giữ kỹ mọi điều ấy và hằng suy đi nghĩ lại trong lòng." Tuy nhiên, nếu chúng ta suy gẫm, nghiệm chứng Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận được đây là phương pháp thực tiễn cho mọi người nơi hành trình đức tin để đạt tới sự nhận thức sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình. Bất cứ sự việc hay sự kiện nào đều thuộc về hành trình biến chuyển của Thiên Chúa thế nên nhận định và suy nghiệm về tất cả những biến cố xảy đến trong cuộc đời dưới sự hướng dẫn của Phúc Âm, chúng ta sẽ được thăng tiến về đức tin.

Áp dụng sự suy nghiệm Phúc Âm nơi cuộc đời, chúng ta thực hiện điều Đức Giêsu đã tuyên dương, "Này là mẹ Ta và anh em Ta, phàm ai làm theo ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời, thì kẻ ấy là anh em và là Mẹ Ta" (Mt. 12:49).

Nơi ngưỡng cửa của năm mới, cũng là những ngày đầu của thế kỷ 21 và nhất là nơi bậc thềm của thiên niên kỷ thứ ba, chúng ta cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta Đức Mẹ, người đã cưu mang Đức Giêsu. Chúng ta cảm tạ Chúa cho một năm qua an bình. Chúng ta cảm tạ Chúa vì năm mới bắt đầu. Chúng ta cảm tạ Chúa vì muôn hồng ân trong cuộc đời, những nỗi khó khăn như những cơ hội thăng tiến tâm linh. Đặc biệt, chúng ta cảm tạ Chúa vì chúng ta được ban cho cơ hội làm người.

Nhân ngày kính Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, mượn lời Phúc Âm, tôi mời gọi mọi người cùng tôi dâng lên ngài lời chào mừng qua kinh Kính Mừng.Kính mừng Maria....

LỄ HIỂN LINH B (Mt. 2:1-12)

1 Ðức Yêsu đã sinh ra tại Bêlem xứ Yuddê, thời vua Hêrôđê, thì này: những đạo sĩ tự phương Ðông đến Yêrusalem 2 nói rằng: "Vua dân Do Thái mới sinh hiện ở đâu? Vì chúng tôi đã thấy ngôi sao của Ngài bên trời Ðông và chúng tôi đến yết bái Ngài." 3 Nghe vậy, vua Hêrôđê hoảng hốt người lên và cả thành Yêsusalem làm một với ông. 4Ông cho triệu tập các thượng tế và ký lục của dân mà hỏi họ cho biết: Ðức Kitô phải sinh ra ở đâu. 5 Họ thưa: "Tại Bêlem xứ Yuddê, vì đã được tiên tri chép thế này:

6 "Và ngươi, Bêlem, đất thuộc Yudda, hẳn ngươi không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Yudda, vì tự ngươi: sẽ xuất hiện vị thủ lĩnh, kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta".

7 Bấy giờ Hêrôđê bí mật cho mời các đạo sĩ mà hỏi kỹ về thời ngôi sao xuất hiện, 8 rồi sai họ đi Bêlem và bảo: "Các ông hãy đi dò hỏi tường tận về Hài nhi; vàkhi đã tìm thấy, thì hãy báo lại cho trẫm, để trẫm cùng đi yết bái Ngài". 9 Nghe nhà vua nói thế, họ ra đi, và này ngôi sao họ đã thấy bên trời Ðông đi trước họ cho đến khi dừng lại trên nơi có Hài nhi. 10 Thấy ngôi sao, họ hớn hở vui mừng quá đỗi. 11 Và vào nhà, họ thấy Hài nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược. 12 Và được mộng báo: đừng trở lại với Hêrôđê, thì họ đã theo đường khác mà về quê.

Suy niệm về bài Phúc Âm vừa được công bố, một câu hỏi khó trả lời đến với tôi đó là tại sao vua Hêrôđê cùng với thần dân của ông nơi miền Giêrrsalem lại cảm thấy bối rối khi được hỏi về nơi vua người Do Thái mới được sinh ra. Hoặc là Hêrôđê e sợ mất quyền lực thế tục hay lo lắng dân chúng sẽ nổi loạn chống đối đế quốc La Mã giành lại quyền tự chủ dân tộc, Phúc Âm không hề nhắc tới. Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy, Đức Giêsu được gọi là vua; điều này chỉ có nghĩa độc nhất đó là Ngài chỉ cho chúng ta phương cách để được cứu rỗi. Tuy nhiên câu hỏi khác được đặt ra đó là phương cách Đức Giêsu chỉ cho chúng ta để được cứu rỗi như thế nào và cứu rỗi khỏi điều gì? Càng suy niệm về Phúc Âm, chúng ta lại càng phải đối chứng với những câu hỏi không thể ngờ. Nếu nói rằng cứu chúng ta khỏi tội lỗi hoặc khỏi hình phạt tội lỗi, mà chúng ta vẫn thường xuyên phạm tội thì sự cứu độ đem lại cho chúng ta giá trị gì bởi chúng ta vẫn còn đang phạm tội tất nhiên chúng ta không chấp nhận sự cứu độ.

Nếu dám liều mạng đặt vấn đề, phỏng nếu nói rằng Chúa đến để chết vì tội lỗi của chúng ta có phải là lối khuyến khích chúng ta tha hồ phạm tội hay không? Vì dẫu sao, Đức Giêsu đã chết, và dù mình phạm tội thêm hay không thì Ngài cũng đã chết... và như vậy, cái chết của Ngài chẳng khác gì một thứ bảo hiểm để chúng ta tha hồ phạm tội. Dĩ nhiên, ai cũng có quyền tự do tư tưởng... ngoại trừ khi con tim họ ngừng đập. Chúng ta tôn trọng sự tự do này nhưng không thể chấp nhận lạm dụng cái chết của Đức Giêsu. Dẫu thế nào, chúng ta dám lãnh nhận tất cả những hậu quả do những việc mình đã tạo ra, vì nếu mất hết mọi sự chúng ta vẫn còn được niềm tự hào bởi đã là người liêm sỉ.

Qua Phúc Âm, Đức Giêsu nói cho chúng ta biết Ngài là đường, là sự thật và là sự sống. Ngài đã cầu nguyện cùng Đức Chúa Cha xin cất chén đắng tử nạn cho Ngài thì sự khổ nạn đối với Ngài cũng chẳng sung sướng gì. Thế nên nói rằng Chúa chết cho mình trong khi cứ sống khơi khơi không cần để ý đặt vấn đề thì không còn sự thờ ơ nào hơn. Điều này chẳng khác gì nói rằng Đức Giêsu ăn mà mình no, hoặc Đức Giêsu uống nước mà mình hết khát, tương tự như thế, Ngài chết cho tội lỗi của mình nên cứ sống chẳng ra gì và miệng hô ầm lên Chúa cứu. Phỏng Chúa muốn cứu mà mình có chấp nhận ơn cứu độ của Chúa hay không? Phỏng nói rằng chúng ta tin vào Ngài có giúp chúng ta sống tử tế hơn không hay chỉ bết bát hơn, coi chừng cách ăn nết ở thua ngay cả những người mình coi thường họ. Tôi thách đố bất cứ ai đang hiện diện nơi nhà thờ dám đặt vấn đề, đó là theo Đức Giêsu, tin vào Ngài, mình đã làm được điều gì mang lợi ích thiết thực cho phần rỗi của mình? Và phần rỗi của mình là gì? Nếu nói rằng để được lên thiên đàng thì thiên đàng là gì? Ở nơi đâu? Lên thiên đàng được lợi ích gì? Liệu thiên đàng có phải chỉ là ước muốn chạy trốn thực tại trần ai này không? Và như vậy, cuộc đời mình đã làm gì để tôn vinh Chúa, để được cứu rỗi? Coi chừng, theo đạo để tự lừa dối mình thì sự ước mơ, hy vọng có được phần rỗi cũng chỉ là sự chạy trốn thực tại tâm hồn mà thôi. Ai không biết Giáo Hội dạy, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, chúng ta thông phần vương quyền, tư tế, và tiên tri của Đức Giêsu. Đã bao giờ chúng ta đặt vấn đề thông phần như thế nào chưa và được lợi ích gì chưa hoặc chúng ta phải đáp ứng ra sao?

Sự việc gì có thể giúp chúng ta theo Đức Giêsu? Điều kiện nào chúng ta cần đạt tới để hiểu được những lời Ngài dạy dỗ nơi Phúc Âm? Tại sao chúng ta tuyên xưng Đức Giêsu là vua. Tại sao Phúc Âm ghi lại ba nhà đạo sĩ phương đông đến thờ lạy và dâng Ngài lễ vật... Đức Giêsu chỉ con đường cứu độ cho chúng ta theo và con đường này chính là Phúc Âm. Ai muốn theo Ngài phải suy niệm, phải nghiền ngẫm, nghiệm chứng Phúc Âm. Sách vở hay những lời giảng dạy của Giáo Hội hoặc của bất cứ đấng bậc khôn ngoan nào cũng chỉ là phương tiện khuyến khích chúng ta nghiệm chứng Phúc Âm. Đã theo Đức Giêsu mà coi thường Phúc Âm thì những sự khôn ngoan thế tục, những sách vở, những sự giảng dạy đều không thể đem lợi ích gì cho phần rỗi. Lời Chúa đã bị coi khinh thì cầu phúc lộc đến mấy chăng nữa cũng chỉ là tai họa, cũng chỉ là những chướng ngại bịt kín ơn cứu độ Đức Giêsu đã đem đến cho chúng ta hơn kém hai ngàn năm trước. Chúng ta chỉ có độc nhất một vị thày dạy dỗ, một vị vua dẫn dắt là chính Đức Giêsu. Ơn cứu độ của Ngài trực tiếp đến với những ai suy ngắm lời dạy của Ngài, và không ai có thể thay thế được vai trò này của Ngài. Xin Thánh Thần của Đức Giêsu soi sáng cho những ai suy niệm lời Ngài. Amen.

CHÚA GIÊ SU CHỊU PHÉP RỬA (Mk. 1:7-11)

6 Yoan mình mặc áo lông lạc đà và ngang lưng thì thắt xiêm bằng da thú vật, và ông nuôi mình bằng châu chấu và mật o­ng dại. 7Ông rao giảng rằng:" Sẽ đến sau tôi, Ðấng quyền thế hơn tôi, tôi không đáng cúi xuống mà cởi quai dép Ngài. 8 Phần tôi, tôi đã thanh tẩy các người bằng nước; còn Ngài, Ngài sẽ thanh tẩy các người bằng Thánh Thần"

9 Và xảy ra là trong những ngày ấy, Ðức Yêsu bỏ Nazaret, xứ Galilê, và đã được Yoan thanh tẩy cho trong sông Yorđan. 10Vừa lên khỏi nước, Ngài thấy trời xé ra và Thần khí, như con chim câu, đáp xuống trên Ngài; 11 Và một tiếng phát ra tự trời:"Con là con chí ái Ta, kẻ Ta sủng mộ "

Bài Phúc Âm được chọn đểmừng lễ Đức Giêsu chịu phép rửa. Giáo lý Công Giáo dạy chúng ta rằng bí tích rửa tội tha tội tổ tông. Khi còn nhỏ chúng ta được dạy, tội tổ tông là tội ông Adong và bà Evà đã không vâng lời Đức Chúa Trời răn mà truyền tội ấy cho thiên hạ. Lẽ đương nhiên, nói về tội tổ tông thì tôi cũng như quí ông bà anh chị em không ai trong chúng ta được chứng kiến hoặc biết thêm chút gì. Tất cả những điều chúng ta được dạy về tội tổ tông, nói cho đúng, chỉ lặp lại đôi câu được viết nơi sách Sáng Thế Ký mà thôi.

Xét về tội tổ tông, bất cứ ai có chút suy nghĩ tất nhiên sẽ đặt đôi vấn đề. Giả sử, nếu Chúa không dựng nên bà Evà thì lấy ai ăn trái cấm để truyền tội cho chúng ta? Và cũng giả sử, nếu Chúa không dựng nên cây trái cấm thì bà Evà sao có thể ăn trái của nó? Thêm vào đó, cũng giả sử vì Chúa quên rào cây trái cấm nên bà Evà mới có cơ hội đưa tay hái trái thì lầm lỗi này phát sinh từ đâu ra? Nếu suy luận theo nghĩa từ chương, vậy tội tổ tông được phát sinh tại vì Chúa quên không rào cây trái cấm hay tại đã dựng nên cây trái cấm hoặc đã tạo dựng bà Evà hay do cả ba sự lầm lẫn cả thể như thế nơi thời điểm tạo thiên lập địa? Suy nghĩ thêm chút nữa, giả sử vợ hay chồng hoặc bố mẹ của chúng ta lỡ vô tình mắc phải việc gì bị tù tội, ai trong chúng ta có thể đi tù thay?

Chúng ta đã quá quen với lối suy tư, tội ai người ấy mang, phúc ai người ấy hưởng, và kinh nghiệm sống cho chúng ta biết, ai ăn người ấy no, kẻ nào uống sẽ tự đỡ khát vì nơi cuộc sống con người, có rất nhiều chuyện không ai có thể làm dùm cho ai. Thế nên tội tổ tông vẫn còn là vấn đề khá lớn mà chỉ những ai để ý suy tư nghiệm chứng mới có thể tự giải quyết được bởi không ai có thể suy tư dùm cho ai. Nhiều nhà thần học, luân lý học, xã hội học, tâm lý học, di truyền học, v.v... đã đưa ra những lý thuyết giải thích khác nhau tựu trung ai cũng cố thử minh chứng để tìm cho ra nguyên nhân phát sinh của tội từ thuở ban đầu.

Cũng như mọi người, chúng ta thường cho rằng tội lỗi do bởi tính xấu hoặc phát sinh bởi con người xấu đã làm những chuyện chẳng ra gì... thế nên những chuyện được gọi là không may xảy đến chúng ta thường nói là Chúa phạt; bởi vậy không lạ gì đã có những lời ca thán cuộc đời này là lò trui luyện kiếp nhân sinh. Thực tế minh chứng, có những người sống thật tốt lành, không phải chỉ phiếm diện bên ngoài nhưng họ rất thực tâm, thế mà cuộc sống vẫn khổ cực, nhiều khi tai bay vạ gió ào ạt xảy đến. Bởi vậy đã có những cuốn sách đặt vấn đề về việc những sự khốn khó xảy tới cho người tốt lành, tại sao những chuyện đau khổ xảy đến với họ. Điển hình là truyện ông Job nơi Kinh Thánh. Đa số người ta cho rằng tội phát sinh từ sự tự do của con người. Tôi thử đặt vấn đề, nếu khi con tim của mình ngưng đập thì mình còn phạm tội được nữa không? Phỏng ai có thể nhân danh tự do hoặc dùng quyền lực của tự do để ra lệnh cho con tim họ chỉ đập thêm một lần sau khi họ đã chết!

Khi suy nghiệm về bài Phúc Âm vừa được công bố, tôi tự hỏi Đức Giêsu có mắc tội tổ tông không mà sao phải chịu phép rửa? Tại sao nơi bốn Phúc Âm không thấy ghi lại Đức Giêsu rửa tội cho bất cứ ai, ngay cả thánh Giuse; ai đọc Phúc Âm sẽ nhận thấy điều này. Đức Giêsu chịu thai bởi phép Đức Chúa Thánh thần thì sao có thể mắc tội tổ tông; mà đã không mắc tội tổ tông đâu cần chịu phép rửa nếu nói theo giáo lý Công Giáo. Như quí ông bà anh chị em đôi khi được nghe giảng giải về việc Đức Giêsu chịu phép rửa để làm gương cho chúng ta, hoặc nói theo một số lời nguyện, khi Đức Giêsu chịu phép rửa Ngài thánh hóa tất cả các nước sông nước biển. Đây chỉ là những ý kiến được viết hoặc nói thành lời của một số người chứ không phải lời Phúc Âm. Xin quý vị nhớ rõ điều này. Cũng như tôi đang chia sẻ suy tư và nhận định của tôi về bài Phúc Âm với mục đích khích lệ hay khuyến khích quý ông bà anh chị em đọc và suy tư về Phúc Âm mà thôi. Điều rõ ràng, tôi không thể giúp gì được cho quý ông bà anh chị em vì chính Thiên Chúa, chính Thánh Thần Thiên Chúa đang làm việc nơi quý ông bà anh chị em. Vấn đề chỉ là quý ông bà anh chị em có chấp nhận để Chúa làm việc nơi mình hay không. Nói cách khác, chúng ta có sử dụng trí suy nghĩ của mình, sử dụng hồng ân đã được ban cho để đặt tâm điểm nơi Phúc Âm hay không. Đã nhiều người nói với tôi, họ không hiểu gì, không biết suy luận thế nào về Phúc Âm. Tôi chỉ có thể trả lời, hãy đặt những câu hỏi khi thấy Phúc Âm được viết không hợp lý, không hợp tình và tìm câu trả lời sao cho hợp lý hợp tình, một lần chưa được, cứ cố suy luận cho đến khi nào có câu trả lời thuận và có thể áp dụng trong nhiều trường hợp thì đó là suy nghiệm Phúc Âm.

Xét về việc Đức Giêsu chịu phép rửa, chúng ta nhận thực rõ hơn đó là phép rửa do chính thánh Gioan Tiền Hô đề xướng chứ không phải Đức Giêsu thiết lập và phép rửa này thuở ban đầu cũng không phải là phép rửa tội của Giáo Hội Công Giáo vì lúc đó chưa có tổ chức nào được gọi là Công Giáo. Phép rửa do thánh Gioan Tiền Hô thực hiện và Đức Giêsu chịu rửa là nghi thức xám hối những lỗi lầm, nói lên sự chuyển hướng tâm hồn, mở rộng tâm hồn để chấp nhận tin mừng mà Đức Giêsu rao giảng sau này. Thế nên, Đức Giêsu chịu phép rửa có mục đích riêng của Ngài, chỉ Ngài biết, Phúc Âm không nói lý do tại sao Đức Giêsu chịu phép rửa mà chỉ chép Đức Giêsu trả lời, "Bây giờ cứ thế đã, vì đương nhiên là chúng ta phải làm trọn như thế hết nghĩa công chính" khi Gioan nói rằng chính ông ta cần được Đức Giêsu rửa cho mà thôi. Và Phúc Âm được viết thêm, "Bấy giờ Gioan mới để mặc Ngài."

Tóm lại, Đức Giêsu chịu phép rửa không phải để được tha tội tổ tông. Phúc Âm không viết về việc Ngài rửa tội cho ai trong suốt cuộc đời của Ngài nơi trần thế. Phúc Âm chỉ ghi lại thánh Gioan nói rằng Đức Giêsu "sẽ rửa anh em trong Thánh Thần" như chúng ta vừa được nghe nơi bài Phúc Âm. Điều chúng ta nên để ý đó là chính thánh Gioan Tiền Hô phát khởi phép rửa như một dấu hiệu tỏ lòng thành, thay đổi lối suy tư cũ để đón nhận tin mừng nước trời do Đức Giêsu rao giảng. Đây là lý do tại sao chúng ta gọi ngài là Gioan tiền hô. Như vậy, muốn nhận biết, muốn cảm nghiệm được rửa trong Thánh Thần sẽ như thế nào, chúng ta cần suy nghiệm Phúc Âm vì chỉ những ai suy nghiệm Phúc Âm mới nhận ra được sự rửa trong Thánh Thần của Đức Giêsu. Amen.

Tết St. John 2003 (Mc. 4:26-34)

Bài trích Phúc âm theo thánh Marcô

Khi ấy Chúa Giêsu phán cùng dân chúng rằng: Nước Thiên Chúa giống như người kia đã gieo hạt xuống đất; người đó ngủ hay thức, đêm hay ngày, hạt giống cứ đâm mầm và mọc lên thế nào người đó cũng không hay biết nữa. Đất tự nó làm cây lúa mọc lên: trước hết thành cây, rồi đâm bông, rồi kết hạt, và khi lúa chín, người ấy liền gặt vì đã đến mùa.

Người còn phán: Chúng ta sẽ lấy gì mà hình dung Nước Thiên Chúa? Hay dùng ngụ ngôn nào mà so sánh nước đó được? Nước đó giống như hạt cải, khi gieo xuống đất thì nhỏ bé nhất trong tất cả các hạt trên mặtđất. Nhưng khi gieo rồi, nó mọc lên thành cây rau lớn nhất, và đâm những cành to đến nỗi chim trời có thể tới núp bóng được. Người dùng nhiều dụ ngôn như thế mà rao giảng lời Chúa cho họ, tùy sức họ có thể hiểu đươc và Người chỉ nói với họ bằng dụ ngôn, nhưng khi ở riêng với các môn đệ, Người giải thích tất cả cho các ông.

Quý ông bà anh chị em trong Đức Kitô

Mùng 2 tháng 9 năm 1992 tôi được sai về xứ St. John để rồi ngày 01 tháng 11 cùng năm ấy tôi lại được chỉ định làm việc nơi nhà thờ St. An Phong Sô ở Ocean Springs. 10 năm qua đi như một sự chẳng ngờ, nay được phép cha sở tại, có dịp trở lại cùng quý ông bà anh chị em dâng thánh lễ cảm tạ Chúa cho những năm cũ đã được bình yên và đồng thời xin Ngài chúc lành cho chúng ta trong năm mới đang gần kề tiến tới.

Trong niềm vui gặp gỡ hầu hết những người của 10 năm qua, dĩ vãng chợt trở về khiến tôi tưởng như mình đang ở trong mộng. Những em bé gái ngày xưa thường cùng nhau đi lễ vào những buổi chiều, có lần quét lá cây nơi sân nhà xứ nên vô nhà thờ trễ đã bị tôi hiểu lầm, nay đã có người con bồng, con mang. Luật trời diễn biến khiến con người phải thay đổi dù muốn hay không, thế nên một vài khuôn mặt thường hay hiện diện năm xưa giờ đây vắng bóng. Ngày ấy quý vị thấy rõ, tôi được sai đến với mái tóc xanh mà nay đầu bạc trắng. Nói cho đúng, năm tháng qua đi chẳng đợi chờ một ai, ngược lại 10 năm tình cũ tưởng đã trôi theo đà dĩ vãng nhưng khi gặp lại mới thấy những ước mộng ngày nao vẫn còn nặng nề vết tích. Thực tại cuộc sống quả lắm nẻo chông gai, có những bài học ước mơ năm xưa đang trở thành nỗi khổ ải hôm nay; và nhiều trường hợp khiến lòng người mê say đã là cội nguồn tạo niềm chua cay chẳng ngờ.

Nhiều khi tôi tự hỏi, là con dân máu đỏ da vàng, mình có thể làm gì cho dân tộc hay ít nhất có thể thực hiện điều chi đối với những người đồng hương lưu lạc nơi đất khách quê người. Quý vị đều biết, thân phận của tôi giữa giòng đời chẳng khác gì một loại thiên lôi, chỉ đâu đánh đó. Nói cách khác, tôi là một thứ lính đánh thuê chứ không phải được truyền chức cho vinh thân phì gia hay mưu đồ theo ý thích. Tôi cũng như quý vị, chúng ta đều là những con dân tha hương. Tuy nhiên, Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta đừng nản chí vì bài học nào cũng có giá phải trả, và thắng lợi chi đều bao gồm những tổn thất nặng nề. Chúng ta là những hạt giống phải chết đi cho cây cối vươn lên trổ sinh hoa trái. Chúng ta là những hạt giống đau khổ, là nạn nhân của những sự lừa đảo thế tục. Chúng ta giống như những con chiên béo bổ bị dùng làm của lễ hiến tế nhưng đừng vì thế mà buông xuôi, hãy vững tin vì chính Ngài đang thực hiện công việc của Ngài qua chúng ta.

Nơi thư gửi tín hữu Do Thái, thân phận của chúng ta được vạch rõ, “Anh em hãy nhớ lại những ngày trước, anh em đã đương đầu với bao nhiêu trận đau khổ. Khi thì anh em bị công khai sỉ nhục và hoạn nạn, khi thì anh em phải liên đới với kẻ chịu những đối xử như thế.” Vì đâu chúng ta cúi đầu chấp nhận những đau khổ này? Xin thưa, cũng chỉ vì chúng ta tin nơi Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, tin vào Tin Mừng Nước Trời do chính Đức Giêsu đã đến rao giảng cho mọi người. Bài phúc âm nêu lên hình ảnh ám định về sự triển nở của Nước Thiên Chúa qua sự thể tự nhiên của hạt giống phát triển dẫu con người để ý nhận biết hay không.

Chúng ta đều biết rõ, mục đích cuộc đời của Đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa hay còn được gọi là Nước Trời. Chúng ta cũng đã được dạy dỗ hoặc tự nhận biết rõ ràng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Ngài là quyền lực sự sống đang hoạt động ở mọi loài mọi vật, hữu hình cũng như vô hình. Ngài là quyền lực khiến con tim chúng ta đập, lá phổi thở dẫu khi ngủ chúng ta không biết mình thế nào. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, không đâu không có sự hiện diện và hoạt động của Ngài, thế nên Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Tôi muốn nhắc lại, Nước Thiên Chúa hay Nước Trời là chính Thiên Chúa. Bởi thế chúng ta hiểu được tại sao Đức Giêsu nói Nước Thiên Chúa ở giữa các ông, Nước Trời ở trong các ông, và Nước Trời ở trên các ông. Điều này có nghĩa, Thiên Chúa ở giữa các ông, Thiên Chúa ở trong các ông, và Thiên Chúa ở trên các ông. Như vậy, Tin Mừng Nước Trời Đức Giêsu rao giảng cho chúng ta rất đơn giản và đó là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Tin mừng này chúng ta được nghe đến độ nhàm tai nên không để ý. Mỗi khi tham dự thánh lễ hay các nghi thức bí tích, chúng ta đều được linh mục nhắc nhở, “Chúa ở cùng anh chị em” và chúng ta thưa lại, “Và ở cùng cha.” Phỏng những ai trong chúng ta đã bao giờ để tâm nghiệm chứng thực thể Tin Mừng Nước Trời nơi cuộc đời.

Tóm lại, nhân ngày mừng lễ tạ ơn về những hồng ân Chúa ban cho chúng ta trong những năm cũ và đón chào năm mới, tôi chân thành nhắc nhở quý ông bà anh chị em để tâm suy nghiệm Tin Mừng Nước Trời. Đây là hành trình đức tin; đây là thực thể huyền nhiệm nơi mỗi người mà chúng ta ít khi để ý. Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mỗi người từng giây từng phút. Có thể nói, mỗi người trong chúng ta đều là sự hiện thể của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình dưới hình thức con người. Suy nghiệm để nhận thực được Tin Mừng Đức Giêsu công bố hay không đều tùy thuộc mỗi người. Xin Đức Giêsu sai Thánh Thần của Ngài soi sáng và mở rộng tâm hồn mỗi người hầu sống xứng đáng với vinh dự làm người trong hành trình đức tin, hành trình nhận biết chính Thiên Chúa đang hiện thể nơi mình. Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà anh chị em trong năm mới. Amen.

THÁNH LỄ ĐẦU NĂM (Mc. 6: 30-34)

30 Các tông đồ tụ hợp lại bên Ðức Yêsu, và tin lại cho Ngài tất cả những gì họ đã làm và đã dạy. 31 Ngài mới bảo họ: "Cả các ngươi nữa cũng hãy đi riêng ra, vào chỗ nào hiu quạnh, mà nghỉ ngơi đôi chút". Vì người ta lui tới nhiều, và họ không rảnh được mà ăn nữa. 32 Vậy nên họ lên đò ra đi đến một chỗ hiu quạnh, biệt riêng ra. 33 Thấy họ ra đi, thì nhiều người đã biết và từ hết các thành, người ta rảo bộ mà đổ dồn đến nơi ấy, và đã đến trước họ. 34 Vừa ra, Ngài đã thấy dân chúng đông đảo, và Ngài chạnh lòng thương xót họ vì họ như cừu chiên không có người chăn giữ, và Ngài lên tiếng giảng dạy cho họ nhiều điều.

Chúng ta hiện diện nơi nhà thờ lúc này hợp một lòng một ý cùng dâng thánh lễ cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta một năm qua an bình để giờ đây chúng ta đang ở những giây phút đầu tiên của một năm mới. Vì thế, chúng ta tụ họp nơi nhà Chúa, dùng thời giờ đặc biệt này nâng tâm hồn lên hòa nhập cùng muôn thần thánh chúc tụng Chúa Tể Càn Khôn với tất cả sự hiện hữu của mình. Nơi tâm tình chia sẻ Lời Chúa, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em, chúng ta thử đặt lại đôi vấn đề cuộc sống hầu có được nhận định rõ ràng hơn về hồng ân được sinh ra làm người và những giá trị của những sinh hoạt nơi cuộc đời mỗi người.

Nhận xét một cách tổng quát về cuộc đời mỗi người, biết bao công sức đã được sử dụng đắc lực cũng như biết bao điều chẳng nên chúng ta đã trải qua dù vô tình hay hữu ý, và chính những kinh nghiệm cuộc sống nơi quá khứ, phần nào đó tạo thành mỗi con người của ngày hôm nay. Những công sức này dù dưới bất cứ hình thức và trạng thái nào, hoặc người khác nhận biết hay không, những ai trong chúng ta đã để tâm và nhiệt tình thực hiện hay không, tự mỗi người nhận thấy rõ ràng nơi lòng mình. Thế nên, dẫu không ai hay biết thì ít nhất mình biết và Chúa biết. Cho dù hăng say, nhiệt thành đến độ dám hy sinh, dùng cuộc đời như một hồng ân thăng tiến chính mình, nhận ra thực thể Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình và đồng thời quảng đại giúp người khác thăng tiến, hoặc ngược lại, sống ích kỷ, tưởng rằng cuộc đời này đã được sinh ra thì phải sống và sống cho qua đến độ không dám nghĩ đến sự chết, tất cả chúng ta, đến thời điểm nào đó, lương tâm mỗi người sẽ là quan tòa khắc nghiệt nhất dẫn dắt và bắt ép mình phải sống sao cho đúng ơn gọi làm người.

Chúng ta đều biết rõ, lửa nóng tự nó chứ không phải tại bất cứ lý do nào mà nó bị nóng hay phải nóng. Tâm hồn tốt lành sẽ hướng dẫn lời nói thái độ chân thành. Bởi vậy, thái độ, lối sống của chúng ta là bằng chứng đích thực bày tỏ tâm hồn của mình. Đem nhận định này áp dụng vào lời dạy của thánh Phaolô nơi thư thứ nhất Côrintô, "Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần" thì lối sống, thái độ chúng ta đang quảng bá Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ như thế nào qua cuộc đời của mình.

Nếu tôi không lầm, chúng ta đã nghe qua quá nhiều nên đã quá quen với câu Kinh Thánh nơi bài đọc thứ nhất diễn tả lời Chúa phán với vua Salômôn, "Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, thì đây Ta ban cho người điều ngươi xin, và ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống như ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi." Nhiều lần đọc những lời này khiến tôi đặt vấn đề so sánh những lời khôn ngoan được cho rằng của vua Salômôn và lời Phúc Âm. Tôi thử nêu lên một trường hợp. Chẳng hạn ba câu nơi sách Cách Ngôn thường được cho rằng do vua Salômôn viết, đại ý nói về cách cư xử với những người không chịu hiểu biết. Câu thứ nhất nơi đoạn 23, câu 9, "Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, bởi nó sẽ khinh dể nét tinh tế của lời con nói." Câu thứ hai nơi đoạn 26, câu 4, "Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng nên giống nó." Câu số ba, nơi câu 11 của đoạn 26, "Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó." Chúng ta thấy, nếu đem cả ba câu này gom lại cũng không thể nào so sánh với câu Phúc Âm Matthêu, đoạn 7, câu 6, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi." Tôi nhận thấy, chúng ta đã bao nhiêu lần nghe, đọc Kinh Thánh nhưng không dám suy tư bởi e rằng phạm thượng nên đã vô tình để lỡ ngày giờ có được cơ hội sống nơi dương gian trong thân phận con người, không dám sử dụng khả năng suy tư sẵn có để thăng tiến trên đường tâm linh.

Bài Phúc Âm hôm nay đặt nơi miệng Đức Giêsu lời khuyên cho các tông đồ mà cũng là lời khuyên cho mọi người chúng ta, "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút." Nơi vắng vẻ chính là sự suy tư ở tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần nghiệm chứng lời Phúc Âm nơi cuộc đời, suy tư thế nào để biến lời Chúa thành chính thái độ sống của mình.

Năm cũ đã qua, năm mới đến với những giây phút đầu tiên... Chúng ta không thể sửa đổi quá khứ. Chúng ta chỉ có thể sống cho lúc này và chuẩn bị đối diện với tương lai bởi những gì đã rơi vào quá khứ tất nhiên đã chết, không còn gì đáng tha thiết. Không phải những lề luật hoặc hình thức bên ngoài có thể biến chúng ta thành thánh thiện hay tốt lành mà chính là tâm hồn rộng mở nhận định giá trị hồng ân làm người mới là bước khởi đầu dẫn dắt chúng ta trên đường thiện hảo. Chúng ta được ban cho cuộc đời, ai cũng có hồng ân, có khả năng suy tư. Tất nhiên, dẫu cuộc hành trình vạn dặm thì cũng cần được bắt đầu bằng một bước chân. Bước vào năm mới, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em dứt khoát giã từ quá khứ để suy tư, suy nghiệm, kiến tạo một tâm hồn mới rộng mở cho hành trình tâm linh sắp tới. Xin Thiên Chúa ban cho mọi người một mùa xuân an lành và một năm đầy thắng lợi hồn xác. Amen.

CHỦ NHẬT 2 B (Gioan. 1:35-42) T.N.

1:35 Hôm sau, ông Gio-an lại đang đứng với hai người trong nhóm môn đệ của ông. 1:36 Thấy Đức Giê-su đi ngang qua, ông lên tiếng nói: "Đây là Chiên Thiên Chúa." 1:37 Hai môn đệ nghe ông nói, liền đi theo Đức Giê-su. 1:38 Đức Giê-su quay lại, thấy các ông đi theo mình, thì hỏi: "Các anh tìm gì thế?" Họ đáp: "Thưa Ráp-bi (nghĩa là thưa Thầy), Thầy ở đâu?" 1:39 Người bảo họ: "Đến mà xem." Họ đã đến xem chỗ Người ở, và ở lại với Người ngày hôm ấy. Lúc đó vào khoảng giờ thứ mười. 1:40 Ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, là một trong hai người đã nghe ông Gio-an nói và đi theo Đức Giê-su. 1:41 Trước hết, ông gặp em mình là ông Si-mon và nói: "Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a" (nghĩa là Đấng Ki-tô). 1:42 Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn ông Si-mon và nói: "Anh là Si-mon, con ông Gio-an, anh sẽ được gọi là Kê-pha" (tức là Phê-rô).

1:40 Ông An-rÊ, anh Ông Si-mon PhÊ-roâ, laø moät trong hai ngöôøi ñaõ nghe Ông Gio-an noùi vaø ñi theo Ñöùc GiÊ-su. 1:41 Tröôùc heát, Ông gaëp em mình laø Ông Si-mon vaø noùi: "Chuùng toâi ñaõ gaëp ÑẤng MÊ-si-a" (nghóa laø ÑẤng Ki-toâ). 1:42 Roài Ông daãn em mình ñeán gaëp Ñöùc GiÊ-su. Ñöùc GiÊ-su nhìn Ông Si-mon vaø noùi: "Anh laø Si-mon, con Ông Gio-an, anh seõ ñöôïc goïi laø KÊ-pha" (töùc laø PhÊ-roâ).

Nếu dùng đôi phút tưởng nhớ lại quãng đời quá khứ, mỗi người chúng ta đều nhận ra rằng những thay đổi dù muốn hay không đã xảy ra dường như được sắp xếp để kiến tạo nên con người của chúng ta hôm nay. Đã biết bao nhiêu dự tính, mới đầu tưởng sẽ đem lại kết quả như chúng ta mong chờ, trái lại, công chuyện xảy ra đã đưa đến cho chúng ta những việc không ngờ nhất là nơi những biến cố lớn lao trong đời. Chẳng hạn sự việc chúng ta đang hiện diện trên đất nước này. Có những người thấy rằng mình đã được may mắn, cũng có những người khi phải đương đầu với thực tại khác hẳn những điều mình mơ ước lại thấy mình đã sai lầm, đã có những quyết định và cố gắng chẳng nên để giờ này xảy ra hậu quả đáng ăn năn.

Phỏng khi nhìn lại quá khứ, những sự việc đã xảy ra trong cuộc đời, chúng ta đã nhận thức được gì? Chúng ta có nhìn thấy ý Chúa muốn gì trong cuộc đời của mình không? Thời gian quá khứ có nói lên cho chúng ta biết từ nay mình nên sống thế nào chăng? Riêng tôi, mỗi lần chấp nhận bước xuống ghe vượt biên là một lần chấp nhận hoặc là chết trên biển cả, hoặc là có được sự tự do để theo đuổi con đường mình mơ ước. Thế nên, cuộc sống tôi có được hiện giờ là chuỗi ngày hồng ân bởi nếu giả sử tôi đã chết trên biển, cuộc đời tôi đã chấm dứt từ lâu. Từ đó những câu hỏi được đặt ra, Chúa muốn tôi phải sống thế nào trong những ngày hồng ân này? Sứ mạng của tôi là gì đối với Chúa, đối với những người chung quanh, đối với dân tộc Việt Nam nơi quê nhà?

Qua bài đọc thứ nhất chúng ta nghe trường hợp Chúa gọi Samuel. Theo tôi nghĩ, dẫu câu chuyện Thánh Kinh được viết như thế nhưng không phải như thế, bằng chứng là trong cuộc đời chúng ta không ai đã có kinh nghiệm như vậy, nhưng khi nhìn lại quá khứ, lời mời gọi của Chúa trong những giai đoạn khác nhau của cuộc đời mỗi người lại hiển hiện những vấn đề khiến chúng ta nhận ra đã nhiều lần mình không lưu tâm tìm hiểu ý nghĩa tại sao sự việc đã xảy ra và điều gì chúng ta nên thay đổi trong lối sống hay quan niệm để ít nhất xây dựng cuộc đời mình có ý nghĩa hơn trước mặt Chúa cũng như đối với mọi người chung quanh.

Nơi bài Phúc Âm, hai môn đệ của Gioan Tiền Hô được chính Gioan nói cho biết về Chúa Giê su nên đã đi theo Chúa và ở lại với Ngài để thực chứng Chúa Giê su thế nào. Họ đi theo Chúa thay vì chỉ nghe giải thích. Chúa nói với chúng ta qua những sự việc xảy đến nơi cuộc đời, nhận biết hay không tùy thuộc sự hồi tâm để nhận biết hoặc đã vô tình bỏ qua. Bất cứ sự việc nào xảy đến cho mình đều là dấu chỉ, là bài học mình cần phải học. Thế nên, không nhận biết lời mời gọi của Chúa trong cuộc đời, có lẽ đã lỡ biết bao cơ hội thăng tiến nhận thức tâm linh. Và nếu không để ý hồi tâm nhận định, coi chừng lỡ cả một đời.

Chúa nói với chúng ta trong cuộc đời qua những biến cố xảy đến lúc thế này, lúc thế kia. Chúa nói với chúng ta qua những người chung quanh, và chính những biến cố lớn lao, nhất là những gì đã xảy đến không hài lòng với ý muốn riêng, Chúa đang hét bên tai để chúng ta ý thức lại. Nhận biết hay không tùy chính mình và khi đã nhận biết, sống cách nào lại cũng tùy thuộc chính mình. Tôi mời gọi mọi người dùng đôi giây phút thinh lặng, lược qua những biến cố đáng để ý đã qua trong cuộc đời, xin Chúa soi sáng và giúp chúng ta sống sao cho đẹp lòng Chúa, được lòng mọi người hơn. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà, anh chị em.

CHỦ NHẬT 2B THƯỜNG NIÊN (Gioan 1:35-42)

Giả sử chúng ta tham dự bữa tiệc bao gồm nhiều món sơn hào hải vị trong khi chúng ta đang đói. Nếu chúng ta không ăn hoặc không nếm thử các món ăn, chúng ta sẽ không thể nào biết được các món ăn ngon hoặc dở như thế nào và như thế chúng ta vẫn còn đói. Qua kinh nghiệm sống, không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho bất cứ ai và cũng không ai có thể giải thích tính chất của thực phẩm dù bằng bất cứ cách nào cho ai để người đó no lòng hoặc biết được món ăn nào đó thực sự ngon ngọt ra sao. Hơn thế nữa cũng cùng một món ăn, người này khen ngon vì có vị ớt cay trong khi người khác mới nếm thử đã bị nóng bỏng cả lưỡi.

Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, Đức Giêsu mời gọi hai vị môn đồ của thánh Gioan Tẩy Giả đến và xem nơi Ngài trú ngụ và ở lại với Ngài ngày hôm đó. Phúc Âm không nói đến việc Ngài giải thích cho họ bất cứ điều gì nhưng mời họ tới để được thấy tận mắt. Tuy nhiên, nơi Phúc Âm Matthêu và Luca, Đức Giêsu đã trả lời vị ký lục muốn theo Ngài, "Chồn có hang, chim trời có tổ, Con Người không chỗ ngả đầu" (Mt. 8:20; Lc. 9:58). Nếu đem so sánh hai lối trả lời, xét về phương diện cho người được chọn và đối với kẻ bị từ chối thì sự việc Đức Giêsu mời hai vị môn đồ của Gioan Tẩy Giả tới xem nơi Ngài trú ngụ phải là sự mời gọi họ dành thời giờ riêng để nhận biết, để cảm nhận sự việc và học theo Ngài.

Xét về hành trình đức tin còn được gọi là hành trình tâm linh, không ai có thể giải thích hoặc chia sẻ cho chúng ta về tâm tình hoặc sự cảm nhận của họ với Thiên Chúa thực sự như thế nào. Tất cả các sách đạo đức, kinh nguyện, những bài nói chuyện, giảng giải, cũng như sự thờ phượng, hoặc kinh nghiệm sống, và những sự kiện xảy ra chung quanh chỉ là những phương tiện để thức tỉnh chúng ta nhận biết một thực thể sự việc; đó là chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người từng giây từng phút. Đây là ý nghĩa tại sao Phúc Âm chép rằng Đức Giêsu cầu nguyện cho chúng ta nhận biết sự hợp nhất của chúng ta với Ngài và Thiên Chúa, "Con không chỉ cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho những kẻ nhờ lời chúng mà sẽ tin vào Con, để hết thảy chúng nên một, cũng như, lạy Cha, Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, ngõ hầu chúng ở trong chúng ta và thế gian tin là Cha đã sai Con" (Gioan 17:20-21).

Để tâm suy gẫm, chúng ta nhận được rõ ràng Thiên Chúa chính là quyền lực sự sống, quyền lực sự hiện hữu đang hoạt động nơi mỗi người, nơi mọi loài, mọi vật. Thế nên sự hợp nhất của con người với Thiên Chúa có thể ví như biển cả và những ngọn sóng. Sự hiện hữu của ngọn sóng tùy thuộc vào nước và những điều kiện gió trăng thế nào thì sự hiện hữu của con người đối với Thiên Chúa cũng như vậy. Con người là sự hiện thể của quyền lực hiện hữu được gọi là Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình, cũng như sóng là sự hiện thể nhất thời của nước. Không có nước sẽ không có sóng, và cũng vậy, con người, mọi vật mọi loài không thể hiện hữu ngoài Thiên Chúa. Nói cách khác, dẫu những con người khác nhau, dẫu mọi vật mọi loài mang những cơ cấu khác nhau nhưng tất cả đều chỉ là quyền lực hiện hữu tối thượng đang hiện thể qua những hình thức và thực thể khác nhau.

Suy như vậy, chúng ta là một với tạo vật trong Thiên Chúa. Thế nên, ai muốn cảm nghiệm được thực thể sự hiện hữu của mình cần có những thời giờ chiêm nghiệm, suy tư về sự liên hệ đối với Thiên Chúa của mình. Tôi đề nghị quý ông bà anh chị em dành đôi giây phút mỗi ngày để suy tư về sự liên hệ của mình đối với Thiên Chúa. Chúng ta không cần phải suy nghĩ sâu xa mà chỉ đơn thuần trả lời những câu hỏi đơn sơ chẳng hạn tại sao con tim của chúng ta có thể đập những bao nhiêu năm, và giả sử nó ngưng đập ngay lúc này thì chúng ta sẽ ra sao? Giả sử không có không khí cho chúng ta thở sẽ ra sao? Tại sao có không khí? Đã bao giờ chúng ta để ý đến sự quý giá của không khí chưa... Hoặc tại sao Phúc Âm viết như thế này hay như thế kia.

Tự đặt những câu hỏi và cố ý để tâm trả lời cho tới cùng, đây là lối chiêm nghiệm hữu hiệu nhất để nhận biết Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình. Đây cũng chính là sự áp dụng trong cuộc đời chúng ta lời mời gọi của Đức Giêsu đối với môn đồ của Gioan Tẩy Giả theo Ngài để nhận biết thực sự Ngài sống thế nào. Ngoài sự suy tư, đặt vấn đề để chiêm nghiệm, tất cả mọi sự đọc kinh sách, hoặc học thức, đều không thể giúp ích gì cho sự nhận thức mối liên hệ giữa Thiên Chúa và con người.

Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mỗi người, nơi mọi loài, mọi vật. Không có sự vật hữu hình hay vô hình nào mà không mang quyền lực hiện hữu này. Thế nên, bên ngoài Thiên Chúa không có bất cứ sự hiện hữu nào. Tóm lại, tất cả mọi sự, mọi loài, hữu hình cũng như vô hình, trên trời, dưới đất đều chỉ là sự hiện thể của Thiên Chúa nơi hành trình biến chuyển của Ngài. Chúng ta đều là một trong Thiên Chúa và với Thiên Chúa. Nguyện xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nhận thực được Thiên Chúa đang hoạt động nơi chính mình amen.

CHỦ NHẬT 3B (Mc. 1:14-20) T.N.

14 Sau khi Yoan đã bị nộp, thì Ðức Yêsu đến xứ Galilê, rao giảng tin mừng của Thiên Chúa 15 mà rằng:" Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải vào tin mừng"

16 Ðang đi dọc theo bờ biển Galilê, Ngài thấy Simôn và Andrê em của Simôn, đang quăng chài dưới biển; vì họ là ngư phủ 17Và Ðức Yêsu nói với họ:"Hãy theo Ta, Ta sẽ cho các ngươi làm ngư phủ bắt người" 18 Và tức khắc, họ dã bỏ cả chài lưới mà theo Ngài. 19Ði xa hơn một ít, Ngài thấy Yacôbê, con của Zêbêđê, cùng với Yoan em ông, cả hai đang vá lưới dưới đò, 20 tức khắc Ngài gọi họ. Và họ đã bỏ cha họ là Zêbêdê trên đò cùng những người làm công, mà đi theo Ngài.

Mỗi khi nghe hoặc đọc đến câu Phúc Âm "Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm," chúng ta thường có cảm giác rờn rợn và tưởng tượng rằng tận thế đang lừ lừ tiến tới tiêu diệt hết mọi người. Thế rồi ngày qua tháng lại, chúng ta vẫn còn sống; những người già lần lượt tiếp nối qua đi đồng thời ai cũng mỗi năm chồng thêm một tuổi mà chẳng thấy nước trời đâu, vẫn còn xa vời vợi. Người trẻ vẫn vui vẻ lập gia đình, sinh con, có cháu... Hình như đối với chúng ta, lời Phúc Âm vẫn được lặp đi lặp lại như bản nhạc trong băng nhựa cũ rích đến độ nhàm tai, chẳng còn gì làm rung động hoặc ảnh hưởng đến tâm tình người nghe.

Một hôm đang ăn cơm, nhân câu chuyện nói về trời mưa giông sấm sét, má tôi lên tiếng, "Thời này sắp đến ngày tận thế rồi... nào loạn lạc nổi lên, không biết khi nó đến đây thì chạy đi đâu." Tôi ngạc nhiên hỏi tại sao má tôi biết sắp đến ngày tận thế. Bà trả lời, ngày bà còn nhỏ, các cha già giảng rằng Phúc Âm dạy chưa đến hai ngàn năm thì tận thế mà Phúc Âm cũng có nói khi nào các con thấy chớp đàng đông nhẩy sang đàng tây thì đấy là dấu hiệu của thời điểm tận cùng của thế giới.

Chúng ta cũng thường được nghe danh từ Chúa phạt... rồi bị ép làm thế này, phải theo thế kia... cả mớ hình thức bên ngoài mà không để ý gì đến ý nghĩa lời Phúc Âm. Tôi nghĩ, nếu Chúa chỉ thương chúng ta bằng một nửa lòng thương của các bậc cha mẹ đối với con cái của họ thì không còn gì đáng nói về vấn đề phạt mà chỉ có thứ tha và thương xót, thông cảm. Phúc Âm dạy rằng Thiên Chúa là tình yêu, chúng ta lại cứ nghe đến sự Chúa phạt. Thực tại như thế chứng minh hình như có những điểm sai lầm nào đó được tuyên dương, trong khi nói về tình Chúa yêu thương lại chẳng có gì để chứng minh.

Hôm nay lời Phúc Âm đến với chúng ta: "Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm." Theo như sự học hỏi và hiểu biết của tôi, câu Phúc Âm này phần nào bị dịch sai vì trong đoạn Phúc Âm khác nói về sinh nhật của Chúa Giêsu, Ngài được gọi là Thiên Chúa ở giữa chúng ta; mà Chúa ở giữa chúng ta nghĩa là chúng ta đang ở nước trời, đang ở nước Thiên Chúa.

Chúa là đấng thánh và mọi sự thuộc về Ngài là sự thánh. Theo lời nguyện thánh thể, thánh là những người đã sống đẹp lòng Chúa khi còn ở trần gian. Muốn đẹp lòng Chúa, chúng ta cần nhận ra chính mình. Là con người, chúng ta có những điều tốt lành cũng như có những lỗi lầm, những điều chẳng nên, mất lòng Chúa, không đẹp lòng người chung quanh. Vì vậy Phúc Âm khuyên chúng ta hãy ăn năn những lỗi lầm, cải sửa lối sống sao cho xứng đáng làm con Chúa hơn. Chúa đang ngự trong lòng mỗi người chúng ta; chúng ta là đền thờ của Chúa, chúng ta đang sống trong nước Thiên Chúa. Vì thế, nhìn lại chính mình để sửa đổi sống sao cho đẹp lòng Chúa là điều cần thiết.

Cải sửa cuộc đời mình thế nào? Phúc Âm minh định, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài rồi các sự khác sẽ được ban cho các ngươi.” (Mt. 6:33). Thiên Chúa ở khắp mọi nơi dù ngay nơi ý nghĩ của mỗi người. Thế nên, Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người; như vậy cải sửa cuộc đời tức là hồi tâm nhận thực ra con người của mình thế nào trước mặt Thiên Chúa. Người Mỹ có câu nói, “You are much more than all you can think of yourself.” Thiên Chúa là cội nguồn sự thánh thiện. Chúng ta có nhận ra sự thánh thiện của Chúa nơi mình không? Thánh Phao lô đoan chắc, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Chúa và Thần Khí của Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 3:16). Chúng ta có dám chấp nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa không. Chúng ta có nhận thực được Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình không! Hồi tâm đối diên chính mình, chúng ta sẽ biết mình phải thế nào để có thể áp dụng Lời Chúa nơi cuộc đời.

Xin Chúa chúc lành và giúp chúng ta từ nay quyết tâm sống đẹp lòng Chúa hơn.

CHỦ NHẬT 3B (Mk. 1:14-20) T.N.

Tham dự Thánh Lễ hoặc nghe giảng giải, đã nhiều lần chúng ta được nghe nói về Nước Trời hay Nước Thiên Chúa, Phúc Âm, Tin Mừng Nước Trời. Hôm nay chúng ta lại được nghe nơi bài Phúc Âm vừa được công bố: "Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa, Người nói: 'Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm." Theo Phúc Âm, Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng Nước Trời vậy Tin Mừng Nước Trời là gì? Qua cơ cấu của câu Phúc Âm, "Nước Thiên Chúa đã gần đến, anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm," hai tiếng Phúc Âm ở đây mang ý chỉ về phần đầu của câu nói tức là Nước Thiên Chúa đã gần đến, và đây cũng chính là Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Vậy nước Thiên Chúa là gì? Nước Thiên Chúa đã gần đến mang ý tứ thế nào?

Lật nơi Phúc Âm Luca đoạn 17 câu 20 và câu 21 được viết, "Biệt phái thỉnh vấn Ngài: bao giờ Nước Thiên Chúa đến? Ngài đáp lời và nói: 'Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay, "Ở đó' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông." Nơi Phúc Âm thánh Matthêu đoạn 12 câu 28, Đức Giêsu rõ ràng công bố: "Ví bằng ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỉ, thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi." Như vậy, đem so sánh cả ba câu Phúc Âm nơi Marcô, Matthêu, và Luca, câu nói Nước Thiên Chúa đã gần đến có nghĩa Nước Thiên Chúa ở trong chúng ta, hoặc Nước Thiên Chúa đã đến trên chúng ta.

Câu hỏi còn lại đó là vậy Nước Thiên Chúa là gì? Chúng ta đều nhận thức được Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu nơi mọi vật mọi loài. Ngài là cội nguồn mọi sự hiện hữu; bất cứ sự hiện hữu nào dù hữu hình hay vô hình đều phát xuất từ Thiên Chúa như nơi Phúc Âm Gioan được viết: "Mọi sự đã nhờ Ngài mà thành sự và không Ngài thì không gì đã thành sự... Thế gian đã nhờ Ngài mà được có, mà thế gian đã không biết Ngài" (1: 3, 10). Thiên Chúa chính là quyền lực ngự trị nơi tất cả và điều hành tất cả mọi sự hiện hữu như chúng ta thường nói cách vắn tắt, Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Và như vậy, Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Nước Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Thế nên, Phúc Âm viết, "Nước Thiên Chúa ở giữa các ông," "Nước Thiên Chúa ở trong các ông," và "Nước Thiên Chúa ở trên các ông;" tất cả đều có chung một nghĩa đó là "Thiên Chúa ở cùng chúng ta." Đây là ý nghĩa của chữ Emmanuel, danh hiệu của Đức Giêsu vì Ngài công bố Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Đây cũng là tin mừng Ngài đem đến cho nhân loại.

Phúc Âm thánh Luca viết nơi đoạn 4 câu 43, Đức Giêsu trả lời với những người cố cầm giữ ngài ở lại với họ, "Ta còn phải đem tin mừng nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến." Điều này chứng tỏ mục đích chính của Đức Giêsu là rao giảng tin mừng nước trời, rao giảng thực thể Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật. Tôi muốn nhắc lại, Tin Mừng Nước Trời do Đức Giêsu rao giảng đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người. Bất cứ sự việc gì chúng ta thực hiện, hoạt động nào chúng ta tham gia, ý nghĩ nào chúng ta tư tưởng tới đều do chính Thiên Chúa đang ngự trị nơi mình và Ngài thực hiện. Sự sống, cuộc đời mỗi người đều là diễn trình biến chuyển của Thiên Chúa để giúp chúng ta nhận thức thực thể tâm linh nơi mình, nhận thức chính Ngài đang hoạt động nơi mình. Amen.

CHỦ NHẬT 4B 94 (Mc. 1:21-28)

21 Họ vào Capharnaum.Và tức khắc, ngày Hưu lễ, Ngài vào giảng dạy trong hội đường. 22 Và người ta kinh ngạc về giáo huấn của Ngài, vì Ngài dạy dỗ họ như Ðấng có uy quyền, chứ không như các ký lục.

23 Ngay đó trong hội đường, có người bị thần ô uế nhập; nó hét lên, 24 rằng: " Yêsu Nazaret, chúng tôi với Ngài nào có việc gì? Ngài đã đến để tiêu diệt chúng tôi ư? Tôi biết Ngài là ai: Ðấng thánh của Thiên Chúa!" 25 Nhưng Ðức Yêsu quát bảo nó rằng:" Hãy câm đi và ra khỏi người này!" 26 Và thần ô uế dằn vật người ấy; và thét một tiếng lớn, nó xuất khỏi người ấy 27 Và mọi người đều kinh hoảng, khiến họ bàn tán với nhau rằng: "Thế nghĩa là gì? Thật là một giáo huấn mới, một cách có uy quyền! Ngài truyền khiến được cả các thần ô uế, và chúng vâng lời Ngài!" 28 và tiếng tăm Ngài tức khắc lan ra mọi nơi, đến khắp vùng lân cận xứ Galilê.

Chúng ta vừa nghe câu truyện Phúc Âm kể lại việc Chúa Giêsu trừ thần ô uế nơi một người. Bình thường, khi đọc hoặc nghe những đoạn Kinh Thánh, chúng ta đều cảm thấy dường như câu chuyện hoặc vấn đề nào đó đã xảy ra thời xa xưa, được ghi chép lại và mình là kẻ bàng quang cũng giống như đang đọc những câu chuyện các tác giả khác viết nơi sách của họ. Tuy nhiên, nếu thử đặt mình vào bối cảnh của câu chuyện Thánh Kinh, chúng ta sẽ cảm nhận được Kinh Thánh đang giúp chúng ta đối diện với chính con người của mình, những vấn đề cần được để ý tới hoặc là cần học hỏi, hiểu biết thêm, hoặc cần sửa lại lề lối suy tư hay cách sống để sao cho trở nên người thánh thiện hơn.

Xét thử kinh nghiệm bản thân, không biết bao nhiêu lần chúng ta tuyên xưng mình là kẻ tội lỗi đến độ trở thành một kiểu cách của người Công Giáo, nhưng giả sử có người hỏi vậy mình tội lỗi như thế nào, mình lại thấy chẳng biết sao mà nói. Dĩ nhiên, mang thân phận con người, lầm lỗi là sự bình thường không ai tránh thoát. Tuy nhiên, thực sự nhận ra lầm lỗi của mình là bước đầu tiên trở nên thánh thiện vì khi thực sự nhận ra điều gì lầm lỗi, chúng ta đương nhiên biết cách chừa sửa và chỉ khi nào nhận thực được lầm lỗi, chúng ta mới chấp nhận sửa sai.

Đức cha Hoàng văn Đoàn khi còn sinh tiền, có lần ngài giảng: chỉ có 7 mối tội đầu, nếu cứ mười năm chúng ta có thể chừa sửa được một mối tội thì quí cụ ông cụ bà bẩy mươi tuổi chắc chắn là những vị thánh sống. Thế sao dẫu cho sống tới tám mươi, chín chục tuổi chúng ta vẫn còn là những con người lầm lỗi. Phải chăng chúng ta đã không nhận thực ra được những điều lầm lỗi của mình hoặc nhận ra nhưng không chấp nhận đó là điều mình sai trái, nên cải sửa.

Thế nên, không thực lòng chấp nhận mình là con người nhiều lỗi lầm, chúng ta đã không chấp nhận mình là con người bình thường vì đã là con người, tất nhiên lắm lỗi lầm. Không nhận thực được con người chính mình, chúng ta không thể mở rộng tầm mắt để nhận ra những điều tốt lành nơi người chung quanh. Có thể tôi đã nhận xét sai vì hình như ai cũng thế, chúng ta rất dễ dàng nhận ra sự sai trái, điều chẳng nên, hay sự gì không tốt nơi người khác. Tại sao chúng ta ít nhìn thấy điều tốt lành nơi kẻ khác mà chỉ nhìn thấy những điều không ra gì ở họ? Có phải chúng ta dễ nhận ra những điều chẳng nên nơi người khác vì đã suy bụng ta ra bụng người? Hoặc vì muốn nhìn thấy những điều không nên không phải nơi người khác để có cảm tưởng rằng mình cũng chưa đến nỗi tệ lắm.

Nếu như thế, thần ô uế đang che lấp những sự tốt lành nơi chính chúng ta, nó che lấp luôn cả cặp mắt, sự suy tưởng không cho chúng ta nhìn thấy những điều tốt lành nơi những người khác đồng thời che luôn sự nhận thức con người yếu hèn của mình khiến chúng ta không cảm thấy sự cần thiết dùng mười năm để trị dứt điểm một mối tội đầu. Hiệp nhau dâng Thánh Lễ, chúng ta khẩn cầu Chúa mở rộng lòng trí mỗi người hầu nhận biết chính mình để sống xứng đáng làm con Chúa hơn từ nay về sau. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.

CHỦ NHẬT 4B (Mc. 1:21-28) T.N.

Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố chúng ta thấy có điểm nói tới thái độ của những người nơi hội đường kinh ngạc về sự giảng dạy và uy quyền của Đức Giêsu dùng để đuổi thần ô uế ra khỏi một người. Bình thường, đọc Phúc Âm chúng ta hay nói rằng Đức Giêsu làm phép lạ; chúng ta chiêm ngưỡng những công việc Ngài thực hiện, ca tụng Thiên Chúa đã ban cho Đức Giêsu quyền năng cả thể dường ấy. Tuy nhiên, nếu để ý kỹ khi đọc Phúc Âm, chúng ta sẽ cảm thấy ngỡ ngàng vì không thấy Đức Giêsu nói câu nào rằng Ngài làm phép lạ. Chỉ nơi trường hợp cứu sống Lazarô, Phúc Âm thánh Gioan được viết, "Lazarô đã chết, nhưng vì các ngươi thì Ta mừng là đã không có ở đó, ngõ hầu các ngươi tin" (Gioan 11:15). Rõ ràng hơn là khi Ngài cầunguyện, "Lạy Cha, Con tạ ơn Cha, vì Cha đã nhậm lời Con! Con biết Cha hằng nhậm lời Con; nhưng vì dân chúng đứng xung quanh mà Con đã nói, ngõ hầu chúng tin rằng Cha đã sai Con!" (Gioan 11:41). Như vậy, nơi Phúc Âm, Đức Giêsu không bao giờ nói đến những chuyện mà chúng ta gọi là phép lạ nhưng Ngài thực hiện những việc này chỉ vì muốn giúp chúng ta nhận thực đức tin mà thôi. Đức Giêsu không làm phép lạ để quảng bá quyền lực hay chứng tỏ quyền lực.

Nơi đoạn 14, câu 12, Phúc Âm thánh Gioan được viết, "Quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta đi đến cùng Cha." Suy nghiệm về câu nói này, chúng ta đối diện với sự rắc rối được gọi là "Tin." Chúng ta đều tuyên xưng rằng chúng ta tin vào Đức Giêsu nhưng lại không thể nào áp dụng câu tuyên bố này của Ngài nơi cuộc đời. Như vậy, có thể chữ tin ở đây có nghĩa đạt đến một mức độ nào hoặc thực hiện những điều Ngài rao giảng theo chiều hướng nào đó thì sẽ thực hiện được những sự việc cả thể như Ngài đã thực hiện.

Đàng khác, Đức Giêsu cũng rõ ràng tuyên bố rằng tất cả các sự chữa lành hay những việc lạ lùng đều chỉ là kết quả của lòng tin hay đức tin mà thôi. Chẳng hạn nơi câu truyện người đàn bà bị băng huyết đụng đến vạt áo của Ngài nên được khỏi bệnh, Đức Giêsu nói, "Này con, hãy vững lòng, lòng tin của con đã cứu chữa con" (Mt. 9:22). Trong câu truyện người đầy tớ của viên bách quản, Ngài nói, "Ông hãy đi! Ông đã tin sao thì hãy được như vậy" (Mt. 8:13). Hoặc nơi câu truyện hai người mù, ngài cũng nói, "Các ngươi đã tinsao thì hãy được như vậy" (Mt. 9:29). Rõ ràng và đoan chắc hơn, Đức Giêsu nói nơi câu truyện cây vả bị chúc dữ, "Quả thật Ta bảo các ngươi, nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này: 'Xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được" (Mt. 21:21-22). Điều chúng ta không thể và cũng không dám ngờ đó là câu Phúc Âm Marcô, “Quả thật Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23). Câu Phúc Âm này minh xác Quyền lực của Thiên Chúa hoạt động ngay nơi ước muốn hay ý định của con người.

Nói tóm lại, theo Phúc Âm, Đức Giêsu công bố với chúng ta rằng lòng tin hay đức tin chữa lành, lòng tin mang quyền lực cả thể thực hiện được những việc khác thường. Điều kiện để sử dụng đức tin chỉ là không nghi ngại điều mình thực sự muốn được xảy ra vì nơi Phúc Âm thánh Marcô lời dạy của Đức Giêsu khá rõ ràng, "Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầunguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự" (11:24). Nhận thực được những lời dạy nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận thấy lòng tin hay đức tin chính là quyền lực nội tại nơi mỗi người, quyền lực của Thiên Chúa đang ngự trị nơi mỗi người chúng ta.

Nhân ngày đầu xuân Quí Mùi, tôi chân thành cầu chúc quý đồng hương người Việt một năm mới an vui, tự tại, đạt thành những ước mơ thăng tiến cuộc sống, và đặc biệt thành tâm suy nghiệm về thực thể hiện hữu của chính mình, hầu đạt tới tâm thức phát triển tâm linh. Là những người đặt niềm tin nơi những lời giảng dạy của Đức Kitô, tôi ước mong quý vị nhận thức và cảm nghiệm được quyền lực đức tin nơi mình như lời Ngài dạy qua Phúc Âm. Đối với quý vị dấn bước trên hành trình minh triết nhà Phật, tôi tâm thành ước nguyện quý vị cảm nghiệm thâm sâu thực thể Phật tính hay Pháp thân nơi mỗi người. Hy vọng rằng lời Lục Tổ Huệ Năng trăn trối trước khi tịch diệt, “Các con là Phật, chớ nghi ngờ gì nữa” được kiện toàn nơi tâm thức quý vị. Riêng những ai đang mang nặng nỗi khát khao muốn nhận biết thực thể mình là ai mà vẫn chưa đối diện tự tâm, xin gửi đến quý vị lòng ước mơ thức ngộ.

CHỦ NHẬT 5B (Mk. 1:29-39) T.N.

29 Và ra khỏi hội đường, lập tức Ngài đến nhà của Simôm và Andrê, làm một với Yacôbê và Yoan. 30 Bà gia của Simôn nằm liệt vì cảm sốt; tức khắc họ nói với Ngài về bà. 31 Tiến lại, Ngài cầm tay bà, cho bà chổi dậy; và cơn sốt đã biến khỏi bà, và bà đã hầu hạ các ngài.

32 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem lại cho Ngài mọi kẻ ốm đau và những người bị quỉ ám; 33 tất cả thành tụ họp lại trước cửa. 34 Và Ngài đã chữa nhiều người ốm đau mắc đủ chứng bệnh; Ngài trừ quỉ củng nhiều, và cấm quỉ nói năng vì chúng biết Ngài.

35 Sáng sớm tinh sương, Ngài chổi dậy ra đi, đến một nơi hoang vắng; và Ngài cầu nguyện ở đó. 36 Simôn lùng kiếm Ngài cùng những kẻ ở với ông. 37 Họ đã tìm ra Ngài và họ thưa Ngài:" Mọi người đều kiếm Thầy!" 38 Và Ngài bảo họ:" Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận, để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta dã ra đi!" 39 Và Ngài đến rao giảng trong các hội đường khắp xứ Galilê và xua trừ ma quỉ.

Khi mới đọc bài Phúc Âm tiếng Việt vừa được công bố, tôi cảm thấy hình như bài Phúc Âm được chép thiếu phần nào đó. Có lẽ vì tôi đã đọc bài Phúc Âm này nơi sách tiếng Mỹ cả tuần trước. Thế rồi tôi lật cuốn Kinh Thánh do linh mục Nguyễn Thế Thuấn dịch, cùng với cuốn Tân Ước của nhóm phiên dịch các giờ kinh phụng vụ ở Sàigòn và 7 bộ Kinh Thánh khác bằng tiếng Anh, tôi nhận ra, bài Phúc Âm nơi sách lễ tiếng Việt ghi thiếu vài chữ. Nơi bản dịch Kinh Thánh của linh mục Nguyễn Thế Thuấn được viết, "Và Ngài bảo họ, chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận, để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi!" Bản dịch ở Sàigòn thì lại cố ý viết trệch đi một chút, "Người bảo các ông, chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó." Nơi 7 bản dịch tiếng Mỹ, ngay cả bản dịch không thuộc về Công Giáo, đều được viết có chung một nghĩa, đó là, "Chính vì mục đích này mà ta đã đến." Qua những bản dịch chúng ta tự hỏi, Đức Giêsu rao giảng điều gì mà lại quan trọng hơn cả những công việc chữa bệnh hoặc xua đuổi tà thần đang hoành hành nơi những người tụ họp chờ Ngài giúp đỡ dẫu đã được ông Simon tức là thánh Phêrô thông báo rằng "Mọi người đang tìm thầy."

Lật nơi Phúc Âm thánh Luca chúng ta thấy, cả đoạn Phúc Âm được viết tương tự như bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, chỉ khác nơi câu 43 của đoạn 4. Câu này được viết, "Nhưng Ngài bảo họ, Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến." Để ý so sánh hai câu tương tự nơi hai Phúc Âm Marcô và Luca, chúng ta nhận thấy Phúc Âm Marcô cho rằng mục đích của Đức Giêsu đến gian trần để rao giảng nhưng không nói đến rao giảng việc gì hoặc sự gì. Phúc Âm Luca rõ ràng ghi lại Đức Giêsu được sai đến thế gian để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Tất nhiên, bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể nghĩ, sự việc Đức Giêsu đến gian trần hay được sai đến gian trần, tự Ngài biết, chúng ta không cần phải biết, bởi ngay cuộc đời của mỗi người, chúng ta chưa biết tỏ tường mình được sinh hay bị sinh ra để làm gì, hoặc mục đích của cuộc đời mình là gì phương chi nói tới vấn đề Đức Giêsu được sai hay tự Ngài đến gian trần.

Đàng khác, câu Phúc Âm Marcô được viết không rõ ràng nên dễ bị lạm dụng. Chỉ nói rằng Đức Giêsu đến những làng, những thành lân cận để rao giảng thì cho rằng Ngài giảng gì mà không được. Dẫu chúng ta cho rằng Ngài giảng về chính trị chính em, hoặc làm công sở hay làm biển rả, hoặc nói thế nào chăng nữa, không có gì để chứng minh đúng, sai, phải trái. Vì thế cho nên, đã bao nhiêu lần chúng ta bị nghe những lời tuyên bố về tin mừng một cách lạ kỳ và thường thì cứ giống như tự trời rơi xuống đồng thời lại được gán ép bằng hai chữ quá ư mầu nhiệm để bịt miệng bất cứ ai dám suy tư đó là hai chữ linh hứng. Và thế rồi lại cũng có những lời bàn ra tán vô về ý nghĩa của hai chữ linh hứng. Kẻ nói rằng linh ứng mới đúng; người lại táo bạo lên tiếng đe dọa ai dùng hai chữ linh ứng là rối đạo. Tôi nghĩ, dầu linh ứng hay linh hứng mà không thể dùng Phúc Âm để chứng minh được Đức Giêsu rao giảng gì thì cũng chỉ là linh vòng vòng bởi Thánh Thần muốn linh mà mình không ứng hoặc không hứng.

Tôi muốn nhắc lại, theo Phúc Âm thánh Luca, mục đích của Đức Giêsu đến trần gian, nhập thể làm người chính là để rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Thực ra, tôi cảm thấy rất áy náy vì nghĩ rằng mình chỉ cần nói một lần là quá đủ vì ai trong chúng ta cũng có thừa khả năng nhận biết và nhớ rõ ràng mục đích của cuộc đời Đức Giêsu là rao giảng tin mừng nước trời. Tôi không muốn dùng bất cứ lý do gì để biện hộ cho sự lặp đi lặp lại về tin mừng nước trời. Chính Đức Giêsu đã thực hiện như thế; những công việc rao giảng cũng như các sự thể Ngài thực hiện đều quy về một mục đích rao truyền tin mừng nước trời; bởi đó, tôi chỉ biết nói và lặp lại như vậy. Tôi còn nhớ có lần mẹ tôi kể về chuyện ông bà nội tôi. Một hôm, không hiểu bà nội tôi nói chuyện gì, ông nội tôi nhẹ nhàng bảo, "Bà nó à, từ nay, bà có nhắc lại chuyện gì thì nói ít ít thôi, cỡ ngàn lần là quá đủ rồi." Thế nên, nếu tôi mới chỉ nhắc ít ít, cỡ 999 lần, thì tôi xin nhắc thêm một lần nữa cho đủ số. Đây là điều tôi muốn nhắc lại theo Phúc Âm, Đức Giêsu đến để rao giảng tin mừng nước trời và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người chúng ta từng giây từng phút. Mỗi khi chúng ta nghe thấy linh mục phát biểu, "Chúa ở cùng anh chị em," các ngài chỉ nhắc lại tin mừng Đức Giêsu rao giảng đã hai ngàn năm qua mà thôi. Xin Thánh Thần soi sáng và linh ứng mọi người chúng ta. Amen.

CHỦ NHẬT 6B (Mk. 1:40-45) T.N.

40 Một người phung hủi đến với Ngài, khẩn xin Ngài; và quì xuống thưa Ngài: " Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi sạch!" 41Ðộng lòng thương xót, Ngài giơ tay đụng đến người ấy và nói:"Ta muốn, hãy nên sạch!" 42 Và tức khắc phung hủi biến mất và người ấy đã được sạch. 43 Rồi Ngài làm gắt mà xua người ấy đi. 44Ngài bảo: "Coi chừng! Ðừng nói gì với ai; song hãy đi trình diện với tư tế; và vì được sạch rồi, thì hãy dâng lễ vật như Môse đã truyền dạy, để làm chứng trước mặt họ" 45 Vừa ra, người ấy lên tiếng cao rao, và phao đồn việc đó, khiến Ngài không còn có thể công ngiên vào thành nào; nhưng Ngài ở ngoài, trong những chỗ vắng người; và từ khắp nơi, người ta kéo đến với Ngài.

Nếu ai để ý, bài Phúc Âm vừa được công bố nêu lên nơi tâm trí chúng ta khá nhiều khía cạnh cần được đặt thành vấn đề suy tư. Đại khái, bài Phúc Âm đưa lên sự kiện một người mắc bệnh phong hủi xin Chúa Giêsu chữa lành. Sau khi chữa, Ngài ngăn cấm anh ta không được nói cho ai biết và bảo anh ta đi trình diện vị trưởng tế và dâng của lễ để minh chứng được khỏi bệnh. Tuy nhiên, anh ta đã đương đường công bố sự chữa lành khiến Chúa Giêsu gặp khó khăn không thể tới những nơi đông dân cư để rao giảng nên phải dừng chân nơi những hoang địa.

Qua sự diễn tả nơi bài Phúc Âm, chúng ta nhận thấy chính vì sự loan truyền được chữa lành của người bị phong hủi đã làm ngăn trở công việc rao giảng của Chúa Giêsu. Bình thường theo sự nóng sốt của con người, nhất là những ai tin theo Ngài, chúng ta đều trộm nghĩ, Chúa Giêsu quyền phép dường ấy tại sao không nổi cơn thịnh nộ để dẹp những kẻ ngăn cấm Ngài không cho vào thành để rao giảng Tin Mừng Nước Trời? Nếu đặt vấn đề như vậy chúng ta sẽ tự có câu trả lời đó là Chúa Giêsu không tìm kiếm vinh danh cho Ngài. Ngài không tìm kiếm quyền hành cũng như không chứng tỏ hoặc huênh hoang Ngài có quyền hành dẫu Ngài có thừa năng lực thực hiện bất cứ điều gì. Thái độ của Ngài chấp nhận ở ngoài thành dạy cho mỗi người chúng ta bài học khôn ngoan mà chúng ta thường thấy nơi dân gian.

Coi trên truyền hình hoặc đọc nơi sách báo chúng ta thấy, những người thực sự có quyền hành, họ không bao giờ nói đến hay sử dụng quyền hành mà chỉ những kẻ tự ti mặc cảm hoặc quá ư thiếu hiểu biết mới thèm khát nên có thái độ huênh hoang tỏ ra mình có quyền hoặc chờ cơ hội nói thánh nói tướng để tưởng tượng rằng mình tài giỏi. Kinh nghiệm sống minh chứng, chỉ những người nghèo mới lo chết đói, mới ham giầu; chỉ những kẻ không có mặt mới lo mất mặt; chỉ những người thấy mình chẳng là gì mới muốn chứng tỏ ta đây có giá trị. Đọc nơi lịch sử những bậc danh nhân hoặc đại thánh, không vị thánh nào vỗ ngực xưng danh là ông nọ bà kia, mà chỉ những kẻ còn u mê trong tham vọng thế tục, vì quá ước mơ được người khác để ý nên nhiều khi buông ra những lời thiếu ý thức, một phương cách vô tình chứng tỏ lòng tự khinh mà chính họ cũng không biết.

Chúa Giêsu dẫu bất chấp quan niệm nhơ uế nơi dân Do Thái vào thời bấy giờ, dám đặt tay trên người hủi để chữa bệnh phong cùi thể xác, nhưng thái độ không dám vào thành, không sử dụng quyền lực cũng như không đối chất với những người đương thời có lẽ vì Ngài quá đau lòng. Ngài thương họ nhưng họ đóng cửa lòng không để cho ân sủng lọt vào. Thử bình tâm nhận định những chuyện xảy ra nơi cuộc đời Ngài theo Phúc Âm, trước khi bị đóng đanh nơi thập giá, Ngài đã bị người ta kiếm cách xô xuống bờ thành, hè nhau ném đá; và chắc chắn Ngài cũng đã bị những kẻ tham vọng quyền hành chửi bới, lên án... đến nỗi cho rằng Ngài mất trí. Tôi nghĩ, những sự thể này là nguyên nhân để Ngài khuyên chúng ta câu nói, "Chớ quăng châu ngọc trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi" (Mt. 7:6).

Chúa Giêsu phải trả giá quá mắc mỏ cho lời khuyên trong khi chúng ta đọc hoặc nghe Phúc Âm như trò đùa, hay cho rằng không đáng suy nghĩ nên tự tạo thái độ kính nhi viễn chi. Suy như thế, câu Phúc Âm, "Ai có tai thì nghe" phần nào đó chứng tỏ tâm trạng quá ư chán nản của Chúa Giêsu khi đối diện với sự mê muội của những kẻ thiếu hiểu biết. Đàng khác, sự kiện Đức Giêsu không dám vào thành cũng có thể vì Ngài không muốn trở thành cớ cho những người đương quyền vấp phạm. Xét như thế, lòng yêu thương, tình bác ái đôi khi trở nên con dao hai lưỡi, đau lòng người thực hiện và hố thẳm cho kẻ được yêu thương. Chúng ta, những kẻ theo Đức Giêsu nên nghiệm chứng câu Phúc Âm, "Ai có tai thì nghe!" Amen.

THỨ TƯ LỄ TRO abc (Joel 2:12-18; Cor. 5:20-6:2; Mt. 6:1-6; 16-18)

Về việc bố thí

1 Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta, để hòng được thấy; chẳng vậy, các người mất công nơi Cha các ngươi, Ðấng ngự trên trời. 2 Vậy khi ngươi bố thí, thì chớ thổi loa trước mặt, như bọn giả hình làm nơi hội đường và phố xá, hầu được vinh nơi người đời. Quả thật, Ta bảo các ngươi: họ đã lĩnh đứt công lênh họ rồi. 3 Còn ngươi bố thí, thì tay trái đừng biết điều tay phải làm, 4 hầu việc ngươi bố thí được giữ kín và Cha ngươi là Ðấng thấu suốt kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi.

Về việc cầu nguyện

5 Và khi các ngươi cầu nguyện thì chớ làm như bọn giả hình; chúng ưa đứng cầu nguyện trong hội đường và các ngả đàng, hầu được bày ra cho người ta thấy. Quả thật, Ta bảo các ngươi, chúng đã lĩnh đứt công rồi. 6Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Ðấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi.

Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta, “Hãy coi chừng, đừng phô trương công đức trước mặt người ta.” Lời Chúa dạy chúng ta để ý đến tâm tình của mình khi thực hiện công việc gì, đặc biệt là những việc liên hệ tới thiện nguyện hay công đức. Chính thái độ của một người bày tỏ tâm ý của họ; nói cho đúng, nhiều khi, hay thường thì chính họ cũng không để ý. Dùng đôi giây phút hồi tâm nhìn lại chính mình, chúng ta nhận thấy, thái độ bên ngoài của mình thường bày tỏ thực trạng tâm hồn. Khi mình nóng giận, tất nhiên thái độ của mình kệch cỡm, cố che giấu cũng không được. Tuy nhiên, đã là người, ai tránh thoát tham sân si; ai không biết, không quen thực hiện “Tốt khoe, xấu che” như một thói quen; từ đó thái độ giả hình luôn được tự thân cổ võ. Chúng ta thường tâm niệm, “Một câu nhịn là chín câu lành,” hoặc, người dũng cảm là người tuyệt đối nhẫn nhịn dẫu bị phỉ báng mà không nổi nóng, kìm hãm được bản thân. Thử hỏi, khi lòng ruột bực điên lên vì bị ai đó dẫu vô tình hay hữu ý lăng mạ mà cố đè nén không phản ứng, không tỏ thái độ bực bội hay bất mãn, không bày tỏ sự bực tức trong lòng, chẳng phải là thái độ phô trương nghịch lại với lòng mình sao?

Đối diện thực trạng tâm hồn như thế, chúng ta nhận rõ một điều đó là bất cứ sự việc nào xảy đến cũng đều mang hai phản ứng tích cực và tiêu cực của tâm hồn, và giá trị đích thực của sự việc, sự thực hành công việc không tùy thuộc thái độ bên ngoài của một người mà tùy thuộc tâm tình, chủ đích của người thực hiện công việc. Tâm tình này tất nhiên phát xuất từ ý định, ước muốn của một người. Sự thăng tiến đức tin hay tâm linh cũng đều tùy thuộc tâm tình sống, tâm tình thực hiện những hoạt động đối xử trong cuộc đời. Đây là lý do, cũng là nguyên nhân quan điểm nhận định giá trị một người cũng như cuộc sống của họ. Tất cả những hoạt động, thân xác, và cuộc đời một người đều là phương tiện hay cơ hội cho linh hồn, cuộc sống đích thực của một người, thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mình.

Nhận định như thế, mùa chay là cơ hội cho mọi người chúng ta để tâm đối diện, chân thành nhận biết thực thể con người và cuộc sống của mình. Ai cũng biết câu phúc âm, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33), nhưng ít khi chúng ta để tâm suy nghĩ, suy nghiệm. Đó cũng chính là mục đích cuộc đời của mỗi người. Mọi hình thức, của cải, danh tiếng đều đi vào quên lãng khi xuôi tay nhắm mắt. Linh hồn chúng ta vẫn tiếp tục theo đuổi ước mơ, ý định khi còn sống. Chúng ta sẽ ra sao, linh hồn sẽ đi về đâu đều tùy thuộc ước mơ, ham muốn lúc này, thời điểm còn sống này.

Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mỗi người chúng ta nhận biết, đối diện tâm tình của mình nơi cuộc sống, nơi hành trình đức tin. Tất nhiên, kết quả thế nào đều tùy thuộc tâm tình của mình. Amen.

Chủ Nhật 1 B Mùa Chay (Mc. 1:12-15)

12 Và ngay sau đó, Thần khí xua Ngài vào sa mạc. 13 Và Ngài ở trong sa mạc bốn mươi ngày, chịu Satan cám dỗ, Ngài ở giữa dã thú, và các thiên thần hầu hạ Ngài. 

14 Sau khi Yoan đã bị nộp, thì Ðức Yêsu đến xứ Galilê, rao giảng tin mừng của Thiên Chúa 15 mà rằng:" Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến bên; Hãy hối cải vào tin mừng"

Qua bài Phúc Âm, chúng ta thấy có ba ngôn từ đã được nghe quá nhiều lần; có thể nói chúng ta không muốn để ý đó là Satan, ăn năn sám hối, và Tin Mừng. Vì thế, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em, dùng đôi phút bình tâm suy nghiệm lời Phúc Âm vừa được công bố.

Lời nhắc nhở "Hãy ăn năn sám hối" được dịch từ động từ "Metanoia" trong ngôn ngữ Hy Lạp. Động từ Metanoia bao gồm nhiều ý nghĩa. Nghĩa căn bản diễn tả sự đổi mới nội tâm tận gốc rễ; hãy bỏ lối suy tư cũ; nhận thức vượt hẳn lên; suy nghĩ khác trước; suy nghĩ khác thường hay nghịch thường; đổi ý; đổi tâm tình; đổi não trạng; cải thiện, hối tiếc hay hối hận; và ăn năn sám hối. Xưa nay chúng ta chỉ thường được đọc hay nghe từ những bản dịch của chữ metanoia là cải thiện hay ăn năn sám hối. Thế nên, nếu dùng nghĩa khác của động từ này, lời công bố Tin Mừng của Đức Giêsu sẽ mang nghĩa nghịch hẳn lại những gì xưa nay chúng ta thường được giảng dạy. Chẳng hạn, nếu dùng nghĩa suy nghĩ khác thường, câu Phúc Âm sẽ trở thành: "Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy suy nghĩ khác thường và tin vào Tin Mừng."

Là người Công Giáo, bất cứ ai trong chúng ta, khi đã đến tuổi khôn đều đã được dạy rằng Satan là tổng lãnh thiên thần, đầy quyền lực, chỉ thua kém Chúa. Nhưng vị tổng lãnh thiên thần Satan này phạm tội kiêu ngạo muốn lên bằng Đức Chúa Trời nên bị phạt làm quỷ do đó mang mối hận thù truyền kiếp luôn luôn kiếm cách xúi giục loài người phạm tội hầu thỏa mãn lòng ganh ghét với bất cứ ai được hưởng phúc thiên đàng.

Đọc Kinh Thánh và nếu ai để ý sẽ đếm được 57 lần Kinh Thánh nhắc đến tên Satan. Riêng bốn Phúc Âm nhắc đến Satan chỉ có mười bốn lần. Thường thì Kinh Thánh dùng danh xưng Satan để chỉ về một quyền lực ác thần luôn luôn mang ý nghĩa làm hại con người. Đặc biệt chỉ nơi hai câu Phúc Âm Mátthêu đoạn 16 câu 23 và Marcô đoạn 8 câu 33 mang tính chất giải thích rõ ràng. Chúng ta nhớ lại đoạn Phúc Âm nói về Đức Giêsu hỏi các môn đồ rằng người ta nói về Ngài là ai. Người thì nói rằng Ngài là tiên tri nọ, tiên tri kia; đến khi Ngài hỏi vậy các môn đồ nghĩ về Ngài thế nào, và thánh Phêrô trả lời rằng Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống và Đức Giêsu công bố đặt thánh Phêrô làm nền tảng Giáo Hội. Tuy nhiên, khi Đức Giêsu đương đường tiên báo những chuyện đau khổ sẽ xảy đến cho Ngài, Phúc Âm chép như sau, "Và Phêrô kéo Ngài lại với mình và lên tiếng trách Ngài: 'Thiên Chúa thương! Chứ sẽ có đâu như thế!' Nhưng quay lại, Ngài nói với Phêrô: 'Xéo đi sau Ta! Hỡi Satan! Ngươi là cớ vấp phạm cho Ta, vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người" (Mt. 16:22-23).

Đoạn Phúc Âm này cũng tương tự như nơi Phúc Âm thánh Marcô đoạn 8 từ câu 32 đến câu 33. Tôi đề nghị quý vị nên để giờ suy gẫm ý tưởng của loài người mang quyền lực kinh khủng thế nào mà bị Đức Giêsu mệnh danh là Satan! Và như vậy, theo như Phúc Âm, Satan chính là ý nghĩ, ước muốn của loài người? Vấn đề thứ hai nơi bài Phúc Âm cần được chúng ta để ý đó là Tin Mừng. Đoạn Phúc Âm chép, "Sau khi Gioan bị bắt, Chúa Giêsu sang xứ Galilêa, rao giảng Tin Mừng của nước Thiên Chúa, Người nói: Thời giờ đã mãn và nước Thiên Chúa đã gần đến; anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng." Điều chúng ta nên để ý đó là khi Đức Giêsu rao giảng, tất nhiên chưa có sách vở nào được viết và được gọi là Tin Mừng.

Ngôn từ Phúc Âm cũng chỉ có nghĩa là Tin Mừng mà thôi nhưng được viết sau khi Đức Giêsu chết cỡ từ 70 đến 100 năm. Vậy Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng là gì. Cứ theo cơ cấu của câu nói, Tin Mừng tức là Nước Thiên Chúa đã gần đến. Đàng khác, chúng ta cũng đọc được nơi Phúc Âm Luca đoạn 17, câu 21, "Ngài đáp lời và nói: 'Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được, này ở đây, hay ở đó, vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông." Nơi những đoạn Phúc Âm khác, chúng ta cũng đọc được lời xác định, Nước Thiên Chúa ở trên các ông, hoặc ở giữa các ông. Đặc biệt nơi Phúc Âm Matthêu đoạn 10 câu 19 đến câu 20 được viết, "Khi người tanộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, haynói gì, vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi." Xét như vậy, câu nói "Nước Thiên Chúa đã gần đến" có nghĩa Nước Thiên Chúa ở trong, ở giữa, ở trên các ông.

Thêm vào đó, câu "Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi" mang nghĩa Cha các ngươi ở trong các ngươi vì Thần Khí của Cha cũng chính là Thiên Chúa mà thôi. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu nơi mọi vật mọi loài nên Nước Thiên Chúa chính là Ngài. Nước Thiên Chúa đã gần đến có nghĩa Thiên Chúa ở nơi mọi loài, nơi mọi người. Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Như vậy, tin mừng Đức Giêsu rao giảng có thể là "Sự suy nghĩ theo lề lối cũ cần được chấm dứt. Thiên Chúa ngự trị nơi anh em. Anh em hãy bỏ lối nhận thức cũ và tin vào những điều Ta rao truyền." Trong những ngày mùa chay này, tôi đề nghị quý ông bà anh chị em luôn luôn suy nghĩ về ý nghĩa và phương thức áp dụng câu Phúc Âm: Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Emmanuel) (Mt. 1:23). Nếu Chúa ở nơi mình thì cuộc đời mình chính là sự hiện thể của Chúa nơi thế giới hữu hình. Và như vậy, Thiên Chúa đang hiện thể nơi mọi vật, mọi loài, hữu hình và vô hình. Mỗi người chúng ta chính là sự hiện thể của Thiên Chúa dưới dạng thức con người.

Tóm lại, lời Phúc Âm hôm nay khuyến khích chúng ta nhận thực Thiên Chúa đang hoạt động nơi chính mình, nơi mọi người và muôn loài.

CHỦ NHẬT 2B MÙA CHAY 94 (Mc. 9:2-10)

2 Sáu ngày sau, ÐứcYêsu đem theo mình Phêrô, Yacôbê và Yoan, và đưa họ lên một núi cao, riêng biệt ra, chỉ có họ. Và Ngài đã biến hình trước mặt họ: 3 áo Ngài rạng ngời trắng tinh không thợ giặt trần gian nào phiếu được trắng như thế. 4 Có Êlya hiện ra cho họ, cùng với Môsê; và hai vị đàm đạo với Ðức Yêsu. 5 Cất tiếng lên, Phêrô nói với Ðức Yêsu: "Rabbi, may quá có chúng tôi ở đây! Ðể chúng tôi dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elya!" 6 Vì ông không biết phải ứng đáp làm sao, bởi họ kinh hải quá. 7 Xảy đến một đám mây rợp bóng trên họ, và một tiếng phát ra tự đám mây: "Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài!" 8 Bỗng đưa mắt nhìn quanh, họ không thấy ai, duy chỉ có một mình Ðức Yêsu ở với họ.

9 Trong khi họ xuống núi, thì Ngài căn dặn họ không được thuật lại cho ai hay các điều họ đã thấy, trừ phi khi Con Người đã sống từ cỏi chết. 10 Họ đã giữ lời dạy, tuy họ vẫn tranh luận với nhau: "sống lại từ cõi chết" là gì.

Mỗi khi đọc Kinh Thánh thấy nhắc đến tên của thánh Phêrô, tôi cảm thấy vui vui vì nhận thấy rằng thánh Phêrô phần nào đó mang đầy tính chất người như chúng ta. Chẳng hạn, trong Phúc Âm thánh Mathêu đoạn 14 câu 22 đến câu 30 kể lại chuyện Chúa Giêsu đi trên mặt hồ; thánh Phêrô xin Chúa cho được đi trên mặt nước như Ngài. Chúa đồng ý và rồi thánh Phêrô đi trên mặt nước nhưng chẳng hiểu sao lại bị rớt xuống nước gần chết đuối phải la ầm lên xin Chúa cứu. Đoạn Phúc Âm kết luận rằng sở dĩ thánh Phêrô té nhào xuống nước vì thiếu đức tin. Tôi nghĩ, cứ dùng sự suy xét bình thường để nhận định thì lý do mà thánh Phêrô xuýt bị chết đuối vì ông không biết bơi.

Đọc bài Phúc Âm hôm nay, hai câu hỏi khó giải quyết đã làm tôi suy nghĩ nhưng khó kiếm được câu giải đáp cho toàn vẹn. Câu hỏi thứ nhất là tại sao đoạn Phúc Âm đã trình bày Chúa Giêsu hoàn toàn khác lạ với những hình ảnh thường thấy của Ngài những khi giảng dạy cho dân chúng. Đoạn Phúc Âm nói đến sự hiện diện của tiên tri Êlia và Môi Sen nói chuyện với Chúa Giêsu và khung cảnh đã ảnh hưởng khiến thánh Phêrô hoảng sợ, nói những điều mà không biết mình nói gì. Tuy nhiên sự thắc mắc khác lại đến với tôi và đó là tại sao trong sách Tông Đồ Công Vụ, nơi những bài giảng sau ngày Chúa Giêsu sống lại, thánh Phêrô lại không đá động gì về hình ảnh vinh quang này của Chúa Giêsu? mà hình như thánh Phêrô đã cố ý tảng lờ không muốn nói tới. Chẳng hạn trong Tông Đồ Công Vụ đoạn 10, câu 38, thánh Phêrô nói về những điều tốt lành Chúa Giêsu đã thực hiện như sau: "Đức Giêsu, người Nazaret: Thiên Chúa đã xức dầu cho Ngài bằng Thánh Thần và quyền năng; và Ngài đã ngang qua thi ân giáng phúc và chữa lành mọi kẻ bị quỉ ma áp bức thống trị, vì Thiên Chúa ở cùng Ngài." Đọc sách Tông Đồ Công Vụ, ngoại trừ mấy câu quí ông bà anh chị em vừa nghe, bất cứ khi nào nói tới Chúa Giêsu, thánh Phêrô chỉ tuyên xưng về Ngài là người bị dân Do Thái kết án, chết trên thập giá và đã sống lại vào ngày thứ ba sau khi chết. Đây là một thí dụ, đoạn 4 của Tông Đồ Công Vụ ghi lại, "Bấy giờ được đầy Thánh Thần, Phêrô đã nói cùng họ: 'Thưa chư vị đầu mục của dân, cùng hàng niên trưởng, nếu hôm nay nhân vì một việc nghĩa làm cho một người tàn tật, mà chúng tôi bị tra hỏi: Nhờ ai mà người ấy đã được cứu? Xin chư vị hết thảy cùng toàn dân Israel biết rằng: chính là nhân danh Giêsu Đức Kitô người Nazaret, người các ông đã cho đóng đinh thập giá, nhưng Thiên Chúa đã cho sống lại từ cõi chết, chính nhân danh ấy mà người này được đứng trước mặt các ông an lành mạnh khỏe." Mọi chuyện đã xảy ra vì nhân danh Chúa Giêsu chứng tỏ rằng tin vào Chúa và Ngài đã làm. Câu hỏi thứ nhì đến với tôi là tại sao Chúa Giêsu lại cứ cấm các môn đệ và những người được Ngài chữa lành không được nói về những chuyện cả thể, tốt lành Ngài đã làm nhưng luôn luôn nhấn mạnh rằng chính đức tin của họ đã chữa lành họ, hoặc đức tin của họ cứu họ, hay là vì tin mà chuyện đã xảy ra? Tôi nghĩ rằng quí ông bà, anh chị em biết rõ câu trả lời cho hai câu hỏi đã làm tôi suy gẫm nhiều. Câu trả lời rất rõ ràng là Chúa Giêsu cam đoan cho chúng ta biết là chính Ngài đang làm việc nơi mỗi người chúng ta; Thiên Chúa đang ngự trị nơi mỗi người. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có thực sự ý thức rằng Chúa đang hiện diện nơi chính thân xác mình hay không.

Nếu chúng ta thực sự nhận ra Chúa đang ở trong mình, tất cả những gì được gọi là phép lạ, chúng ta đều có thể thực hiện được. Nếu chúng ta nhận thực Chúa ở trong mình từng giây từng phút, chúng ta không có thể nghĩ đến những điều chẳng nên mà chỉ có thể nghĩ về những điều tốt lành mà thôi. Chúng ta nhận thực mình là người lỗi lầm, nào có gì đâu, xưng tội là hết. Nhưng lý do gì chúng ta đã vấp phạm những lỗi lầm? Đó chỉ là vì chúng ta đã không thực sự nhận ra Chúa đang ngự trị nơi chính mình và thân xác chúng ta là đền thờ của Ngài. Chúa ngự nơi chúng ta và mỗi người ở trong Chúa. Thế nên, căn nguyên của những lỗi lầm lại là sự không nhận biết Chúa đang hiện diện nơi chính mình để rồi chúng ta hành động, nói, nghĩ, đối xử với người khác như là không có Chúa, và đã sống trong quan niệm Chúa chỉ ngự nơi một thiên đàng xa thẳm nào đó. Chúa Giêsu đã dạy qua Phúc Âm thánh Gioan: "Ai tin vào ta sẽ làm được tất cả những việc ta đã làm." Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.

CHỦ NHẬT IIB MÙA CHAY (Mc. 9:2-10)

Trong kinh cầu chịu nạn chúng ta thường đọc vào mùa chay có câu: "Chúa Giêsu xuống ngục tổ tông yên ủi các thánh." Điều này có nghĩa, ngày xưa người Công Giáo cho rằng sau khi Đức Giêsu chịu nạn tắt thở, thần khí của Ngài xuống ngục tổ tông giải thoát các thánh. Nếu tôi không lầm, ngày xưa chúng ta cũng được dạy rằng trước khi Đức Giêsu chuộc tội, không ai được lên thiên đàng do sự ràng buộc bởi tội tổ tông như kết quả bất tuân lệnh mà ăn trái cấm của bà Evà. Đây chỉ là sự suy luận của con người, Phúc Âm không hề nói tới. Tuy nhiên, bài Phúc Âm vừa được công bố nói đến sự biến hình của Đức Giêsu và tiên tri Êlia cùng với Maisen hiện ra đàm đạo với Ngài. Sách các vua quyển II đoạn 2, câu 11 chép rằng khi tiên tri Êlia đang cùng với Êlisa nói chuyện bên bờ sông Jordan thì có một xe bằng lửa và những ngựa lửa tách giữa hai người và tiên tri Êlia lên trời trong cơn gió lốc. Điều này rõ ràng Kinh Thánh nói trái ngược với điều chúng ta được dạy đó là không ai được vào nước thiên đàng trước khi Chúa chuộc tội. Đàng khác, Maisen cũng chết trước thời Đức Giêsu không biết bao nhiêu năm. Như vậy trong thời gian Đức Giêsu đang rao giảng Tin Mừng Nước Trời, nghĩa là Ngài chưa chịu nạn, thì cách nào Mai sen có thể hiện đến để đàm đạo với Đức Giêsu? Nếu ai đã suy gẫm về bài Phúc Âm hôm nay, tất nhiên sẽ phải đối diện với vấn nạn này.

Suy luận như thế chúng ta thấy, bài Phúc Âm khuyến khích chúng ta để ý hai điểm rõ ràng. Điểm đầu tiên đó là tiên tri Êlia và Maisen đã qua đi trước Đức Giêsu bao nhiêu năm nhưng đã hiện ra để đàm luận với Ngài. Điều này muốn nói lên rằng con người còn có cuộc sống khác sau khi thân xác lìa cõi trần. Điểm thứ hai đó là Phêrô, Giacôbê, và Gioan tiếp tục nghi vấn để cố tìm hiểu ý nghĩa "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?" Điểm này chứng tỏ cho chúng ta thấy vào thời điểm của Đức Giêsu người ta không nghĩ rằng có sự sống lại từ cõi chết bởi thế Phêrô, Giacôbê, và Gioan cũng không hiểu Đức Giêsu muốn nói gì.

Chúng ta biết rõ ràng mỗi người gồm có hai thực thể hữu hình và vô hình. Thành phần hữu hình chính là thân xác, những sinh hoạt trong cuộc sống, và tất cả những gì chúng ta có thể nhận biết được qua ngũ quan. Thành phần vô hình chính là linh hồn, thực thể tâm linh nơi mỗi người. Thực thể tâm linh này được thể hiện qua ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, cảm tình, những sự hiểu biết v.v... Thực thể tâm linh là chủ động của bất cứ hoạt động nào của con người, từ ý nghĩ, ý định đến hành động ăn ngủ hoặc sinh hoạt hàng ngày. Phúc Âm thánh Gioan viết rõ ràng về thực thể tâm linh hay linh hồn của chúng ta nơi đoạn 6 câu 63, "Thần khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì." Suy nghiệm chín chắn câu Phúc Âm này chúng ta sẽ nghiệm chứng được thân xác chỉ là dụng cụ cho linh hồn hoạt động. Thế nên, tất cả những sinh hoạt tâm linh hay thế tục nơi một người đều được phát xuất từ linh hồn. Đã bao lần chúng ta nghe hoặc đọc những câu Phúc Âm nói về sự thể này nhưng có lẽ đã quá quen thói nghe cho qua hoặc khinh thường không cần để ý nên lời Phúc Âm coi chừng đã không giúp ích gì được cho chúng ta. Theo Phúc Âm, chính Thiên Chúa dẫn dắt từng người; Thánh Thần Thiên Chúa luôn luôn sẵn sàng soi sáng mà chúng ta đã không cho Ngài cơ hội. Sự thể coi thường Phúc Âm hoặc không để tâm suy nghiệm lời Chúa có thể do kết quả của lối nhìn hoặc lối suy luận Phúc Âm theo ý nghĩ thế tục, luân lý. Thế nên, Phúc Âm Gioan đã đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, "Lời Ta đã nói với các ngươi là Thần khí và là sự sống. Nhưng trong các ngươi có những kẻ không tin" (6:63b-64a). Như vậy, không tin có nghĩa không chịu để ý, tìm hiểu hoặc suy luận, suy nghiệm những lời Phúc Âm.

Linh hồn chúng ta, thực thể tâm linh nơi mỗi người không thể chết. Nơi cuộc sống hữu hình, thân xác chúng ta chính là công cụ cho linh hồn hoạt động hầu được thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh. Mục đích của hành trình này là đạt đến trạng thái nhận thực Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình. Và như vậy, linh hồn mỗi người còn được gọi là Thiên Chúa nội tại. Bởi vậy, thân xác chúng ta chỉ được coi như chiếc đò chở hồn nơi giòng đời và những biến chuyển trong cuộc sống đều là phương tiện hay cơ may cho linh hồn học hỏi những bài học một người cần phải học. Nói cách khác, những sự việc nơi cuộc sống là những cơ hội cho linh hồn phát triển, thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh, hành trình nhận chân thực thể chính mình.

Bài Phúc Âm nêu lên phương pháp thiết yếu cho mọi người nơi lời nói được phán từ đám mây, “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người.” Những lời dạy của Đức Giêsu được gọi là Phúc Âm. Nghe lời Đức Giêsu có nghĩa đọc, tìm hiểu, suy nghiệm những sự khôn ngoan nơi Phúc Âm để áp dụng trong hành trình nhận thức tâm linh, hành trình đức tin, hầu nhận biết chân thực sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người.

Tóm lại, cuộc đời chúng ta không phải là hết sau khi thân xác chết mà chúng ta còn có cuộc sống vô hình tiếp theo. Cuộc sống chúng ta biến đổi chứ không mất đi; sự biến đổi này chính là cái chết của thân xác nhưng linh hồn vẫn tiếp tục hiện hữu. Và những gì chúng ta thực hiện trong cuộc đời, linh hồn chúng ta chịu trách nhiệm và bị ảnh hưởng nơi cuộc sống tiếp nối. Nhận thực như thế, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em dùng những ngày tháng của mùa chay này tự suy gẫm để nhận thực mình là gì đối với cuộc đời vĩnh cửu.

CHỦ NHẬT 3B MÙA CHAY(Gioan. 2:13-25)

2:13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 2:14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 2:15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền Thờ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 2:16 Người nói với những kẻ bán bồ câu: "Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán." 2:17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh: Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân. 2:18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su: "Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế?" 2:19 Đức Giê-su đáp: "Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại." 2:20 Người Do-thái nói: "Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao?" 2:21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 2:22 Vậy, khi Người từ cõi chết chỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, Họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói. Đức Giê-su ở tại Giê-ru-sa-lem 2:23 Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ tin vào danh Người bởi đã chứng kiến các dấu lạ Người làm. 2:24 Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì Người biết họ hết thảy, 2:25 và không cần ai làm chứng về con người. Quả thật, chính Người biết có gì trong lòng con người.

Phúc Âm thánh Luca đoạn 2 từ câu 22 đến câu 24 nói về nghi lễ Đức Mẹ và thánh Giuse dâng Chúa Giêsu vào đền thờ được chép như sau, "Và khi đã đầy ngày, lúc phải làm lễ tẩy uế cho các đấng theo luật Môisen, thì ông bà đem hài nhi lên Yêrusalem tiến dâng cho Chúa - như đã viết trong Luật Chúa là mọi trai đầu lòng sẽ được gọi là của thánh dâng kính Chúa, và chiếu theo điều đã dạy trong luật Chúa - để dâng làm lễ tế một cặp chim gáy hay hai bồ câu tơ." Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố, Đức Giêsu lên đền thờ đánh đuổi tất cả những người buôn bán chiên bò hoặc đổi tiền, đồng thời nói với những người bán chim bồ câu, "Hãy đem những thứ nầy ra khỏi đây, và đừng làm nhà Cha Ta thành nơi buôn bán." Tôi muốn nêu lên điểm so sánh này để mọi người cùng suy tư về quan niệm và tâm tình của mình trong sự thực hành sống đạo đối với lề luật hầu giúp phần nào hành trình nghiệm chứng đức tin nơi mỗi người chúng ta.

Suy gẫm về bài Phúc Âm hôm nay, câu Phúc Âm, "Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và các điều khác sẽ được ban cho các ngươi" đã ảnh hưởng chúng ta cách khác thường vì thái độ của Đức Giêsu đối với những người buôn bò, bán dê, bồ câu, và đổi tiền nơi đền thờ. Thực ra, vào thời xưa cũng như ngày nay, dù tôn giáo phát xuất từ tâm linh nhưng những điều kiện vật chất để bảo trì đền thờ và những sinh hoạt tôn giáo đã trở thành áp lực quá nặng nề nơi tổ chức tôn giáo. Nói rộng hơn, tiền bạc, luân lý, luật lệ, v.v... đều quy về một mục đích đó là bảo vệ và phát triển tổ chức thế tục được gọi là tôn giáo mà chúng ta dùng tiếng ngắn gọn đó là đạo. Thế nên, việc buôn bán, đổi chác nơi đền thờ Yêrusalem ngày xưa cũng giống như hội chợ của các xứ đạo bây giờ mà thôi. Bởi thế, tôi nghĩ, thái độ của Đức Giêsu được ghi lại một cách quá quắt như thế, có lẽ Phúc Âm muốn nhấn mạnh đến nỗi đau lòng của bậc thức giả khi nhận định về tâm thức người đời nơi hành trình tâm linh vì bình thường, người ta đã chỉ quan niệm một cách hạn hẹp, cho rằng giữ đạo chỉ là tuân theo những lề luật, bảo vệ và phát triển tổ chức thế tục mà thôi. Và rồi những kết quả gì đã xảy ra? Giáo dân theo đạo lấy lệ, để chu toàn luật Giáo Hội, để khỏi mắc tội, khỏi bị phạt. Giáo sĩ thì quay cuồng với quyền cao chức trọng tưởng rằng càng chức tước lớn thì càng là vị thánh to, đến nỗi không dám tự hỏi mình thực sự là gì và như thế nào.

Đoạn cuối của bài Phúc Âm khiến tôi quá ngạc nhiên vì những câu hỏi cứ như những mũi dùi đâm tràn tới. Tại sao Phúc Âm viết, "Nhưng chính Chúa Giêsu không tin tưởng nơi những kẻ tin tưởng nơi Ngài vì mục kích những phép lạ Ngài thực hiện.” Tại sao Đức Giêsu biết tất cả mọi người và không cần ai làm chứng vềngười nào? Ngài biết rõ mọi điều trong lòng người ta là những điều gì? Phỏng chúng ta không được mục kích Chúa làm phép lạ thì sự tin tưởng của chúng ta nơi Chúa như thế nào? Và đức tin của chúng ta ra sao nếu đem so sánh với điều Phúc Âm gọi là đức tin hay lòng tin?

Khi đọc hoặc nghe công bố Phúc Âm, chúng ta thường để ý đến những sự việc Đức Giêsu thực hiện được gọi là phép lạ. Chúng ta cũng thường cho rằng Chúa làm phép lạ để chứng tỏ quyền năng của Ngài. Bình tâm nhận định, tâm tình của chúng ta chẳng khác gì thái độ của dân Do Thái ngày xưa. Nói lên sự thật chắc chắn sẽ bị mất lòng; nhưng thực ra, nói rằng tin tưởng hay cho rằng Đức Giêsu đầy quyền phép thì mình cũng chẳng được hưởng chút gì quyền phép của Ngài. Tương tự, nói rằng chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu chỉ có nghĩa chúng ta tin có Chúa hiện hữu, chúng ta tin có Đức Giêsu đã có cuộc sống nơi trần gian này... chẳng khác gì chúng ta cho rằng có những trạm không gian nơi bầu trời, có vệ tinh truyền hình và truyền thanh, có máy điện thoại cầm đi bất cứ đâu gọi cũng được. Xét thế, điều được gọi là tin này chẳng đem lại lợi ích gì cho bất cứ ai vì mọi người đều biết, cầm chiếc điện thoại nói chuyện với ai đó thì chẳng cần nói rằng tin là có điện thoại mình vẫn đang nói chuyện. Tương tự như thế, chỉ nói rằng có đức tin, hoặc tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu mà không nhận biết cũng như không cảm thấy sự hiện hữu và hoạt động của Ngài nơi mình tất nhiên chẳng được ơn ích gì. Sự suy luận này thách đố mọi người chúng ta nên để tâm nghiệm lại về điều được gọi là đức tin nơi mình.

Một vấn đề khác thách đố chúng ta đó là hai tiếng Tin Mừng hay còn được gọi là Phúc Âm. Chúng ta cần phân biệt Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng và Tin Mừng về Đức Kitô. Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng là những điều Ngài dạy chúng ta áp dụng trong cuộc sống tâm hồn để đạt tới điều được gọi là đức tin hay lòng tin. Muốn thế, chúng ta cần suy nghiệm về những câu nói khôn ngoan, thâm trầm nhưng mang vẻ nghịch thường nơi Phúc Âm. Chẳng hạn, "Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa," hoặc, "Kẻ nào yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta." Tin Mừng về Đức Kitô thì đã được rao giảng hai ngàn năm, và thường thì chúng ta nghe để ca tụng quyền phép của Ngài, ca tụng lòng yêu thương của Ngài... thế là hết... Trong Phúc Âm Ngài nói đức tin con chữa con, đức tin con cứu con, đức tin con là ơn cứu độ của con mà mỗi khi ốm đau, bệnh tật chúng ta không dùng đức tin, chúng ta dùng ông hay bà bác sĩ.

Tóm lại, tôi đề nghị chúng ta dùng thời gian còn sót lại của mùa chay này để tâm nghiệm chứng lời rao giảng của Đức Giêsu nơi Phúc Âm. Ước mong rằng Lời Chúa sẽ soi sáng cho chúng ta cảm nhận rõ hơn sự hiện diện và hoạt động của Ngài nơi mọi người Amen.

CHỦ NHẬT 4 B MÙA CHAY (Gioan 3:14-21)

3:14 Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 3:15 để ai tin vào Người thì được sống muôn đời. 3:16 Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 3:17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. 3:18 Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. 3:19 Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. 3:20 Quả thật, ai làm điều ác,thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. 3:21 Nhưng kẻ sống theo sự thật,thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa."

Qua bài Phúc Âm, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em để ý đến câu, “Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.” Đồng thời chúng ta cũng nên suy nghiệm lối diễn tả của Phúc Âm nơi câu nói trước đó, “Để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất.”Vì Phúc Âm cũng nói, “Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi.” Ai trong chúng ta cũng đều tuyên xưng rằng mình tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô nhưng tại sao chúng ta vẫn dùng ngôn từ Chúa phạt? Đồng thời, cũng theo lời Phúc Âm, nếu Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian vì sự luận phạt lại chính là người trần đã yêu sự tối tăm hơn sự sáng và vì hành động của họ xấu xa thì chúng ta phải suy nghĩ và sống cách nào? Tại sao Phúc Âm lại vơ đũa cả nắm khi viết rằng “Vì hành động của họ xấu xa” trong khi chúng ta đều nhận thấy đâu phải hành động nào cũng xấu xa! Chẳng lẽ cả đời chúng ta không có được hành động nào đáng gọi là tốt lành, thánh thiện? Phỏng có phải tại vì câu Phúc Âm này mà có những bè phái cho rằng tất cả những hành động của chúng ta đều xấu hết vì đều phát sinh từ những con người tội lỗi chẳng khác gì kết quả của cây chua tất phải sinh trái chua? Thế nên câu hỏi được đặt ra, sự luận phạt gốc gác phát xuất tự đâu và ý nghĩa của câu Phúc Âm “Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi”như thế nào?

Trước hết, tôi muốnnhấn mạnh một điều, đó là Phúc Âm không phải là sách dạy luân lý thế tục hoặc Kinh Thánh không phải sách ghi chép lịch sử của những đám dân chỉ biết dùng miệng hô hào tin vào Chúa. Phúc Âm hoặc Kinh Thánh dùng những sự kiện có thể nhận biết bằng suy nghĩ thế tục để giúp tâm trí một người chiêm nghiệm, suy gẫm hầu nhận thức thực thể chính mình. Phúc Âm là những câu nói khôn ngoan được ráp nối lại thành câu truyện để chúng ta dễ nhớ và từ đó suy gẫm, phân tích, nghiệm chứng trong cuộc đời hầu nhận ra con người của mình không phải chỉ là xác thân có cuộc sống ngắn hạn nơi cuộc sống hữu hình này mà tất cả chúng ta đều có cuộc sống tiếp nối của linh hồn sau khi chết.

Cuộc sống nơi trần gian này bao gồm hai phần, cuộc sống xác thân và cuộc sống tâm linh. Bình thường, chúng ta đã quá quen thuộc với lối suy luận thế tục nên chỉ hiểu lời Kinh Thánh theo quan niệm thông thường và khi nào vô tình thấy câu nói nghịch lý thì cố ý tảng lờ, cho rằng lời Chúa mình không hiểu nên chấp nhận bỏ qua; bỏ qua vì quá sợ hãi Chúa phạt lỡ mình dám láo lếu phân tích lời Phúc Âm. Chẳng hạn, nơi Phúc Âm thánh Máthêu có câu, "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng làm môn đệ ta. Kẻ yêu con trai, con gái hơn ta không đáng làm môn đệ ta" (Mt. 10:37) vậy câu này có nghĩa gì, làm sao chúng ta có thể áp dụng trong cuộc sống đức tin, và ai thực sự có thể yêu Chúa hơn cha mẹ, vợ chồng, hay con cái?

Nếu nhìn lại trong cuộc sống, giữa vợ chồng, cha mẹ, con cái, những chuyện phiền hà xảy đến hàng ngày là do bất đồng tư tưởng, ý nghĩ phát sinh thì chúng ta có thể nhận được quan niệm, ý nghĩ, ý muốn của một người đối với họ vẫn quan trọng, thân thiết đối với họ hơn tình nghĩa vợ chồng hay cha mẹ hoặc con cái. Suy vậy, nếu đem quan niệm hay ý nghĩ thay thế cho cha mẹ hay con cái, chúng ta sẽ nhận rõ được câu Phúc Âm chỉ dùng cha mẹ, con cái làm ám dụ để nói lên điều kiện tâm trí của người muốn tìm hiểu và thăng tiến tâm linh theo Phúc Âm. Như vậy, câu nói. "Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng làm môn đệ ta. Kẻ yêu con trai, con gái hơn ta không đáng làm môn đệ ta" có nghĩa, kẻ nào vẫn còn lệ thuộc, hay bám víu vào lề lối suy tư theo thói quen để tìm hiểu Phúc Âm qua nhận định thế tục sẽ không thể nào hiểu được lời Phúc Âm nói gì.

Tương tự như thế, lời Phúc Âm nhắc nhở, ”Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi” khiến chúng ta cần suy gẫm ýnghĩa của chữ tin. Nơi Phúc Âm thánh Gioan đoạn 14 câu 12 được viết, “Quả thật Ta bảo các ngươi, kẻ tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa, vì Ta đi đến cùng Cha.” Chúng ta đều tuyên xưng rằng tin vào Chúa Giêsu, tin vào Thiên Chúa nhưng không ai có thể làm được như Ngài thì chữ tin dùng trong Phúc Âm mang nghĩa không giống nhưnhững ngôn từ chúng ta thường dùng mà có nghĩa khác. Chữ tin dùng trong Phúc Âm có nghĩa đạt tới trạng thái nào đó. Như vậy, câu Phúc Âm mang ý tứ, kẻ nào đạt tới trạng thái cuộc sống tâm thức như Đức Giêsu diễn tả nơi Phúc Âm thì sử dụng được quyền năng như chính Ngài.

Thế nên, bất cứ ai, suy gẫm, suy nghiệm, chiêm nghiệm Phúc Âm, chiêm nghiệm những lời Đức Giêsu rao giảng thì mới tránh khỏi bị luận phạt. Bất cứ ai không chịu suy gẫm Phúc Âm, đều bị kết án vì Lời Chúa là ánh sáng soi dẫn tâm trí chúng ta nơi hành trình tâm linh mà đã bị coi thường. Chúng ta có thể ví lời Chúa như ánh đèn trong đêm tối. Đèn có sẵn mà không dùng, tất nhiên lăn xuống hố hay đâm lề đường. Hoặc chúng ta có thể ví lời Phúc Âm chẳng khác gì mâm cỗ được dọn sẵn, ai không ăn tất nhiên bị đói. Sự đói chính là hình phạt chứ đâu cần Chúa phải phạt. Lái xe trong đêm tối mà không có đèn, đâu cần ai phạt vẫn lăn xuống hố.

Tương tự như thế, tất cả những hành động không được hướng dẫn bởi kết quả của sự chiêm nghiệm Phúc Âm đều bị coi là hành động xấu xa. Điều này ai đạt tới sẽ ý thức được. Bất cứ ai chưa đạt tới thì nói mấy cũng không đem lại ơn ích gì. Tóm lại, bài Phúc Âm nhắc nhở chúng ta điểm quan trọng; lời Phúc Âm là ánh sáng dẫn đường thăng tiến tâm linh. Ai không suy gẫm để áp dụng nơi cuộc sống, mọi hành động đều được coi là xấu xa hoặc là yêu sự xấu xa hơn sự sáng. Tin vào Đức Giêsu có nghĩa suy gẫm, chiêm nghiệm những câu nói Phúc Âm để áp dụng trong cuộc sống và thăng tiến trong hành trình đức tin, hành trình tâm linh nơi mỗi người. Amen.

CHỦ NHẬT 5B MÙA CHAY (Gioan 12: 20-33)

12:20 Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. 12:21 Họ đến gặp ông Phi-líp-phê, người Bết-xai-đa, miền Ga-li-lê, và xin rằng: "Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giê-su." 12:22 Ông Phi-líp-phê đi nói với ông An-rê. Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giê-su. 12:23 Đức Giê-su trả lời: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! 12:24 Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. 12:25 Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. 12:26 Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy." 12:27 "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. 12:28 Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha." Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: "Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!" 12:29 Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: "Đó là tiếng sấm!" Người khác lại bảo: "Tiếng một thiên thần nói với ông ta đấy!" 12:30 Đức Giê-su đáp: "Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. 12:31 Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài! 12:32 Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." 12:33 Đức Giê-su nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào.

Mới đọc hoặc nghe công bố đoạn Phúc Âm theo thánh Gioan, thường chúng ta có cảm tưởng cũng như đã được nghe nhiều giải thích cho rằng đoạn Phúc Âm này ám chỉ về sự khổ nạn sắp đến đối với Đức Giêsu theo câu cuối cùng diễn giải, “Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.” Để ý câu này, chúng ta nhận thấy câu viết giải thích về lời nói của Đức Giêsu chứ không phải chính Ngài nói. Tất nhiên, bất cứ sự giải thích nào thì cũng đều tùy thuộc quan điểm người nhận định. Đàng khác, đọc kỹ và để ý suy tư, chúng ta sẽ nhận thấy đoạn Phúc Âm dùng những hình ảnh thực tại để giúp chúng ta nhận thức sự khôn ngoan như hành trang cho mọi người nơi hành trình tâm linh, hành trình nhận thức Tin Mừng Nước Trời. Thế nên, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em để ý đến đôi câu Phúc Âm nơi bài đọc đó là, “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thìsẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự ta cũng sẽ ở đó.”

Ngôn từ ”Thối đi” dùng để diễn tả sự nảy mầm của hạt lúa mì không được chỉnh. Nếu tôi không lầm, đây là kết quả thiếu hoàn chỉnh của sự diễn dịch dựa theo ngôn ngữ nhưng thiếu phần áp dụng nơi nghĩa ám định hoặc lối phát biểu tùy thuộc văn hóa ảnh hưởng ngôn ngữ nơi xã hội mà Phúc Âm được viết. Chẳng hạn,nơi tiếng Việt, chúng ta nói, “Ăn như hổ” trong khi nơi tiếng Mỹ, nếu dịch theo chữ mà không theo nghĩa thì họ lại nói “Ăn như ngựa.” Nơingôn ngữ Việt, khi gieo hạt giống, chúng ta không gọi hạt giống thối đi mà nói hạt giống nẩy mầm, hoặc trước khi nẩy mầm, chúng ta gọi hạt giống chương lên hay thế nào đó tùy địa phương. Khi chúng ta nói đến hạt giống thối tất nhiên không thể mọc được. Thêm vào đó, khi hạt giống chương lên vànẩy mầm, tất nhiên hình hài săn, mẩy của hạt giống khô đã bị chuyển biến và đồng thời tính chất cũng như hình thái từ từ thay đổi toàn diện. Như vậy, điểm chúng ta cần để ý ở đây, Phúc Âm viết “Thối đi” có nghĩa hạt giống hút nước, chương lên, và nẩy mầm chứ không phải hư hỏng theo ý nghĩa của ngôn từ nơi tiếng Việt.

Như vậy có thể nhận định theo kinh nghiệm, nếu hạt giống không biến đổi thì sẽ không mọc thành cây, sinh hoa kết trái. Aùp dụng nơi cuộc sống tâm linh, nếu chúng ta không biết mở rộng nhận định mà chỉ cố tình hiểu Phúc Âm và giảng giải theo nghĩa đen tất nhiên chẳng được lợi ích gì nếu không muốn nói cũng như hạt giống, để lâu quá sẽ bị trẫm, có gieo cũng không thể mọc được. Như vậy, nếu chúng ta không suy nghĩ mà chỉ đọc Phúc Âm thế nào, hiểu và áp dụng như vậy đã chẳng được ơn ích gì mà coi chừng chỉ có hại.

Câu nói nghịch với sự suy nghĩ bình thường nơi mọi người đó là, “Ai yêu sự sống mình thìsẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Cứ mỗi lần đọc câu này, một ý nghĩ đến với tôi; đó là, “Nếu câu này không phải từ Phúc Âm, bất cứ ai dám cả gan phát biểu kiểu này, có ngày sẽ bị ốm đòn hoặc bị coi là khùng điên.” Chúng ta đọc nơi thơ văn, luật lệ, ngay cả nơi tôn giáo…mọi thời, mọi chốn, con người khuyến khích bảo vệ sự sống chẳng những của mình mà còn của người khác. Nơi đất Mỹ, sửa phạt con cái coi chừng bị nhốt vô khám. Tôn giáo lên án những người tự tử, những kẻ giết người trong khi Phúc Âm nói “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất.” Hơn nữa, Phúc Âm nói, “Ai ghét sự sống mình thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời.” Tôi nghĩ, đâu cần chi phải nói đến ghét với thương, chỉ lười không nấu ăn một bữa có thể chẳng những chén đĩa bay mà coi chừng nóc nhà cũng bay chứ nói chi tới sự sống đời đời.

Như vậy, yêu sự sống mình có nghĩa gì, và ghét sự sống mình ở đời này làm sao có thể thực hiện? Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy, ngay cả đối với những người thân yêu nhất như vợ chồng, cha mẹ, hoặc con cái, khi những chuyện bất đồng ý kiến xảy ra đến độ cải vã, mích lòng, thì tư tưởng, ý nghĩ, hay quan niệm của mình chính là những gì thân thiết hơn đối phương trong cuộc. Chúng ta cũng kinh nghiệm và nhận thấy nơi những người chung quanh, những ước muốn, ý thích, đam mê đã lôi cuốn con người sống chết cho nó.

Như vậy, chính quan điểm, ước muốn, ước mơ đang điều hành cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đang sống cho ước muốn, ước mơ; chúng ta đang là nô lệ cho ước muốn, ý định riêng của mình. Thế nên, chúng ta có thể hiểu, “Yêu sự sống” mình có nghĩa ai lấy ý mình, quan điểm của mình làm hơn hoặc những ai chỉ biết chạy theo ước muốn thế tục, những ai không chịu suy nghĩ, nghiệm chứng lời Phúc Âm, tất nhiên đã không dùng lời Phúc Âm để nghiệm chứng Nước Thiên Chúa, và như vậy có nghĩa từ chối sự sống đời đời. Bởi thế, ai theo Đức Giêsu, ai phụng sự Đức Giêsu, cần nghiệm chứng Phúc Âm, nghiệm chứng lời Ngài rao giảng để phát triển cuộc sống tâm linh vì ước muốn của chúng ta ở đâu thì lòng dạ chúng ta cũng ở đó.

Tóm lại, bài Phúc Âm khuyến khích chúng ta suy gẫm, nghiệm chứng lời Phúc Âm để nhận biết Tin Mừng Nước Trời, nhận biết quyền lực Thiên Chúa đang hoạt động từng giây từng phút nơi cuộc đời của mỗi người.

CHỦ NHẬT LỄ LÁB (Mc. 14:1-15:47)

Qua bài thương khó theo Phúc Âm thánh Marcô, chúng ta thấy ngày xưa người ta đã cố tìm mọi lý lẽ để kết án Chúa Giêsu nhưng đã không kiếm được điều gì sai lầm nơi Ngài. Vì thế, vị thượng tế đã dùng ngay lời nói sự thật về thực thể Thiên Chúa nơi Ngài để kết án Ngài là phạm thượng. Đối với quan niệm Do Thái, chúng ta cũng bị gọi là phạm thượng vì chúng ta tuyên xưng mình là con cái Thiên Chúa. Riêng đối với Đức Giêsu, lật nơi sách tiên tri Jêrêmia đoạn 18, câu 18, lời tiên tri dùng chính mình để ám chỉ về Đức Giêsu được viết, “Chúng nói: 'Nào! Ta hãy lập mưu tìm chuớc trị Jêrêmia, vì giáo huấn không thiếu nơi hàng tư tế; hay lời chỉ bảo, nơi hạng khôn ngoan; cùng Lời Yavê nơi hàng tiên tri. Nào! Ta hãy dùng chính lưỡi hắn mà trị hắn, và hãy để ý đến các lời lẽ của hắn.”

Để ý đến lời Chúa Giêsu cầu nguyện, “Lạy Cha! Cha có thể làm được mọi sự, xin tha cho con khỏi uống chén này. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” Lời cầu nguyện nói rõ Đức Giêsu chịu tử nạn theo ý của Thiên Chúa. Đọc Phúc Âm, nếu để ý, chúng ta sẽ nhận được cuộc đời Đức Giêsu được sai đến để thi hành sứ vụ mà Thiên Chúa trao phó đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Chúng ta cũng thế, mỗi người được sinh ra mang một nhiệm vụ tìm kiếm Nước Thiên Chúa, nỗi thao thức nhận biết mình là ai, và phải trải qua những hành trình cuộc đời để hoàn thành sứ mạng nào đó; chúng ta cần suy niệm và nghiệm chứng để nhận ra và chu toàn.

Phúc Âm chứa đựng lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Nếu muốn hoàn thành trọn vẹn sứ mạng của mình đã được sinh ra nơi thế giới hữu hình, chúng ta cần đọc và chiêm nghiệm Phúc Âm. Đặc biệt trong tuần thánh, chúng ta nên dành tất cả suy tư hướng về thái độ và những lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Nguyện xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng lòng trí chúng ta nghiệm chứng để nhận biết Tin Mừng Ngài đã rao giảng 2000 năm qua. Amen.

THỨ NĂM TUẦN THÁNH abc (Gioan 13:1-15)

13:1 Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng. 13:2 Ma quỷ đã gieo vào lòng Giu-đa, con ông Si-mon Ít-ca-ri-ốt, ý định nộp Đức Giê-su. 13:3 Đức Giê-su biết rằng: Chúa Cha đã giao phó mọi sự trong tay Người, Người bởi Thiên Chúa mà đến, và sắp trở về cùng Thiên Chúa, 13:4 nên trong một bữa ăn Người đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn mà thắt lưng. 13:5 Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 13:6 Vậy, Người đến chỗ ông Si-mon Phê-rô, ông liền thưa với Người: "Thưa Thầy! Thầy mà lại rửa chân cho con sao?"

13:7 Đức Giê-su trả lời: "Việc Thầy làm, bây giờ anh chưa hiểu, nhưng sau này anh sẽ hiểu."

13:8 Ông Phê-rô lại thưa: "Thầy mà rửa chân cho con, không đời nào con chịu đâu!" Đức Giê-su đáp: "Nếu Thầy không rửa cho anh, anh sẽ chẳng được chung phần với Thầy." 13:9 Ông Si-mon Phê-rô liền thưa: "Vậy, thưa Thầy, xin cứ rửa, không những chân, mà cả tay và đầu con nữa."

13:10 Đức Giê-su bảo ông: "Ai đã tắm rồi, thì không cần phải rửa nữa; toàn thân người ấy đã sạch. Về phần anh em, anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đâu!" 13:11 Thật vậy, Người biết ai sẽ nộp Người, nên mới nói: "Không phải tất cả anh em đều sạch."

13:12 Khi rửa chân cho các môn đệ xong, Đức Giê-su mặc áo vào, về chỗ và nói: "Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh em không? 13:13 Anh em gọi Thầy là `Thầy', là `Chúa', điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. 13:14 Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. 13:15 Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.

Một lần nữa, chúng ta đối diện với cảm nghiệm của tác giả phúc âm Gioan về sự nhận thức tâm tình của Chúa Giêsu đối với những người đi theo Ngài được gọi là các thánh tông đồ. Chúng ta đều biết rõ, mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu chính là rao giảng, công bố Tin Mừng Nước Trời như được viết nơi phúc âm, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43; Mc. 1:38; Mt. 4:23). Và Tin Mừng Ngài rao giảng chính là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi quý ông, quý bà, quý anh chị em, nơi tôi. Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống nơi mỗi người. Thiên Chúa chính là linh hồn nơi mỗi người như được viết nơi phúc âm Gioan, “Chúa phán, “Đàng và sự thật, sự sống chính là Ta. Không ai đến được với Cha mà không nhờ Ta” (Gioan 14:6). Thiên Chúa là Thần Khí là sự sống, là sự hiện hữu nơi mỗi người. Muốn thờ phượng Ngài, cần nhận biết Ngài. Muốn nhận biết Ngài, cần nhận biết chính mình vì Thiên Chúa chính là sự sống nơi mình. Mình là đền thờ của Thiên Chúa; thánh Phao lô đã rõ ràng minh xác, “Anh em không biết sao, thân xác anh em là đền thờ của Thiên Chúa và Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (1Cor. 6:19-20). Đây cũng chính là Tin Mừng đức Giêsu đã rao giảng hai ngàn năm trước. “Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

Có lẽ đó là nguyên nhân tại sao công đồng Vatican II đưa lên định nghĩa, “Giáo hội là dân Chúa.” Ai không là dân Chúa; ai không có linh hồn; ai không mang sự sống nơi mình; ai không có cuộc đời; ai không có ước muốn, niềm mơ, tham vọng? Hồi tâm nhìn lại chính mình, ai cũng thế, chúng ta rất thông minh, mẫn tiệp trong những tính toán, suy nghĩ, điều hành gia đình, cuộc sống, nhưng ít khi để tâm đến những thao thức, khát vọng tâm linh, một bản năng nơi mình. Thử hỏi, chúng ta, ai không cảm thấy có sự gì huyền nhiệm trong đời sống, nhưng cảm thấy thế chỉ để biết vậy, có bao giờ chúng ta để tâm tìm hiểu điều gì khiến chúng ta khắc khoải, ưu tư mờ mờ ảo ảo trong cuộc đời. Có bao giờ chúng ta tự tìm hiểu linh hồn mình là gì, liên hệ với xác thân, cuộc sống của mình ra sao?

Hôm nay, chúng ta thực hiện nghi thức rửa chân theo chiêm nghiệm của thánh Gioan nói lên lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa đối với con dân của Ngài. Nói theo ngôn ngữ thế tục, Thiên Chúa yêu thương con dân của Ngài nhưng thực ra, ngôn từ yêu thương chỉ là lối nói thế tục. Mọi sự mọi vật đều là hiện thể của Thiên Chúa dưới những dạng thức khác nhau vì Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự hiện hữu. Con người chính là hiện thể của Thiên Chúa qua dạng thức nhân sinh, và gốc gác thực thể hiện hữu của con người chính là hiện hữu tâm linh, là cuộc sống, sự biến chuyển của linh hồn, sự nhận thức của linh hồn. Cuộc đời này của con người chính là cơ hội hay phương tiện cho linh hồn học hỏi những bài học cần phải học để nhận thức về thực thể đích thực của mình để trở về với bản chất uyên nguyên chính là Thiên Chúa. Đây chính là ý nghĩa của lời phát biểu “Trở về cùng Chúa” mà chúng ta hay dùng để chỉ về sự chết của một người.

Chẳng lẽ một người được sinh ra, cả đời chỉ cố sao lo lắng, giành sống, bon chen với cơm áo gạo tiền? Thế sao phúc âm phải nói đến, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33)? Có lẽ vì nhận ra thực trạng bản năng sinh tồn của nhân sinh quá mạnh mẽ và cấp thiết đến nỗi che lấp mục đích cuộc sống của con người nên tác giả phúc âm Gioan đã nhắc nhở chúng ta, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 3:17 Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Gioan 3:16-17). Chúa đến cứu độ chúng ta khỏi sự gì? Nói rằng khỏi tội lỗi nhân sinh thế tục do bởi tham, sân, si, hận thì mấy hài nhi mới sinh, hoặc có những bậc thánh thiện không bị vướng mắc nơi những tham sân si hận ấy chẳng lẽ không được ơn cứu độ của Chúa đoái hoài tới? Hoặc, cố gắng ăn ở theo sự công chính lại là thái độ từ chối ơn cứu độ của Ngài? Xin thưa, Ngài đến công bố Tin Mừng Nước Trời, và đó là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23).

Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Đức Giêsu đến để công bố Tin Mừng, công bố thực thể đích thực của mỗi người hầu xóa đi sự ngu muội thế tục chỉ biết lo lắng cho nhu cầu nhân sinh. Đây có thể là lý do tại sao phúc âm khuyến dụ,Hãy coi chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, và Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Các ngươi không hơn chúng sao? 27Ai trong các ngươi chỉ lo mà có thể thêm cho đời mình một gang nữa? 28Còn về áo mặc các ngươi lo làm gì? Hãy ngắm hoa huệ ngoài đồng xem chúng lớn lên thế nào? Không nhọc nhằn, cũng chẳng canh cửi! 29 Nhưng ta bảo các ngươi: Salômôn trong tất cả vinh quang đời ông cũng không ăn vận sánh tày một đóa hoa đó. 30 Nếu cỏ đồng nội, nay còn, mai sẽ quăng lò, mà Thiên Chúa còn mặc cho như thế, thì huống chi là các ngươi, hỡi quân yếu tin! 31Vậy các ngươi chớ lo mà rằng: Ta sẽ ăn gì? Ta sẽ uống gì? Ta sẽ lấy gì mà mặc? 32Các điều đó, dân các ngươi kiếm gì. Nhưng Cha các ngươi, Ðấng ở trên trời, biết rõ các ngươi cần đến các điều ấy. 33 Hãy tìm kiếm Nước trước đã, và sự công chính của Người, và các điều ấy sẽ được ban thêm cho các ngươi. 34Vậy chớ lo đến ngày mai: Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy” (Mt. 6:27-34).

Hơn kém hai ngàn năm qua, dân Chúa, chính là chúng ta, đã nhận biết gì về thực thể đích thực của mình, chúng ta có bao giờ thử tự hỏi mục đích cuộc đời của mình là gì chưa? Lời Chúa đến với chúng ta, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” có bao giờ được đặt thành vấn đề suy tư? Chúng ta giống như những con chiên lạc vì không biết, không nhận ra mục đích đích thực của cuộc đời của mình. Chúa Giêsu được sai đến để nói cho chúng ta biết Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mỗi người. Một Thiên Chúa hoạt động nơi đức Giêsu cũng chính là Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người, nơi muôn vật.

Còn nỗi lòng nào tê tái, thương cảm hơn khi thấy con dân của Chúa đã không nhận biết thân phận chính mình để rồi miệt mài theo đuổi, tìm kiếm hầu đạt được những ước mơ, tham vọng nhân sinh thế tục. Tác giả phúc âm Gioan trong thời điểm chiêm nghiệm, kiến tạo nên hình ảnh Chúa Giêsu rửa chân cho các môn đệ hầu nói lên nỗi tha thiết ước muốn các môn đệ tiếp tục công việc rao truyền Tin Mừng Nước Trời, công bố cho mọi người, mọi dân tộc mong họ nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người; Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Nhận biết hay không, tùy thuộc mỗi người để tâm suy nghĩ, nhận định trong cuộc đời.

PHỤC SINH B (Gioan 20:1-9)

20:1 Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, lúc trời còn tối, bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi đến mộ, thì thấy tảng đá đã lăn khỏi mộ. 20:2 Bà liền chạy về gặp ông Si-mon Phê-rô và người môn đệ Đức Giê-su thương mến. Bà nói: "Người ta đã đem Chúa đi khỏi mộ; và chúng tôi chẳng biết họ để Người ở đâu?" 20:3 Ông Phê-rô và môn đệ kia liền đi ra mộ. 20:4 Cả hai người cùng chạy. Nhưng môn đệ kia chạy mau hơn ông Phê-rô và đã tới mộ trước. 20:5 Ông cúi xuống và nhìn thấy những băng vải còn ở đó, nhưng không vào. 20:6 Ông Si-mon Phê-rô theo sau cũng đến nơi. Ông vào thẳng trong mộ, thấy những băng vải để ở đó, 20:7 và khăn che đầu Đức Giê-su. Khăn này không để lẫn với các băng vải, nhưng cuốn lại, xếp riêng ra một nơi. 20:8 Bấy giờ người môn đệ kia, kẻ đã tới mộ trước, cũng đi vào. Ông đã thấy và đã tin. 20:9 Thật vậy, trước đó, hai ông chưa hiểu rằng: theo Kinh Thánh, Đức Giê-su phải chỗi dậy từ cõi chết.

Hôm nay chúng ta mừng lễ Phục Sinh. Xét theo ngôn từ, phục có nghĩa lấy lại, dành lại, hoặc thâu lại như nơi nghĩa những ngôn từ phục hồi, phục nghiệp, phục quyền, phục quốc, v.v... Chúng ta cũng dùng danh xưng Lễ Đức Kitô sống lại từ cõi chết. Thực ra, ngôn từ không thể nào truyền thông thực thể sự việc như chính sự việc để người nghe lãnh nhận toàn diện sự vật hay sự việc như quý cụ thường nói, “Ngữ bất tận ngôn, ngôn bất tận ý.” Thế nên, nơi danh xưng phục sinh hay sống lại, xét theo khía cạnh tối hậu của thực thể con người, đã vô tình che mờ thực thể vĩnh cửu của sự sống và ngược lại nhấn mạnh tới sự sống xác thân nơi thế giới hữu hình... Nhận định như vậy, nếu ai chỉ chú ý tới cuộc sống hữu hình này mà thôi thì họ nên nghiền ngẫm và dùng trọn cả cuộc đời của họ để đạt tới sự sống lại xác thân sau khi chết hoặc để tránh khỏi cái chết. Trên thực tế có thể nhận biết nơi giới hạn của chúng ta, chưa bao giờ chúng ta gặp hay nói chuyện được với bất cứ ai đã trở về từ cõi chết và chỉ thấy rằng không ai thoát chết để rồi chấp nhận đã sinh ra thì phải chết... Nhưng, ngược với ham muốn sống và cũng ngược với sợ hãi tận đáy tâm tư về cái chết, tôi dám đoan chắc, chúng ta đã không một ai dám đặt câu hỏi “Làm thế nào để khỏi chết” và cố tình dùng cả cuộc đời mình tìm kiếm.

Thế nên, thường thì khi nói tới sự sống lại của Đức Giêsu, chúng ta được khuyến khích hãy mừng vui, hãy hớn hở, hãy ăn năn xám hối, hãy thế này thế kia trong khi tuyên xưng rằng Đức Giêsu giải thoát chúng ta khỏi sự chết đời đời... Đã nhiều lần tôi có cảm nghĩ khá lạ lùng vì nhận thấy có sự đối nghịch nào đó nơi điều chúng ta gọi là tin và thực thể xác thân chết và sống lại của Đức Giêsu. Đọc nơi Phúc Âm Gioan, chúng ta thấy câu nói rõ ràng, “Phục sinh và sự sống chính là Ta! Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống” (11:25). Mọi Kytô hữu đều tuyên xưng tin vào Chúa Kitô nhưng ai cũng chấp nhận, mặc dầu chẳng những không muốn mà lại còn sợ hãi, là đã được sinh ra thì phải chết... Thế thì “Tin vào Đức Kitô” nghĩa là gì? Ngài là sự sống lại và là chính sự sống; chúng ta tin vào Ngài thế mà vẫn chết... Thực thể sự việc đang xảy đến nơi mọi người đó là được sinh ra để tiến dần đến ngày chết, được sinh ra để sửa soạn và khiếp sợ đối với cái chết... vì ai cũng thế, vào đời đơn độc, ra đi lạnh lùng một mình. Nêu lên nhận định bình thường mọi người đều có thể cảm nhận như thế, tôi muốn quý ông bà anh chị em để ý suy gẫm lời Phúc Âm về ý nghĩa của ngôn từ được dùng, đó la øhai ngôn từ “chết” và “sống.”

Ngôn từ chết nơi Phúc Âm mang hai nghĩa. Một nghĩa chết về xác thân và nghĩa khác là không hiểu biết, không nhận thức được sự sống vĩnh cửu của con người. Ngôn từ sống đồng thời cũng có ít nhất hai nghĩa, đó là sự sống xác thân nơi thế giới hữu hình và sự sống bất diệt của linh hồn, quyền lực hiện hữu tối thượng đang hoạt động nơi mọi người. Khi quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu này rời bỏ xác thân thì đó được gọi là cái chết của một người, của một sinh vật. Như vậy, sự chết xác thân chỉ là sự rời bỏ của sự sống vĩnh cửu nơi thân xác. Chúng ta gọi là chết nhưng chính là sự biến chuyển để linh hồn hay sự sống vĩnh cửu nơi con người đi vào cõi vô hình. Nơi bài Phúc Âm chúng ta thấy rõ một điều đó là vào thời Đức Giêsu, con người thời ấy cũng chưa nhận định được rõ ràng thực thể của sự sống giống như chúng ta ngày nay, ngay cả các tông đồ như lời Phúc Âm ghi lại, “Vì chưng các ông còn chưa hiểu rằng, theo Kinh Thánh, thì Người phải sống lại từ cõi chết.” Đây cũng là lý do tại sao Phúc Âm chép Mađalêna nói với Phêrô và Gioan rằng người ta đã lấy xác Đức Giêsu đem đi nơi khác.

Đọc nơi các sách vở, chúng ta biết phần nào về quan niệm của con người cỡ năm đến sáu ngàn năm trước đây đối với sự sống. Thời đó, mặc dầu nơi các miền Á Châu, Trung Đông đã có nhiều vị cảm nghiệm được thực thể sự hiện hữu tối hậu đang hoạt động nơi muôn vật muôn loài, nhưng con cái Israel vẫn chưa biết cuộc sống con người rồi sẽ đi về đâu sau khi chết. Thế nên sự hiện hữu nơi thế giới hữu hình được đặt lên hàng đầu như sách Giảng Viên viết, “Tôi đã để tâm tìm biết khôn ngoan và xem xét cái nông nỗi diễn ra trên đất - Tựu chung, cho dẫu ngày đêm, mắt thao láo mất cả giấc ngủ - thì người phàm, tôi đã nhận thấy trước tất cả công việc của Thiên Chúa; người phàm không tài minh giải được việc nào diễn ra ở dưới ánh dương. Quả thế, cho đi người phàm lao nhọc tìm tòi, nó cũng sẽ không minh giải được. Cho đi người khônngoan phân phô là mình biết, nó cũng không tài minh giải được.” Thế nên, sách Giảng Viên đưa ra nhận định,“Đối với mọi kẻ sống còn tia hy vọng vì: Con chó sống còn hơn sư tử chết! Phải, người sống biết mình sẽ chết! Còn người chết mảy may chẳng biết sự gì. Với họ chỉ còn công cốc, vì lưu niệm về họ, đã bị lãng quên. Ngay cả việc họ thương, họ ghét, họ ghen, thảy đều tiêu ma mất rồi. Đời đời, họ sẽ không còn phần còn khoản nơi mọi điều diễn ra ở dưới ánh thái dương” (GV. 8:16,17-9:4,5-7).

Đức Giêsu đến, Ngài rao giảng về Tin Mừng Nước Trời và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người từng giây từng phút. Thiên Chúa là quyền lực sự sống, sự hiện hữu, quyền lực tối thượng tạo dựng và duy trì mọi vật mọi loài, hữu hình cũng như vô hình, và như thế, mới giải nghĩa được câu Phúc Âm,“Phục sinh và sự sống chính là Ta! Ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống” (11:25). Dẫu thân xác chúng ta chết, quyền lực sự sống vẫn không biến mất mà đi vào cõi vô hình. Ai đạt tới điều Ngài giảng dạy; ai đã nhận thực được cuộc đời mình chính là sựhiện thể của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình; ai sống hòa hợp với sự biến chuyển của chính quyền lực sự sống thì cho dù thân xác biến chuyển, hư nát, hồn của họ sẽ không bị lệ thuộc những ràng buộc bởi ham muốn, tham vọng, lo âu thế tục.

Tuy nhiên, chúng ta cũng như các môn đồ ngày xưa, thường không để ý tính chất thâm trầm của lời Ngài rao giảng mà chỉ vội hiểu theo nghĩa đen, hoặc cùng lắm lấy nhãn quan luân lý để diễn dịch giá trị và ý nghĩa Tin Mừng. Cũng như các môn đồ, Đức Giêsu đã loan báo trước khi chịu nạn là Ngài sẽ sống lại nhưng nào ai để tâm nghiệm chứng. Đọc nơi ba Phúc Âm, Matthêu, Marcô, và Luca,nơi câu truyện bẩy anh em trai theo luật bảo vệ người đàn bà thời xưa mà lập gia đình với một người phụ nữ. Khi được hỏi lúc sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai, Phúc Âm đặt vào miệng Đức Giêsu câu trả lời, “Các ông lầm! Các ông không tường sách thánh và quyền năng của Thiên Chúa. Quả vậy, thời phục sinh, người ta không còn cưới vợ lấy chồng nhưng người ta như thiên thần ở trên trời. Còn về sự chết sống lại, các ông đã không đọc lời Thiên Chúa đã phán cùng các ông sao? 'Ta là Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac, và Thiên Chúa của Yacob! Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, mà là của người sống!” (Mt. 22:30; Mc. 12:24; Lc. 20:36). Kẻ chết tức là những ai không nhận được quyền lực tối thượng là chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình.

Nơi đoạn 16, câu 9, Phúc Âm Gioan viết, “Thánh Thần đến, Ngài sẽ bắt lỗi thế gian về tội, về sự công chính, về án xử. Về tội, vì họ không tin vào Ta.” Không tin vào Đức Giêsu có nghĩa không nghiệm chứng lời Ngài giảng dạy... Thái độ này được Phúc Âm gọi là sự chết đời đời.

Tóm lại, sự phục sinh của Đức Giêsu minh chứng Tin Mừng Ngài rao giảng. Dẫu cuộc sống xác thân chúng ta một ngày nào đó sẽ qua đi, nhưng linh hồn vẫn không hư nát mà còn có cuộc sống vô hình tiếp nối. Sự sống này như các thiên thần vì đó là sự sống linh thiêng. Amen.

CHỦ NHẬT IIB PHỤC SINH (Gioan 20:19-31)

(Lòng Chúa thương xót)

20:19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!" 20:20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 20:21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 20:22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 20:23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ." 20:24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. 20:25 Các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tô-ma đáp: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." 20:26 Tám ngày sau, các môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!" 20:27 Rồi Người bảo ông Tô-ma: "Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin." 20:28 Ông Tô-ma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!" 20:29 Đức Giê-su bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" 20:30 Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 20:31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.

Bài Phúc Âm nêu lên khá nhiều điểm cần được để ý. Điểm thứ nhất, các môn đệ đang cầu nguyện trong nhà các cửa đều được đóng kín vì sợ người Do Thái và Đức Giêsu hiện ra giữa các ông. Điểm này bao gồm hai điểm khác đó là tại sao các môn đồ sợ người Do Thái? Đức Giêsu sau khi sống lại có thể đi xuyên qua vách tường hay cửa của căn nhà đóng kín. Điểm thứ hai nơi Phúc Âm đó là Ngài thổi hơi và phán bảo các môn đệ hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì người ấy được tha, các con cầm buộc ai thì người ấy bị cầm buộc. Điểm thứ ba nói về điều kiện để thánh Tôma tin rằng Đức Giêsu đã sống lại, nhìn thấy vết đinh nơi tay Đức Giêsu, thọc ngón tay vào lỗ đinh và thọc bàn tay vào cạnh sườn của Ngài. Điểm thứ tư, lời Đức Giêsu nói, phúc cho những ai đã không thấy mà tin.

Thường khi đọc một câu truyện hay xem một cuốn phim chúng ta chỉ để ý tới cốt truyện để rồi có nhận định về những vai trò trong đó thế nào. Chúng ta đưa ra nhận xét về cá tính của diễn viên hay nhân vật nơi cốt truyện để rồi đưa ra kết luận người này nên như thế này hoặc nên như thế kia. Nếu ai đọc truyện hay coi phim ảnh và kết quả chỉ có thế, quả thật quá uổng phí thời giờ, công sức, và tiền bạc để tìm niềm vui trong một hai tiếng đồng hồ nếu không muốn nói là giết thời giờ... vì không biết nên dùng thời giờ để làm gì. Dẫu chỉ một phút thì đó cũng chính là phần thời giờ nơi cuộc sống của mỗi người. Như thế, vấn đề đáng được nói đến lại là chúng ta được sinh ra để làm gì? Chẳng lẽ để chờ chết? Bởi vậy, thời giờ nơi cuộc sống hữu hình này có giá trị đặc biệt của nó. Lãng phí thời giờ tức là lãng phí cuộc đời của chính mình. Và nếu chúng ta không lãng phí thời giờ thì mục đích đọc sách, đọc truyện, xem phim ảnh để làm gì. Ai cũng có thể nhận thức được rằng cuộc đời mỗi người là cơ hội để chúng ta thăng tiến cuộc sống tâm linh, để học hỏi những kinh nghiệm bồi bổ cho nghiệm chứng tâm linh và nhận ra mục đích tối hậu của cuộc đời mình đã được ban cho...

Tuy nhiên, đãnhiều lần tôi nghe thấy người ta dùng thánh Tôma làm đề tài, chẳng những bào chữa cho thói ỷ lại, không chịu suy tư, nghiệm chứng mà cốt chỉ để an tâm lãng phí cuộc đời. Tôi thử hỏi, đã bao nhiêu lần chúng ta lặp đi lặp lại câu, “Con cháu ông thánh Tôme.” Nếu tôi không lầm, chúng ta thường dùng câu này với ý nghĩ, đến ngay cả thánh Tôma, môn đệ của Chúa mà còn không tin thì mình đâu cần biết gì... cứ vờ đi, bảo sao nghe vậy, các cha giảng sao thì giảng nào khác gì mười voi không được bát nước xáo, mình tin Chúa, đi nhà thờ, nhà thánh cho khỏi tội là đủ... Thực tâm tôi nghĩ, chúng ta đã được dạy dỗ như vậy... Không đi nhà thờ thì không bỏ tiền nhà thờ, không bỏ tiền nhà thờ thì ông cha chết đói nên luật giữ ngày chủ nhật phải được nhấn mạnh... Quả là dùng Chúa để cổ võ cho tổ chức thế tục quá ư thông minh, tuyệt vời.

Tôi đặt vấn đề, tại sao Phúc Âm lại viết truyện thánh Tôma có tính cách nghi ngờ rõ ràng như vậy. Phỏng bằng ấy người, thánh Tôma không tin được một ai sao. Điều rõ ràng Phúc Âm đã nói đó là các tông đồ chẳng hiểu biết gì về những điều Đức Giêsu rao giảng. Thế nên, tôi đề nghị, hãy đặt mình vào vị thế thánh Tôma, chúng ta sẽ nhận được nhiều sự lạ rất bình thường nhưng chưa bao giờ để ý. Chúng ta nói rằng có đức tin, chúng ta tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Giêsu, điều này có nghĩa là gì? Tại sao Đức Giêsu nói, “Kẻ nào tin vào ta thì các việc Ta làm, kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gioan 14:12). Chúng ta nói tin vào Đức Giêsu, phỏng chúng ta làm được gì như Ngài và hơn Ngài... hoặc thoạt mới nghe ai nói tới có quyền như Đức Giêsu đã vội kêu tên cực trọng “Giêsu Maria Giuse phạm thượng.” Chúng ta được dạy, chúng ta nghĩ, chúng ta lặp lại rằng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu như con vẹt, như chiếc máy thâu băng không biết mình nói gì, không cần biết Phúc Âm nói gì để rồi cho rằng bất cứ ai không nói giống chúng ta thì đều là sai. Nói cho đúng, những ai dám nói theo Phúc Âm, chúng ta đều cho là sai...

Chúng ta không cần biết Phúc Âm nói gì, chúng ta chỉ muốn lặp lại những điều đã được dạy dỗ sai lầm, đối nghịch với Phúc Âm. Thí dụ, chúng ta hay nói câu, Chúa phạt hoặc Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ. Lời nói này, ý nghĩnày quả là chống nghịch lại Phúc Âm mà không ai thèm để ý. Nơi Phúc Âm, Đức Giêsu khuyên chúng ta, “Hãy biết thương xót như Cha các con trên trời là Đấng hay thương xót... Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5;45); thế mà chúng ta nói Chúa phạt! Bao nhiêu đấng khôn ngoan cũng đã giảng Chúa phạt! Quả thực là quái lạ!

Tôi muốn nói, chúng ta nên học gương thánh Tôma; chúng ta cần thực chứng những gì được gọi là tin. Đưa trái ớt cho người không ăn được ớt hay đưa cho đứa nhỏ và bảo ăn ớt với bún bò huế ngon lắm thì coi chừng bị ăn đòn chứ đừng nói là ăn ngon. Thực tế, chúng ta không cho rằng ớt ngon nếu chưa bao giờ ăn ớt, và chỉ những người đã ăn ớt và thích ăn ớt mới thực sự nghiệm chứng được ớt ngon ngọt như thế nào. Ngược lại, chúng ta nói rằng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu mà lời Ngài nói nơi Phúc Âm chẳng thể nào áp dụng nơi cuộc đời chúng ta thì nghĩa là lý gì? Phúc Âm viết, “ ” (Mt. 21:22).

Thử tự hỏi, đã bao giờ chúng ta lấy lòng tin để cầu nguyện và chúng ta đã được chưa? Vậy tin là thế nào? Nếu chúng ta cầu nguyện mà không được, chúng ta nên chân thành ít nhất là với chính mình mà nhận thực rằng chúng ta đã cầu mà không được, chúng ta đã chẳng biết tin là thế nào. Nơi Phúc Âm thánh Marcô có chép lời tuyên bố của Đức Giêsu, “Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:24). Vậy câu này có nghĩa gì và làm thế nào để chúng ta có thể thực hiện được. Thế nên, tôi thực lòng đề nghị với quý ông bà anh chị em, hãy thực chứng, hãy nghiệm chứng những lời Đức Giêsu dạy trong Phúc Âm, chẳng nên nghe theo bất cứ ai, chẳng nên vội cho những lời tôi nói là đúng hay sai mà cần suy nghĩ, suy tư cho tới cùng, suy nghĩ cho tới khi nào áp dụng lời Phúc Âm trong cuộc đời của mình mới được gọi là tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu.

Khi chúng ta đã thực chứng được những lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm, chúng ta sẽ cảm nhận được tại sao các môn đồ sợ người Do Thái. Chúng ta sẽ biết rõ ràng Đức Giêsu hiện ra giữa nhà đóng cửa kín mít thế nào. Chúng ta sẽ thực chứng được ai có quyền cầm buộc, và ai có quyền tha... Và chúng ta cũng sẽ cảm nhận được tại sao Phúc Âm nói phúc cho những ai đã không trông thấy mà tin.

Tóm lại, chúng ta nên học gương thánh Tôma mà thực chứng những lời Phúc Âm. Lời Chúa chẳng khác gì nước uống; ai uống sẽ hết khát; ai không uống dù có hiểu nước uống hết khát thì vẫn còn khát. Xin quý vịnhớ cho một điều; đó là khi khát, chúng ta cần uống nước. Nghe giảng giải về lợi ích của nước chẳng được ơn ích gì nếu chúng ta không uống. Lời Phúc Âm cũng thế, không ai có thể giải thích mà chính mỗi người cần tự thực chứng để áp dụng trong đời sống của mình.

CHỦ NHẬT 3B PHỤC SINH (Lc. 24:35-48)

33 Ngày giờ đó, họ chỗi dậy trở về Yêrusalem, và họ gặp thấy đang tề tựu cùng nhau, có nhóm Mười một cùng các bạn. 34Các người này nói rằng: "Thực thế, Chúa đã sống lại và đã hiện ra cho Simôn!" 35 Còn họ, họ thuật lại các việc xảy ra dọc đàng, và làm sao họ đã nhận biết Ngài lúc bẻ bánh.

36 Họ còn đang nói thế, thì Ngài đã đứng giữa họ [và nói với họ: "Bằng yên cho các ngươi!"] 37 Kinh hoàng khiếp đảm, họ tưởng mình thấy ma. 38 Nên Ngài nói với họ: "Tại sao mà hoảng hốt? Vì sao lại có những suy tính như thế nảy trong lòng các ngươi? 39hãy coi tay Ta, chân Ta; chính là Ta đó! Hãy rờ nắn mà xem, ma nào lại có thịt có xương như các ngươi thấy Ta có". 40 [Nói thế rồi, Ngài cho họ nhìn xem tay chân Ngài]. 41 Vì mừng quá mà họ vẫn còn không tin được, và chỉ kinh ngạc, nên Ngài nói với họ: "Ở dây có gì ăn không?" 42Họ dâng cho Ngài một miếng cá nướng. 43 Và Ngài đã cầm lấy mà ăn trước mặt họ.

44 Ðoạn Ngài nói cùng họ: "Những lời này, Ta đã nói cùng các ngươi, khi còn ở giữa các ngươi, là phải nên trọn mọi điều đã viết về Ta trong luật Môsê và các tiên tri cùng Thánh vịnh". 45 Bấy giờ Ngài mở trí cho họ hiểu Kinh thánh. 46 Rồi Ngài nói với họ: "Ðã viết như thế: Ðức Kitô phải chịu khổ nạn và ngày thứ ba thì sống lại từ cỏi chết; 47 và nhân danh Ngài, phải được rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi - khởi từ Yêrusalem. 48 Về các điều ấy, các ngươi là chứng nhân."

Hoạt cảnh nơi bài Phúc Âm là một trong những câu truyện nơi Tân Ước nói về sự xuất hiện của Đức Giêsu sau khi sống lại. Những câu truyện này được rao truyền nơi giáo hội tiên khởi như là những chứng từ minh chứng về sự hiện diện của Đức Giêsu. Ngày xưa, nơi vùng Hy Lạp và những nơi chịu ảnh văn hóa Hy Lạp, người ta đã chiêm nghiệm và đạt đến nhận thức những cảnh giới bên kia cuộc sống hữu hình. Họ đã nhận ra rằng, ngoài cuộc sống hữu hình này, còn có cuộc sống vô hình và sự bất tử của linh hồn sau khi xác thân chết. Tuy nhiên, đối với dân Do Thái, quan niệm của họ về sự sống lại của Đức Giêsu hoàn toàn được giới hạn nơi nhận định hữu hình... nên họ đặt nặng vấn đề về sự nhìn thấy và đụng chạm qua giác quan.

Bởi vậy, chúng ta thấy nơi Phúc Âm những đoạn nói về Đức Giêsu trách các môn đồ sao yếu tin, saosợ hãi vì tưởng ngài là hồn ma bóng quế... Và cũng chính vì muốn nhấn mạnh nơi khía cạnh hữu hình, những bối cảnh ăn bánh, ăn cá nướng được nói đến để minh chứng. Tuy nhiên, có điều lạ là người Do Thái đã không để tâm xét đến sự kiện tại sao Chúa Giêsu có thể vào nhà được trong khi các cửa ngõ đã đóng kín... Nơi điểm này, thường thì Phúc Âm dùng chữ Ngài hiện ra. Như vậy, nếu nói rằng hiện ra với xác thân thật thì đã đương nhiên minh chứng rằng thân xác thật của Đức Giêsu đã đi vào vô hình và có thể đi ra hữu hình bất cứ lúc nào. Suy nghĩ thêm, Đức Giêsu nói nơi Phúc Âm Gioan đoạn 14, câu 12, “Kẻ tin vào Ta thìcác việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa.” Theo đúng nghĩa của câu Phúc Âm này tất nhiên, thân xác chúng ta cũng có thể đi vào vô hình và đi ra hữu hình như Đức Giêsu... nếu chúng ta tin vào Ngài.

Đây là điều nhiều kẻ đã vấp phạm vì e sợ mình đã tin sai lầm. Thực ra, nếu bất cứ ai đọc Phúc Âm và chịu khó nghiền ngẫm, suy tư, sẽ nhận ra Phúc Âm nói ngược lại những điều mình xưa nay thường cho là đúng. Những gì chúng ta tưởng tượng về Thiên Chúa nếu đem so sánh với Phúc Âm sẽ thấy hoàn toàn sai lầm. Phúc Âm đồng thời cũng nói ngược lại tất cả những nghi thức bề ngoài của bất cứ tôn giáo nào... Và đồng thời, Phúc Âm cũng đưa ra những lời cảnh cáo và khiển trách rất nặng nề đối với những ai không chịu suy nghĩ, suy tư hay suy nghiệm về những điều được dạy như những sự khôn ngoan thực nghiệm cần thiết cho hành trình đức tin nơi con người. Chẳng hạn, đối với những người có nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm mà đã lạm dụng Lời Chúa cho mục đích riêng của mình hoặc không chịu tìm hiểu, suy nghiệm thêm để giảng dạy cho dân Chúa, lời kết án được ghi, "Khốn cho các ngươi, ký lục và biệt phái giả hình, vì các ngươi khóa Nước Trời chận người ta lại! Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi, mà những kẻ muốn vào, các ngươi cũng chẳng cho vào... Các ngươi rảo khắp biển cả đất liền để chinh phục dẫu một người tòng giáo, nhưng khi nó đã là tòng giáo, thì các ngươi lại biến nó thành con cái hỏa ngục, gấp đôi các ngươi... Bọn dẫn đàng mù quáng... Các ngươi gạn lọc con muỗi nhưng lại nuốt chửng con lạc đà!... Các ngươi giống như mồ mả tô vôi, mã ngoài hình như đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt thây ma và mọi thứ xú uế; cũng vậy, bên ngoài các ngươi có vẻ công chính đối với người ta, nhưng bên trong thì đầy giả hình và vô đạo..." (Mt. 23:13-35; Lc. 11:40-52).

Đối với những người không chịu để tâm suy tư, suy niệm về Phúc Âm, Tân Ước chép, “Ai nghe các lời của Ta mà không giữ thì không phải chính Ta sẽ xét xử nó, vì Ta đã đến, không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu thế gian. Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lĩnh chịu các lời của Ta, thì có người xét xử nó: ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết” (Gioan 12:47-48). Như vậy chúng ta có thể nhận định một cách rõ ràng và đó là người nào giữ nhiệm vụ rao giảng Phúc Âm mà đã không thực hiện đúng bổn phận và đồng thời, bất cứ ai dù khôn ngoan hay dốt nát mà không suy nghiệm về Phúc Âm, đều đã tự động bị kết án, không cách nào trốn thoát.

Quý vị có thể đặt câu hỏi tại sao có thể suy luận như thế vì từ thuở tạo thiên lập địa tới nay đã biết bao người không biết gì, không bao giờ nghe nói về Phúc Âm vẫn giầu có, quyền hành, vênh vang thì nào đã chết ai đâu... Tôi đưa ra một thí dụ điển hình ai cũng có thể nhận thấy nếu muốn. Lời khôn ngoan nơi Phúc Âm chẳng khác gì bữa cơm thịnh soạn và chúng ta là những người ngồi ở bàn ăn. Ai không ăn sẽ bị đói. Sự đói chính là hình phạt vì đã không ăn chứ không ai phạt mình. Lời khôn ngoan được trình bày nơi Phúc Âm, nếu chúng ta không để tâm suy nghiệm, thì sựngu dốt, dại dột, hướng lòng theo đuổi thế tục chính là hình phạt chứ không cần phải ai xét xử chúng ta. Đây có thể là lý do tạo sao Phúc Âm có câu, “Ai có tai thì nghe.” Chỉ những ai đã suy nghiệm Phúc Âm mới cảm nhận được hình phạt này đang diễn ra không ngừng và mới nghiệm được mối đau lòng cho dân Chúa đã bao ngàn năm nay...

Phúc Âm đòi hỏi những người tin vào Đức Giêsu phải trở nên chứng nhân. Câu hỏi được đặt ra, chứng nhân điều gì? Xin thưa, chứng nhân về những điều mình tin, chứng nhân cho những điều khôn ngoan đã được dạy nơi Phúc Âm. Như vậy, muốn làm chứng nhân chúng ta cần suy nghiệm từng câu nói nơi Phúc Âm vì nếu chỉ nghe sao biết vậy thì đó chỉ là cái biết ngoài da, chẳng khác gì những lý thuyết gia nói hươu nói vượn... nói mà không biết mình nói gì, cũng giống như người bê tha, đàng điếm lại hùng hổ khuyên kẻ khác nên ăn ở đàng hoàng, tiết kiệm. Đọc nơi tục ngữ, ca dao chúng ta cũng thấy có câu, “Chân mình thì lấm bết bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.”

Nói đi cũng phải nói lại; ngày xưa Giáo Hội đã cấm dân Chúa đọc Kinh Thánh, cấm dân Chúa suy niệm Phúc Âm... Lỗi lầm này vẫn còn đang được loan truyền và đã thấm nhập vào tận xương tủy của chúng ta. Xét cho cùng, sự thể này chính là kết quả của sự thiếu suy nghiệm, thực chứng về Phúc Âm bởi nếu chỉ tìm hiểu Phúc Âm qua nhận định luân lý hữu vi, thế tục thì cứ giải thích được câu này cho thuận chiều hướng suy tư tất nhiên sẽ gặp phải câu Phúc Âm khác nói nghịch lại không cách nào suy luận cho hợp tình hợp lý.

Tóm lại, Phúc Âm nhắc nhở và khuyến khích mỗi người chúng ta để tâm suy nghiệm những lời dạy khôn ngoan tâm linh để thực nghiệm trong cuộc đời. Đây là phương cách làm nhân chứng hữu hiệu nhất như Đức Giêsu đã căn dặn, “Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy.” Xin Thánh Thần của Đức Giêsu soi sáng và rộng mở lòng trí chúng ta để trở nên chứng nhân Nước Trời. Amen.

CHỦ NHẬT 4B PHỤC SINH (Gioan 10:11-18)

10:11 Tôi chính là Mục Tử nhân lành Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 10:12 Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, 10:13 vì anh ta là kẻ làm thuê và không thiết gì đến chiên. 10:14 Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi, 10:15 như Chúa Cha biết tôi và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. 10:16 Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. 10:17 Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. 10:18 Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được.

Đọc nơi Kinh Thánh, chúng ta thấy hình ảnh người mục tử chăn dắt đàn chiên thường được dùng để ám định về sự quan phòng hoặc chăm sóc của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa ban cho con người có được cuộc đời hữu hình như cơ hội tiếp tục thăng tiến đức tin, và trong hành trình tâm linh này, Thiên Chúa trực tiếp hướng dẫn con người chẳng khác gì người mục tử hướng dẫn đàn chiên đến những cánh đồng cỏ và những nguồn nước hay suối nước thuận lợi và gìn giữ, coi sóc, ngăn chặn những mối nguy hại do thú rừng nơi những miền hoang dã. Khác với người làm công, sự sống còn của đàn chiên chính là sự sống còn của cuộc đời người mục tử. Thế nên, bất cứ sự tai hại nào xảy đến cho đàn chiên thì đó cũng chính là sự thiệt hại của người mục tử. Bởi vậy, người mục tử chăm sóc đàn chiên tất nhiên bảo vệ tài sản và cuộc đời của chính mình.

Qua bài Phúc Âm,Đức Giêsu tuyên bố Ngài là mục tử tốt lành. Ngài là chủ chăn và con người thuộc về đàn chiên do Ngài chăm sóc. Ngài dạy dỗ con người thăng tiến trên hành trình tâm linh và hướng dẫn họ tới Nước Trời vì Ngài đã được sai đến để hoàn thành chỉ một sứ mệnh đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như Phúc Âm thánh Luca đã chép lời Ngài tuyên bố, “Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43).

Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta có thể nhận ranhững lời dạy dỗ của Đức Giêsu được phân chia thành ít nhất 5 phương diện hoặc nhận thức. Đó là: điều kiện căn bản cho nhận thức để suy nghiệm Phúc Âm, đặc tính hay thực thể về Thiên Chúa Đức Giêsu rao giảng, Nước Thiên Chúa, Đức Tin hay lòng tin, và lời khuyến dụ cho những ai đã cảm nghiệm được thực thể Tin Mừng Nước Trời.

Phúc Âm công bố rõ ràng Đức Giêsu được sai đến để hoàn thành nhiệm vụ hay sứ mạng đã được Thiên Chúa trao phó; ngay cả sự việc Ngài bị chết trên thập tự cũng là do thánh ý của Thiên Chúa Cha (Mk.14:36). Đức Giêsu dạy bảo dân Chúa những điều đã được Thiên Chúa Cha trao phó phải làm như đã được chép nơi Phúc Âm Gioan, “Và tự Ta, Ta không làm gì; mhưng Cha đã dạy Ta làm sao, Ta nói vậy” (Gn. 8:28). Đây có thể là lý do hay nguyên nhân tại sao Phúc Âm có câu nói, “Ai có tai thì hãy nghe” (Mt. 11:15; 13:9). Thế nên, những người được gọi là có tai để nghiệm chứng lời dạy của Đức Giêsu cần sự nhận thức rộng mở. Điều kiện cho sự nhận thức này đòi hỏi một tâm trí không lệ thuộc bất cứ chiều hướng suy tư nào để nhận định sự vật và sự việc không thiên vị theo ý thích hoặc kinh nghiệm vì dẫu cho rằng lửa đúng hoặc lửa sai thì vẫn bị lệ thuộc về một trong hai chiều hướng đúng hoặc sai. Vấn đề được gọi là đúng hoặc sai của lửa chỉ là sự áp dụng tùy trường hợp mang lại lợi ích hay thiệt hại tới con người. Lửa là tự nó, chẳng đúng cũng chẳng sai bởi lửa thì phải nóng và đốt cháy hết mọi sự; nếu không thế, không phải là lửa.

Chẳng những thế, những kiến thức, kinh nghiệm bình thường, thế tục chỉ được coi như bì cũ, áo cũ, không thể nào áp dụng để chiêm nghiệm Phúc Âm. Đây là lý do tại sao Phúc Âm có những câu, “Không ai lấy mụn vải sống mà điền vào áo cũ; vì mảnh điền thêm sẽ co áo lại, và rách càng tệ hơn. Người ta cũng không đổ rượu mới vào bì cũ; chẳng vậy, bì toạc ra, rượu thì đổ mà bì cũng hư. Nhưng rượu mới, người ta đổ vào bì mới, thế mới giữ được cả hai” (Mt. 9:16-17). Thêm vào đó, một đặc tính khác cần phải có nơi tâm trí của những người muốn suy nghiệm lời dạy nơi Phúc Âm đó là sự dứt bỏ những quan niệm cũ của mình. Bất cứ ai vẫn còn lệ thuộc nơi lề lối suy tư theo thói quen thì vẫn không thể nào nghiệm được những lời khôn ngoan Đức Giêsu dạy chúng ta như đã được chép nơi Phúc Âm, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 10:37), hoặc, “Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62).

Qua Phúc Âm, Đức Giêsu công bố Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người; vì thế, khi những kẻ chiều theo thế tục chống đối những ai làm chứng nhân về những điều Ngài dạy, chính Thiên Chúa sẽ lên tiếng nơi người ấy. Lật Phúc Âm thánh Mathêu, chúng ta đọc, “Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì, vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi” (Mt. 10:19-20). Thiên Chúa, Đấng sai Đức Giêsu làm mục tử của chúng ta, yêu thương chúng ta không giới hạn hoặc phân biệt vì Phúc Âm chép, “Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Thiên Chúa luôn luôn chờ đợi chúng ta suy nghiệm để nhận biết sự hiện diện của Ngài nơi vạn vật, “Hãy coi chim trời. Chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào lẫm, và Cha các ngươi, Đấng ở trên trời nuôi nấng chúng! Cácngươi không hơn chúng sao?” (Mt. 6:26). Thiên Chúa theo Đức Giêsu giảng dạy chính là quyền lực hiện hữu và đang hoạt động nơi mọi vật, mọi loài như lời Phúc Âm diễn giải, “Hai con chim sẽ há không bán một đồng tiền sao? Thế mà không một con nào rơi xuống đấtngoài ý Cha các ngươi! Cả những sợi tóc trên đầu các ngươi cũng đã cộng sổ rồi. Vậy đừng sợ! Các ngươi quí giá hơn nhiều con chim sẻ!” (Mt. 1-:29-31). Đức Giêsu rao giảng và trình bày cho chúng ta suy nghiệm để nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi vật... vì mọi sự hiện hữu dù vô hình hay hữu hình cũng đều phát xuất từ Thiên Chúa mà ra (Gn. 1:3).

Thiên Chúa ở khắp mọi nơi, Ngài là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài, mọi vật hữu hình cũng như vô hình; thế nên Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Sự nhận thức này giúp chúng ta cảm nhận được lời công bố đầu tiên của Đức Giêsu khi Ngài xuất hiện trước công chúng đểrao giảng, “Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy cải thiện và tin vào Tin Mừng” (Mc. 1:15). Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Ngài đang hoạt động nơi chúng ta và nơi mọi tạo vật... Vì thế Phúc Âm được viết, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay 'Ở đó.' Vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21), ở trên các ông (Lc. 11:20), hoặc đã gần bên (Mc. 1:15).

Chỉ một lần nơi Phúc Âm Luca, Đức Giêsu đặt câu hỏi, “Tuy vậy, Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên đất nữa không?” (Lc. 18:8). Đức Giêsu rao giảng về đức tin hay lòng tin mang quyền lực hoạt động nơi mọi người. Tuy nhiên, chúng ta rất ít khi nghĩ đến để đặt vấn đề suy nghiệm. Đọc nơi Phúc Âm, Đức Giêsu tuyên bố, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con, đức tin con là ơn cứu độ của con” (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 7:49; 8:48; 17:19). Xét thế, Đức Giêsu rao giảng về lòng tin hay đức tin là quyền lực ở nơi mọi người. Bởi vậy, Ngài đã nói, “Nếu các ngươi có lòng tin và không nghi ngại, thì các ngươi không chỉ làm được điều xảy ra cho cây vả, mà cho dù các ngươi có bảo núi này: 'Xê đi mà nhào xuống biển' thì sự cũng sẽ xảy ra. Và mọi điều các ngươi lấy lòng tin mà cầu nguyện kêu xin, các ngươi sẽ được” (Mt. 21:21-22). Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người chúng ta và quyền lực của Ngài nơi mỗi người được gọi là lòng tin hay đức tin.

Người nào đạt tới trạng thái cảm nhận thực sự Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình và đức tin là chính quyền lực của Ngài nơi mình sẽ trở thành cớ vấp phạm cho những tâm hồn vẫn còn đam mê chạy theo tham vọng thế tục. Lẽ đương nhiên, dưới con mắt thế tục, người đó sẽ bị gọi là khùng điên hay phạm thượng. Đức Giêsu nhắc nhở những ai đã nhận thức được Tin Mừng Nước Trời, “Hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16). Tư cách, thái độ của chúng ta đối xử với mọi người nên đơn sơ nhưng lòng dạ chúng ta cần phải suy tính, suy nghiệm bởi vì chúng ta có cuộc sống nhân sinh như mọi người do đó chúng ta sống như họ nhưng lòng chúng ta khác hẳn, không chạy theo hay lệ thuộc suy tư thế tục giống họ. Chắc chắn rằng, sống theo lời dạy của Đức Giêsu và làm chứng nhân tin mừng nước trời chúng ta sẽ chẳng khác gì như chiên được sai vào giữa đàn sói. Bất cứ những điều gì chúng ta thực hiện hay phát biểu đều bị dùng làm chứng cớ cho họ chống nghịch lại chúng ta. Bởi biết rõ sự thể sẽ xảy ra như thế, Phúc Âm khuyên nhủ những ai thực chứng tin mừng, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Đức Giêsu hướng dẫn chúng ta đi trên con đường quá chật hẹp.

Chúng ta dành tuần này đặc biệt tuyên dương các bà mẹ và những hàng giáo sĩ. Tưởng nhớ lại những sự chăm sóc con cái của các bà mẹ, chúng ta có thể cảm nhận được phần nào lòng yêu thương Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thực tại cuộc đời minh chứng, Chúa sai các bà mẹ để chăm sóc và yêu thương mỗi người và đồng thời dùng các bậc giáo sĩ để hướng dẫn chúng ta nơi hành trình tâm linh. Thế nên, tuần này, chúng ta bớt chút thời giờ cầu nguyện cho mẹ chúng ta, cho tất cả các bà mẹ và cho hàng giáo sĩ, nguyện xin với Chúa chúc lành nơi các bà mẹ và hàng giáo sĩ. Amen.

CHỦ NHẬT 5B PHỤC SINH 94 (Gioan 15:1-8)

15:1 "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho. 15:2 Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. 15:3 Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. 15:4 Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. 15:5 Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. 15:6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 15:7 Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin. anh em sẽ được như ý. 15:8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái và trở thành môn đệ của Thầy.

Một linh mục dòng Tên sang bên Phi Châu truyền giáo. Nơi giáo xứ, ngài đặt một máy phát điện để cung cấp ánh sáng cho nhà thờ và nhà xứ. Một buổi tối, mấy người trong ban làm việc tới nhà xứ họp vì có chuyện cần phải giải quyết ngày hôm sau. Họ rất ngạc nhiên khi thấy vị linh mục đưa tay bật công tắc và ánh sáng phát ra từ một bóng điện tròn treo trên trần nhà. Họ tỏ vẻ thán phục và nói lên lời ca tụng vị linh mục vì ngài có quyền năng chỉ đụng vào nút nhỏ trên tường mà ánh sáng phát ra chứ không phải mồi lửa đèn hay đốt củi như họ vẫn thường phải làm ở nhà. Vị linh mục thấy họ ngây thơ quá nên cho mỗi người bật công tắc một lần để giải thích cho họ biết rằng bật công tắc điện không có gì là tài giỏi hay quyền hành chi hết. Thế rồi có một người xin ngài một bóng đèn; ngài nghĩ người đó muốn có kỷ niệm hiểu biết thêm về sự sử dụng công tắc điện nên cho một bóng đèn đã cháy. Ít lâu sau, nhân có việc đi ngang ghé thăm, ngài thấy chiếc bóng đèn đã bị cháy được treo trên trần nhà bằng hai dây mây nối xuống bên cửa ra vào. Nói về chuyện này, tôi nhớ một lần vào cuối năm 1975 khi còn ở Việt Nam. Một bà cụ từ miền Bắc vào Sài Gòn thăm gia đình cháu. Sau khi cả nhà đọc kinh tối, người mẹ bảo một em nhỏ con bà tắt điện bàn thờ đi ngủ; chú bé còn đang chần chừ muốn ngồi hóng chuyện, bà cụ cầm quạt, quạt lấy quạt để mong thổi tắt những ngọn điện đang sáng trên bàn thờ. Cả nhà ngạc nhiên nghĩ rằng bà cụ thấy bàn thờ bụi nên quạt cho sạch thì sau mấy lần quạt đèn không tắt, bà cụ ngưng tay nói: "Nến bên miền Nam cháy tốt vượt chỉ tiêu, quạt hoài mà không tắt." Lúc bấy giờ mọi người mới hiểu và phá ra cười.

Nếu Chúa Giêsu nói về sự sống liên kết mật thiết của con người với Thiên Chúa cho chúng ta hôm nay, tôi nghĩ, chẳng có gì ngạc nhiên khi thấy Chúa dùng hình ảnh bóng đèn cháy sáng và dòng điện làm thí dụ để ám chỉ thay vì dùng hình ảnh cây nho với sự sống liên hệ của các cành nho. Điều Chúa muốn nói lên là gì qua bài Phúc Âm hôm nay? Chúa muốn nói lên sự quan trọng của sự sống kết hợp với Chúa của chúng ta nếu chúng ta muốn được năng lực thần linh của Chúa hoạt động nơi mình. Dĩ nhiên, hình ảnh cây nho và các cành nho chỉ là sự vật tiêu biểu cho sự sống liên kết của chúng ta với Chúa. Năng lực thần linh của Chúa sẽ giúp chúng ta như dòng điện chiếu sáng nơi bóng đèn.

Ơn thánh của Chúa là chính sự sống của Ngài, năng lực thần linh phát động tâm hồn cũng như dòng điện khiến bóng đèn phát sáng. Dòng điện có thể làm bóng đèn chiếu sáng, ơn thánh của Chúa chiếu rọi tâm hồn chúng ta, giúp chúng ta am hiểu điều Chúa muốn mình theo để hướng dẫn cuộc đời. Cũng cùng một dòng điện chạy trong đường dây có thể tạo thành sức mạnh chạy máy hút bụi, máy giặt, làm quay quạt v.v... Sự sống của Chúa tạo sức mạnh cho chúng ta thực hiện những điều mà bản năng bình thường của con người không thể làm nổi. Đọc qua lịch sử cuộc đời các thánh, biết bao chuyện cả thể mà chỉ một lòng tin và phó thác, các ngài đã tạo dựng những công trình khó ai có thể đo lường nổi.

Chúa Giêsu đã hứa với chúng ta qua bài Phúc Âm: "Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được." Sống mật thiết với Chúa qua sự cầu nguyện, năng xưng tội rước lễ, tham dự Thánh Lễ, đó là những mối dây truyền ơn thánh đến với chúng ta. Kinh nghiệm sống cho mọi người thấy, chỉ khi nào chúng ta nhận ra tài năng, sức lực mình đã không thể nào giải quyết được những sự việc ngoài ý muốn, chạy đến với Chúa, trao tất cả cho Ngài để rồi chỉ còn lòng cậy trông, những kết quả bất ngờ đã xảy ra. Sống tin tưởng, năng làm việc đạo đức để kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta sẽ có được sự bình an tâm hồn và được Chúa dẫn dắt theo con đường Ngài đã chọn sẵn cho mỗi người. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.

CHỦ NHẬT 5B PHỤC SINH(Gioan 15:1-8)

15:1 "Thầy là cây nho thật, và Cha Thầy là người trồng nho.15:2 Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái, thì Người chặt đi; còn cành nào sinh hoa trái, thì Người cắt tỉa cho nó sinh nhiều hoa trái hơn. 15:3 Anh em được thanh sạch rồi nhờ lời Thầy đã nói với anh em. 15:4 Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em. Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy. 15:5 Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy

và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. 15:6 Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy đi. 15:7 Nếu anh em ở lại trong Thầy và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì, anh em cứ xin. anh em sẽ được như ý. 15:8 Điều làm Chúa Cha được tôn vinh là: Anh em sinh nhiều hoa trái

Bài Phúc Âm dùng hình ảnh cây nho và sự liên kết giữa cây và cành để nói lên sự liên hệ của dân Chúa đối với những lời dạy của Đức Giêsu. Ngay từ đầu, Phúc Âm được viết, “Thầy là cây nho thật.” Lẽ đương nhiên, khi nói đến thật là đã có chuyện giả xảy ra hoặc những gì không chính xác với điều muốn tuyên bố. Đọc nơi Cựu Ước, chúng ta thấy dân Chúa được ví như vườn nho và Ngài sai các tiên tri đến chăm sóc cũng như dạy dỗ, hướng dẫn dân Ngài. Tuy nhiên, Phúc Âm thánh Gioan nơi dụ ngôn Chúa Chiên Lành đã chép, “Ta là cửa cho chiên ra vào! Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta hết thảy đều là trộm cướp” (Gioan 10:8)

Thực lòng mà nói, tôi không thể tưởng tượng được các tiên tri cảm thấy thế nào khi nghe được câu nói này! Thường thì chúng ta cố tình bênh Đức Giêsu có lẽ vì e sợ bị cho là phạm thượng nên giải thích rằng Đức Giêsu muốn nói về đạo Do Thái hay là những người rao giảng đạo Do Thái thời Cựu Ước. Tôi cũng sợ có ai đó vội kết án tôi là phạm thượng vì dám suy nghĩ lung tung về lời Chúa nên đã phải lục lọi tất cả những gì có thể cầu mong nếu lỡ những lời phê bình lọt vào tai thì đã có Kinh Thánh minh chứng những điều tôi phải nói. Nơi tám bộ Kinh Thánh, bộ nào cũng dịch đồng một nghĩa... “Bao nhiêu kẻ đã đến trước Ta hết thảy đều là trộm cướp.” Đức Giêsu không thamột ai; lời Phúc Âm không tha một ai; bất cứ ai đã rao giảng Thiên Chúa theo thị dục con người đều bị gọi là trộm cướp, cho dù là tiên tri hay thần thánh nào không cần biết. Tôi cảm thấy bất nhẫn cho các tiên tri và đau lòng cho chính mình vì đã bao ngày tháng nhưng vẫn chưa tiến được chút nào theo những lời dạy nơi Phúc Âm...

Tất nhiên, tôi cũng đã và sẽ bị kết án thuộc vào hàng trộm cướp. Thực lòng, ít nhất vài lần, tôi đã đương đường yêu cầu quý ông bà anh chị em đừng tin những gì tôi nói mà cần nghiệm chứng, suy nghiệm lời Phúc Âm vì Thiên Chúa trực tiếp soi sáng và dạy dỗ con dân của Ngài. Thiên Chúa trực tiếp soi sáng và dạy dỗ từng quý ông bà anh chị em. Những gì tôi chia sẻ với quý ông bà anh chị em chỉ là suy nghiệm của riêng tôi mang tính cách gợi ý; không đem lại lợi ích gì cho hành trình tâm linh của bất cứ ai. Lời Chúa chẳng khác gì miếng cơm chúng ta ăn hoặc miếng nước chúng ta uống; không ai có thể ăn dùm hay uống dùm cho ai. Cũng thế, mỗi người cần suy nghiệm Lời Chúa cho chính mình bởi bất cứ sự giải thích hoặc hiểu biết nào không tự mình suy nghiệm chỉ là kiến thức, không giúp ích gì cho phần rỗi của mình. Cứ theo lời Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu, được gọi và được chọn để rao giảng Phúc Âm, dù làm đúng hay sai, cũng đều bị kết án... chẳng khác gì các tiên tri... và những vị rao giảng nơi Do Thái Giáo... đó là trộm cướp.

Với lối nhìn hữu vi được diễn tả nơi Cựu Ước ở các sách Diệu Ca, Isaia, Jêrêmia, vườn nho được dùng để ám chỉ dân Chúa. Hình ảnh cây nho được áp dụng cho dân Israel (Is. 5:1-7; 27:2,4; 12:10...), như cây nho được chủ vườn chăm sóc, Israel được Thiên Chúa vun trồng cẩn thận và che chở bao bọc. Nhưng dân Israel đã làm cho Thiên Chúa phải thất vọng vì đã không trổ sinh cành lá tươi tốt và hoa trái ngon ngọt (Is. 5:4; Jr. 2;21), đây là lối nhận định theo kiểu thế tục, hữu vi. Có thể vì sự thể này mà lời Phúc Âm đặt vào miệng Đức Giêsu lời tuyên bố Ngài là cây nho thật. Nơi lý thuyết Kytô học, chúng ta thuộc về nhiệm thể Đức Kytô. Điều đáng để ý đó là lý thuyết nhiệm thể Đức Kytô bắt nguồn từ dụ ngôn cây nho đích thực hoặc sự liên hệ giữa cây nho và cành nho, và động lực liên kết chính là đức tin; nhưng nếu thực lòng nhận định, chúng ta phải tuyên xưng rằng chúng ta đã chẳng thể nào sử dụng được đức tin theo như Phúc Âm đã trình bày. Tôi cũng vậy, có lẽ quý ông bà anh chị em cũng thế; mình nói rằng tin, tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu nhưng không thực sự nghiệm được đức tin là gì. Nói cách khác, nói đến đức tin, chúng ta chỉ nói theo mọi người, nói để mà nói cho có chuyện để nói; vì không nói như thế chúng ta không biết cách nào nói hoặc là sợ kẻ khác cho rằng mình không có đức tin mà thôi.

Nơi đoạn Phúc Âm, Đức Giêsu xác định rõ ràng, “Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy nói với các con. Cũng như nhành nho tự nó không thể sinh trái được nếu không dính liền với cây nho, các con cũng vậy, nếu không ở trong thầy.” Suy nghiệm về câu Phúc Âm này, chúng ta thấy lời phát biểu có tính cách khác lạ: “Các con đã được tỉa sạch nhờ lời Thầy nói với các con,” và “Nếu không ở trong thầy.” Vấn đề được đặt ra đó là thế nào là tỉa sạch nhờ lời Thầy nói và ở trong Thầy mang ý nghĩa gì. Nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước xuất bản năm 1994 có lời ghi chú: “Động từ Hy Lạp Kathairein có hai nghĩa: cắt tỉa và làm cho nên thanh sạch” (tr. 460). Sự thanh sạch đây dĩ nhiên mang ý thoát khỏi những ham muốn thế tục để kiếm tìm sự thăng tiến tâm linh. Riêng lời phát biểu ở trong Thầy có nghĩa lời của Đức Giêsu thấm nhuần nơi các môn đệ, hoặc là các môn đệ đã suy nghiệm thấu đáo lời Đức Giêsu giảng dạy. Điềuchúng ta nên để ý đó là Phúc Âm Gioan được viết theo kết quả nghiệm chứng nên lối diễn giải rất khác biệt với Phúc Âm nhất lãm. Muốn suy nghiệm lời Phúc Âm Gioan, chúng ta cần suy nghiệm thấu đáo ba Phúc Âm Mathêu, Marcô, và Luca... và thực sự sống điều mình đã nghiệm chứng được mới có thể suy nghiệm lời Phúc Âm Gioan.

Đoạn Phúc Âm nêu lên điểm thực chứng để chúng ta có thể nhận ra mình đã sống như lời Phúc Âm dạy hay chưa. “Nếu các con ở trong Thầy, và lời Thầy ở trong các con, thì các con muốn gì, cứ xin, và sẽ được.” Tôi thực tâmnghĩ rằng mọi người chúng ta đều hiểu rõ câu này. Ai không hiểu, không muốn hiểu hoặc cố tình không hiểu, nói theo lối mới nơi Việt Nam bây giờ, đó là hết ý... chẳng còn gì mà giải thích hoặc nói ra, nói vô, và nếu càng cố gắng giải thích cho những ai không muốn suy nghiệm thì lại càng chẳng nói được gì... giống như câu nói nơi Lão học, “Người nói không biết.” Khi chúng ta cầu xin mà không được, chắc chắn chúng ta không hiểu Phúc Âm nói gì và cũng chẳng hiểu đức tin là gì... và như thế cũng không nhận biết Chúa thế nào, và Ngài liên hệ với chúng ta ra sao...

CHỦ NHẬT 6B PHỤC SINH (Gioan 15:9-17)

15:9 Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 15:10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 15:11 Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. 15:12 Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 15:13 Không ai có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 15:14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15:15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha của Thầy, Thầy đã cho anh em biết. 15:16 Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 15:17 Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.

Bài Phúc Âm nêu lên khá nhiều điểm quan trọng cần phải được thực hiên nơi tiến trình tâm linh của bất cứ ai. Chẳng hạn, thế nào là tình yêu Đức Giêsu muốn nói; tuân lệnh truyền của Đức Giêsu như thế nào?Tại sao sự yêu của Đức Giêsu đòi hỏi điều kiện tuân lệnh Ngài truyền. Và nếu sự yêu thương có điều kiện thì còn có thể gọi được là yêu thương nữa không? Tại sao tuân lệnh của Đức Giêsu thì được gọi là bạn hữu của Ngài? Đức Giêsu nghe biết những gì nơi Thiên Chúa Cha? Vậy những điều Ngài giảng dạy cho các môn đồ là những điều gì? Tại sao Phúc Âm đặtnơi miệng Đức Giêsu câu nói “Không phải các con đã chọn Thầy nhưng chính Thầy đã chọn các con?” Đức Giêsu chọn các môn đồ, cắt đặt, và sai đi để mang lại hoa trái gì? Chúng ta phải thực hiện những gì để có thể nhân danh Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa và được những điều mình muốn? Qua bài Phúc Âm, tôi muốn chia sẻ cùng quý ông bà, anh chị em câu nói chính yếu và cũng là điều Đức Giêsu nhấn mạnh, “Đây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con.” Tôi sẽ trình bày về những đặc tính của sự yêu thương; thế nào là tình yêu của Đức Giêsu, của Thiên Chúa đối với nhân loại; phương cách nào cho chúng ta áp dụng lệnh truyền yêu thương theo Phúc Âm!

Ngay từ thời còn ấu thơ và nếu để ý, ai cũng có thể nhận thực được sự thể rất đơn giản đó là con người được sinh ra để yêu thương và muốn được yêu. Chúng ta cũng có thể nhận ra được đặc tính này nơi những loài sinh động vật sống chung quanh chẳng hạn loài chó, mèo, trâu, bò, chim chóc... đối với con cái của chúng khi còn thơ dại... Sự yêu thương thuộc về bản năng sinh tồn và cũng vì đó là bản năng nên chúng ta chấp nhận đến độ coi thường, rất ít khi hoặc không bao giờ để ý nhận định hoặc phân tích hầu nhận ra sự huyền nhiệm cả thể nơi chính mình. Thêm vào đó, qua ngôn từ, chúng ta thường hiểu lầm thực thể huyền nhiệm đang hoạt động nơi chính mình. Vừa khi nói tới sự yêu thương, đa số chúng ta đã bị nhồi sọ hoặc được giải thích theo nhãn quan hạn hẹp thế tục đặt căn bản trên bản năng tính dục, hoặc mang nghĩa ý thích... chẳng khác gì nơi tiếng Mỹ, thích hoặc đôi khi không thích vật gì, sự gì hay ý tưởng gì, họ vẫn mở miệng dùng tiếng “love.” Như vậy, có lẽ nhiều trường hợp, con người đã cố tạo thành thói quen nói để mà nói nhưng không biết mình muốn nói gì hoặc đang nói về điều gì, hoặc nói với chủ đích đánh lừa người nghe bằng cách nói cho hài lòng họ.

Yêu thương là sự huyền nhiệm cả thể nơi mỗi người mang rất nhiều đặc tính và không thể nào diễn tả cho đủ dẫu chúng ta có thể cảm nhận rõ ràng... tuy nhiên càng cố gắng giải thích thì càng chỉ khiến người nghe nghi ngờ. Chẳng hạn chúng ta không thể nào diễn tả được sự yêu thương của mình đối với con cái hoặc đối với bất cứ người nào đó. Đồng thời, đâu phải phi lý mà tiền nhân chúng ta có câu, “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi.” Cũng có những câu nghịch thường khác, chẳng hạn, “Lòng tốt là cội nguồn của mọi sự phiền hà,” hoặc“Chiều con cái là phương pháp giết chúng độc hại,” hay, “Làm cho người khác những gì họ thích là lối diệt họ cách tàn bạo nhất.” Sự yêu thương được thể hiện qua muôn ngàn phương diện mà chỉ chủ thể, chỉ người thực hiện mới biết được thế nào. Tuy nhiên, khi yêu thương ai, chúng ta nhiều khi cố tình thực hiện những điều tốt lành theo ý riêng của chúng ta cho người đó và nhiều khi áp dụng theo nghĩa đen câu Phúc Âm, “Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con.” Nếu đặt thành vấn đề để suy nghiệm, coi chừng thực hiện cho ai điều tốt lành theo ý mình sẽ trở thành làm hại họ. Như vậy, chẳng nên làm điều gì mình thích cho ai vì chưa chắc họ đã thích điều mình thích thì có lẽ đúng hơn.

Kinh nghiệm sống minh chứng, khi chúng ta thực sự yêu thương ai, chúng ta chấp nhận người đó không cần biết họ thế nào. Và dĩ nhiên, chúng ta yêu thương thân xác của mình nên chúng ta chấp nhận chứ không muốn thân xác chúng ta phải thế nào. Nhận định như thế, câu nói của Pascal, “Con người không phải là thánh cũng chẳng phải là thú, nhưng kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú” không những mang giá trị nhận định thái độ, ý thích nhân sinh mà còn xác định nhận thức thăng tiến tâm linh nơi bất cứ ai. Khi ai đó muốn được người khác để ý hoặc khen đẹp mà phải sửa nơi nọ, đắp vá chỗ kia thì rõ ràng đang chạy theo sự thích thú được khen hoặc được để ý. Kẻ nào cố gắng trở nên gì thì đã tự bó buộc mình phải theo khuôn khổ nào nên đã trở thành dã thú với chính mình. Thế nên, nếu thực sự yêu thương chính mình thì chúng ta chẳng phải trở nên gì cả, mà chỉ là mình. Chúng ta không được sinh ra với đôi cánh thì đâu cần phải bay như loài chim, và bởi vậy, bất cứ ai tập tành cố gắng bay như chim hoặc giả dạng bay như chim thì cũng không thể nào mọc được đôi cánh.

Mục đích cuộc đời của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt. 1:23); Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người... Nhận được như thế, lòng yêu thương của Thiên Chúa đối với con người không có điều kiện, không có ranh giới bởi Ngài ở nơi chúng ta nên coi ai cũng như ai và chấp nhận chúng ta không phân biệt sang hèn, giầu nghèo, cao thấp, hay đẹp xấu vì “Người cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Thiên Chúa chấp nhận con người dù thế nào chăng nữa và Ngài đang hoạt động nơi mỗi người chúng ta.

Có lẽ vì quá quen nhận định theo luân lý thế tục, chúng ta thường hiểu lầm câu Phúc Âm, “Phàm ai nhìn người nữ để thoả lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt. 5:28). Tôi thử đặt vấn đề, giả sử không có con mắt hoặc không có người nữ thì lấy gì để nhìn phương chi nói tới thỏa lòng dục? Thêm vào đó, nếu có ai đó, ngắm bông hoa đẹp mà không thấy thích, hoặc nhìn cảnh núi sông hùng vĩ chẳng cảm nhận được sự nhỏ bé nơi thân phận mình, hay trước cảnh trời đất bao la chẳng nhận ra quyền năng tuyệt vời của Thiên Chúa thì kẻ đó dẫu có nhìn người nữ cũng không thể cảm nhận được gì vì lòng đã quá chai đá... Có thể nói họ chỉ là một thân xác biết thở hoặc còn tệ hơn loài thú, và như vậy đâu thể nào phạm tội! Thực ra câu Phúc Âm mang ý nói về quyền lực nơi ý định, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ nơi mỗi người. Bất cứ ai, nhìn người nào để thỏa lòng dục thì đã có ý nghĩ, ý muốn, ý định, ước mơ dục. Ý định, ý nghĩ này kiến tạo nên thực thể trong vô hình được gọi là ngoại tình trong lòng. Điều này có nghĩa ý nghĩ, ý định của một người tự có quyền lực tạo dựng thực thể nào đó.

Đồng thời nơi Phúc Âm cũng có câu khác, “Quả thật Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầunguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:24). Phúc Âm nói cho chúng ta biết rõ ràng, ý muốn, ý định nơi mỗi người mang quyền lực tuyệt đối nhưng chúng ta chưa nhận ra. Xét như vậy theo tôi nghĩ, câu Phúc Âm, “Hãy làm cho người khác những gì con muốn họ làm cho con” mang ý nghĩa hãy thực sự ước muốn cho người khác những gì mình muốn thì chuyện đó sẽ xảy đến với mình. Đây chính là phương pháp thực hiện lòng yêu thương, thực hiện lệnh truyền của Đức Giêsu. Yêu mến nhau là thực hiện sự chấp nhận người khác như chính họ và ước muốn những điều tốt đẹp nhất đến với họ. Tôi muốn nhắc lại, bất cứ gì chúng ta thực sự muốn xảy đến cho người khác, điều đó chắc chắn sẽ xảy đến cho chính chúng ta.

THĂNG THIÊN B (Mc. 16:15-20)

15 Và Ngài nói với họ: "Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. 16 Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. 17 Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, 18 Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe".

19 Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. 20 Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.

Nếu so sánh với Phúc Âm thánh Matthêu, Luca, và sách Tông Đồ Công Vụ, bài Phúc Âm theo thánh Marcô tương tự giống với Matthêu, cả hai thiếu phần nhắc nhở đến sự hiện xuống và hoạt động của Thánh Thần nơi dân Chúa. Cũng như Marcô, Phúc Âm Matthêu chỉ nhắc lại tóm gọn lời Đức Giêsu nói với các tông đồ, “Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta. Vậy các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng,nhân danh Cha và Con và Thánh Thần...” (Mt. 28:19). Phúc Âm Matthêu và Marcô không nhắc nhở gì đến lời Đức Giêsu hứa ban Thánh Thần mà ngược lại chỉ nhắc đến sự phạm thượng đến Thánh Thần thì không được tha (Mt. 12:”32; Mc.3:29). Điều này phần nào chứng tỏ, theo Phúc Âm Matthêu và Marcô, Thánh Thần đương nhiên được chấp nhận đã sẵn sàng hiện diện nhưng con người không nhận biết, trong khi Phúc Âm Gioan lại cho rằng Thiên Chúa ban Thánh Thần để dạy dỗ và làm sáng tỏ những lời rao giảng của Đức Giêsu sau khi Ngài đã lìa cõi thế.

Nơi bài đọc thứ nhất trích từ sách Tông Đồ Công Vụ cũng như nơi Phúc Âm Luca ghi lại lời Đức Giêsu căn dặn các tông đồ, “Và này Ta sắp sai đến trên các ngươi điều Cha Ta đã hứa! Về phần các ngươi, hãy ngụ lại trong thành cho đến bao giờ các ngươi được mặc lấy mãnh lực Trên ban!” (Lc. 24:49). Điểm tương đồng nơi bốn Phúc Âm đó là lời dạy hoặc chỉ thị rõ ràng về việc rao giảng Phúc Âm như nơi Marcô công bố, “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật” (Mc. 16:15).Luca viết, “Và nhân danh Ngài, phải được rao giảng cho mọi dân tộc việc hối cải để được tha thứ tội lỗi” (Lc. 24: 48).Gioan chỉ nói điểm chính yếu, “Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi” (Gioan 20:21). Điều tôi muốn quý ông bà anh chị em để ý đó là ngôn từ hay văn từ“hối cải” được dịch từ ngôn ngữ Greek, Metanoia mang nhiều nghĩa nhấn mạnh về điều kiện cần phải có cho những ai muốn thăng tiến đức tin.

Vấn đề được đặt ra nơi bài Phúc Âm đó là tại sao lại nói “Rao giảng Tin Mừng cho mọi tạo vật?” Tạo vật mang ý nghĩa bao trùm mọi vật, mọi loài vì bất cứ sự hiện hữu nào, hữu hình hay vô hình đều phát xuất từ Thiên Chúa. Và như vậy, rao giảng Tin Mừng cho gỗ đá, cây cỏ thì rao giảng bằng cách nào? Làm sao chúng có tai để nghe? Làm sao chúng có thể suy luận. Khi đọc và nghe nhiều người nhắc lại câu truyện thánh Phanxicô giảng cho cá nghe, tôi đã lấy làm lạ. Giờ này, Phúc Âm lại nói rao giảng cho mọi tạo vật. Tôi nghĩ, hình như ngôn từ rao giảng được dịch một cách trục trặc nào đó vì xét theo nghĩa đen không ai lại dại dột bỏ công sức giảng cho đất đá, cây cối, đồi núi, nhà cửa. Thế nên, muốn suy nghiệm lệnh truyền của Đức Giêsu, chúng ta cần biết Tin Mừng là gì và ngôn từ rao giảng nơi Phúc Âm Marcô có nghĩa gì.

Bất cứ ai cũng biết rõ, ngoại trừ những người không cần biết hoặc không muốn biết, mục đích của Đức Giêsu đến thế gian để rao giảng Tin Mừng Nước Trời... và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi loài mọi vật như đã được chép nơi Phúc Âm Luca đoạn 4, câu 43, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến.” Tuy nhiên, nếu Chúa đã và đang hiện diện cũng như hoạt động nơi mọi loài mọi vật thì cần gì phải rao giảng? Chẳng lẽ không rao giảng thì Chúa biến mất hay ngưng hoạt động... và nếu Chúa ngưng hoạt động, con tim chúng ta không đập, thì lại càng không cần phải được rao giảng. Suy như thế, gọi là rao giảng chỉ có nghĩa công bố một thực thể mà thôi, không đem đến cho người nghe hoặc tạo vật bất cứ sự gì mới mẻ hay lạ lùng hoặc lớn lao. Như vậy, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa tức là công bố Tin Mừng, công bố thực thể Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mọi người, nơi mọi loài, mọi vật. Đức Giêsu sai các môn đệ đại diện cho chúng ta; điều này có nghĩa, Đức Giêsu sai chúng ta công bố rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa hiện diện nơi mọi vật, mọi loài.

Tuy nhiên, nói hay nghĩ như thế vẫn chưa ổn vì nếu chỉ công bố, chỉ rao giảng, chỉ la lên rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa hiện diện nơi mọi vật, mọi loài thì điều này đã và đang được thực hiện cả 2000 năm nay, như thế đâu cần phải nói thêm... và nếu vấn để rao giảng chỉ có thế đâu cần học những môn nào là tu đức, thần học, luân lý, giáo luật, giáo sử, hôn nhân... và cũng từ đó suy ra, đâu cần chi những nhà rao giảng, đâu cần linh mục này, giám mục kia, bà sơ nọ... rồi nào giáo lý, phép cưới, phép nọ phép kia nhiều phiền hà, lắm rắc rối chẳng khác gì vẽ rắn thêm chân để tạo job.

Xin thưa, rao giảng, công bố, tin, rằng Thiên Chúa ở khắp mọi nơi như giáo lý dạy; Thiên Chúa ở cùng chúng ta như Phúc Âm nói... thì ai cũng nói được, ai cũng biết, và biết như con vẹt. Hai ngàn năm nay biết bao người công bố, biết bao sách vở, biết bao chi phí mà thực ra đã chẳng đem lại lợi ích gì cho bất cứ ai đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này. Sự công bố, sự rao giảng, sự tuyên truyền, tuyên dương, giảng dạy, khuyến khích... chẳng khác gì những lời nói quảng cáo về sự tốt lành của nước... không thể làm cho bất cứ ai trong chúng ta hết khát. Muốn hết khát, chúng ta phải uống nước vì không ai có thể uống dùm cho ai. Thế nên, tất cả những sự giảng dạy của biết bao người đã bỏ công lao sức lực hai ngàn năm qua, biết bao công lao các thánh, ngay cả sự nhập thể của Đức Giêsu và sự khổ nạn của Ngài cũng không thể nào làm cho chúng ta hết khát. Chúng ta phải uống nước mới hết khát.

Như vậy, những sự rao giảng, công bố Tin Mừng Nước Trời chỉ là những cơ hội nhắc nhở chúng ta suy nghiệm, nghiệm chứng thực thể Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mình mà thôi. Nghiệm được hay không tùy thuộc mỗi người chứ không tùy thuộc Chúa, không tùy thuộc giáo hoàng hoặc giám mục hay linh mục. Các cấp bậc nơi hàng giáo sỹ chỉ là những phương tiện rao giảng Tin Mừng Nước Trời chứ họ không cứu độ được bất cứ ai. Nói như thế, tất nhiên, bất cứ ai chưa nghiệm được Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động nơi mình chắc chắn chưa được cứu độ, chưa được giải thoát khỏi ham muốn thế tục, chưa được giải thoát khỏi ách thống trị của Satan.

Tóm lại, Đức Giêsu đòi hỏi, mong ước mỗi người chúng ta suy nghiệm cho được thực thể Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi chính mình và sau đó trở thành phương tiện cũng như cơ hội giúp những người khác nhận biết chính Chúa cũng đang hoạt động và hiện hữu nơi họ. Như vậy, rao giảng Tin Mừng Nước Trời cần điều kiện nghiệm chứng Tin Mừng. Nếu ai không suy nghiệm Phúc Âm sẽ suốt đời là nô lệ của Satan mà thôi vì Phúc Âm cũng có lời chép, “Một tôi tớ không có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc nó ghét người này và mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và thế tục được” (Lc. 16:13).

Có một đôi người nói với tôi rằng cứ như những bài tôi đã giảng thì làm sao cho đa số giáo dân hiểu được. Tôi xin minh định rõ ràng đó là tôi không giảng dạy ai và cũng yêu cầu đừng ai tin những gì tôi nói mà hãy tự nghiệm chứng vì tôi chỉ chia sẻ những suy nghiệm của mình về Phúc Âm mà thôi. Chẳng hạn, nếu áp dụng theo nghĩa đen của câu “Một tôi tớ không có thể làm tôi hai chủ” để rồi cho rằng Phúc Âm dạy chúng ta tối ngày đến nhà thờ đọc kinh cầu nguyện thay vì làm lụng kiếm phần sinh sống cho gia đình thì chỉ có chết đói chứ chưa nói tới thờ phượng Chúa. Phúc Âm chỉ đường suy nghiệm tâm linh và nguyên tắc để thăng tiến tâm linh là hãy tỉnh thức và cầu nguyện. Hãy tỉnh thức có nghĩa luôn luôn nhận thực rằng Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình. Cầu nguyện là vận dụng tâm trí suy nghiệm sao có thể áp dụng và sống thực thể Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình.

Như vậy, ngôn từ được dùng để chỉ trạng thái này tức là định tâm. Tôi nêu lên thí dụ; tôi chỉ có thể nói với những người biết lái xe,còn những ai chưa có kinh nghiệm lái xe sẽ không thể nào cảm nghiệm được; đó là đã nhiều lần chúng ta lái xe về tới nhà mới chợt nhận ra không biết mình đi qua những đường nào. Lý do, khi lái xe, tâm trí chúng ta đang tính những chuyện gì đó và không để ý đến mình đã lái xe qua những đường phố nào. Chúng ta đã lái xe theo phản xạ. Hoặc có nhiều lúc lái xe, chúng ta chợt nhận ra không hiểu mình lái xe hay chiếc xe lái mình. Thế nên, chúng ta làm việc gì thì cứ làm, đánh tôm, bắt cá, buôn bán, làm công việc sởmỏ thì cứ việc làm nhưng tâm trí chúng ta luôn suy nghiệm về sự hiện hữu của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình, suy nghiệm về Tin Mừng Nước Trời, suy nghiệm về câu nói Thiên Chúa ở cùng chúng ta mang nghĩa gì, vậy cuộc đời chúng ta là gì?

Mục đích của Phúc Âm là giúp chúng ta thăng tiến trên đường tâm linh, nhà Phật gọi là thức ngộ. Và như vậy, điều kiện để thức ngộ là suy nghiệm và định tâm. Thế nên câu “Một tôi tớ không thể làm tôi hai chủ” có nghĩa hoặc là mình suy nghiệm về thực thể Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình hay suy nghĩ về những chuyện thế tục. Bởi vậy Phúc Âm cũng có lời khuyến khích, “Hãy nhìn chim trên trời, hãy coi bông huệ ngoài đồng” Tâm trí chúng ta hướng chiều về tâm linh theo lời dạy của Phúc Âm hay những suy tư thế tục tùy thuộc mỗi người. Xin chúng ta để ý điều này để suy nghiệm Phúc Âm hầu nhận thực được chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình.

HIỆN XUỐNG(Gioan 20:19-23) abc

20:19 Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: "Bình an cho anh em!" 20:20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. 20:21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em." 20:22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 20:23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ."

Hôm nay chúng ta mừng lễ Thánh Thần hiện xuống. Ngay phần đầu, bài Phúc Âm nói về sự thể Đức Giêsu hiện ra với các môn đồ sau khi Ngài sống lại. Đồng thời Ngài cho các ông xem dấu đanh và vết thương nơi cạnh sườn. Phúc Âm thánh Luca còn kể về việc Đức Giêsu ăn cá nướng trước mặt các Tông Đồ khi hai môn đệ trên đường Emaus đang kể về việc gặp Ngài hồi chiều (24:42). Những sự diễn tả này dẫn nhận thức của chúng ta đối chứng một sự kiện đó là việc Đức Giêsu đã hiện ra sau khi sống lại, Ngài đã đến từ thế giới vô hình, vượt qua các cửa đóng kín để vào thế giới hữu hình và lại từ sự hiện hữu hữu hình đi vào cõi vô hình. Ngài cũng tuyên bố rõ ràng nơi Phúc Âm Gioan đoạn 14 câu 12, “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa.” Qua nhận định về dữ kiện được Phúc Âm ghi lại, vấn đề được đặt ra đó là khi nào con người mới đạt tới trình độ mà Đức Giêsu gọi là tin và để có thể đi vào vô hình cũng như trở lại hữu hình? Điều khiến tôi hơi ngạc nhiên đó là lời Phúc Âm thánh Gioan chép, “Người thổi hơi và phán bảo các ông: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần.”

Chúng ta nhớ lại lời tuyên xưng nơi kinh Tin Kính, “Tôi tin kính Đức Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống.” Mọi sự hiện hữu đều bởi từ Thiên Chúa mà có và ngoài Thiên Chúa, không có sự gì hiện hữu. Sự sống cũng thuộc về sự hiện hữu từ Thiên Chúa và sự sống phát sinh từ thời đại nào, đã bao nhiêu tỷ năm rồi, khoa học ngày nay vẫn còn bó tay, chưa thể xác nghiệm được. Nhận định theo thực tại của sự hiện hữu thì Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống đã và đang thực hiện công việc của Ngài tự thuở đời đời. Thế sao Phúc Âm lại viết, “Nhận lấy Thánh Thần?” Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố và nơi bản Kinh Thánh N.T.Thuấn dịch, đều viết hoa hai chữ Thánh Thần, điều này chứng tỏ Kinh Thánh muốn nói Chúa Thánh Thần. Đây là điểm khiến tôi ngạc nhiên. Sự sống đã có từ thuở tạo thiên lập địa thì theo như lời chúng ta tuyên xưng với Giáo Hội, Thánh Thần Thiên Chúa đã và đang hiện diện nơi tạo vật. Theo Kinh Thánh thìmãi cho tới khi Đức Giêsu đã chết, đã sống lại, và hiện ra Thánh Thần mới đến với các tông đồ qua làn hơi Ngài thổi. Hơn nữa, sách bài đọc đặt vào Phúc Âm Gioan câu viết, “Bởi chưng Thánh Thần chưa được ban xuống, vì Chúa Giêsu chưa được tôn vinh” (Jn. 7:39), trong khi Lm. N.T.Thuấn dịch, “Điều ấy Ngài nói về Thần Khí các kẻ tin vào Ngài sẽ lãnh lấy vì Thần Khí chưa có bởi Đức Giêsu chưa được tôn vinh.” Nếu suy nghiệm theo lời tuyên xưng đức tin thì bản dịch câu Phúc Âm Gioan của Lm. N.T.Thuấn hợp lý hợp tình hơn bởi cho rằng Thần Khí Đức Giêsu thổi vào các tông đồ không phải là Thánh Thần Thiên Chúa mà là Thần Khí của Đức Giêsu được ban đặc biệt cho những ai nghiệm chứng lời Ngài rao giảng và được gọi là tin vào Ngài và Thần Khí này chỉ xảy đến sau khi Đức Giêsu được tôn vinh.

Ngược giòng Kinh Thánh, chúng ta đọc nơi sách Tông Đồ Công Vụ, “Khi thời gian đã mãn, đến lễ Năm Mươi, mọi người cùng nhau đang tề tựu một nơi; thì bỗng xảy đến, vang dậy cả nhà nơi họ đang ngồi. Và họ thấy những lưỡi như thể là lửa, phân tán dần mà đậu trên mỗi người trong họ. Và hết thảy họ được đầy Thánh Thần, và bắt đầu nói những tiếng lạ tùy theo Thần Khíban cho họ phát ngôn” (TĐCV. 2:1-4). Đồng thời TĐCV cũng lặp lại lời tiên tri Joel, “Sẽ xảy ra trong nhữngngày sau hết, Thiên Chúa phán: Ta sẽ đổ Thần Khí ta trên mọi xác phàm. Và con trai, con gái các ngươi sẽ tuyên sấm, thanh niên của các ngươi sẽ thấy thị kiến, kẻ già lão trong các ngươi sẽ chiêm điềm mộng” (Joel 3:1-2; TĐCV. 2:17). Bốn Phúc Âm và nói chung, Tân Ước chỉ dùng danh xưng Thánh Thần (Mt. 1:18, 20; 3:11; 12:32; 28:19; Mc. 1:8; 3:29; 12:36; 13:11; Lc. 1:15, 35, 41, 67...). Cựu Ước dùng những tiếng Thần Khí của Thiên Chúa (Gen. 6:3; 41:38; Num. 11:29; 24:2; Judg. 3;10; 6:34; 11:29; 13:25; 14:6...), và danh hiệu Thánh Khí (TV. 51:11; Isaia 63:10,11) để chỉ Thánh Thần. Nói bao quát, những danh xưng nơi Cựu Ước như Thần Khí của Thiên Chúa, Thần khí của Đức Chúa Giavê, Thánh Khí của Thiên Chúa đều chỉ về Chúa Thánh Thần nhưdanh hiệu thường được dùng nơi Tân Ước. Tuy nhiên, nhiều khi đọc Kinh Thánh chúng ta hay hiểu trùng hợp về sự thể thần khí của Đức Giêsu với Thánh Thần Thiên Chúa; chẳng hạn như bản dịch của sách bài đọc cho rằng Thánh Thần chưa được ban xuống khi Đức Giêsu chưa được tôn vinh.

Bài Phúc Âm cũng nêu thêm điểm khá quan trọng, “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Câu Phúc Âm này đã thường được hiểu theo nghĩa phụ giúp cho quyền hành của Giáo Hội, đặc biệt nơi bí tích giải tội. Chúng ta nên để ý, Giáo Hội là nhiệm thể Đức Kitô, Giáo Hội là bí tích. Đây là lý do tại sao chúng ta nghe thấy khi các cha đọc lời xá giải có câu, “Qua việcmục vụ của Giáo Hội, xin Chúa tha thứ và ban an bình cho con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.” Hơn nữa, chúng ta thuộc vềnhiệm thể Chúa Kitô, chúng ta là thành phần của bí tích bởi thế không ai có quyền cầm buộc mà chỉ có bổn phận phải hòa giải hoặc thứ tha. Nếu sự suy nghiệm của tôi không lầm thì câu Phúc Âm, “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại,” hình như đã được dịch không đúng với ngôn từ cổ xưa của ngôn ngữ Do Thái (Amaric). Nơi Phúc Âm Matthêu và Luca, Đức Giêsu dạy chúng ta cầu nguyện như kinh Lạy Cha chúng ta thường đọc “Và tha lỗi chúng con như chúng con cũng tha kẻ có lỗi với chúng con... Xin đừng để chúng con sa chước cám dỗ...”

Lời dạy của Đức Giêsu qua kinh Lạy Cha quá rõ ràng. Chúng ta xin Chúa tha cho chúng ta như chúng ta tha cho người khác. Điều này có thể hiểu ngược lại đó là chúng ta đối xử với người khác thế nào thì chúng ta chấp nhận và xin Chúa cũng đối xử với chúng ta như thế... Suy như vậy, nếu hiểu theo nghĩa đen, câu Phúc Âm Gioan, “Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” mang nghĩa ngược lại và có thể được hiểu: Các con tha tội cho ai thì các con được tha. Các con cầm buộc ai thì tội các con bị cầm lại. Nhận thức như thế, chúng ta có thể hiểu lý do tại sao câu nói thành danh nơi trường thần học ngày xưa, “Ngoài Giáo Hội không có ơn cứu độ” ngày nay đã bị lãng quên; nói cho đúng, bất cứ ai nhắc tới câu nói đã một thời làm mưa làm gió, mang tai hại lớn lao này đều cảm thấy xấu hổ về tội lộng ngôn... Chúng ta cũng có thể hiểu tại sao Giáo Hội, được đại diện bởi giáo hoàng lên tiếng kêu gọi dân Chúa ăn năn xám hối; đồng thời tại sao các bậc có thẩm quyền nơi Giáo Hội phải lên tiếng đính chính về vụ án Galiléo. Kêu gọi hòa giải tất nhiên trực tiếp xin được tha thứ chứ không phải kết án, cầm buộc. Không ai có quyền cầm buộc ai vì Thiên Chúa không cầm buộc bất cứ ai bởi “Ngài cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Chúng ta chỉ có quyền cầm buộc chính mình như kết quả của sự không suy nghiệm Lời Chúa. Sự cầm buộc này chính là sự u mê, u tối chạy theo thế tục, sự cầm buộc chính mình nơi cõi vô minh.

Xin Đức Giêsu sai Thần Khí của Ngài đến với mọi người giúp chúng ta nhận biết quyền lực của Thánh Thần Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người từng giây từng phút. Amen.

CHÚA BA NGÔI B (Mt. 28:16-20)

16 Mười một môn đồ trẩy đi Galilê, lên núi Ðức Yêsu đã hẹn với họ. 17 Thấy Ngài, họ phục lạy Ngài, nhưng có kẻ hoài nghi. 18Ðức Yêsu tiến lại và nói với họ, rằng: "Mọi quyền năng trên trời dưới đất được ban cho Ta. 19 Vậy các người hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, thanh tẩy chúng nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, 20 Dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi"

"Và này Ta sẽ ở với các ngươi mọi ngày cho đến tận thế".

Hôm nay chúng ta mừng lễ kính Chúa Ba Ngôi, Thiên Chúa Cha, Thiên Chúa Con, và Thiên Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi cùng một tính, một thực thể, và một Chúa mà thôi. Đã có nhiều người cố gắng dùng trí óc thông minh để suy nghiệm về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi nhưng qua kinh nghiệm suy gẫm chúng ta nhận thấy thực thể mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi từ xưa tới nay chưa ai suy nghiệm được một cách toàn vẹn. Đây là lý do tại sao gọi là mầu nhiệm. Có câu truyện kể rằng thánh Agustinô một hôm đi dọc theo bờ biển suy nghiệm để giải thích về thực thể Chúa Ba Ngôi thì có một thiên thần hiện ra thành em bé gái lấy vỏ ốc biển múc nước đổ vào lỗ còng. Thấy em nhỏ xinh xắn ngồi nghịch một mình, thánh Agustinô đến gần làm quen ngồi xuống hỏi, “Em làm gì vậy?” Em bé gái trả lời rằng em muốn tát cạn nước biển bằng cách đổ nước vào lỗ còng. Thấy em trả lời phi lý nhưng thánh nhân vẫn nhẫn nại nói, “Làm sao em có thể đổ hết nước biển vào một lỗ còng!” thì em bé gái lên tiếng bảo thánh nhân: Chính thánh nhân đang làm như thế vì dùng đầu óc con người để suy tưởng về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi thì cũng chẳng khác gì đòi tát cạn nước biển bằng cách đổ nước vào lỗ còng.

Xưa nay đã có nhiều cố gắng của những bậc thông minh xuất chúng dùng mọi phương cách hầu giải thích về sự hợp nhất của Ba Ngôi Thiên Chúa, đồng bản thể, đồng bản tính, Ba Ngôi riêng biệt nhưng chỉ một Chúa. Nhiều thí dụ đã được đưa ra chẳng hạn sự phối hợp của cây nến, lửa, và ánh sáng, hoặc sự phối hợp dòng điện, bóng đèn, và ánh sáng. Có người dám táo bạo dùng hình ảnh vợ chồng và đứa con để nói lên sự liên hệ của Chúa Ba Ngôi, và dĩ nhiên, đã hai ngàn năm qua, bao nhiêu lần lễ kính Chúa Ba Ngôi thì bằng ấy trăm ngàn lần những thí dụ khác nhau được mô phỏng cũng chỉ về Ba Ngôi nhưng một Chúa không hề tách biệt.

Tôi mời quý ông bà anh chị em thử nhận định nơi chính mình hy vọng chúng ta có thể nghiệm chứng được phần nào thực thể Ba Ngôi nhưng chỉ một Chúa ra sao. Mỗi người chúng ta có một linh hồn, nhập thể nơi xác thân. Nếu chỉ linh hồn linh thiêng mà thôi, nào ai biết! Và cũng nếu chỉ có xác thân mà không có linh hồn, đó là thực tại sự chết, thân xác sẽ trở thành tro bụi chẳng còn gì. Tuy nhiên, linh hồn nhập thể nơi xác thân phát sinh sự hoạt động của tâm trí như tư tưởng, suy nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, tham vọng, mưu mô. Kinh nghiệm cuộc sống minh chứng, thực thể sự vật và sự việc không đơn giản như những suy luận đơn thuần mà thường thì dẫu cho những sự kiện đơn giản đến mấy cũng đều mang tính chất nhiệm mầu cả thể. Dẫu chúng ta được dạy nơi nhà trường rằng một cộng với một là hai nhưng tất cả chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này đều có thể xác nhận một cộng với một có thể là bao nhiêu cũng được. Mầu nhiệm Ba Ngôi đang hiện diện nơi mỗi người chúng ta. Một con người bao gồm hồn, xác, và tâm trí không thể tách rời; cả ba chỉ là một. Thiên Chúa ở ngay trước mắt mà chúng ta không nhìn thấy. Mầu nhiệm của Thiên Chúa nơi mỗi người mà chúng ta không nhận biết.

Bài Phúc Âm nêu lên ba điểm khó hiểu. Điểm thứ nhất, trong 11 môn đệ vẫn còn người hoài nghi. Điểm thứ hai, Đức Giêsu sai các ông ra đi giảng dạy muôn dân để họ tuân giữ mọi điều Ngài đã giảng dạy. Điểm thứ ba, đó là lời hứa, “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” trong khi chúng ta mới mừng lễ Ngài lên trời hai tuần trước. Phúc Âm ghi lại sự thể có ít môn đệ còn hoài nghi có lẽ các ngài cũng như chúng ta, đã chẳng hiểu những lời Ngài rao giảng về điều gì. Về điểm thứ hai, tôi thử lặp lại một đôi lời Đức Giêsu đã giảng dạy được ghi lại nơi Phúc Âm thánh Marcô để chúng ta nghiệm chứng. “Nước Thiên Chúa đã gần bên, hãy cải thiện và tin vào Tin Mừng;” (1:15) vậy Nước Thiên Chúa là gì và Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng thế nào? “Ta không đến kêu gọi những người công chính, mà là những kẻ tội lỗi;” (2:17) như vậy, theo lời Phúc Âm, những người không cần tìm hiểu hay nhận biết những lời Đức Giêsu rao giảng có phải là những người ngay lành? “Không ai lấy mụn vải sống mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, mảnh điền thêm mới kia nơi áo cũ sẽ co lại, và miếng rách càng tệ hơn. Cũng không ai lấy rượu mới đổ vào bì cũ, chẳng vậy, rượu sẽ toạc bì ra, mà rượu và bì đều hư mất, nhưng rượu mới vào bì mới;” phỏng chúng ta là bì thuộc loại nào để hợp với lời Phúc Âm? “Ai có tai thì nghe;” chúng ta cần chuẩn bị tâm hồn thế nào để được gọi là có tai nghe lời Đức Giêsu rao giảng? “Hãy xéo đi sau ta hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa mà là của loài người;” tất cả những ý nghĩ, ước muốn ước mơ của chúng ta đều thuộc về con người, đều là Satan. Tôi mời gọi quý ông bà anh chị em để tâm suy nghiệm ít nhất một câu nơi lời dạy của Đức Giêsu vừa được trích từ Phúc Âm.

Nơi đoạn cuối Phúc Âm Luca được chép, “Rồi Ngài đã dẫn họ đến tận Bêthania; đoạn giơ tay, Ngài chúc lành cho họ. Và xảy ra là đang khi Ngài chúc lành cho họ, thì Ngài đã từ biệt họ [và được nhắc lên trời]. Phần cuối Phúc Âm Marcô ghi lại, “Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa.” Hai đoạn cuối này được viết về sự kiện chứ không rõ ràng như nơi Gioan đoạn 14 câu 2 và 3, “Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở - chẳng vậy, Ta đâu có nói với các ngươi là Ta đi dọn chỗ cho các ngươi. Và nếu Ta ra đi và dọn chỗ cho các ngươi, thì Ta sẽ đến lại và đem các ngươi theo Ta, để Ta ở đâu, các ngươi cũng ở đó. Và Ta đi đâu, các ngươi biết đàng rồi.” Nếu suy nghiệm kỹ về Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận thấy ý nghĩa hai lối nói “lên trời” và “ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” như nhau vì, “Nước Thiên Chúa ở trong các ông,” và vì “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” và cũng vì quyền lực tối thượng là Thiên Chúa ở nơi Đức Giêsu cũng đang hiện diện nơi chúng ta.

Hôm nay chúng ta dâng lễ tạ ơn Thiên Chúa đã cho chúng ta có những người bố, người chồng nơi gia đình. Chúng ta dành ngày hôm nay đặc biệt dâng lên Chúa lời cảm tạ và xin Chúa chúc lành cho những người cha trong gia đình và gìn giữ họ luôn sống đẹp lòng Chúa và cùng tạo dựng những gia đình yên vui, đầm ấm. Amen.

LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA B (Mc. 14:12-16, 22-26)

12 Ngày thứ nhất Tuần Bánh không men, lúc có lệ tế chiên Vượt qua, môn đồ nói với Ngài: "Thầy muốn chúng tôi đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt qua ở đâu?" 13 Và Ngài sai hai môn đồ và nói với họ: "Các ngươi hãy vào thành và có người đội vò nước sẽ đón gặp các ngươi. Các ngươi hãy theo người ấy, 14 và nó vào đâu, thì các ngươi hãy nói với gia chủ; "Thầy bảo: Chỗ trọ danh cho Ta, nơi Ta ăn lễ Vượt qua với môn đồ của Ta đâu? 15 Và người ấy sẽ chỉ cho các ngươi một phòng rộng trên lầu đã trải đệm sẵn sàng. Các ngươi hãy dọn sẳn cho chúng ta ở đó". 16Môn đồ ra đi, vào thành và đã gặp như Ngài đã nói với họ, và họ đã dọn lễ Vượt qua.

22 Và đương lúc họ ăn, Ngài cầm lấy bánh, chúc tụng, rồi Ngài bẻ ra và ban cho họ và nói: "Hãy cầm lấy! Này là mình Ta". 23Ðoạn cầm lấy chén, tạ ơn, Ngài ban cho họ và họ uống chén ấy hết thảy. 24Và Ngài nói với họ: "Này là máu Ta, máu giao ước, đổ ra vì nhiều người. 25Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta sẽ không uống đến hoa quả giống nho nữa, cho đến ngày ấy, ngày Ta sẽ uống thứ mới trong Nước Thiên Chúa". 26 Hát Thánh vịnh rồi, họ đi ra núi Cây Dầu.

Để bài giảng được ngắn gọn, tôi xin quý ông bà anh chị em chú tâm đến ý nghĩa của hai ngôn từ, đó là thực thể và nhiệm thể Đức Kitô. Thực thể là bất cứ những gì hiện hữu dù thấy được hay không thấy được bằng mắt. Chẳng hạn cái nhà, cái bàn, cái ghế, hoặc ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, tham vọng. Tuy nhiên, ngôn từ chỉ được dùng để ám định chứ không nói lên đúng thực thể sự hiện hữu. Thí dụ, khi nói đến cái nhà, nếu đem phân tích cái nhà thành những phần nhỏ, chúng ta sẽ không thấy bất cứ đồ vật hay dụng cụ nào nói lên bản chất cái nhà. Xét như vậy, cái nhà là danh hiệu chỉ về một tổng thể hòa hợp và được kết cấu bởi nhiều phần tửkiến tạo nên một thực thể được gọi cái nhà.

Sự hiện hữu của một thực thể không lệ thuộc bất cứ quan niệm hay giá trị được gán cho nó. Nó là chính nó, không lệ thuộc sự ưa thích của con người cũng như không bị ảnh hưởng bởi quan niệm đúng sai, phải trái của con người. Chẳng hạn, tôi đang cùng quý ông bà anh chị em dâng thánh lễ, nếu khi ra về, có ai nói tôi không dâng lễ với quý ông bà anh chị em thì cũng chẳng có gì ảnh hưởng đến thực thể đang xảy ra lúc này. Hoặc ai nói rằng tin hay không tin tôi cùng quý ông bà anh chị em đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này thì cũng không có gì khác biệt. Thực thể, nói tổng quát, sự thực, không lệ thuộc quan niệm của chúng ta, không bị ảnh hưởng bởi ý nghĩ tin hay không tin, sự thực tự nó vẫn là sự thực. Nó cũng không cần chúng ta quảng bá hay bảo vệ hoặc giải thích vì nó có sự hiện hữu nên dù nói thế nào hay quan niệm ra sao cũng chẳng gì thay đổi. Sự thay đổi chỉ xảy ra nơi ý định hoặc quan niệm của con người.

Vấn đề thứ hai đó là nhiệm thể Đức Kitô. Muốn hiểu về nhiệm thể Đức Kitô, chúng ta cần nhận ra sự huyền nhiệm cả thể nơi mỗi người. Nói cách khác, đó là những phép lạ đang xảy ra từng giây từng phút nơi mỗi người. Ai cũng nhận thấy rõ ràng, nếu con mắt của chúng ta được cấu tạo giống như chiếc mũi hoặc ngón tay cái, chúng ta không thể nào nhìn được. Hoặc nếu chiếc miệng của chúng ta giống như bất cứ phần nào nơi cơ thể, chúng ta sẽ không ăn uống gì được. Đây chính là sự huyền nhiệm nơi mỗi người mà xưa nay chúng ta thường không bao giờ để ý. Hơn nữa, cơ thể chúng ta gồm nhiều thành phần khác nhau hòa hợp lại mà không thành phần nào giống thành phần nào… có chăng chỉ tương đồng chứ không hoàn toàn như nhau. Vấn đề được đặt ra đó là lý do hoặc nguyên nhân hay quyền lực nào đang điều hành để liên kết mọi thành phần của cơ thể chúng ta hòa hợp kiến tạo nên thực thể được gọi là con người? Suy luận như vậy, chúng ta cảm nhận được có một quyền lực huyền nhiệm nào đó đang hoạt động nơi mỗi người khiến con tim liên tục đập, lá phổi không ngừng thở dẫu khi chúng ta ngủ, chúng ta quên luôn cả thân xác. Quyền lực này cũng đang hoạt động ở từng tế bào nơi cơ thể của mỗi người, giúp tế bào hấp thụ dưỡng trấp, sinh sản, và qua thời kỳ nào đó đã tự chết đi nhường chỗ cho những tế bào khác mới được phân hóa tiếp nối hoạt động. Tôi gọi quyền lực huyền nhiệm này nơi mỗi người là Thiên Chúa. Như vậy, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu, hoạt động và điều hành nơi mọi loài, mọi vật.

Suy nghiệm như thế, chúng ta thấy Thiên Chúa đang hoạt động và là căn nguyên cho sự sống nơi mỗi người. Và như vậy, mẫu số chung hay căn bản chung của mọi người, mọi vật, mọi loài chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa hay quyền lực hiện hữu căn bản chung, theo ngôn từ thần học được gọi là nhiệm thể. Chúng ta được gọi là nhiệm thể Chúa Kitô vìsự hiện hữu của mỗi người chúng ta đều do chính Thiên Chúa đang điều hành, hoạt động.

Thế nên, khi chúng ta họp nhau cùng dâng thánh lễ, chúng ta gom tất cả mọi thành phần nhiệm thể của Đức Kitô để cùng ca tụng, tôn vinh Thiên Chúa, quyền lực hiện hữu huyền nhiệm và tối thượng đang hoạt động, điều hành nơi mỗi người, đồng thời cũng hoạt động và điều hành nơi mọi người. Trong trường hợp này, linh mục nơi vị thế đại diện dân Chúa, đại điện một cộng đồng thuộc nhiệm thể Đức Kitô thực hiện công việc của nhiệm thể Đức Kitô, và cũng thực hiện công việc của Đức Kitô. Linh mục và dân Chúa chẳng khác gì công cụ hoặc phương tiện cho Đức Kitô thực hiện công việc của Ngài. Sự thể này giải thích ý nghĩa câu Phúc Âm, “Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta, thì có Ta ở đó, giữa họ” (Mt. 18:20).

Hôm nay chúng ta cùng dâng thánh lễ tôn vinh Mình và Máu Thánh Đức Kitô. Tôi muốn nói, cộng đồng dân Chúa, nhiệm thể Đức Kitô cùng họp nhau tôn vinh thực thể Mình và Máu Thánh của Ngài nơi Bí Tích Thánh Thể. Qua những suy nghiệm cùng nhau nhận thức, một điều chắc chắn chúng ta nghiệm được đó là chính Đức Kitô thực hiện công việc truyền phép thánh thể của Ngài nơi Thánh Lễ. Linh mục chỉ đại diện cộng đồng dân Chúa, nhiệm thể của Đức Kitô đọc lời truyền phép nhưng chính Đức Kitô thực hiện công việc của Ngài. Linh mục không có quyền năng gì nơi sự truyền phép mà chỉ là công cụ đại diện cho cộng đồng dân Chúa mà thôi. Sự truyền phép này và sự hiện diện của Đức Kitô nơi phép thánh thể là một thực thể tự nó, ai nói có hay không thìthực thể vẫn là thực thể. Ai tin cũng thế, chẳng tin cũng vậy bởi thực thể không lệ thuộc quan niệm của bất cứ ai. Sự hiện diện của Thiên Chúa, quyền lực tối thượng nơi mỗi người, được thể hiện từng giây từng phút, được thể hiện qua những thành phần và hoạt động khác nhau nơi cơ thể mỗi người mà đã bao lâu nay chúng ta không để ý nhận biết.

Tóm lại, ai suy nghiệm để nhận biết sự huyền nhiệm cả thể đangxảy ra nơi mình từng giây từng phút, nơi từng nhịp đập con tim, nơi từng hơi thở của lá phổi, qua con mắt nhìn thấy mọi sự vật chung quanh, qua cặp tai nghe được những âm thanh, tiếng nói đó đây, thì mới có thể suy nghiệm để nhận thực được sự hiện diện của Đức Kitô nơi bí tích Thánh Thể. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng cho mỗi người chúng ta nhận biết sự huyền nhiệm nơi mỗi người. Amen.

CHỦ NHẬT 7B (Mc. 2:1-12)

1 Sau nhiều ngày, Ngài lại vào Capharnaum, người ta nghe biết Ngài có nhà, 2 thì hội lại đông đến nổi không còn chỗ chứa, đến nổi trước cửa cũng không còn chỗ trống; Ngài giảng đạo cho họ nghe.

3 Người ta đem đến cho Ngài một người bất toại, có bốn người khiêng. 4 Nhưng vì đông người, nên không thể đem đến cho Ngài, thì họ dỡ mái nhà. chỗ có Ngài, khoét lỗ rồi đem mền chõng người bất toại nằm mà thòng xuống. 5 Thấy lòng tin của họ, Ðức Yêsu nói với người bất toại rằng:" Này con, tội lỗi con được tha!" 6 Ngồi đó có mấy ngưòi ký lục, và họ nghĩ thầm rằng: 7 "Tại sao y dám nói thế? Y nói phạm thượng! Ai nào có thể tha tội được, trừ phi Thiên Chúa" 8Tức khắc trong thần trí Ngài, Ðức Yêsu biết họ đang suy tính như thế trong lòng họ, nên Ngài nói với họ: "Sao lại suy tính như thế trong lòng các ông? 9Cái gì dễ hơn nào: hoặc nói với người bất toại: "Tội lỗi của con đã được tha" - hay là nói: "Hãy chỗi dậy vác mền chõng mà đi?" 10Song để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất " - Ngài nói với người bất toại: 11 "Ta bảo ngươi, hãy chỗi dậy vác lấy mền chõng mà về nhà!" 12 Người ấy đã chỗi dậy, và liền vác mền chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến cho ai nấy sửng sốt mà tôn vinh Thiên Chúa, mà rằng: "Ta chưa hề thấy thế bao giờ!"

Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố có ít nhất hai vấn đề chúng ta cần suy nghĩ kỹ càng hơn. Vấn đề thứ nhất đó là câu "Thấy lòng tin của họ." Điểm thứ hai là quyền tha tội. Đọc nơi bốn Phúc Âm, ít nhất chúng ta đếm được tám lần Đức Giêsu tuyên bố "Đức tin con chữa con" (Mt. 9:22; 29; Mc. 5:34; 10:52; Lc. 7:50; 8:48; 17:19; 18:42), trong khi nơi bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe, lòng tin được hiểu chỉ là sự tin tưởng Chúa Giêsu sẽ chữa lành. Nhận định như vậy, vấn đề khác được đặt ra đó là ngày xưa Chúa Giêsu có cuộc sống nơi thân xác như chúng ta nên những ai chạy đến với Ngài thì được chữa lành, nhưng thời bây giờ thì sao. Có rất nhiều sự kiện được chữa lành đã xảy ra trên thế giới, chẳng hạn nơi Lộ Đức, Fatima, Majugoriae, v.v... vậy quyền lực nào chữa lành, quyền lực nào thực hiện những việc mà chúng ta gọi là phép lạ?

Điểm đặc biệt nơi những người được những đặc ân được gọi là phép lạ này chính là lòng tin tưởng tuyệt đối nơi quyền lực của Thiên Chúa, của Đức Mẹ, hay của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, thử đặt vấn đề, biết bao người đi hành hương tới những nơi có phép lạ xảy ra và được bao nhiêu người được chữa lành? Chẳng lẽ Chúa hay Đức Mẹ thiên vị, thích người nào hơn thì ban cho người đó nên những người khác đành tốn tiền đi không về rồi? Nếu để ý đọc sách vở viết về những kết quả chữa lành, điều khiến chúng ta cảm thấy lạ lùng đó là đa số những người được ơn đặc biệt lại không phải là người theo Thiên Chúa Giáo. Tôi không muốn có câu kết luận nên chỉ nêu lên những dự kiện này để quý ông bà anh chị em tự nhận định.

Câu Phúc Âm nói về ý nghĩ của một số luật sĩ cho rằng Đức Giêsu phạm thượng khi nói tội lỗi của người bất toại được tha chứng tỏ rõ quan niệm không những của người xưa mà của cả chúng ta thời nay. Ai trong chúng ta không nghĩ chỉ một mình Thiên Chúa mới nắm giữ quyền hạn tha tội, tha vạ cho nhân loại. Điểm này thách đố chúng ta phải tự tìm hiểu, tự nhận thức Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, đồng thời cũng cần vạch rõ mối liên hệ giữa Thiên Chúa và chúng ta. Mỗi khi cử hành bí tích giải tội, xin quý ông bà anh chị em để ý lời nguyện xóa giải của linh mục. Lời nguyện như sau, "Thiên Chúa là Cha nhân từ, qua sự khổ hình và phục sinh của Con Một Ngài đã hòa giải với nhân loại và sai Thánh Thần đến giữa loài người để ban ơn tha tội. Qua nhiệm thể Giáo Hội, xin Chúa tha thứ, ban an bình cho con. Và ta giải tội cho con nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen."

Tôi chỉ có thể trình bày với quý ông bà anh chị em đại khái như thế và cũng không muốn nói lên kết luận nào bởi e rằng có nói thêm gì chăng nữa, coi chừng cũng chỉ trở thành cớ vấp phạm cho những ai cố tình không muốn suy nghiệm về Phúc Âm. Đặc biệt, chúng ta nên để ý một điều đó là: Chìa khóa mở đàng hiểu biết chính là Phúc Âm. Ngày nay không ai có quyền cất dấu và cũng không ai có thể cất dấu. Vấn đề chỉ là mỗi người chúng ta có thực sự muốn biết hay không và những sự kiện, sự việc, hành động nào minh chứng lòng khát khao muốn mở đàng hiểu biết để tiến vào khi chúng ta đang còn có cơ hội nơi cuộc sống thế trần này. Thế nên, muốn biết được lòng tin hay đức tin của mình ra sao, chúng ta cần đọc Phúc Âm để so sánh những gì nơi Phúc Âm được viết về lòng tin hay đức tin với sự thể mà chúng ta gọi là đức tin nơi chính mình. Amen.

CHỦ NHẬT 8B (Mc. 2:18-22)

18 Bấy giờ môn đồ của Yoan và Biệt phái đang giữ chay; người ta đến nói với Ngài:" Tại sao môn đồ của Yoan và môn đồ của Biệt phái ăn chay, còn môn đồ Thầy lại không ăn chay?" 19 Và Ðức Yêsu bảo họ: "Khách đám cưới có ăn chay trong lúc có tân lang ở với họ không? Bao lâu họ có tân lang ở với họ, ắt họ không thể ăn chay. 20Nhưng sẽ đến những ngày tân lang bị cất đi khỏi họ; và bấy giờ họ sẽ ăn chay, trong ngày ấy."

21 "Không ai lấy miếng vải mới mà vá vào áo cũ; chẳng vậy, mảnh điền thêm mới kia nơi áo cũ sẽ co nó lại, và rách càng tệ hơn. 22Cũng không ai đổ rượu mới vào bì cũ, chẳng vậy, rượu sẽ toạc bì ra, mà rượu và bì đều hư mất. Nhưng rượu mới vào bì mới!"

Đọc hoặc chú tâm để ý về diễn trình bài Phúc Âm vừa được công bố, chúng ta thấy có sự chuyển hướng bất ngờ. Bình thường, khi mới đọc hoặc nghe, ai cũng đều nghĩ rằng Đức Giêsu coi thường lề luật ăn chay của người theo Do Thái Giáo đồng thời Ngài muốn ám chỉ về sự thể phải xảy đến sau này đối với Ngài và các môn đồ. Lý luận hơn chút nữa như chúng ta thường được nghe hoặc đọc nơi các sách ngày xưa phân biệt về quan niệm mới và cũ, tân và cựu. Tất cả những phần kinh thánh được viết trước thời Đức Giêsu được gọi là Cựu Ước và những phần được viết sau thời Đức Giêsu được gọi là Tân Ước. Suy như thế, Tân Ước mang nhiệm vụ xóa bỏ những quan niệm cũ của Cựu Ước chẳng khác gì Phúc Âm thường cho rằng Đức Giêsu có những lời nói chống nghịch hoặc lên án các lề thói cũ của Do Thái Giáo. Những lề thói này được nhắc đến nơi sự tuân giữ của các biệt phái, ký lục, v.v... Bởi vậy, bài Phúc Âm hôm nay thường được hiểu như một mốc điểm phân biệt đạo mới, đạo cũ, hoặc luật mới, luật cũ. Quý cụ có tuổi có lẽ quá quen với lối nói "sang Evan." Theo nghi lễ thời tiền Vatican II, sau hai bài đọc, sách thánh được chuyển từ bên này qua bên kia bàn thờ. Evan phát xuất từ tiếng latinh, có nghĩa Phúc Âm. Thế nên đã có những lý thuyết giải thích nghi thức chuyển sách mang ý nghĩa đổi cũ theo mới trong khi nghi thức thánh lễ chẳng có gì để phân biệt mới cũ.

Tuy nhiên, nếu cũ hay mới thì ăn chay theo Biệt Phái hoặc theo lối các môn đồ của Gioan hay như luật buộc chúng ta đang tuân theo thời này, dẫu khác nhau về lề thói hoặc địa phương thì cũng chỉ là ăn chay. Điều khác thường nơi bài Phúc Âm đó là sự gán ép hoặc ráp nối quá đột xuất của phần thứ nhì về vải mới, áo cũ cũng như rượu mới, bì cũ. Để ý suy gẫm về bài Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận ra được điểm chính yếu không phải là vấn đề ăn chay mà là điều kiện tâm trí một người cần đạt tới để nghiệm chứng Phúc Âm được diễn giải một cách ám định nơi kinh nghiệm cuộc sống về việc vá áo và đựng rượu.

Kinh nghiệm sống minh chứng, khi tâm hồn chúng ta đang bận tâm lo nghĩ về chuyện nào đó, chúng ta không để ý đến những sự khôn ngoan hay những việc cần thiết đang xảy đến chung quanh. Xét theo cuộc đời con người, điều kiện cần thiết trước tiên là vấn đề sinh sống. Ai cũng có thể nghiệm chứng được cuộc sống không dễ dàng chi nếu không muốn nói là quá ư khó khăn và phiền hà. Lâu dần thành quen, bất cứ sự suy tư nào xảy đến nơi tâm trí con người đều được xét theo căn bản lợi hại mưu sinh. Tôi nghĩ, đây có thể là điểm chính yếu ảnh hưởng đế sự suy tư của mọi người chúng ta. Như vậy, chẳng lạ gì chúng ta đã thường hiểu ý nghĩa những lời Phúc Âm theo quan niệm thế tục, hoặc luân lý. Đàng khác, khi một chiếc ly đã đầy nước thì tất nhiên, chúng ta không thể đổ thêm bất cứ giọt nước nào nữa. Nếu cố đổ thêm cũng chỉ tràn ra ngoài. Tâm trí chúng ta đã quá quen lối tính toán, suy tư thế tục, quá tràn đầy quan niệm nhân sinh, luân lý chẳng khác gì ly đầy nước bởi vậy lời Phúc Âm không còn cơ hội thấm nhập. Tiền nhân chúng ta có câu, "Nước đổ lá môn" hay "Nước đổ đầu vịt" rất phù hợp nơi ý nghĩa này.

Suy đến đây, tôi tự đặt vấn đề; chúng ta gọi và tin Phúc Âm là Lời Chúa. Vậy tại sao Lời Chúa phải nói về vải mới, áo cũ hoặc rượu mới, bầu da cũ? Và như thế, gọi hoặc tin là Lời Chúa thì Lời Chúa được hiểu theo nghĩa nào? Nhất là nơi cuộc sống này, có lẽ không ai biết vá áo và thường dùng bình thủy tinh thì rượu mới hay cũ không thành vấn đề. Thế thì "vải mới" mang ý nghĩa gì? Áo cũ được áp dụng trong trường hợp nào? Rượu mới ở đâu? Bì da cũ ám chỉ điều chi? Kinh nghiệm cho chúng ta nhận thấy, bất cứ điều gì, vật gì chúng ta không biết, không dụng tâm để ý, thì đều được coi là mới. Thử ra chợ Kmart hay Waltmart, cả ngàn thứ người ta chế ra bao nhiêu năm rồi mà chúng ta cũng không hiểu được dùng để làm gì. Có một bận tôi tới gia đình người bạn, chẳng may ống thoát nước bồn rửa chén bị tắc nghẽn mà anh chị ta không biết làm cách nào để thông cho thoát nước. Tháo đường vòng chữ u thì đâu có vướng mắc gì. Tôi nói anh ta lái xe ra chợ mua đoạn cao su thông ống, nhưng anh ta không hiểu thế nào nên đi cùng với anh ra tiệm.

Sau khi ống đã thông, anh ta nói, "Đã biết bao lần tôi thấy thứ này nhưng chẳng bao giờ nghĩ tới nó được dùng để làm gì thế nên cứ bị khổ sở vì bồn rửa chén. Phúc Âm đối với chúng ta cũng thế. Đã bao lần nghe nhưng không để ý tìm hiểu do đó Phúc Âm chẳng khác gì rượu mới, vải mới. Ngược lại, chúng ta quá quen với lối suy tư thế tục hoặc xét đoán luân lý thì lối suy tư bình thường của chúng ta chính là áo cũ, bì cũ. Xét như thế, nếu dùng lối suy tư theo thói quen bình thường nhận định đúng, sai, phải, trái, lợi, hại, chúng ta không thể nào áp dụng để hiểu Phúc Âm. Đây chính là lý do tại sao chúng ta thấy đã biết bao lần suy nghĩ chấp nhận được câu Phúc Âm này thì lại phải đương đầu với câu Phúc Âm khác nói đối nghịch hẳn lại.

Tóm lại, bài Phúc Âm hôm nay nói lên điều kiện căn bản để nghiệm chứng Phúc Âm. Ai muốn nghiệm chứng Phúc Âm không thể dùng lối suy tư theo nghĩa đen hoặc quan niệm luân lý thường tình thế tục đã quá quen xưa nay nơi cuộc sống. Đây chính là nguyên tắc phát sinh những câu nói nghịch thường nơi Phúc Âm, chẳng hạn, "Ai có tai thì nghe;" "Hãy ở khôn như con rắn và hiền lành như chim câu;" hoặc "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta không đáng là môn đệ Ta; kẻ yêu con cái hơn ta không đáng là môn đệ Ta;" hay là, "Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa." Chúng ta cần để tâm suy nghĩ để nhận biết chúng ta nên thể nào nơi hành trình nhận thức lời của Ngài. Amen.

CHỦ NHẬT 9B (Mc. 2:23-28)

23 Và xảy ra là một ngày Hưu lễ, Ngài đi ngang qua đồng lúa, thì các môn đồ tra tay mở đường bằng bức gié lúa. 24 Biệt phái nói với Ngài:" Coi kìa! Ngày Hưu lễ, sao họ lại làm điều không được phép?" 25 Và Ngài nói với họ: "Các ông lại đã không đọc bao giờ Ðavit đã làm gì khi ông cùng bộ hạ bị túng đói haysao? 26Làm sao ông đã vào nhà Thiên Chúa, dưới thời Abyathar thượng tế, và đã ăn bánh trưng hiến mà không ai được phép ăn, trừ phi là hàng tư tế; rồi ông đã phát cho cả bộ hạ nửa?"

27 Và Ngài bảo họ: "Hưu lễ đã đặt ra vì người ta chứ không phải người ta vì Hưu lễ! 28 Cho nên Con Người là Chúa cả ngày Hưu lễ!"

Đọc nơi Kinh Thánh, những sách Xuất Hành, Nhị Luật, Lê Vi, Dân Số, Isaiah, Jeremiah, Maccabê, chúng ta thấy dân Do Thái rất tôn trọng và tuân giữ lề luật một cách nghiêm chỉnh đến độ áp dụng theo nghĩa đen, không cần biết đến hậu quả như thế nào. Chẳng hạn nơi sách Maccabê quyển nhất nêu lên trường hợp cả ngàn người Do Thái đã không tự vệ khi quân lính của vua tấn công họ trong ngày Hưu Lễ. (1Mac. 2: 32-38).

Có nhiều sự giải thích về nguồn gốc của lề luật giữ ngày hưu lễ. Thường thì ngày hưu lễ, bây giờ được gọi là ngày Chủ Nhật; nơi tiếng Việt, ngày xưa còn được gọi là ngày Chúa Nhật. Nhật có nghĩa là ngày; ngày của Chúa do đó gọi là ngày Chúa Nhật. Các nhà giải thích Kinh Thánh thường dựa nơi sách Sáng Thế Ký, Thiên Chúa tạo dựng vạn vật trong sáu ngày và ngày thứ bẩy là ngày nghỉ, tiếng Do Thái gọi là ngày Sabbat. Thực ra không ai biết ngày hưu lễ bắt nguồn tự bao giờ nơi dân tộc Do Thái. Thánh Kinh cũng không ghi lại rõ ràng. Có lý thuyết cho rằng thời dân Do Thái lưu đày nơi đất Ai Cập bị bắt làm lụng khổ sở không được nghỉ ngày nào. Thế nên ngày hưu lễ được đặt ra, dựa vào truyền thuyết nào đó để dân chúng tin là luật của Chúa mà tranh đấu cho lợi ích dân nô lệ. Thực ra, luật kiêng việc xác ngày hưu lễ chỉ được nâng lên hàng lề luật quan trọng sau thời lưu đày của dân Do Thái như chúng ta vừa nghe nơi bài đọc thứ nhất. Nơi mười điều luật, chúng ta thấy có điều răn thứ ba giữ ngày Chủ Nhật.

Tuy nhiên, qua bài Phúc Âm, Đức Giêsu đả phá quan niệm tuân theo lề luật một cách máy móc, tưởng rằng cứ giữ những lề luật cho qua thì sẽ là người công chính. Bởi vậy, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, "Ngày sabbat làm ra vì loài người chớ không phải loài người vì ngày sabbat." Đàng khác, bài Phúc Âm cũng thách đố mỗi người chúng ta trả lời câu hỏi, "Ngày Sabbat có được phép làm sự lành hơn là làm sự dữ không: Có được phép cứu sống hơn là giết đi không?" Bài Phúc Âm ghi thêm, "Nhưng ai nấy đều thinh lặng."

Là người Công Giáo, chúng ta đều biết câu "Không phải mọi kẻ nói với Ta Lạy Chúa, lạy Chúa là sẽ vào được nước trời; nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời" (Mt. 7:21). Chúng ta cũng đọc được nơi Phúc Âm thánh Luca câu truyện người Pharisiêu và người thâu thuế. Không phải cứ cho rằng mình giữ lề luật, cho rằng mình tốt lành, rồi khinh chê, bới móc, nói xiên nói xỏ người khác để đánh lừa người khác mà có thể lừa được Thiên Chúa. Ít nhất, chính mình đã biết và Chúa biết. Lẽ đương nhiên, cây ngay không sợ chết đứng nhưng tự cho mình là ngay thì đã không ngay bởi nếu không kinh nghiệm không ngay sao có thể cho rằng mình là ngay!

Bài Phúc Âm hôm nay thách đố mỗi người chúng ta tự diễn giải câu nói nơi miệng Đức Giêsu, "Ngày sabbat làm ra vì loài người chớ không phải loài người vì ngày sabbat." Tại sao chúng ta mất thì giờ đi lễ đi nhà thờ mà Phúc Âm lại viết như thế? Phỏng tất cả những sự được coi là ngay lành nơi mỗi người chúng ta đem so với Phúc Âm sẽ ra sao? Giả sử chết ngay lúc này, chúng ta sẽ đi về đâu? Những ai không dám tự trả lời, dẫu đi lễ, đi nhà thờ đến mấy chăng nữa cũng chẳng thể nào biết được mình sẽ đi về đâu.

CHỦ NHẬT 10B (Mc. 3:20-35)

20 Ngài về nhà, và dân chúng lại kéo đến, khiến họ không thể có thì giờ mà ăn nữa. 21 Nghe được, những kẻ thân thuộc Ngài ra đi dể bắt Ngài, vì họ bảo: "Ngài đã mất trí".

Lời vu cáo của Ký lục: thông đồng cùng ma quỉ

22 Và những ký lục từ Yêrusalem xuống thì bảo: "Ông ấy có Bêelzêbul", và: "Ông ta nhờ đầu mục của quỉ mà trừ quỉ!" 23 Gọi họ lại, Ngài lấy ví dụ mà nói với họ: "Làm sao Satan có thể trừ được Satan? 24 Nước nào chia bè chống lại nhau, thì không thể vững được. 25 Và nhà nào chia bè chống lại nhau, thì nhà ấy không thể vững được. 26 Và nếu Satan dấy lên chống lại mình và chia bè, thì nó không thể vững được, nhưng đã tận số. 27Không ai có thể vào nhà người mạnh, mà đoạt lấy của cải của nó, nếu không trói người mạnh kia trước đã, và bấy giờ mới đoạt được nhà nó".

28 Quả thật, Ta bảo các ngươi: Mọi sự sẽ được tha cho con cái loài người, mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều chúng lộng ngôn; 29 còn ai lộng ngôn đến Thánh thần, thì không được tha thứ cho đến đời đời, nó mắc một tội bất diệt ". 30 Vì họ nói: Ông ấy có thần ô uế.

Thân nhân đích thật của Chúa

31 Mẹ Ngài và anh em Ngài đến. Và đứng ngoài, họ sai người vào gọi Ngài. 32 Ngồi xung quanh Ngài có một đám đông, và người ta nói với Ngài: "Này mẹ Thầy và anh em Thầy đang tìm Thầy ở ngoài ". 33 Ðáp lại Ngài nói với họ: "Ai là mẹ Ta và anh em Ta?" 34 Rồi nhìn quanh mình các người ngồi vòng quanh Ngài, Ngài nói: "Này là mẹ Ta và anh em Ta. 35 Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta".

Bài phúc âm vừa được công bố được viết tiếp theo đoạn phúc âm kể về việc Chúa Giêsu chữa lành những người bệnh tật, ngăn cấm dân chúng không nên nói gì về Ngài, đoạn kêu gọi mười hai môn đồ về ở với Ngài và sai họ đi rao giảng, đồng thời ban cho họ quyền năng chữa bệnh và trừ quỷ. Thế rồi, khi Chúa và môn đồ trở về nơi trú ngụ, người ta lại kéo đến làm phiền hà đến nỗi thân thuộc của Chúa cho rằng Chúa đã mất trí. Không hiểu lý do gì khiến thân thuộc của đức Giêsu cho rằng Ngài mất trí. Phúc âm không nói lý do. Có thể nguyên nhân bởi chính trị, chính em, ghen tương ảnh hưởng sinh ra tuyên truyền, "Ông ấy có Bêelzêbul", và: "Ông ta nhờ đầu mục của quỉ mà trừ quỉ!”

Có điều, chúng ta nên để tâm khi suy nghiệm lời phúc âm, và đó là phúc âm không phải bản ký sự hay lịch sử dẫu nếu nhận định phúc âm theo nghĩa từ chương, luân lý, hay đạo đức nhân sinh, thế tục. Sự thể này rất dễ nhận biết; vì dưới quan điểm luân lý nhân sinh, sao chúng ta có thể áp dụng lời khôn ngoan nơi phúc âm vào cuộc đời; thí dụ, “Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn ta, không xứng với ta” (Mt. 10:37-28). Thực ra, nếu chỉ đọc sao, nghe sao biết vậy, lời phúc âm chẳng những đối nghịch giới răn của Chúa, “Thứ bốn, thảo kính cha mẹ.”

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta nên suy nghĩ thâm trầm hơn, chẳng nên vội cho rằng thế nọ, thế kia khi mới nghe hoặc đọc phúc âm chẳng khác gì dân chúng thời đó hay người thân quen của Chúa đã vội cho rằng Ngài mất trí chỉ vì nghe lời đồn thổi mang đầy mưu đồ. Sự thiếu suy nghĩ, cũng như không suy nghĩ được coi như phạm đến Thánh Thần. Nói lên những điều thiếu suy tư được gọi là lộng ngôn đến Thánh Thần sẽ không bao giờ được tha, “Quả thật, Ta bảo các ngươi: Mọi sự sẽ được tha cho con cái loài người, mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều chúng lộng ngôn; 29 còn ai lộng ngôn đến Thánh thần, thì không được tha thứ cho đến đời đời, nó mắc một tội bất diệt."

Thử xét tại sao lộng ngôn đến Thánh Thần sẽ không bao giờ được tha, và nguyên nhân phát sinh từ đâu; trong khi mọi tội lỗi, mọi lời lộng ngôn, tất cả những điều lộng ngôn thì được tha. Đồng thời, niềm tin Chúa Giêsu chịu chết chuộc tội thiên hạ mà sao không thể chuộc tội lộng ngôn đến Thánh Thần? Kinh nghiệm sống rõ ràng minh chứng, lộng ngôn phát sinh từ sự thiếu suy nghĩ, suy tư, nhận định. Chính bởi không suy nghĩ, người ta nói lên những điều chẳng những tai hại cho chính họ mà còn nguy hiểm cho người khác.

Dĩ nhiên, không suy nghĩ thì suốt đời ngu muội, ăn nói tào lao thiên tướng. Như vậy, sẽ không có cách nào có thể giúp người không suy nghĩ thăng tiến nơi bất cứ phương diện nào, nhất là phương diện tâm linh, tâm trí. Và bởi đó, người không suy nghĩ mới nói những lời lộng ngôn. Là người, ai cũng được sinh ra với bản năng suy nghĩ, suy tư. Nhưng không sử dụng suy tư, suy nghĩ về tâm linh, mà chỉ dùng suy nghĩ những chuyện nhân sinh thế tục, tất nhiên, bị rơi vào tội lộng ngôn, suốt đời này cũng như đời sau ngu muội, u tối nơi hành trình đức tin, hành trình tâm linh. Xét như thế, phương pháp để giải quyết tội lộng ngôn đến Thánh Thần là suy nghĩ, suy tư về tâm linh, suy nghĩ về thực thể mình là gì, thế nào; linh hồn mình là chi, liên hệ với thân xác, với Thiên Chúa ra sao.

Đối nghịch với sự thể không suy nghĩ, suy tư chính là “Ai làm theo ý Thiên Chúa, thì người ấy là anh chị em và là mẹ Ta." Phỏng ai có thể biết ý của Thiên Chúa mà làm theo nếu không suy nghĩ, suy tư về lời Chúa? Như vậy, người suy nghĩ để biết ý Chúa mà thực hiện, người thực thi, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” sẽ được coi như mẹ, hoặc anh chị em của Chúa Giêsu.

Tóm lại, lời Chúa khuyến khích chúng ta để tâm suy nghĩ về lời Chúa. Không suy nghĩ về lời Chúa sẽ mắc tội lộng ngôn đến Thánh Thần và sẽ không bao giờ được tha, không bao giờ thoát khỏi ngu muội, tăm tối. Xin Thần Linh Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta suy nghĩ lời Ngài. Amen.

Chủ Nhật 11B (Mc. 4:26-34)

26 Ngài nói: "Về Nước Thiên Chúa, thì thế này: như khi người kia gieo giống xuống đất, 27 thì dù người ấy ngủ hay thức ban đêm hay ban ngày, hạt giống cứ nảy mầm, lên đõn, mà người ấy không biết. 28Tự dưng, đất cho đậu: trước tiên thành mạ, rồi thành đòng đòng, rồi thành lúa chắc nơi gié. 29 Và khi mùa màng cho phép tức thì liềm hái tra tay, vì mùa gặt đã đến".

Ví dụ hạt cải

30 Và Ngài nói: "Làm sao mà so sánh Nước Thiên Chúa, hay lấ gì mà ví nó được? 31 Thì cũng như hạt cải, khi gieo xuống đất nó nhỏ tí, thua mọi thứ hạt giống trên đất; 32 nhưng đã gieo xuống rồi, thì nó mọc thành to lớn hơn mọi thứ rau cỏ, trổ những cành lớn, đến đỗi chim trời có thể nương náu dưới bóng nó".

Vì sao Chúa dùng ví dụ

33 Ngài dùng nhiều ví dụ giống như thế, mà giảng Lời cho họ, tùy theo họ có thể nghe được; 34 Ngài không nói với họ điều gì mà không dùng ví dụ; còn khi ở riêng, Ngài giải nghĩa tất cả cho môn đồ của Ngài.

Bài phúc âm vừa được công bố là hai dụ ngôn nói về sự phát triển của Nước Thiên Chúa; Nước Thiên Chúa giống như sự nảy sinh và phát triển của những hạt giống lúa mì; hoặc hạt cải được gieo xuống đất. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu, sự sống, nên Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì sự phát triển của Nước Thiên Chúa nghĩa là thế nào? Thiên Chúa ở khắp mọi nơi nên Nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Bởi đó, sự phát triển của Nước Thiên Chúa chính là nhận thức của con người về sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người.

Qua nghiệm chứng, phúc âm nêu lên thực thể, “Thiên Chúa là Thần Khí; nên những kẻ thờ phượng cũng phải thờ phượng trong Thần Khí và sự thật” (Gioan 4:24). Thờ phượng trong Thần Khí là thế nào? Xin thưa, chỉ là suy nghĩ, suy tư, để nhận thực sự hiện diện của Ngài nơi chính mình. Những ai đã để tâm suy nghĩ để nhận biết Thiên Chúa hiện diện nơi mình tất nhiên cần nhận biết mình là ai, thế nào. Mình có linh hồn thì linh hồn mình ra sao, liên hệ với thân xác và cuộc đời của mình thế nào? Thánh Phao lô đưa ra phương pháp suy nghĩ, suy tư được gọi là nghiệm xét. Nói đơn giản, nghiệm xét cũng chỉ là suy nghĩ mà thôi. Để tâm nhận định, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22), giúp chúng ta dễ dàng nhận biết hơn.

“Đừng dập tắt thần khí;” Mỗi người được sinh ra với bản năng suy nghĩ, suy tư, nhưng bình thường chúng ta phải đối diện với những nhu cầu cấp bách của cuộc sống, nên không để tâm suy tư về thực thể tâm linh, linh hồn của mình. Sự thể này ai cũng nhận biết; chúng ta nghĩ, chúng ta tin mình có linh hồn, nhưng nếu không lầm, chưa có ai để tâm đặt vấn đề linh hồn mình là gì. Thánh Phao lô khuyên, “Đừng dập tắt thần khí,” có nghĩa hãy suy nghĩ, suy tư về thực thể tâm linh của mình.

“Chớ khinh thị các ơn tiên tri;” khi suy nghĩ, nhiều vấn đề, nhiều tư tưởng sẽ xảy đến nơi tâm trí chúng ta. Chẳng những thế, nhiều quan niệm, lý thuyết, chủ thuyết, mọi khía cạnh của vấn đề được trình bày nơi tâm trí trong giới hạn hiểu biết của mỗi người; chúng không đúng, không sai, hiện về nơi tâm tư để chúng ta nhận định.

“Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào.” Nghiệm xét tức là suy nghĩ, chọn lựa. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, những tư tưởng, ý nghĩ hiện đến trong tâm trí tất nhiên không đúng, không sai. Chúng hợp hay không hợp với diễn trình suy tư, suy nghĩ được gọi là lành hay dữ. Những chuyện gì, lý luận nào hợp với diễn trình thì tiếp tục; bất cứ những gì không hợp lý, hợp tình khi suy tư thì cứ để chúng tự nhiên ra đi.

Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mọi người; thế nên, công việc đầu tiên để là suy tư, suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa nơi cuộc đời mình. Khi suy nghĩ về sự hiện diện của Chúa nơi mình, thì không để cho bất cứ tư tưởng, ý nghĩ, ham muốn nào khác chen vào làm phiền tâm tư như thánh Phao lô đề xuất, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).

Chúng ta không cần phải kiếm đâu xa. Lẽ đương nhiên, chúng ta không được sinh ra với đôi cánh thì không cần phải bay lên trên cao mới có thể nhận biết mình đang thở. Vấn đề chỉ là mình có để tâm suy nghĩ về sự hiển nhiên rằng mình đang thở hay không, hoặc mình đang suy nghĩ nhưng cái gì đang suy nghĩ nơi mình hay không. Nói rằng bộ óc suy nghĩ vậy khi một người chết, nghĩa là linh hồn họ ra khỏi xác thì bộ óc họ có còn suy nghĩ được không.

Nước Thiên Chúa tự phát triển như hạt lúa mì, hạt cải được gieo xuống đất; thì chúng ta không cần phải làm gì để Nước Thiên Chúa phát triển mà chỉ cần nhận thức, nhận biết. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi thì nước Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Thiên Chúa là sự hiện hữu, sự sống nơi mình thì vấn đề chỉ là mình có nhận chân được sự hiện diện và hoạt động của Ngài hay không.

Tóm lại, lời Chúa khuyến khích chúng ta suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét để nhận chân sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mỗi người. Nhận biết hay không, tùy thuộc sự để tâm suy tư hay không. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mỗi người nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mình. Amen.

Sinh Nhật Gioan Tẩy Giả (Mt. 16:13-19)

13 Ðến vùng Caisaria của Philip, Ðức Yêsu hỏi môn đồ Ngài rằng: "Theo như người ta nói thì Con Người là ai?" 14Họ thưa: "Có kẻ nói thì là Yoan Tẩy giả; nhóm khác: là Êlya; nhóm khác nữa: là Yêrêmya, hay một vị nào trong các tiên tri". 15 Ngài nói với họ: "Còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai? 16 Ðáp lại, Simôn Phêrô nói: "Ngài là Ðức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống". 17Ðáp lại Ðức Yêsu nói với ông: "Simôn, Baryôna, ngươi có phúc: vì không phải thịt, máu, đã mạc khải cho ngươi, mà là Cha Ta! Ðấng ngự trên trời! 18Và Ta, Ta bảo ngươi: "Ngươi là Ðá và trên Ðá ấy, Ta sẽ xây Hội Thánh củaTa, và quyền môn âm phủ sẽ không thắng nổi. 19 Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa Nước Trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời".

Hôm nay chúng ta mừng kính ngày sinh nhật của thánh Gioan Tẩy Giả.

Chủ Nhật 12B (Mc. 4:35-41)

35 Và ngày hôm ấy, lúc chiều đến, Ngài bảo họ: "Ta hãy qua bồ bên kia!" 36 Cho dân chúng về rồi, thì vì Ngài đã sẵn ngay trên đò, họ chở Ngài đi; và cũng có những đò khác theo Ngài. 37Xảy đến một trận gió táp thổi mạnh, và sóng ập tràn vào đò, làm đò đã hòng đầy ngập. 38 Ngài ở đằng lái, dựa trên ván véo mà ngủ. Họ đánh thức Ngài và nój với Ngài: "Thưa Thầy, Thầy chẳng lo chúng tôi chết mất?" 39Tỉnh dậy, Ngài quát bảo gió và biển: "Nín đi! Câm đi!". Và gió tắt, biển lặng như tờ. 40 Rồi Ngài nói với họ: "Sao nhát đảm thế? Các ngươi chưa có lòng tin sao?" 41 Và họ kinh hoàng sợ hãi mà nói với nhau: "Ông này là ai vậy, mà gió và biển phải vâng phục ông!"

Bài phúc âm vừa được công bố có câu kết, “Và họ kinh hoàng sợ hãi mà nói với nhau: "Ông này là ai vậy, mà gió và biển phải vâng phục ông!" Điều này chứng tỏ những người đi trên thuyền chưa nhận biết gì về Chúa Giêsu. Và như thế, tất nhiên phúc âm cũng chứng minh họ chưa biết đức tin là gì khi phúc âm được viết, “Rồi Ngài nói với họ: "Sao nhát đảm thế? Các ngươi chưa có lòng tin sao?" Ngày nay, đọc phúc âm, chúng ta đều biết, mục đích cuộc đời của Chúa Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như được ghi chép nơi phúc âm, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43; Mc. 1:38; Mt. 4:23). Và Tin Mừng Ngài rao giảng chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” như nơi phúc âm Marcô được viết, “Người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel,” đây chính là danh hiệu của Đức Giêsu. Đức Giêsu có danh hiệu Emmanuel, chính danh hiệu này nói lên nhiệm vụ hay công việc Ngài thực hiện. Danh hiệu Emmanuel có nghĩa“”Thiên Chúa ở cùng chúng ta” chứng tỏ Ngài có sứ mạng rao giảng, công bố cho mọi người nhận biết Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” chính là Tin Mừng Nước Trời Đức Giêsu đã dùng cả cuộc đời của Ngài rao giảng; chẳng những thế, Ngài còn sai các môn đồ ra đi rao giảng cho mọi người. Vì Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người thế nên đức tin là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Đó là tại sao phúc âm viết đức Giêsu rõ ràng công bố cho chúng ta nhiều lần nơi Phúc Âm, đức tin con chữa con (Mt. 9:22); đức tin con cứu con (Lc. 8:48); đức tin con là ơn cứu độ của con (Mk. 10:54; Lc. 7:50), chữa lành con (Lc. 17:19; 18:42).

Một điều chúng ta nên để tâm khi nghiệm xét, suy nghĩ lúc đọc hoặc nghe phúc âm. Phúc âm không phải là sử liệu về cuộc đời của Chúa Giêsu dẫu các học giả Kinh Thánh dựa trên nhận định từ chương, thế tục quyết đoán như thế. Phúc âm bao gồm những câu nói khôn ngoan và những dụ ngôn, được ghép nối lại thành câu truyện tưởng như về cuộc đời, sự giảng dạy, sự khổ nạn, và sống lại của Chúa Giêsu. Nếu để tâm suy nghĩ từng câu, chúng ta sẽ thấy phúc âm nêu lên những đề tài cho chúng ta nghiệm xét hầu nhận biết, nhận thức về thực thể hiện diện của Thiên Chúa nơi mỗi người. Thế nên, bất cứ ai nghiệm xét phúc âm, sẽ nhận thức rõ ràng đức tin là quyền lực của Thiên Chúa nơi mình.

Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta qua dụ ngôn Chúa Giêsu và những người đi theo Ngài trên thuyền gặp cơn giông bão khiến ai nấy đều hoảng sợ. Sau khi quát bảo giông tố yên lặng, Ngài hỏi họ chưa có lòng tin, đức tin sao. Điều này chứng tỏ phúc âm được viết phi lý. Đúng, nếu để tâm đọc phúc âm, chúng ta thấy phúc âm viết rất nhiều điều phi lý nếu nhận định theo quan điểm nhân sinh, thế tục. Chẳng hạn, “Nếu mắt ngươi làm cớ ngươi vấp phạm thì móc mà quăng nó đi” (Mt. 18:9), hoặc, “Kẻ nào yêu cha mẹ hơn Ta, không đáng là môn đệ Ta” (Mt. 30:37). Tôi không biết quý vị nghĩ gì khi đọc hoặc nghe được những câu như thế này nơi phúc âm, nhưng biết chắc không ai áp dụng chúng nơi cuộc đời. Bằng chứng, quý vị thấy ngay nơi thực tế, không có bậc vị vọng nào rao giảng phúc âm chột mắt hay cụt tay; cũng như chúng ta, không ai dại dột móc mắt hay chặt tay mình khi vấp phạm điều gì. Đặc biệt các bậc cha mẹ, nếu có con muốn theo Chúa, muốn đi tu thì bị đuổi thẳng cổ ra khỏi nhà, nhưng phải lịch sự, biết điều, chào hỏi, thưa gửi cho đúng phận làm con, dẫu giả đò quyến luyến.

Lời Chúa dùng dụ ngôn để nói trực tiếp tới tâm tư, sự thể tâm linh nơi mỗi người. Chuyến thuyền chở Chúa Giêsu và vài người trên hồ chính là cuộc đời của mỗi người chúng ta. Nơi cuộc đời, mọi diễn biến bất thường, những điều kiện sinh sống, nhu cầu nhân sinh, những khó khăn thăng trầm luôn áp đặt trên tâm trí con người như những bão tố khiến tâm tư ít khi được an định mà luôn lo lắng, e sợ khiến chúng ta không biết bám víu vào đâu chẳng khác chi những người trên thuyền không biết gì về đức Giêsu dường như đang ngủ gật. Lẽ dĩ nhiên, nơi cuộc sống hữu vi, nghĩ rằng tin vào Chúa thì tin nhưng cần phải làm lụng giải quyết nhu yếu cơm áo, gạo tiền lo cho cuộc sống nhân sinh; cuộc đời này đòi hỏi con người suy tư, suy nghĩ hiện thực nên thường không để tâm đến cuộc sống tâm linh. Thử hỏi, một ngày 24 tiếng, làm lụng, ăn ngủ, chúng ta dành đựơc mấy phút để suy tư về linh hồn mình là gì, Thiên Chúa là gì, liên hệ đến thân xác và cuộc đời của mình thế nào? Lời Chúa đặt vấn đề, “Các ngươi chưa có lòng tin sao" nhắc nhở, khuyến khích chúng ta nhìn lại tâm tư của mình. Mỗi người có hai cuộc sống, cuộc sống nhân sinh và cuộc sống tâm linh. Cuộc sống nhân sinh thì ai cũng đang phải đối diện. Riêng cuộc sống tâm linh cần chúng ta để tâm suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét.

Cuộc sống tâm linh là gì? Xin thưa, chính là sự suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét để nhận biết thực thể mình là gì. Chúng ta được dạy và tin rằng mình có linh hồn. Hãy suy nghĩ, đặt vấn đề linh hồn mình là gì, thế nào, liên hệ với thân xác, cuộc đời mình ra sao. Đọc phúc âm, chúng ta thấy câu, “Ai có tai thì nghe” được nhắc đi nhắc lại tám lần nơi ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Thử hỏi, cái tai có thể tự nó nghe được không? Vậy khi một người chết, tức là linh hồn đã lìa khỏi xác, tai có còn nghe được không? Như vậy, cái tai chỉ là phương tiện cho linh hồn nghe. Tương tự như thế, mắt, miệng, bộ óc cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn nhìn, linh hồn nói, và linh hồn suy nghĩ. Những sự thể này minh chứng, linh hồn mình suy nghĩ chứ không phải bộ óc; bộ óc chỉ là phương tiện để hồn diễn đạt suy tư. Tương tự, những ước mơ, ham muốn, tham vọng, yêu, ghét đều phát xuất tự linh hồn. Như thế thân xác và cuộc đời một người cũng chỉ là phương tiện cho linh hồn hoạt động. Nói cách khác, thân xác và cuộc đời là cơ hội cho linh hồn học những bài học cần phải học.

Tôi chỉ nêu lên đôi điểm để chúng ta suy nghĩ về sự thể tâm linh của mỗi người. Để tâm suy nghĩ những liên hệ của linh hồn với xác thân, với cuộc đời, rồi đến sự thể liên hệ của linh hồn với Thiên Chúa, với Tin Mừng Nước Trời, chúng ta sẽ thăng tiến nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin, hành trình nhận biết, nhận thức sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mỗi người. Và như thế, chúng ta sẽ biết đức tin là gì đối với cuộc đời chúng ta. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nơi hành trình đức tin. Amen.

CHỦ NHẬT 13B (Mc. 5:21-43)

21 Khi Ðức Yêsu đã lên đò quá giang về lại bên kia, thì dân chúng đông đảo hội lại bên Ngài; và Ngài ở nơi mé biển. 22Và một viên trưởng hội đường tên là Yairô đi đến; thấy Ngài, ông sấp mình dưới chân Ngài, 23 và nài nẵng van xin Ngài rằng: "Con bé nhà tôi đã gần lâm chung, xin Ngài đến đặt tay cho nó, cứu nó cho nó sống!" 24Ngài đã ra đi làm một với ông; có đông dân chúng theo Ngài; và người ta chen cả vào Ngài.

25 Có một phụ nữ bị mất máu đã mười hai năm, 26 và đã phải khổ nhiều với thầy thuốc; một số đông; nhưng tiền mất tật còn, lại ra tệ hơn thì có. 27Nghe đồn về Ðức Yêsu, bà đến đàng sau trong đám đông, rờ áo choàng của Ngài, 28vì bà nói: "Dẫu tôi chỉ rờ được áo choàng của Ngài, tôi cũng sẽ được cứu chữa". 29 Tức khắc, dòng máu chảy cạn khô; và bà biết nơi thân mình là đã được lành tật rồi.

30 Ngay đó nơi mình Ngài, Ðức Yêsu biết có sức nhiệm bởi Ngài đã xuất ra; Ngài quay lại với đám đông mà nói: "Ai đã rờ áo Ta?" 31 Môn đồ mới nói với Ngài: "Ngài thấy dân chúng chen cả vào Ngài, mà Ngài lại hỏi: "Ai rờ đến Ta?" 32 Nhưng Ngài đã ngó quanh nhìn kẻ đã làm thế. 33 Người phụ nữ sợ run lên, vì biết điều đã xảy ra cho mình, đến sấp mình trước mặt Ngài và nói cho Ngài biết cả sự thật. 34 Còn Ngài thì nói với bà: "Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con; hãy đi bằng yên và lành hẳn tật nguyền của con!"

35 Ngài còn đang nói, thì người ta từ nhà viên trưởng hội đường đến nhắn: "Con gái ông chết rồi, còn phiền hà đến Thầy nữa làm gì?" 36 Ðức Yêsu thoáng nghe biết điều họ nói, thì bảo viên trưởng hội đường: "Ðừng sợ! hãy tin mà thôi!" 37 Ngài không cho phép ai theo Ngài, chỉ trừ có Phêrô, Yacôbê và Yoan, em của Yacôbê. 38Khi họ đến nhà viên trưởng hội đường, thì Ngài thấy xôn xao, người ta khóc lóc và kêu la ầm ĩ. 39 Ngài vào và nói với họ: "Xôn xao và khóc lóc làm gì? Em bé không chết, nó ngủ đó thôi!" 40 Và họ cười nhạo Ngài. Còn Ngài thì xua mọi người ra, và đem theo mình cha mẹ em bé cùng những kẻ theo Ngài mà vào nơi đặt em bé. 41 Ngài cầm tay em bé mà bảo nó: "Talitha kum ", dịch được là: "Cô bé! Ta bảo; hãy chỗi dậy!" 42 Tức khắc cô bé đứng dậy và đi lại, vì nó đã mười hai tuổi. Và người ta sửng sốt ngẩn cả người ra. 43 Ngài ra nhiều lời căn dặn họ là đừng để ai biết điều ấy. Rồi Ngài dạy người ta cho nó ăn.

Là người Công Giáo, chúng ta đã được nghe nói và nghe giảng giải nhiều về đức tin. Ngay từ giây phút đầu tiên gia nhập đạo Công Giáo, chúng ta tuyên xưng đức tin; nếu còn nhỏ thì cha mẹ, người đỡ đầu, và những người tham dự tuyên xưng đức tin thay cho mình, nếu đã trưởng thành, hiểu biết, chúng ta phải tuyên xưng đức tin cùng với Giáo Hội. Thêm vào đó, nơi sự thực hành tôn giáo của một tín hữu, chúng ta tuyên xưng đức tin hằng tuần và trong những ngày lễ trọng đại… Thế nên, ai cũng đều thuộc kinh tin kính…”Tôi tin một Thiên Chúa, tin Đức Giêsu Kitô, tin Chúa Thánh Thần, tin Hội Thánh Công Giáo, tin phép tha tội, tin sự sống lại.” Nhưng, thực tế phũ phàng; bởi nếu hỏi đức tin là gì, chúng ta chỉ có thể nói những điều không chắc chắn. Nói đúng hơn, chúng ta không biết điều mình đang trả lời về đức tin.

Dùng đôi giây phút nhận thực nơi lòng mình, mỗi người chúng ta đều nhận thấy đã bao lâu nay mình bị lầm lẫn giữa hai lời phát biểu tin và đức tin. Bình thường, chúng ta nói tin một điều gì thì chỉ có nghĩa cho rằng điều đó là sự thật. Tuy nhiên, suy nghĩ một chút chúng ta thấy, nếu điều gì đã là thật thì đâu cần phải tin. Nếu nó đã là thật thì nói tin hay không tin cũng chẳng có gì thay đổi, không có gì mới lạ, khác thường xảy đến. Chẳng hạn, nói rằng tin chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này cùng dâng thánh lễ hoặc không tin chúng ta đang có mặt tại nhà thờ bây giờ nào đâu có gì khác lạ xảy đến. Nếu ai đó nói rằng tin có Thiên Chúa hoặc không tin có Thiên Chúa thì trái tim họ vẫn đang liên tục đập, phổi họ vẫn thở… Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và hoạt động nơi họ cũng như nơi mình và mọi tạo vật.

Hôm nay, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em để tâm suy nghiệm về đức tin. Tôi muốn nhắc lại, tôi mời gọi mọi người suy nghiệm đức tin. Quý vị làm ơn đừng vội tin những gì tôi chia sẻ nhưng hãy tự nghiệm nơi mình, hãy suy nghĩ đến khi nào có thể chấp nhận đó là sự thực nơi lòng mình; điều này mới quan trọng và đem lại lợi ích phần rỗi tâm linh. Quý vị cũng đừng vội kết luận tôi nói đúng hay sai vì điều đúng đối với tôi chưa chắc đúng với quý vị hoặc những gì tốt lành đối với tôi chưa chắc đã tốt lành theo nhãn quan của quý vị. Hãy suy nghĩ và nghiệm chứng chứ đừng vội tin theo những điều tôi phân giải.

Khi viết lách hay giải thích về đức tin, các học giả đều nói loanh quanh, luẩn quẩn; họ lập lại lý thuyết này, quan niệm kia…và thường đưa đến những kết luận đầy thiếu sót theo quan điểm thế tục, một chiều. Nơi cuốn sách chủ thuyết Công Giáo, linh mục Richard McBrien cho rằng, “Đức tin là sự hiểu biết cá nhân về Thiên Chúa” và vì thế, “Đức tin Công Giáo là sự hiểu biết cá nhân về Thiên Chúa nhờ Đức Giêsu Kitô” (Catholicism; Winston Press; 1981; tr.25). Nơi cuốn Tự Điển Tu Đức Công Giáo, bà sơ Mary Ann Fatula dòng Phanxicô, sau khi nêu lên muôn thứ quan niệm, nhận định của các tác giả Công Giáo, các định nghĩa từ các văn kiện công đồng nọ, công đồng kia, nào chiều hướng cổ xưa, nào thế kỷ 17, nào thánh nọ, thánh kia, bà dẫn tới sự xác định đó là, “Đức Tin Kitô Giáo phó thác hoàn toàn cuộc đời chúng ta nơi một Thiên Chúa không thể nhìn thấy” (New Dict. Of Cath. Spirituality; Liturgical Press; Collegeville, Minnesota; 1986; tr.386). Nơi cuốn Tự Điển Thần Học, linh mục John O'Donnell, S.J., ở bài viết của ngài về đức tin; sau khi trình bày những công lao biên khảo, ngài nhấn mạnh nơi điểm, “Đức tin như là một sự liên hệ cá nhân với Thiên Chúa đặt trên nền tảng tin tưởng” (New Dict. Of Theology; Komonchak, Collins, Lane Editors; Michael Glazier; Delaware;1987; tr.382). Chỉ có một định nghĩa rõ ràng, độc nhất nơi Thư Gửi Tín Hữu Do Thái, đoạn 11, câu 1. Lm N.T.Thuấn dịch, “Tin là cách chiếm hữu những điều còn trong hy vọng, là phương nhận thức các thực tại người ta không thấy.”Nơi cuốn Kinh Thánh Tân Ước mới xuất bản năm 1994, 14 dịch giả viết, “Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho những điều ta không thấy.” Một điều rõ ràng, những gì quý vị vừa nghe được phát biểu bởi các học giả hoặc ngay cả nơi Tân Ước, tất cả đều mơ hồ và chúng ta không thể nào áp dụng nơi cuộc sống của mình được.

Bài Phúc Âm vừa được công bố đặt nơi miệng Đức Giêsu lời giải thích về sự chữa lành bệnh xuất huyết của một người đàn bà sau khi đụng đến áo Ngài, “Hỡi con, đức tin con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh” (Mc. 5:34). Chúng ta nên để ý, Đức Giêsu nói đức tin con đã chữa con. Chúng ta thường được dạy dỗ Chúa chữa, Chúa cứu, Chúa ban, Chúa phạt, Chúa cho v.v… Tại sao Đức Giêsu không nói Ngài chữa hoặc Chúa chữa mà lại nói, “Đức tin con chữa con.” Đọc nơi Phúc Âm, ít nhất chúng ta gặp được 10 lần những câu nói, “Đức tin con chữa con; đức tin con cứu con; đức tin con là ơn cứu độ của con” (Mt. 8:13; 9:22, 29; 15:28; Mk. 5:34; 10:52; Lk. 7:50; 8:48; 17:19; 18:42), nhưng không bao giờ chúng ta có thể tìm thấy câu nào Phúc Âm nói Chúa chữa hay Chúa cứu. Ngược lại, Phúc Âm còn gán nơi miệng Đức Giêsu những câu nói về đức tin mà coi chừng chúng ta cho là không tưởng. Chẳng hạn nơi Phúc Âm Mácô có câu: "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22). Tóm lại, nếu để ý suy nghiệm Phúc Âm, chúng ta sẽ nhận thực ra được đức tin hay lòng tin chính là quyền lực nơi mỗi người. Quyền lực này khiến tim chúng ta đập, phổi thở, làm cho con mắt khác chiếc mũi hay cái tai nên có thể nhìn được. Quyền lực này cũng ở ngay nơi ý nghĩ, ước muốn, ý định của mỗi người chúng ta. Sở dĩ chúng ta có quyền lực này vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta… Đây chính là Tin Mừng Nước Trời Đức Giêsu đã rao giảng 2000 năm về trước. Đức tin là quyền lực tối thượng của Thiên Chúa nơi mỗi người. Amen.

CHỦ NHẬT 14B (Mc. 6:1-6)

1 Và bỏ đó ra đi, Ngài đến nơi quê Ngài; và các môn đồ Ngài theo Ngài. 2 Ðến ngày Hưu lễ, Ngài lên tiếng giảng trong hội đường; và nhiều người nghe phải kinh ngạc mà rằng: "Bởi đâu ông ấy được như thế? Và là gì vậy sự khôn ngoan ban xuống cho ông? cùng các việc quyền năng ấy do tay ông làm ra? 3 Ông ấy không phải là bác thợ mộc, con bà Maria và anh em với Yacôbê, Yôsê, Yuđa và Simôn đó ư? Và các chị em của ông lại không ở giữa ta đây sao?" Và họ đã bị vấp phạm vì Ngài. 4 Và Ðức Yêsu bảo họ rằng: "Tiên tri mà có bị khinh thì chỉ có ở nơi quê quán, nơi bà con, nơi nhà mình thôi!" 5 Và ở đó Ngài đã không làm được phép lạ nào, chỉ trừ có ít người ốm đau Ngài đã đặt tay chữa lành cho. 6Và Ngài ngạc nhiên thấy lòng cứng tin của họ.

Mỗi lần nghe hoặc đọc bài Phúc Âm vừa được công bố, chúng ta thường cảm thấy ngạc nhiên và tự hỏi tại sao người Do Thái nơi thời Đức Giêsu lại không nhận ra quyền năng cao cả nơi ngài. Và nếu tốt lành, ngay thẳng một chút, chúng ta không ngại ngùng lên án những người đã nêu lên những câu hỏi như nơi Phúc Âm thánh Marcô được chép, Bởi đâu ông này được như vậy? Sao ông được khôn ngoan như vậy? Bởi đâu tay Người làm được những sự lạ thể ấy? “Ông nầy chẳng phải bác thợ mộc con bà Maria, anh em với Giacôbê, Giuse,Giuđa và Simon sao? Chị em ông không ở với chúng ta đây sao?” Phúc Âm Marcô còn ghi thêm, “Và họ vấp phạm vì Người.””

Đọc hoặc nghe những câu nói hoặc dụ ngôn nơi Phúc Âm được viết thành những mẫu truyện ngắn diễn tả một vài sự việc, chúng ta thường chỉ để ý đến nghĩa đen, và thái độ của tâm tưởng nơi mỗi người chỉ là nghe sao biết vậy, tưởng tượng rằng chúng ta là khách bàng quang hoặc kẻ đi xem kịch với vai trò thờ ơ, bỏ đôi giây phút liếc qua sự thể đã xảy ra hai ngàn năm trước và nay còn được ghi lại nơi cuốn sách với danh hiệu Thánh Kinh. Và như thế, chúng ta cảm thấy mình không có gì liên hệ đến điều mà chúng ta thường tuyên xưng là Lời Chúa. Lẽ dĩ nhiên, đã là Lời Chúa cho nên Chúa nói thì Chúa nghe bởi chúng ta đã không nhận ra vai trò của mình nơi những lời Kinh Thánh. Chúng ta chỉ thường dùng câu nói theo thói quen: làm vinh danh Chúa, hoặc cứu rỗi các linh hồn, hay hy sinh để được hưởng nước thiên đàng, hoặc cầu nguyện cho các linh hồn nơi chốn luyện hình.

Theo sự cảm nhận của tôi, những thành ngữ này mang ẩn ý mình làm ơn cho Chúa bởi Chúa cần sự ca tụng của mình mới được vinh danh, hoặc mình làm ơn cho người khác bằng sự ăn chay đánh tội hay cầu nguyện để họ được hưởng hạnh phúc nào đó. Nhiều lần tôi tự hỏi, chẳng lẽ một Thiên Chúa cao cả, tác thành nên vũ trụ vô tận, cả thể này, mới chỉ nơi trái đất nhỏ bé đã có được biết bao danh nhân, những người uy phong, quyền hành cả thể, tài trí giỏi dang mà Ngài lại thèm khát những lời ca tụng ngu muội phát xuất từ cửa miệng những người dốt nát như mình sao? Phỏng lời cầu kinh nghe êm tai hơn ngàn chim ca hót? Và rồi sự hy sinh hãm mình của chúng ta phỏng đem lợi ích gì cho những kẻ đàng điếm, đã không bao giờ đặt vấn đề ý nghĩa sống để làm gì? Và nếu những lời cầu có quyền năng giúp người khác như vậy thì tất nhiên cũng sẽ có những người khác cầu cho mình, cần gì phải ăn ngay ở lành, cần gì ăn chay đánh tội.

Thêm vào đó, chẳng lẽ chúng ta ăn cơm người khác no bụng hoặc uống rượu, uống bia kẻ nào đó say đổ kềnh trên đường? Đơn giản đặt một vài câu hỏi ngu ngơ như thế, chúng ta nhận thực được rằng bất cứ sự gì, việc gì, chúng ta đều chỉ làm cho chính mình mà thôi. Và như vậy, những thành ngữ hy sinh, hãm mình, ăn chay đánh tội, hoặc những câu nói mang vẻ đầy thánh thiện thực ra chỉ là những kiểu cách tự quảng cáo, dùng người khác, hoặc dùng Chúa làm bung xung với ý đồ nào đó.

Như vậy, tất cả những sinh hoạt, hành động bên ngoài hoặc lời cầu nguyện hay sự thực hành hãm mình, hy sinh chỉ thể hiện tâm ý, cần được phát xuất tự tâm hồn và những lợi ích cũng đều tùy thuộc nơi ý định của người hành động; bởi nếu ai đó có thể ăn cơm mà tôi no bụng thì mới có thể hy vọng rằng lời cầu của họ giúp ích chút ít cho tôi. Thế nên, nếu chúng ta không nhận ra vai trò của mình nơi lời Phúc Âm hoặc lời Kinh Thánh, nói cho đúng, chúng ta không thể gặt hái được lợi ích gì nơi Lời Chúa.

Tuy nhiên, chúng ta hâm mộ những phép lạ xảy ra đây đó. Bình thường, chúng ta ước mong những sự may mắn xảy đến cho mình nên chẳng nhiều thì ít, phần nào đó chúng ta cảm thấy bất mãn hoặc ghen tương với những ai rêu rao phép lạ cả thể này, phép lạ cả thể kia xảy đến với họ. Chúng ta cảm thấy, dầu chỉ thoáng qua ý nghĩrằng Chúa bất công, đông vị, tây vị một số người nào đó mà ban cho họ những ân sủng đặc biệt trong khi cả đời chúng ta đã chẳng có gì đáng được gọi là quan trọng xảy đến, cũng như những lời cầu nguyện cho biết bao mơ ước tốt lành của mình đều bị rơi vào quên lãng không khác gì khói hương tan loãng nơi bầu trời vô tận.

Nói cho đúng, chúng ta đã không để ý đến những sự lạ cả thể ngay trước mắt mà cứ ra sức chạy theo hoặc mơ mộng những ảo giác xa vời. Chúng ta coi thường sự huyền nhiệm cả thể nơi mình trong khi cố tâm để ý đến những chuyện cỏn con vô ích nếu không muốn nói là chỉ mang tai họa ở tận mãi đâu đâu. Tôi nêu lên một thí dụ. Giả sử ngay lúc này, con tim chúng ta ngưng đập, hoặc lá phổi không chịu thở chỉ một phút thôi.…Dĩ nhiên, chúng ta biết rõ chuyện gì sẽ xảy tới. Đó là cái chết. Chúng ta đã tốn phí bao công sức tìm hiểu, chạy theo những sự cả thể xa vời suốt quãng đời nơi những ngày tháng đã qua.

Hôm nay và lúc này, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em dùng chỉ một phút để nhìn nhận những gì đang xảy ra nơi chính bản thân mình. Con tim chúng ta đang đập; lá phổi đang nhịp nhàng thở; mắt chúng ta có thể nhìn; tay có thể làm việc; miệng chẳng những biết thưởng thức miếng ngon vật lạ mà đôi khi còn được dùng để cãi nhau hoặc nói cạnh nói khóe người khác. Những sự thể bình thường này chính là những phép lạ cả thể mà bao lâu nay chúng ta không để tâm đặt vấn đề. Nhận thức này chính là ý nghĩa câu Phúc Âm, “Không một tiên tri nào mà không bị khinh bỉ ở quê hương, gia đình họ hàng mình.” Chúng ta đã quá mệt mỏi tìm tòi, chạy theo những sự nhỏ mọn ngoại vật, hay chiêm ngưỡng hầu an hưởng nhưng đã không nhận ra sự cả thể thánh thiện đang hiện hữu nơi chính mình.

Thế nên, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em, hôm nay chúng ta cùng dâng thánh lễ cảm tạ Thiên Chúa vì những khả năng nơi chính mình. Chúng ta cảm tạ Chúa vì tim chúng ta đang đập, trí óc đang suy tưởng, môi miệng có thể ăn nói, tay chân làm việc, mắt có thể nhìn. Chúng ta cảm tạ Chúa nơi tâm tình nhận biết sự cả thể nơi ngũ quan và cơ thể của mình từng giây từng phút. Chúng ta cảm tạ Chúa vì chúng ta đang hiện diện nơi nhà thờ. Đặc biệt, tôi dâng lời cảm tạ Chúa vì đã có cơ hội chia sẻ với quý ông bà anh chị em hôm nay. Xin quý ông bà anh chị em để ý, đừng coi thường chính mình nhưng cần nhận biết quyền lực cả thể, những phép lạ tuyệt đối của Thiên Chúa đang hoạt động nơi chính mình từng giây từng phút. Amen.

CHỦ NHẬT 15 B (Mc. 6:7-13)

6:7 Người gọi Nhóm Mười Hai lại và bắt đầu sai đi từng hai người một. Người ban cho các ông quyền trừ quỷ.

6:8 Người chỉ thị cho các ông không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng;

6:9 được đi dép, nhưng không được mặc hai áo.

6:10 Người bảo các ông: "Bất cứ ở đâu, khi anh em đã vào nhà nào, thì cứ ở lại đó cho đến lúc ra đi.

6:11 Còn nơi nào người ta không đón tiếp và nghe lời anh em, thì khi ra khỏi đó, hãy giũ bụi chân để tỏ ý phản đối họ."

6:12 Các ông đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn sám hối.

6:13 Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm và chữa họ khỏi bệnh.

Bài Phúc Âm kể lại những điều Đức Giêsu căn dặn các môn đồ về thái độ và cách ăn ở trước khi ra đi rao giảng cùng sự đối xử với những người không chịu nhận biết những lời giảng dạy của các ngài. Thực ra, nếu ai để ý, Phúc Âm cũng đưa ra nhiều trường hợp khiến chúng ta đọc mà không hiểu gì, bởi theo sự hiểu biết bình thường, mới vừa cảm thấy đắc ý vì đã cố gắng suy nghĩ để hiểu được câu này hợp lý hợp tình hy vọng áp dụng nơi cuộc sống thì lại phải đối diện với câu khác chống nghịch hẳn lại. Chẳng những thế, có những câu ngược hẳn luân lý con người và câu khác lại dường như chống báng cung cách thực hành những điều tôn giáo dạy. Thử hỏi, ai không cảm thấy bối rối với câu nói, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta” (Mt. 10:37). Tôn giáo dạy chúng ta đọc kinh, cầu nguyện, ăn chay, hãm mình, làm việc lành phúc đức, Phúc Âm nói, “Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa,' là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời. Trong ngày ấy, nhiều kẻ sẽ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa, há chúng tôi đã không nhân danh Người mà nói tiên tri, nhân danh Người mà trừ quỉ, nhân danh Người mà làm nhiều phép lạ đó sao!' Và bấy giờ Ta sẽ tuyên bố với chúng rằng: Ta không hề biết các ngươi; hãy xéo đi xa Ta, hết thảy phường tác quái” (Mt. 7:21-23). Nơi bài Phúc Âm tuần này, chúng ta cũng gặp phải trường hợp nghịch thường. Xét theo Phúc Âm, trường hợp này phát sinh bởi quan niệm thế tục nơi tôn giáo đã ăn sâu vào nhận thức của các soạn giả và dịch giả Thánh Kinh. Đó là câu, “Các môn đồ ra đi rao giảng, kêu gọi người ta ăn năn, thống hối” (Mt. 6:12).

Phúc Âm trình bày rõ ràng về mục đích sứ vụ của Đức Giêsu và đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Nơi Marcô, đoạn 1, câu 38 được viết, “Và Ngài bảo họ: 'Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã lân cận để Ta rao giảng ở đó nữa, bởi chính vì thế mà Ta đã ra đi'”.”Phúc Âm Matthêu không nhắc tới ngôn từ “Mục đích,” nhưng trình bày công việc của Ngài khi viết, “Đức Giêsu rảo khắp các thành, các làng,…loan báo Tin Mừng về Nước Trời” (Mt. 4:23; 9:35). Phúc Âm Luca nói rõ Đức Giêsu được sai đến để chu toàn nhiệm vụ rao giảng Tin Mừng Nước Trời khi đặt nơi miệng Ngài câu nói, “Ngài bảo họ: 'Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43). Chẳng những Đức Giêsu rao giảng Tin Mừng mà Ngài còn sai các môn đồ ra đi thực hiện như Ngài. Chúng ta có thể nhận biết về điều này nơi Mc. 3:14; 13:10; 16:15; Lc. 9:2. Hơn nữa, đối với Đức Giêsu, công việc rao giảng Tin Mừng còn quan trọng hơn sự hiếu đễ dẫu đó là trường hợp “Nghĩa tử nghĩa tận” của một người con khi bố chết. Phúc Âm Luca kể lại một người được gọi theo Đức Giêsu nhưng vì bố ông ta vừa qua đời nên nói với Ngài muốn trở về lo liệu tang ma thì Ngài trả lời, “Để kẻ chết chôn kẻ chết của chúng; còn ngươi, hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:59).

Chúng ta cũng nhận thực được rằng, Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu đang hoạt động và điều hành vạn vật; quyền lực hoạt động nơi mỗi người. Thiên Chúa ngự trị nơi mọi loài, mọi vật, Ngài ở khắp mọi nơi; vì thế, Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Và như vậy, Tin Mừng Nước Trời chính là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.” Tin Mừng này cũng được phát biểu nơi Phúc Âm qua nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, “Nước Thiên Chúa đã gần đến, Nước Thiên Chúa ở trên các ông, ở giữa các ông.” Xét thế, Đức Giêsu đến để nói, công bố cho chúng ta một thực tại; đó là Thiên Chúa đang hoạt động và ngự trị nơi mỗi người.

Đồng thời, qua Phúc Âm, Đức Giêsu cũng trình bày cho chúng ta những điều kiện tâm trí hay nhận thức để một người có thể đạt tới thực thể Tin Mừng Ngài rao giảng. Chẳng hạn, “Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta,”””Kẻ vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với Nước Thiên Chúa,” hoặc, “Rượu mới không đổ bì cũ, vải mới không vá áo cũ.” Nói chung, tâm thức và nhận thức của chúng ta cần được đổi mới đúng với nghĩa của động từ Hy Lạp ”Metanoia” mà các dịch giả Thánh Kinh dịch là “Cải thiện,” hoặc “Ăn năn hối cải” hay “Ăn năn xám hối.” Thánh Phaolô nói về sự thực hành những điều kiện tâm trí này nơi thưthứ nhất gửi giáo đoàn Thêsalônica, “Đừng giập tắt thần khí! Đừng khinh thị các ơn tiên tri! Những hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào!” (1Th. 5:19-21). Nơi thư Côlôsê, ngài cũng viết, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Thánh Phao lô nhắc nhở khi chúng ta suy nghĩ, nghiệm xét, đừng để tâm trí lệ thuộc bất cứ quan điểm, lý thuyết, hay chủ thuyết, hoặc bất cứ tư tưởng nào.

Nhận thức được Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng và công việc Ngài sai các môn đồ thực hiện cũng như điều kiện tâm thức con người cần phải có để đạt tới thực thể Tin Mừng, tôi nghĩ, câu Phúc Âm, “Các môn đồ ra đi rao giảng sự thống hối” có nghĩa các môn đồ được sai đi công bố Tin Mừng Nước Trời hoặc được sai đi rao giảng về điều kiện tâm thức để nhận thức thực thể Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người.

Tóm lại, chúng ta cần để ý điều Phúc Âm nhắc nhở, Đức Giêsu đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Đó là Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Ngài cũng sai các môn đồ rao giảng điều này. Nếu ai muốn đạt tới thực thể Tin Mừng muốn cảm nghiệm được thực tại Thiên Chúa hoạt động nơi mình, người đó cần suy nghiệm những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm dạy về phương pháp thực hành để được thăng tiến trên hành trình đức tin, hành trình tâm linh. Đây cũng là lý do tại sao Phúc Âm Gioan có câu, “Sự sống đời đời là: chứng nhận biết Cha, Thiên Chúa độc nhất và chân thật, và Đấng Cha đã sai, Giêsu Kitô.” Nhận biết Đức Giêsu chính là sự suy nghiệm những lời Ngài dạy nơi Phúc Âm.

CHỦ NHẬT 16B (Mc. 6:30-34)

30 Các tông đồ tụ hợp lại bên Ðức Yêsu, và tin lại cho Ngài tất cả những gì họ đã làm và đã dạy. 31 Ngài mới bảo họ: "Cả các ngươi nữa cũng hãy đi riêng ra, vào chỗ nào hiu quạnh, mà nghỉ ngơi đôi chút". Vì người ta lui tới nhiều, và họ không rảnh được mà ăn nữa. 32 Vậy nên họ lên đò ra đi đến một chỗ hiu quạnh, biệt riêng ra. 33 Thấy họ ra đi, thì nhiều người đã biết và từ hết các thành, người ta rảo bộ mà đổ dồn đến nơi ấy, và đã đến trước họ. 34 Vừa ra, Ngài đã thấy dân chúng đông đảo, và Ngài chạnh lòng thương xót họ vì họ như cừu chiên không có người chăn giữ, và Ngài lên tiếng giảng dạy cho họ nhiều điều.

Ba điểm bài Phúc Âm nêu lên cần được chúng ta để ý, đó là: Đức Giêsu bảo các môn đồ, “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút.” Nhiều người nơi đám đông và từ các thành phố đi bộ đến nơi Đức Giêsu và các môn đồ nghỉ ngơi trước các ngài. Đức Giêsu thấy dân chúng như chiên không người chăn dắt nên thay vì nghỉ ngơi đã giảng dạy họ. Từ nhận định về ba điểm này, nếu thử đặt vấn đề sao cho có được những giải đáp hợp tình, hợp lý, chúng ta sẽ ít nhất nhận ra phương pháp thực nghiệm nơi hành trình tâm linh, hành trình thăng tiến đức tin.

Vấn đề thứ nhất, tại sao Phúc Âm không được viết Đức Giêsu bảo các môn đồ một cách đơn giản rằng các con hãy nghỉ ngơi một chút mà lại nhắc đến ”Hãy lui vào nơi vắng vẻ?” Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thường thấy ghi lại Đức Giêsu lên núi hoặc vào sa mạc cầu nguyện. Khi viết về thái độ cầu nguyện, Phúc Âm Matthêu đặt nơi miệng Đức Giêsu lời dạy, “Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi có mặt cả nơi kín ẩn; và cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi” (Mt. 6:6). Nơi bản dịch tiếng Mỹ họ dùng ngôn từ “Inner room” có nghĩa tâm hồn mình, trong lòng mình. Phúc Âm dạy chúng ta phương pháp thực hành cuộc sống tâm linh nên những nơi chốn được ám chỉ bằng “sa mạc” hoặc “nơi kín ẩn,” hay “lên núi,” hoặc “nơi vắng vẻ” chính là tâm hồn của mỗi người. Bởi thế, lối nói hãy lui vào nơi vắng vẻ, vào buồng khóa cửa lại có nghĩa tự suy tư, suy nghiệm, tự cầu khẩn, hoặc tự kiểm lòng mình. Đây chính là lối sống chiêm nghiệm, suy nghiệm, cầu nguyện.

Thế nên, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời dạy các môn đồ để khuyên bảo chúng ta hãy thực hành điều mình suy nghiệm từ Phúc Âm. Như vậy, câu nói, “Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút,” mang ý nghĩa các con hãy nhận biết nơi lòng mình, những ý nghĩ, ước muốn ước mơ, hãy cảm nhận về chính mình, nơi tâm hồn cũng như nơi thân xác để nhận ra những điều lạ lùng đang xảy đến từng giây từng phút. Đây cũng là lý do tại sao Phúc Âm cố ý nhắc về việc các môn đồ kể lại với Đức Giêsu những việc các ngài đã thực hiện. Điều này muốn nói lên những sự việc được kể lại còn mang lẽ huyền nhiệm nào đó cần được nghiệm chứng để có nhận thức rõ ràng hơn về thực thể động lực của những sự việc đã được thực hiện bởi các môn đồ. Tự nghiệm nơi chính lòng mình, chúng ta đều nhận thấy ai cũng mang nỗi khát khao nhận biết thực thể chính mình. Mình là ai? Được sinh ra với mục đích gì? Chết rồi sẽ đi về đâu? Phỏng cuộc sống của một con người chết là hết vì những thành quả con người tạo nên vẫn còn tồn tại sau khi chính người đó chết thì chẳng lẽ giá trị cuộc đời một người lại thua kém những công việc họ đã thực hiện hay sao! Những khát khao nhận biết này đều là thành phần của lòng khát khao tâm linh, muốn được nhận biết về Thiên Chúa, cội nguồn của mọi sự hiện hữu, cội nguồn của sự sống và cũng là cùng đích của con người.

Nhận định như thế, quang cảnh Phúc Âm kể về người ta đoàn lũ đi bộ tới nơi Đức Giêsu và các môn đồ định nghỉ ngơi chỉ là cách ám chỉ nỗi khát khao nhận biết về Thiên Chúa cũng như lòng muốn tìm hiểu hành trình tâm linh thực nghiệm chomỗi người chúng ta. Phúc Âm muốn nhắc nhở chúng ta để ý đến lòng khát khao thầm kín nơi mỗi người. Vì thực tại chứng minh, biết bao nhiêu người tốn tiền, bỏ thời giờ, công sức, hành hương đất thánh, hoặc thánh địa này, nơi kỷ niệm phép lạ kia,… nào dòng Đồng Công, Lavang New Orleans, Fatima, Lộ Đức, v.v……

Thế nhưng, thánh địa nơi chính lòng mình thì quả là quá xa vời, xa hơn cõi trời thăm thẳm. Tôi nghĩ, không cần biết nhiều, bất cứ ai tự trả lời câu hỏi,“Tại sao cặp mắt của mình lại không giống cái mũi, trả lời bằng mọi lý lẽ, biện luận cho đến tận cùng thì sẽ có thể đưa tay nắm được phép lạ đang ở trước mặt mình. Phần cuối bài Phúc Âm được chép, “Lúc ra khỏi thuyền, Chúa Giêsu thấy dân chúng thật đông thì động lòng thương vì họ như đàn chiên không người chăn, và Người dạy dỗ họ nhiều điều.” Câu này tự tạo nơi tâm trí chúng ta câu hỏi, Vậy Đức Giêsu dạy dân chúng những gì mà nói là nhiều điều? Muốn trả lời được câu hỏi này, chúng ta nên dành thời giờ đọc Phúc Âm, mỗi ngày đọc chỉ một câu và suy nghĩ cho đến khi nào nhận thấy hợp lý, hợp tình và có thể áp dụng một cách thực tiễn. Nếu giả sử có trường hợp nào câu nói vẫn còn nghịch lý thì cố kiếm cho ra giải đáp. Đây chính là phương pháp suy nghiệm, nghiệm chứng Phúc Âm. Đây cũng là phương pháp độc nhất để được giải thoát khỏi mọi sự lừa bịp về Lời Chúa, và đây cũng là điều kiện ắt có và đủ để được thức ngộ nhờ Phúc Âm. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người.

Chúng ta chấp nhận để Ngài hướng dẫn và soi sáng cho mình hay không tùy mỗi người có chấp nhận suy nghiệm Lời Chúa hay không. Một điều chắc chắn ai cũng có thể nhận biết và đó là nếu không suy nghiệm Lời Chúa, ơn cứu độ sẽ chẳng có ngõ ngách nào lọt vào tâm trí để giải thoát khỏi sự u mê, thiếu nhận thức tâm linh. Bởi thế, suy nghiệm Lời Chúa chính là học hỏi nơi chính Chúa, cho Chúa cơ hội để dạy dỗ mình. Xin quý ông bà anh chị em để ý nhớ câu Phúc Âm Gioan, “Trong các tiên tri có viết: Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Ga.6:45). Không ai có thể dạy và giải thoát chúng ta. Chính Thiên Chúa thực hiện công việc này nơi mỗi người. Tuy nhiên, nếu không suy nghiệm Lời Chúa, chính sự mê muội là hình phạt không cách nào cho con người có thể thoát khỏi được. Đây là ý nghĩa câu Phúc Âm Gioan, “Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lĩnh chịu các lời của Ta thì có người xét xử nó: Ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết” (Ga.12:48).

CHỦ NHẬT 17B (Gioan 6:1-15)

6:1 Sau đó, Đức Giê-su sang bên kia Biển Hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Biển Hồ Ti-bê-ri-a. 6:2 Có đông đảo dân chúng đi theo Người, bởi họ từng được chứng kiến những dấu lạ Người đã làm cho những kẻ đau ốm. 6:3 Đức Giê-su lên núi và ngồi đó với các môn đệ. 6:4 Lúc ấy, sắp đến lễ Vượt Qua là đại lễ của người Do-thái. 6:5 Ngước mắt lên, Đức Giê-su nhìn thấy đông đảo dân chúng đến với mình. Người hỏi ông Phi-líp-phê: "Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?" 6:6 Người nói thế là để thử ông, chứ Người đã biết mình sắp làmgì rồi. 6:7 Ông Phi-líp-phê đáp: "Thưa, có mua đến hai trăm đồng bạc bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút." 6:8 Một trong các môn đệ, là ông An-rê, anh ông Si-mon Phê-rô, thưavới Người: 6:9 "Ở đây cómột em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng với bằng ấy người thì thấm vào đâu!" 6:10 Đức Giê-su nói: "Anh em cứ bảo người ta ngồi xuống đi." Chỗ ấy có nhiều cỏ. Người ta ngồi xuống, nguyên số đàn ông đã tới khoảng năm ngàn. 6:11 Vậy, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó. Cá nhỏ, Người cũng phân phát như vậy, ai muốn ăn bao nhiêu tuỳ ý. 6:12 Khi họ đã no nê rồi, Người bảo các môn đệ: "Anh em thu lạinhững miếng thừa kẻo phí đi." 6:13 Họ liền đi thu những miếng thừa của năm chiếc bánh lúa mạch người ta ăn còn lại, và chất đầy được mười hai thúng. 6:14 Dân chúng thấy dấu lạ Đức Giê-su làm thì nói: "Hẳn ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến thế gian!" 6:15 Nhưng Đức Giê-su biết họ sắp đến bắt mình đem đi mà tôn làm vua, nên Người lại lánh mặt, đi lên núi một mình.

Bài Phúc Âm vừa được công bố thường được gọi là phép lạ Chúa Giêsu biến năm chiếc bánh và hai con cá để nuôi năm ngàn người. Đọc nơi ba Phúc Âm Mátthêu (14:17; 15:34, Luca (9:13), và Marcô (6:38;8:5), chúng ta cũng đếm được năm trường hợp khác ghi lại Đức Giêsu đã làm phép lạ khi thì biến bẩy chiếc bánh và một vài con cá nhỏ thành nhiều dư thừa cho năm ngàn người đành ông, không tính đàn bà, trẻ em. Cũng cùng số lượng bẩy chiếc bánh và vài con cá nhỏ, Phúc Âm Marcô ghi lại chỉ có bốn ngàn người nói chung, không phân biệt đàn ông hoặc đàn bà hay trẻ em. Lúc khác Ngài biến năm chiếc bánh và hai con cá cho năm ngàn người ăn giống như bài Phúc Âm của thánh Gioan mà chúng ta vừa nghe.

Phúc Âm Gioan ghi lại, “Có đám đông dân chúng theo Người, vì họ đã thấy những phép lạ Người làm cho những kẻ bệnh tật.” Vấn đề được đặt ra đó là nếu Đức Giêsu không làm phép lạ, không chữa những người bệnh tật phỏng dân chúng thời bấy giờ có đến với Ngài không? Thêm vào đó cũng theo Phúc Âm, Đức Giêsu làm nhiều sự lạ cả thể, thế sao đã có những người thời bấy giờ nói rằng Ngài mất trí? Hoặc vì lòng cứng tin của dân chúng nên chính Ngài đã phải tuyên bố, “Tiên tri mà có bị khinh thì chỉ có ở nơi quê quan, nơi bà con, nơi nhà mình thôi” (Mc. 6:4). Hơn nữa, nơi bài Phúc Âm Gioan được viết thêm, “Thấy phép lạ Chúa Giêsu đã làm, ngươì ta đều nói rằng: 'Thật ông nầy là đấng tiên tri phải đến trong thế gian.' Vì Chúa Giêsu biết rằng người ta sẽ đến bắt người để tôn làm vua, nên Người lại trốn lên núi một mình.” Điều chúng ta cần để ý đó là Phúc Âm thánh Gioan viết về những dấu lạ để minh chứng Đức Giêsu chỉ dẫn đường ngay lẽ thật để khuyến khích con người tìm hiểu, suy nghiệm.

Dĩ nhiên, dân chúng thời đó không đến gặp Đức Giêsu vì miếng bánh hoặc vì những sự việc được gọi là phép lạ ghi nơi Phúc Âm. Dân chúng tìm đến Đức Giêsu để nghe những lời Ngài giảng dạy về Tin Mừng Nước Trời. Cũng như chúng ta, đi hành hương không phải để kiếm miếng cơm ăn mà vì lòng khao khát tâm linh, lòng khao khát nhận biết về ý nghĩa tối hậu của cuộc đời con người, lòng khao khát nhận biết rồi mình sẽ đi về đâu sau cuộc sống nơi dương gian này. Bởi vậy, những dấu lạ được kể nơi Phúc Âm Gioan chỉ được dùng như phương tiện gây sự chú ý hoặc lòng khát khao tìm hiểu của người đọc. Thêm vào đó, một điều rõ ràng chúng ta nhận thấy nơi Phúc Âm đó là Đức Giêsu không được sai đến để tìm sự vinh quang hay quyền hành thế tục. Đây chính là lý do tại sao Phúc Âm ghi lại Ngài bỏ lên núi một mình khi biết ý định của dân chúng muốn tôn vinh Ngài lên làm vua của họ. Chúng ta cần để ý, mục đích cũng như nhiệm vụ chính yếu mà Đức Giêsu được sai đến để thực hiện đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43).

Xét như vậy, cũng như dân Do Thái hai ngàn năm trước tìm đến nghe lời giảng dạy của Đức Giêsu, chúng ta đến nhà thờ không phải vì bất cứ lý do gì nhưng chỉ để tuyên xưng Tin Mừng Nước Trời mà Đức Giêsu đã rao giảng hai ngàn năm trước. Chúng ta tuyên xưng, tuyên dương Thiên Chúa đang ngự trị giữa chúng ta, nơi từng người. Chúng ta tuyên dương quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động từng giây, từng phút nơi mỗi tạo vật. Chúng ta tuyên dương những kỳ công cả thể Thiên Chúa đang thực hiện nơi mỗi người bởi chúng ta đang có thể nhìn thấy sự vật chung quanh, bởi chúng ta có thể nhận biết tâm tình sùng kính và tôn thờ Thiên Chúa nơi chính lòng mình, bởi chúng ta chứng thực được mình có khả năng suy nghĩ, bởi chúng ta đang sống nên nhận biết quyền lực sự sống là chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình.

Tất cả những hoạt động thân xác và tâm trí, những suy tưởng, ý định, ước muốn, ước mơ… toàn bộ hiện hữu của con người đang minh chứng Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Những hoạt động này minh chứng Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Như vậy, sự hiện diện của chúng ta nơi nhà thờ lúc này chính là để tuyên dương Tin Mừng Đức Giêsu đã rao giảng; chúng ta tuyên dương Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động từng giây từng phút nơi mình. Chúng ta tuyên dương quyền lực sựsống, quyền lực tối thượng đang hoạt động để biến chuyển, đổi mới và tạo dựng nơi hành trình sáng tạo không ngừng của Thiên Chúa nơi tạo vật. Đây cũng là ý nghĩa câu nói nơi thư gửi tín hữu Êphêsô,“”Chỉ có một Thiên Chúa là Cha hết mọi người, Đấng vượt trên hết mọi người, hoạt động nơi mọi người, và ở trong mọi người.” Amen.

CHỦ NHẬT 18B (Gioan 6:24-35)

624 Vậy khi đám người ấy thấy không có Ðức Yêsu ở đó và cả môn đồ Ngài cũng không, thì họ lên các đò kia mà đi Capharnaum tìm Ðức Yêsu. 25 Gặp Ngài bên kia biển, họ nói với Ngài: "Rabbi, Ngài đã đến đây bao giờ?" 26Ðức Yêsu đáp lại: "Quả thật, quả thật, ta bảo các ngươi: các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh no. 27Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời, mà Con Người sẽ ban cho các ngươi, vì chính Ngài là Ðấng mà Cha và là Thiên Chúa đã niêm ấn".

28 Họ mới nói cùng Ngài: "Chúng tôi phải lao công vào việc nào của Thiên Chúa?" 29 Ðức Yêsu đáp lại: "Việc của Thiên Chúa, tức là các ngươi tin vào Ðấng Người đã sai đến". 30Họ nói với Ngài: "Vậy thì ông làm dấu gì để chúng tôi thấy mà tin ông? Ông làm gì nào? 31 Cha ông chúng tôi đã ăn manna trong sa mạc, như đã viết: Người đã ban cho họ ăn bánh bởi trời". 32 Vậy Ðức Yêsu nói với họ: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: không phải Môsê đã cho các ngươi bánh bởi trời; nhưng Cha Ta mới ban cho các ngươi bánh bởi trời đích thật! 33 Vì bánh của Thiên Chúa là sự gì bởi trời xuống và ban sự sống cho thế gian". 34 Họ nói cùng Ngài: "Thưa Ngài, hãy luôn luôn cho chúng tôi bánh ấy!" 35 Ðức Yêsu nói với họ: "Bánh sự sống, chính là Ta! Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào ta sẽ không hề khát bao giờ!

Trước khi chia sẻ lời Chúa qua bài phúc âm vừa được công bố, tôi muốn minh định một điều, và đó là sự rộng mở tâm tình để nhận thức sự thể lời Chúa muốn chúng ta nhận biết. Hai vấn đề chúng ta nên để tâm nhận định. Thứ nhất, phúc âm Gioan là thành quả nghiệm xét của một tâm hồn chiêm nghiệm được ghi lại. Thứ hai, những lời phát biểu nơi phúc âm Gioan mang đầy tính chất ám định; dùng sự việc hữu vi ám chỉ hoạt động tâm linh. Chẳng hạn, “Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ.”

Đoạn phúc âm dùng quang cảnh tưởng tượng một số người gặp đức Giêsu đối đáp để chuyển dạy chúng ta về phương thức hầu thỏa mãn khát vọng tâm linh bẩm sinh nơi mỗi người mà ít khi chúng ta để tâm tới. Ngay từ khởi đầu, để trả lời câu hỏi, “Rabbi, Ngài đã đến đây bao giờ?” Nói đúng sự thực, những ai nghĩ, hay để cơ hội viết truyện, viết văn, sẽ nhận thấy đây chỉ là câu hỏi được đặt ra để chuẩn bị cho câu trả lời về thực thể tâm tình của con người nơi cõi sống nhân sinh. Và đó là, “Quả thật, quả thật, Ta bảo cá ngươi, các ngươi tìm Ta không phải vì các ngươi đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ngươi đã ăn bánh no.” Tôi không nghĩ tác giả nghiệm chứng phúc âm kém cỏi đến nỗi đưa lên câu nói thiếu tính cách văn chương, hiểu biết, để rồi viết lên câu nói quá bình dân nếu không muốn nói đơn sơ thật thà, thấy sao nói vậy, mới thoạt nghe mang đầy vẻ khinh thị, coi thường.

Tuy nhiên, nếu đặt mình nơi vị thế người nghe biết hồi tâm đối diện với ước muốn thực sự của mình, câu nói đơn sơ, thẳng thừng nói đúng tâm tình, tâm trạng của những người tìm gặp đức Giêsu. Cũng như chúng ta, bình thường, tất cả những gì được chúng ta để tâm tìm hiểu và ước mong đạt được đều là những lợi lộc, những gì thỏa mãn tham vọng nhân sinh, thỏa mãn nhu cầu cuộc sống hữu vi, cơm áo, gạo tiền. Như đã có lần chúng ta nghe được, ai đó vì mưu đồ chẳng nên với một vài người Việt ở California thông báo cho gạo, cho mì gói để gây tiếng vang nào đó. Thế mà những hàng xe nối dài đợi cả tiếng đồng hồ đến lượt để được lãnh một hộp mì gói, một bao gạo nhỏ, không đáng tiền xăng phải trả để tới địa điểm lãnh gạo.

Mà nào họ có nghèo đói gì cho cam, những hàng xe lộng lẫy mang nhãn hiệu Lexus, Mercedes, hào nhoáng, xếp hàng cả tiếng đồng hồ, thì máy nổ nghiến hết bao tiền xăng nơi miền đất Cali, giá xăng ngất ngưởng hơn bất cứ nơi nào trên đất cờ hoa. Như vậy, xét ra, hai mươi thế kỷ, từ ngày xưa cho mãi tới nay, quyền lực của cơm áo gạo tiền vẫn luôn là mục đích thực tiễn của con người; dẫu đôi khi lỗ vốn, chẳng những lỗ tiền bạc, công sức, và cả thời gian, mà thời gian là cuộc đời, không cần nghĩ tới lương tâm, danh dự, cũng như tinh thần, tâm linh của mình thế nào. Quả đáng thương cho họ! Nhưng mình thì sao? Ai cũng biết lời khôn ngoan cổ nhân để lại, “Chân mình thì lấm bết bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người.” Nói cho đúng, “Chuyện đời như tấm gương soi,” đâu cần cười người mà chuyện đang xảy ra nơi người lại chính là chuyện nơi mình. Phỏng con người đều là như thế?

Hòa tâm tình vào câu trả lời, chúng ta thấy dội lên nỗi cảm thương gợi về với câu phúc âm đâu đó, “Thấy dân chúng, Ngài chạnh lòng thương họ; vì họ bơ vơ, vất vưởng, như chiên không người chăn giữ” (Mt. 935). Có lẽ câu phúc âm này gợi lại nơi lòng tác giả phúc âm Gioan nên đã gán cho đức Giê su câu trả lời, “Hãy lao công đừng vì lương thực hư nát, nhưng vì lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời, mà Con Người sẽ ban cho các ngươi, vì chính Ngài là Ðấng mà Cha và là Thiên Chúa đã niêm ấn".

Đâu là, cái gì là “Lương thực sẽ lưu lại mãi đến sự sống đời đời mà Con Người sẽ ban cho các ngươi?” Xin thưa, nếu ai đọc phúc âm sẽ biết, và đó chính là Tin Mừng Nước Thiên Chúa; vì mục đích cuộc đời của đức Giêsu chính là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa như đã được viết nơi phúc âm Luca, “Sáng đến, Ngài ra đi vào một nơi hoang vắng. Dân chúng đi tìm Ngài và đến nơi Ngài và họ cố cầm giữ Ngài lại, không để Ngài đi khỏi nơi họ. 43 Nhưng Ngài bảo họ: "Ta còn phải đem tin mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến" (Lc. 4:52-43). Tôi muốn nhắc lại, phúc âm nói rõ mục đích cuộc đời của mỗi người chúng ta chính là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33). Đã bao thế hệ kể từ khi con người hiện diện trên mặt đất, không ai biết mục đích cuộc đời của mình là gì. Tuy nhiên, phúc âm đã minh xác mà nào có ai để tâm nhận định nên cứ đành chấp nhận đã được sinh ra thì phải sống, sống bơ vơ vất vưởng như chiên không chủ chăn; sống nhưng không biết mình được sinh ra để làm gì; bởi cái gì rồi thì cũng qua, do vào đời tay trắng thì ra đi cũng trắng tay; cho dù danh vọng, chức quyền đến mấy thì cũng không thoát khỏi sinh bệnh lão tử.

Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta, “Ai đến với Ta sẽ không hề đói, và kẻ tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ.” Đến với Chúa là suy nghĩ, nghiệm xét lời phúc âm ứng nghiệm thế nào nơi cuộc đời của mình. Đến với Chúa là suy nghĩ xem Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng là gì, áp dụng vào cuộc sống sẽ thế nào, mình nên sống ra sao! Tin vào lời Chúa là suy nghĩ, tìm tòi để thỏa mãn nỗi thao thức, khát khao tiềm ẩn nhận biết mình thế nào, nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi cuộc đời mình. Ai cũng biết, Tin Mừng Nước Trời đức Giêsu rao giảng là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi quý ông bà, quý anh chị em, nơi tôi, nơi mọi người.

Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nhận biết chân thực Tin Mừng Nước Trời. Amen.

CHÚA GIÊSU BIẾN HÌNH B (Mc. 9:2-10)

2 Sáu ngày sau, ÐứcYêsu đem theo mình Phêrô, Yacôbê và Yoan, và đưa họ lên một núi cao, riêng biệt ra, chỉ có họ. Và Ngài đã biến hình trước mặt họ: 3 áo Ngài rạng ngời trắng tinh không thợ giặt trần gian nào phiếu được trắng như thế. 4 Có Êlya hiện ra cho họ, cùng với Môsê; và hai vị đàm đạo với Ðức Yêsu. 5 Cất tiếng lên, Phêrô nói với Ðức Yêsu: "Rabbi, may quá có chúng tôi ở đây! Ðể chúng tôi dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elya!" 6 Vì ông không biết phải ứng đáp làm sao, bởi họ kinh hải quá. 7 Xảy đến một đám mây rợp bóng trên họ, và một tiếng phát ra tự đám mây: "Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài!" 8 Bỗng đưa mắt nhìn quanh, họ không thấy ai, duy chỉ có một mình Ðức Yêsu ở với họ.

9 Trong khi họ xuống núi, thì Ngài căn dặn họ không được thuật lại cho ai hay các điều họ đã thấy, trừ phi khi Con Người đã sống từ cỏi chết. 10 Họ đã giữ lời dạy, tuy họ vẫn tranh luận với nhau: "sống lại từ cõi chết" là gì.

Đọc nơi Kinh Thánh, chúng ta thấy cả ba Phúc Âm Matthêu, Marcô, và Luca đều kể về sự việc Chúa Giêsu biến hình sáu hoặc tám ngày sau khi Ngài tuyên bố điều lạ lùng đó là “Có người sẽ không nếm biết cái chết, trước khi thấy Nước Thiên Chúa đến trong quyền năng” (Mc. 9:1b; Mt. 16:24; Lc. 9:27). Đặc biệt nơi Phúc Âm Luca thêm chi tiết Phêrô, Giacôbê, và Gioan đang ngủ mê khi Môisen và Êlia hiện đến đàm đạo với Đức Giêsu. Phúc Âm thánh Marcô thêm câu “Phêrô không rõ mình nói gì.” Nếu ai để ý khi đọc Phúc Âm sẽ thấy chẳng bao giờ Phúc Âm Marcô nói được điều gì tốt lành về thánh Phêrô. Nơi thư thứ hai của thánh Phêrô mà chúng ta vừa nghe, ngài xác nhận sự thể biến hình này của Đức Giêsu, “Chúng tôi không theo những truyện bày đặt khôn khéo! nhưng chúng tôi đã được chứng kiến nhãn tiền sự uy nghi của Người” (2Pet. 1:16). Tất cả ba Phúc Âm và thưthánh Phêrô đều nhấn mạnh đến lời phán từ đám mây, “Hãy nghe lời Người.” Lời phán này có nghĩa hãy tuân theo những lời rao giảng của Đức Giêsu. Vấn đề được nêu lên cho bất cứ ai muốn thăng tiến nơi hành trình đức tin đó là Đức Giêsu đã rao giảng những gì? Nghe lời Ngài chúng ta cần biết những gì và cần thực hiện thế nào?

Đọc nơi Phúc Âm, chúng ta thấy rõ, mục đích và nhiệm vụ chính yếu của Đức Giêsu nhập thể làm người là rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa (Lc. 4:43), và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt. 1:23). Phúc Âm Marcô viết về lời công bố đầu tiên của Chúa Giêsu, “Sau khi Gioan đã bị nộp, thì Đức Giêsu đến xứ Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa mà rằng: 'Thời buổi đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy cải thiện và tin vào Tin Mừng.” Nước Thiên Chúa đã gần bên có nghĩa Thiên Chúa đang hiện diện nơi chúng ta, vì nơi khác Phúc Âm cũng có nói, Nước Thiên Chúa ở giữa các ông, ở trong các ông. Thiên Chúa ngự trị và hoạt động nơi mỗi người. Như vậy, điều kiện để nhận biết thực thể Tin Mừng Nước Trời là sự cải thiện (Mc. 1:15).

Sự cải thiện bao gồm hai phương diện, tâm trí và lối sống. Về phương diện tâm trí, con người cần biết mở rộng tâm hồn để đón nhận và suy nghiệm mọi việc, mọi sự thể, xảy đến nơi cuộc đời của mình. Cuộc sống mỗi người là cơ hội để thăng tiến tâm linh, để phát triển hành trình đức tin; thế nên, cuộc sống hữu hình là phương tiện cho linh hồn học hỏi để đạt tới nhận thức thực thể tối thượng là chính Thiên Chúa đang thực hiện công việc của Ngài nơi tạo vật. Bởi thế, muốn thăng tiến, con người cần đặt lại mọi vấn đề, suy nghiệm để nhận ra thực thể chính mình, đặt những câu hỏi để tìm tới tận cùng mình thế nào, mình là ai, và căn nguyên sự hiện hữu của mình từ đâu tới. Thêm vào đó, điều kiện suy nghiệm đòi hỏi con người không nên chấp nhận những gì đã được nghe biết theo thói quen nhưng phải tự nghiệm chứng tùy thuộc căn cơ hiểu biết nơi mình. Bất cứ những gì mình chưa nghiệm chứng đều cần phải đặt lại vấn đề. Chẳng hạn, có ai nói rằng ăn sầu riêng thơm ngon lắm thì cũng đừng vội tin mà nên nghiệm chứng bằng cách ăn thử để nhận biết sầu riêng ngon ngọt ra sao. Nếu có ai bảo rằng Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ thì hãy lật Phúc Âm xem Đức Giêsu rao giảng về Thiên Chúa như thế nào!

Về phương diện cuộc đời hữu hình, sự cải thiện là điều kiện ắt có và đủ để ít nhất con người sống sao cho công chính. Định nghĩa đúng đắn nhất của sự cải thiện bản thân chỉ là đừng làm những gì không nên. Chúng ta được sinh ra để sống và sống cuộc đời của mình do đó chúng ta không phải trở nên bất cứ gì. Tất cả những cố gắng để trở thành những gì không phải là mình chỉ đem đến hậu quả tai hại, và hậu quả rõ ràng nhất chính là sự hao tổn tâm lực và công sức để theo đuổi ước muốn để trở nên những gì không phải là mình. Dù cho bất cứ sự giầu có, cao sang thế tục đến đâu mà mình không được sinh ra để trở thành như vậy thì có cố gắng đến mấy cũng vô ích và chỉ biến mình thành nô lệ cho ý thích, cho điều mình mơ tưởng mà thôi. Như vậy, sự cải thiện chỉ là nhận biết thực sự về chính mình và sống cuộc đời mình được sinh ra để sống.

Nghe lời Đức Giêsu tức là thực hành, thực nghiệm, nghiệm chứng, suy nghiệm, Tin Mừng Nước Trời Ngài rao giảng để nhận biết quyền lực tối thượng là chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người chúng ta. Đây cũng chính là hành trình đức tin, hành trình tâm linh, sự thực nghiệm để nhận biết thực thể con người của chính mình. Ai nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời sẽ cảm nhận được thực thể tối thượng, linh hồn con người là một với Thiên Chúa, là một với Đức Giêsu. Bởi vậy, sự thể biến hình hay hiển dung của Đức Giêsu chứng tỏ cho chúng ta bản thể đích thực nơi mình. Tóm lại, nghe lời Đức Giêsu là nhận biết và nghiệm chứng quyền lực Thiên Chúa nơi mình. Xin Đức Giêsu sai Thánh Thần của Ngài soi sáng, mở lòng trí mỗi người để nghiệm chứng Tin Mừng Ngài rao giảng. Amen.

CHỦ NHẬT 19B 1997 (Gioan 6:41-51)

Người Mỹ có câu nói, "Giá trị thực thể của quí vị to lớn gấp biết bao lần những gì quí vị có thể nghĩ về chính mình." Thi sĩ người Anh, Robert Browning viết trong tập thơ Paracelsus của ông: "Thiên Chúa chính là nhà thơ tuyệt vời, Ngài hoạt động nơi chính tạo vật đã được Ngài dựng nên." Hai câu nói này chỉ phần nào làm sáng tỏ ý nghĩa của câu Kinh Thánh nơi sách Khởi Nguyên: "Và Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh của Thiên Chúa, Người đã dựng nên nó. Là nam, là nữ, Người đã dựng nên chúng." Thiên Chúa là cội nguồn mọi sự hiện hữu, hữu hình và vô hình, và con người có được sự hiện hữu từ chính sự hiện hữu của Thiên Chúa. Linh hồn vô hình của chúng ta từ nơi Thiên Chúa nhập thể vào những xác phàm để hòa hợp thành mỗi người. Như vậy, chúng ta có được sự hiện hữu từ Thiên Chúa, và vì thế, một cách rõ ràng, chúng ta phát xuất từ cội nguồn của mọi sự hiểu biết. Chúng ta được sinh ra từ quyền lực hiện hữu của Thiên Chúa với tất cả những sự hiểu biết cần có như hành trang cho diễn trình thăng tiến tâm linh, hành trình đức tin, để trở nên toàn hảo hợp nhất làm một với cội nguồn thiện toàn là chính Thiên Chúa sau cuộc sống hữu hình nơi dương gian này.

Bài Phúc Âm hôm nay lập lại lời tiên tri trong Cựu Ước: "Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo." Dành thời giờ để suy nghiệm, chúng ta sẽ nhận thực được một điều, và đó là mỗi người chúng ta được sinh ra để hoàn thành một sứ mạng, và sứ mạng này là trở nên thiện toàn và hợp nhất làm một với Thiên Chúa. Hơn nữa, muốn hoàn thành sứ mạng, con người đương nhiên trải qua những bài học kinh nghiệm trong cuộc sống. Thực tâm nhận định, mỗi người đã được sinh ra với một kho tàng hiểu biết sẵn có. Mọi lý lẽ, mọi sự hiểu biết, mọi cách khôn ngoan một người có thể am hiểu được qua sách vở hoặc nghe người khác nói hay do cuộc sống mang lại, tất cả chỉ là những cơ hội thức tỉnh con người nhận ra những gì mình đã sẵn có. Có thể nói, những gì chúng ta không thể hiểu, chúng ta đã không có được điều đó từ lúc sinh ra. Tôi muốn nêu lên một thí dụ điển hình. Người ta có thể dạy cho con khỉ đánh đàn dương cầm một cách tuyệt vời một bản nhạc, nhưng không ai có thể dạy cho con khỉ trở nên một nhạc sĩ. Điều này minh chứng rõ ràng con khỉ không được sinh ra với khả năng và bản năng để trở thành một nhạc sĩ.

Từ sự nhận thức vừa được nêu ra, chúng ta có thể am hiểu câu nói nơi bài Phúc Âm, "Không ai đến được với Ta, nếu Cha là Đấng sai Ta không lôi kéo kẻ ấy." Sự hiện hữu của chúng ta phát xuất từ Thiên Chúa; và như vậy, lẽ đương nhiên Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ngự trị nơi chúng ta. Đây chính là Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng. Kinh nghiệm thực tại minh chứng, để có thể am hiểu Tin Mừng, một người cần được chuẩn bị chính mình bằng phương cách chiêm nghiệm. Mỗi người cần có thì giờ dành riêng để cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa nơi mình, để học từ Chúa nơi mình. Đây là điều kiện không thể thiếu nếu ai đó muốn am hiểu Tin Mừng; nói cách khác, để đến cùng Đức Giêsu vì lời Phúc Âm hôm nay cũng có nói: "Ai nghe lời giáo hóa của Cha, thì đến với ta."

Tóm lại, Lời Chúa hôm nay khuyến khích mỗi người chúng ta nên dành riêng thời giờ nào đó mỗi ngày để chiêm nghiệm cho lợi ích của sự am hiểu Tin Mừng Đức Giêsu đem đến. Đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

CHỦ NHẬT 19B (Ga.6:41-51)

6:41 Người Do-thái liền xầm xì phản đối, bởi vì Đức Giê-su đã nói: "Tôi là bánh từ trời xuống." 6:42 Họ nói: "Ông này chẳng phải là ông Giê-su, con ông Giu-se đó sao? Cha mẹ ông ta, chúng ta đều biết cả, sao bây giờ ông ta lại nói: "Tôi từ trời xuống?" 6:43 Đức Giê-su bảo họ: "Các ông đừng có xầm xì với nhau! 6:44 Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha, là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo người ấy, và tôi, tôi sẽ cho người ấy sống lại trong ngày sau hết. 6:45 Xưa có lời chép trong sách các ngôn sứ: Hết mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy do. Vậy phàm ai nghe và đón nhận giáo huấn của Chúa Cha, thì sẽ đến với tôi. 6:46 Không phải là đã có ai thấy Chúa Cha đâu, nhưng chỉ có Đấng từ nơi Thiên Chúa mà đến, chính Đấng ấy đã thấy Chúa Cha. 6:47 Thật, tôi bảo thật các ông, ai tin thì được sự sống đời đời. 6:48 Tôi là bánh trường sinh. 6:49 Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết. 6:50 Còn bánh này là bánh từ trời xuống, để ai ăn thì khỏi phải chết. 6:51 Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời. Và bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống."

Nơi phần mở đầu, bài Phúc Âm nói về dân Do Thái kêu trách vì Đức Giêsu đã tuyên bố với họ Ngài là bánh hằng sống từ trời mà xuống. Bình thường, cứ mỗi khi đọc hoặc nghe về những lời người đồng thời với Đức Giêsu than trách Ngài hoặc có những thái độ chống đối hay tìm mưu lược hãm hại Ngài, chúng ta tự cảm thấy tâm tình bất mãn với họ và nhiều khi lên án hoặc có những lời đàm luận chê trách tại sao họ đối xử tệ với Đức Giêsu như thế. Tuy nhiên, nếu đem so sánh thái độ của dân Do Thái xưa với tâm tình của mỗi người chúng ta khi đọc hoặc nghe về những sự việc được ghi chép nơi Phúc Âm và nếu ai đó để ý tìm hiểu cảm nghĩ nơi tâm hồn mình, điều rõ ràng đó là đa số chúng ta đã chẳng cảm thấy cảm ứng của mình đối với Lời Chúa chút nào.

Nhiều lần tôi tự hỏi, phỏng chúng ta có để ý về lời rao giảng của Đức Giêsu nơi Phúc Âm hay không, hoặc bởi chúng ta được dạy dỗ về sự tôn trọng Lời Chúa đến nỗi tự có thái độ “Kính nhi viễn chi,” nên không dám suy nghĩ hay nhận thức về những điều Ngài dạy? Cũng có thể chúng ta coi những câu truyện được ghi lại nơi Phúc Âm như là những vấn đề bàng quang không có gì liên hệ tới mình vì đó là những chuyện đã qua, xảy ra từ hai ngàn năm trước nên chúng ta không thấy được lợi ích hay bất cứ sự liên hệ nào nơi cuộc sống tâm linh của mình! Hoặc là chúng ta chỉ cảm thấy bất mãn với thái độ của dân chúng đối với Đức Giêsu để cố tránh đặt vấn đề xem Lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta điều gì nơi hành trình đức tin.

Kinh nghiệm sống cho thấy, chúng ta chỉ phản ứng khi có chuyện gì xảy đến liên hệ trực tiếp tới cuộc đời của mình hoặc đem mối lợi lộc nào đó hay làm thiệt hại về phương diện sinh sống hữu hình. Chẳng hạn, vô tình tay chúng ta đụng phải lửa, phản ứng tự nhiên khiến chúng ta rụt tay lại. Nếu có ai thực hiện sự gì hay nói điều gì gây mối lợi hoặc làm phiền lòng, chúng ta mới lên tiếng nói hoặc tỏ thái độ nào đó như một phản ứng nhân sinh. Tự cảm nhận nơi tâm hồn, chúng ta sẽ nhận ra điều khá lạ lùng đó là chúng ta chỉ có phản ứng chê trách những người có thái độ không ra gì đối với Đức Giêsu nhưng lại chẳng cảm thấy những lời rao giảng của Ngài gây cảm ứng chút nào về cuộc sống tâm linh nơi mình. Có chăng, chúng ta đợi nghe lời giải thích từ ai đó. Có thể rằng chính vì thái độ quá ư tôn trọng lời Chúa cách thụ động, chúng ta đã tự làm tê liệt hồng ân suy tư, không để bất cứ cơ hội nào cho Lời Chúa đánh động tâm hồn của mình.

Xét như vậy qua một vài khía cạnh, sự kêu trách của dân chúng về những lời tuyên bố của Đức Giêsu chứng tỏ họ đã để ý và muốn áp dụng những lời dạy của Ngài trong cuộc đời của họ. Họ kêu trách vì Đức Giêsu đã nói những điều quá mức am hiểu đối với tâm trí con người thời bấy giờ; họ kêu trách vì không cách nào áp dụng lời dạy của Ngài theo nghĩa đen; họ kêu trách vì những lời giảng dạy đã khiến cho những đầu óc hữu vi, thế tục khùng lên không phương cách nào am hiểu. Thử hỏi, đã bao nhiêu lần chúng ta được nghe hoặc đọc câu, “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa ra đui mù!” (Ga. 9:39) và chúng ta đã cảm nhận được Lời Chúa muốn nói với chúng ta điều gì? Đã bao nhiêu lần chúng ta cố thực hành lời dạy, “Kẻ yêu con trai con gái hơn ta ắt không xứng với ta” (Mt. 10:37) và cũng không biết bao nhiêu lần chúng ta được giải thích rằng Đức Giêsu muốn chúng ta yêu mến Ngài hơn mọi sự mà khi nghĩ đến Chúa hay cầu nguyện cùng Ngài, chúng ta thường tự cảm thấy lòng mình quá lạnh lùng dẫu hằng tụng niệm yêu Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn...

Vấn đề được nêu lên, phỏng đã bao giờ chúng ta cố gắng tự tìm hiểu ý nghĩa những lời dạy nơi Phúc Âm? Đã bao giờ chúng ta suy nghĩchỉ một câu nơi Lời Chúa để ít nhất có được sự áp dụng đơn giản có thể chấp nhận nơi cuộc sống hằng ngày? Nếu những ai đã tự đặt vấn đề để giải quyết những khúc mắc về Lời Chúa chắc chắn sẽ cảm nghiệm được nhiều sự lạ nơi Phúc Âm. Thực lòng tôi nghĩ, đa số chúng ta đã không để ý đến Lời Chúa; chúng ta không cần biết Phúc Âm nói gì và ý nghĩa ra sao, và chúng ta cũng chẳng biết mình tin vào Chúa là thế nào dẫu cố gắng thực hiện những điều tôn giáo dạy. Chúng ta theo đạo cho an lòng nên không cần biết mình tin gì, cuộc đời mình sau khi chết sẽ đi về đâu do đó không cần biết Phúc Âm nói gì về thực thể con người của mình. Chúng ta đóng cửa lòng đối với Lời Chúa và mơ tưởng những việc được gọi là đạo đức có thể cứu độ chúng ta. Chúng ta cảm thấy bất mãn đối với những người Do Thái hai ngàn năm trước vì đã khuấy động, thách đố chúng ta tìm hiểu Lời Chúa. Chúng ta quá coi thường Lời Ngài.

Nêu lên thực tại chẳng ngờ nơi tâm hồn, tôi khuyến khích và thách đố mọi người suy tư, nghiệm chứng những lời Đức Giêsu rao giảng nơi Phúc Âm. Nguyên tắc căn bản để tìm phương pháp thực hiện nghiệm chứng Phúc Âm đã được rõ ràng giải thích nơi thư thứ nhất Thessalônikê, “Đừng dập tắt Thần Khí, đừng khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kị điều dữ bất cứ dưới hình thức nào” (1Thes. 5:19-21), và nơi thư Colosê, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Thần Khí của Thiên Chúa ngự trị ngay nơi trí khôn của mình và ơn tiên tri cũng ngay ở nơi mình…

Sự thăng tiến đức tin, thăng tiến tâm linh hoàn toàn tùy thuộc nơi mỗi người chúng ta. Nếu suy nghiệm Lời Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được tại sao Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời công bố, “Trong sách các tiên tri có chép rằng: 'Mọi người sẽ được Thiên Chúa dạy bảo. Ai nghe lời giáo hóa của Cha thì đến với Ta.” Kinh nghiệm tâm linh bản thân cũng như sự nhận thức qua sách vở minh chứng điều hiển nhiên đó là bất cứ ai không suy nghĩ, không nghiệm chứng Phúc Âm, giữ đạo đối với họ chẳng khác gì một phương cách chạy trốn sự e sợ nơi tâm tư. Họ đã khinh thường hồng ân suy tư, hồng ân nghiệm chứng được ban cho. Nói cách khác, họ khinh thường Lời Chúa thì dẫu Chúa muốn cứu họ cũng không để cho mà cứu. Xin quý ông bà, anh chị em làm ơn đừng coi rẻ quyền lực Thần Khí của Thiên Chúa.

ĐỨC MẸ HỒN XÁC LÊN TRỜI (Lc. 1:39-56) abc

39 Trong những ngày ấy, chỗi dậy, Maria đon đả ra đi lên miền sơn cước, đến một thành xứ Yuđa: 40 bà vào nhà Zacarya và chào Êlisabet. 41 Và xảy ra là thoạt Êlisabet nghe lời Maria chào, thì hài nhi nhảy mừng trong dạ mẹ; và Êlisabet được đầy Thánh thần, 42 mà thốt lên một tiếng kêu lớn và nói: "Trong nữ giới, có người là diễm phúc! Và đáng chúc tụng thay hoa quả lòng người! 43 Và bởi đâu tôi được thế này, là mẹ Chúa tôi đến với tôi? 44 Vì này thoạt tiếng người chào vừa đến tai tôi, thì hài nhi trong dạ tôi nhảy mừng. 45Phúc cho người, là kẻ đã tin rằng viên thành sẽ đến cho mọi điều Chúa truyền phán dạy cho người!"

46 Và Maria nói: Hồn tôi tôn dương Chúa 47và thần khí tôi nhảy mừng Thiên Chúa, Cứu Chúa của tôi, 48 vì người đã đoái nhìn thân phận mọn hèn tớ nữ của Người. Này từ đây mọi người sẽ khen tôi có phúc, 49 Vì Ðấng quyền năng đã làm cho tôi những điều cao cả. Danh người là Thánh 50 Và lòng nhân nghĩa của Người suốt đời nọ đến đời kia trên những kẻ kính sợ Người.

51 Người đã ra oai sức mạnh cánh tay người, làm cho tan tác kẻ kiêu căng lòng trí. 52 Hạ kẻ quyền năng khỏi ngôi báu và suy tôn những người khiêm nhượng. 53 Ðói khó Người cho no phỉ sự lành, giàu sang Người xua đuổi về không. 54 Người đã đáp cứu Israeltôi tá Người, bởi nhớ lại tình nhân nghĩa, 55 - như Người đã phán với tổ tiên chúng ta - hứa cho Abraham và dòng dõi cho đến muôn đời".

56 Maria đã lưu lại với Êlisabet chừng ba tháng, rồi trở về nhà.

Đọc phúc âm, chúng ta thấy, phúc âm nói rất ít về Đức Mẹ. Hôm nay chúng ta mừng lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời. Bài phúc âm lại nói về sự việc đức Mẹ thăm viếng bà Isave, và lời đức Mẹ trả lời bà Isave là tâm tình nghiệm chứng sự việc Thiên Chúa thực hiện. Niềm tin Đức Mẹ hồn xác lên trời là tín lý Công giáo được đức giáo hoàng Piô 12 công bố vào năm 1950. Tín lý này cho rằng sau khi Đức Mẹ qua đời, thân xác Đức Mẹ được đưa về trời. Phúc âm không nói gì về sự kiện này.

Nếu bất cứ ai dùng đôi giây phút để tâm nhìn lại cuộc đời mình, người đó sẽ nhận thực ra rằng có được cuộc sống làm người là một hồng ân. Thử nhìn lại quãng đời đã trãi qua trong quá khứ và kiểm điểm lại tâm tình của mình, chắc chắn ai cũng cần nâng lòng mình lên cảm tạ Thiên Chúa vì đã được hồng ân sự sống, cho dù cuộc đời mình khốn khổ hay nghèo hèn thế nào. Nhìn vào thực tế, điều được gọi là sung sướng, hạnh phúc, hay khốn cực, khó khăn đều là những trạng thái tâm tình. Tuy nhiên, đôi khi niềm vui của người này lại là điều khổ ải đối với kẻ khác. Sự sung sướng, hãnh diện của mình coi chừng lại là điều tối kỵ đối với ai đó. Ai trong chúng ta chưa bao giờ cảm thất điều mơ ước ngày nao nay trở thành gánh nặng cuộc đời, hoặc sự mê say của những ngày đã qua nay biến thành nỗi chua cay cuộc sống?

Thế nên, nếu nhìn vào thực thể cuộc đời, một người bao gồm hai thực thể, tâm linh và thể xác luôn luôn đối nghịch; ước mơ luôn luôn khó đồng hành với thực tại cuộc sống. Ham muốn nhân sinh nhiều khi cản trở niềm chân thành hướng thiện; dẫu thực thể tâm linh cho dù mờ nhạt nơi nhận thức nhưng điều hành toàn bộ thực tại cuộc sống. Những lời khôn ngoan, những quan niệm, chủ thuyết tâm linh như thành quả suy tư, nghiệm xét của các bậc lâm phàm, hiền triết để lại qua nhiều phương thái nhận thức hầu nhắc nhở con người để tâm nhận thức nỗi khát vọng, thao thức bẩm sinh, nhưng thực tại nhân sinh quá nặng nề và cấp thiết trong mối tương quan giữa nhu cầu sinh sống thể xác với cuộc đời thường che khuất hay làm lu mờ nỗi thao thức tâm linh khiến tâm trí con người khó bề có được nhận định rõ ràng về thực thể của mình; ấy là chưa dám nói tới mối liên hệ nơi cuộc sống tâm linh.

Dẫu, “Nhân chi sơ, tính bản thiện,” nhưng cuộc đời này bất cứ gì cũng có giá phải trả. Cho dù phúc âm khuyến dụ, “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao” (Mt. 6:28), nhưng, "Đã có lời chép rằng: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra". Dẫu cuộc đời là phương tiện hay cơ hội cho con người thăng tiến tâm linh, nhưng mấy ai để tâm nghiệm xét đến nỗi nếu thử hỏi mục đích cuộc đời là gì thì khó có ai nhận biết cho dù lời Chúa kêu mời, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, rồi các sự khác sẽ được ban cho các ngươi” (Mt. 6:33). Tuy nhiên, vì nhu cầu nhân sinh cấp thiết ngay trước mặt từng giây từng phút khiến con người không để tâm đến nhu cầu tâm linh do đó Tin Mừng Nước Trời vẫn còn bị che lấp; Nước Trời, thiên đàng, triều đại nước Thiên Chúa vẫn còn bị hiểu là nơi chốn hữu vi.

Thiên Chúa là thần linh, là sự sống, sự hiện hữu, nguồn gốc hiện hữu nơi mọi sự, hữu hình cũng như vô hình. Thiên Chúa ở khắp mọi nơi; ngoài Thiên Chúa, không gì hiện hữu. Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mọi sự hiện hữu; thế nên Nước Thiên Chúa, triều đại Thiên Chúa là một trạng thái sự thể hiện hữu. Thế nên, đức tin chính là quyền lực hiện hữu của Thiên Chúa nơi mọi người. Tuy nhiên, chúng ta chưa thể nào áp dụng, hay sử dụng, hoặc thực hiện lời phúc âm, “Đức tin con chữa con, đức tin con cứu con.” Nhận định rõ như thế, vấn đề được đặt ra và đó là phỏng đức tin, quyền lực của Thiên Chúa nơi con người có thể thăng hoa, biến thân xác con người trở nên, trở thành vô hình.

Dẫu trong Cựu Ước, đã được ghi lại hai trường hợp hai vị tiên tri về trời, Enoch và Elijah (KN. 5:24; 2Kings 2:11) nhưng Tân Ước không nói gì về đức Mẹ. Riêng trường hợp Chúa Giêsu, sau khi Ngài sống lại thì dạng hình biến đổi khiến các tông đồ nhờ các nghi thức bẻ bánh của Ngài mới có thể nhận ra. Thế nên, cho dù tín lý là điều nên tin hay phải tin thì sự tin tưởng này cũng chỉ là niềm tin. Chúng ta vẫn chưa nhận thức được thực thể Tin Mừng Chúa Giêsu rao giảng, và cũng thế, chúng ta cũng chưa thực tâm nhận biết đức tin mà Chúa Giêsu công bố nơi phúc âm thì dẫu nói rằng tin cách nào, chỉ người chân thành nghiệm xét lời Chúa mới có thể tự hiểu, tự nhận thức.

Hôm nay, chúng ta mừng lễ đức Mẹ linh hồn và xác lên trời theo giáo hội dạy. Chúng ta cùng hợp nhau tán tụng hồng ân Chúa trong cuộc đời mỗi người, đặc biệt hồng ân Chúa đã ban đức Giêsu công bố Tin Mừng Nước Trời cho chúng ta, hồng ân Chúa đã chọn đức Mẹ làm mẹ Chúa Giêsu. Nhận biết Tin Mừng và hồng ân của Chúa hay không, lại tùy thuộc chúng ta có để lòng trí nghiệm xét phúc âm hay không. Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt mọi người nghiệm xét Tin Mừng. Amen.

CHỦ NHẬT 20B (Gioan. 6:51-58)

6:52 Người Do-thái liền tranh luận sôi nổi với nhau. Họ nói: "Làm sao ông này có thể cho chúng ta ăn thịt ông ta được?" 6:53 Đức Giê-su nói với họ: "Thật, tôi bảo thật các ông: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình. 6:54 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, 6:55 vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. 6:56 Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy. 6:57 Như Chúa Cha là Đấng hằng sống đã sai tôi, và tôi sống nhờ Chúa Cha thế nào, thì kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống như vậy. 6:58 Đây là bánh từ trời xuống, không phải như bánh tổ tiên các ông đã ăn, và họ đã chết. Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời."

Đọc nơi Phúc Âm Matthêu đoạn 13 từ câu 10 đến câu 17 chúng ta thấy khi các môn đồ hỏi Đức Giêsu tại sao Ngài dùng dụ ngôn mà giảng cho dân chúng thì Ngài trả lời, “Đã ban cho các ngươi biết những mầu nhiệm Nước Trời; còn không ban cho các kẻ ấy. Vì kẻ có thì sẽ được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất. Bởi thế mà Ta dùng ví dụ nói với họ: vì họ nhìn mà không nhìn, và nghe mà không nghe, không hiểu. Và như vậy được nên trọn lời sấm của Isaiah rằng: 'Các ngươi có nghe cho lắm mà cũng không hiểu, các ngươi cố nhìn lấy nhìn để mà cũng không thấy. Vì lòng dân này đã ra chai lại: chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà trở lại, và Ta lại chữa chúng lành.”

Nếu để ý khi đọc Kinh Thánh, chúng ta thấy Lời Chúa được viết theo lối ám định không khác gì lối nói của những câu chuyện ngụ ngôn của mọi dân tộc; ngôn từ được dùng chỉ về sự vật nhưng ý và tứ thì nhắc nhở độc giả về nhận thức. Chúng ta biết Tục Ngữ, Ca Dao của người Việt dùng văn chương qua lối thơ diễn tả một cách ngắn gọn những điều hay lẽ nên thăng tiến nhận thức con người. Chẳng hạn, ai trong chúng ta không biết câu, “Thương con cho roi, cho vọt; ghét con cho ngọt cho bùi.” Hoặc, “Đầu ngòi có con ba ba; kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Tuy nhiên, nếu không để ý suy luận mà chỉ hiểu hoặc áp dụng câu nói theo nghĩa đen, lời khôn ngoan của tiền nhân nhiều khi đã không đem lại lợi ích gì mà có thể chỉ khiến chúng ta phải đối diện với những chuyện phiền hà do nghe sao thực hành vậy…chẳng khác gì chuyện đã xảy ra phát sinh câu nói, “Người ta canh kiệu thì ngon; tôi nấu canh kiệu thì đòn vào lưng.” Xét rộng hơn nữa, chẳng những Kinh Thánh mà nơi các kinh sách đạo học cũng đều được viết theo hình thức ám định, độc giả, và nhất là những ai muốn thăng tiến tâm linh cần để ý suy gẫm, suy nghiệm và cân nhắc, đắn đo kỹ lưỡng lâu dài mới thức ngộ được. Thí dụ, nơi Lâm Tế Lục, một vị thiền sư nhà Phật nói câu, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp,” hoặc nơi Lão học có câu, “Không làm gì mà không việc gì không làm”bất cứ ai mới nghe hay đọc đều cho rằng nói ngang. Tôi sửa câu nói thành, “Không làm gì là làm tất cả.””

Nơi bài Phúc Âm vừa được công bố chúng ta thấy Lời Chúa nói khó hiểu, ngang tàng, và nghịch thường không khác gì những kiểu nói ám định nơi Tục Ngữ, Ca Dao, những công án nhà Phật, hay Lão học. Chính kiểu nói này đã khiến không những các đầu óc nông cạn thế tục xưa nay vấp phạm mà ngay những ai thực lòng muốn thăng tiến tâm linh đa số cũng trở thành mù tối. Dĩ nhiên, ngay những câu tục ngữ ca dao chúng ta thuộc nằm lòng thế mà ít khi chúng ta để ý suy nghiệm thì lời Phúc Âm chúng ta lại càng ít suy nghiệm hơn… Bởi vậy, lời tiên tri Ysaia nói rằng, “Vì lòng dân này đã ra chai lại: chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại, kẻo mắt thấy được, tai nghe được, lòng hiểu được mà trở lại, và Ta lại chữa chúng lành,” đối với chúng ta cũng chẳng oan chút nào. Quý ông bà anh chị em thử để ý câu nói, “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh nầy thì sẽ sống đời đời.” Người Công Giáo thường được nghe giảng giải về câu này và cả bài Phúc Âm vừa được công bố như là ý niệm hay ám định về bí tích Thánh Thể. Nếu nhận thức như vậy, câu hỏi được đặt ra, biết bao nhiêu người ngay lành đã qua đi từ ngàn xưa tới nay không bao giờ được lãnh nhận bí tích Thánh Thể thì linh hồn của họ bây giờ ở đâu? Hoặc nếu hiểu theo ngôn từ được viết rõ ràng, “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta và Ta ở trong kẻ ấy,” và như vậy khi chúng ta phạm tội, Đức Giêsu đang ngự trị nơi chúng ta có phạm tội hay không? Chúng ta thấy, chính vì không để ý suy nghiệm mà chỉ chấp nhận Lời Chúa theo nghĩa đen, nghe sao, đọc sao biết vậy hoặc lặp lại như vậy đã biến chúng ta thành những kẻ mù tối mà tiên tri Ysaia nói là “Vì lòng dân này đã ra chai lại: chúng đã nặng tai nghe, chúng đã nhắm mắt lại.” Như thế, lòng chai lại, nặng tai nghe, hoặc nhắm mắt lại đều có nghĩa không chịu suy nghĩ, nghiệm chứng Lời Chúa.

Nơi bài đọc thứ nhất, sách Phương Ngôn cũng được gọi là sách Cách Ngôn chỉ dẫn mọi người, “Các ngươi hãy bỏ sự ngây dại đi thì sẽ được sống, và hãy bước theo đường lối khôn ngoan.” Bước theo đường lối khôn ngoan nơi hành trình đức tin tức là suy gẫm, nhận định, nhận thức, suy nghiệm lời Phúc Âm và sự ngây dại có nghĩa nghe sao biết vậy, không chịu nhận thức. Bài Phúc Âm hôm nay dùng hình ảnh bánh, thực phẩm nuôi dưỡng thân xác để ám chỉ những lời rao giảng của Đức Giêsu, lương thực cho hành trình phần hồn, hành trình tâm linh của mỗi người chúng ta. Những ai suy nghiệm, nghiệm chứng những lời Ngài rao giảng sẽ thức ngộ, sẽ nhận thức vượt khỏi những ý niệm, ước muốn, tham vọng thế tục. Nơi Phúc Âm Mátthêu đoạn 4 câu 4 được viết, “Người ta sống không chỉ nhờ bánh, nhưng là nhờ vàomọi lời xuất từ miệng Thiên Chúa.” Nếu đem so sánh với câu, “Ta là bánh hằng sống từ trời xuống; ai ăn bánh nầy thì sẽ sống đời đời,” bánh hằng sống từ trời xuống có nghĩa mọi lời phát xuất từ miệng Thiên Chúa. Nhận định như vậy, chúng ta hiểu được tại sao Đức Giêsu được gọi là Ngôi Lời và tại sao câu đầu tiên nơi Phúc Âm Gioan được viết, “Từ nguyên thủy đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời ở cùng Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Gn. 1:1).

Đức Giêsu đến để rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Ngài công bố sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Sự khôn ngoan này mọi người chúng ta đều có nhưng chưa được nhận biết. Như vậy, cuộc đời chính là cơ hội cho mỗi người chúng ta nhận thức, suy nghiệm sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã sẵn sàng tiềm ẩn nơi mình. Vì thế, suy nghiệm lời Phúc Âm tức là dùng Phúc Âm để ấn chứng sự khôn ngoan của Thiên Chúa nơi mình, ấn chứng Ngôi Lời đang hiện hữu nơi mình. Đây chính là Tin Mừng Đức Giêsu rao giảng. Không nhận biết sự khôn ngoan, Tin Mừng, thì được gọi là mù tối, lòng chai lại, nặng tai nghe, hoặc không muốn được cứu. Nói như thế, tôi thực sự nghĩ rằng quý ông bà anh chị em thừa biết câu Phúc Âm, “Ai có tai thì nghe” mang ý nghĩa như thế nào. Xin Đức Giêsu sai Thánh Thần của Ngài mở rộng lòng mỗi người để nhận thức Lời Chúa nơi mình. Amen.

CHỦ NHẬT 21B (Gioan 6:60-69) Không hiểu được viết từ bao giờ!)

6:60 Nghe rồi, nhiều môn đệ của Người liền nói: "Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?" 6:61 Nhưng Đức Giê-su tự mình biết được là các môn đệ đang xầm xì về vấn đề ấy, Người bảo các ông: "Điều đó, anh em lấy làm chướng,không chấp nhận được ư? 6:62 Thế thì anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước kia thì sao? 6:63 Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì. Lời Thầy nói với anh em là thần khí và là sự sống. 6:64 Nhưng trong anh em có những kẻ không tin." Quả thật, ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những kẻ nào không tin, và kẻ nào sẽ nộp Người. 6:65 Người nói tiếp: "Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến với Thầy được, nếu Chúa Cha không ban ơn ấy cho." 6:66 Từ lúc đó, nhiều môn đệ rút lui, không còn đi với Người nữa. Ông Phê-rô tuyên xưng lòng tin 6:67 Vậy Đức Giê-su hỏi Nhóm Mười Hai: "Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?" 6:68 Ông Si-mon Phê-rô liền đáp: "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. 6:69 Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa."

Đọc Kinh Thánh, đặc biệt bốn Phúc Âm, nhiều khi chúng ta cảm thấy bối rối vì không hiểu Lời Chúa muốn dẫn dắt chúng ta đi về đường hướng nào. Thực ra, nếu không để ý suy nghiệm đồng thời tìm hiểu nơi những kinh sách đạo học để so sánh nhận thức hầu có được nhận định rõ ràng về những điểm chính yếu dẫn dắt tâm trí đạt tới nhãn quan tổng hợp, người đọc Kinh Thánh sẽ cảm thấy rối mù vì những lời phát biểu nghịch thường, câu nọ phản lại câu kia. Chẳng hạn, chúng ta được dạy về một Thiên Chúa yêu thương nhân loại vô bờ bến trong khi Cựu Ước trình bày về một Thiên Chúa luôn luôn đứng về phe của người Do Thái và trừng phạt bất cứ dân tộc nào chống lại họ. Hoặc đọc nơi Phúc Âm Mátthêu lời khuyến khích định hướng cuộc đời, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người, và các điều khác sẽ được ban thêm cho các ngươi. Vậy chớ lo đến ngày mai. Mai sẽ lo cho mai. Khổ ngày nào, đủ cho ngày ấy” (Mt. 6:33-34). Bất cứ ai khi đọc câu Phúc Âm này, đều có thể hiểu rõ ràng Lời Chúa đề nghị và khuyến khích chúng ta tìm kiếm, nhận thực, và theo đuổi để đạt tới thực thể là Nước Thiên Chúa.

Đồng thời, lời Phúc Âm cũng đoan chắc nếu chúng ta dùng cuộc sống để mưu tìm Nước Trời, chúng ta sẽ không bị phiền hà về những ưu tư lo lắng nơi hành trình đức tin hoặc phải lo nghĩ đến những điều kiện vật chất trong cuộc sống hữu hình này vì Thiên Chúa sẽ an bài mọi sự cho những ai tìm kiếm Nước Trời. Xét như vậy, chúng ta được sinh vào cuộc đời với mục đích duy nhất đó là nhận biết Nước Trời và cuộc sống sẽ là phương tiện để chúng ta đạt tới mục đích tối quan trọng này. Tuy nhiên, nhận biết mục đích của cuộc sống chưa đủ vì dẫu biết điểm tới mà không thực hiện hay không tiến tới, chúng ta không thể nào đạt thành. Biết mục đích của cuộc đời là kiếm tìm Nước Thiên Chúa nhưng nếu không nhận biết Nước Thiên Chúa là gì sao chúng ta có thể tìm, sao có thể kiếm, và sao có thể đạt tới. Bởi vậy, công việc cần thiết để đạt tới Nước Thiên Chúa đòi hỏi điều kiện nhận biết thực thể Nước Thiên Chúa như thế nào, ở đâu, và phương cách nào cho chúng ta tìm kiếm. Đặt vấn đề như vậy, điều làm chúng ta bối rối nhất chính là Nước Thiên Chúa.

Lật Phúc Âm để tìm hiểu về Nước Thiên Chúa, Nước Trời, ở đâu và như thế nào, chúng ta đọc được, “Ví bằng Ta nhờ Thần Khí Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Nước Thiên Chúa đã đến trên các ngươi” (Mt. 12:28; Lk. 11:20), hoặc “Nước Thiên Chúa đã gần bên” (Mc. 1:15; Lk. 10:11). Chẳng những thế, nơi Phúc Âm Luca còn nói về Nước Thiên Chúa một cách lạ lùng đến nỗi khó cho bất cứ ai muốn tìm kiếm, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được, 'Này ở đây' hay, 'Ở đó.' Vì này, Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:20-21). Tự nhận biết lòng mình, dẫu lười suy nghĩ đến độ nào, mới chỉ vừa nghe câu Phúc Âm, chúng ta đã cảm thấy Lời Chúa nói kỳ cục! Xưa nay chúng ta vẫn thường theo thói quen ỷ lại, không chịu suy nghĩ mà chỉ tin vào những sự giải thích của người khác về Nước Chúa, Nước Trời, đại khái được gọi là thiên đàng, nơi kẻ lành được hưởng hạnh phúc vô cùng,…mà Phúc Âm lại nói đã gần đến, ở trong các ông, hoặc đã đến trên các ngươi. Tất nhiên, hiểu Phúc Âm cũng vậy, không hiểu Phúc Âm cũng thế; nhận biết Nước Trời hay không thì cuộc đời mình đâu có gì thay đổi nên chúng ta dễ dàng bỏ qua Lời Chúa, không cần suy nghĩdo không muốn bị phiền hà tâm tư, không muốn lòng ruột bối rối nên không cần đặt vấn đề tìm kiến Nước Thiên Chúa. Thái độ này được gọi là kẻ chết như nơi Phúc Âm Luca đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Để kẻ chết chôn cất kẻ chết của chúng; còn ngươi hãy cứ đi rao giảng Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:60).

Bài Phúc Âm hôm nay nêu lên một dữ kiện đó là nhiều môn đệ của Đức Giêsu cũng đã không thể nào chấp nhận được những lời Ngài công bố nên đã tự động rút lui, không theo Ngài nữa dẫu họ đã sống gần kề Ngài, đượcnghe trực tiếp lời Ngài giảng dạy, và đã thấy tận mắt những sự cả thể xảy đến. Họ không thua gì chúng ta bởi đã không để tâm suy nghiệm sự khôn ngoan ẩn dấu nơi lời dạy của Đức Giêsu. Họ đã cảm thấy bối rối, kỳ cục, mù tối, khi nghe Đức Giêsu giảng dạy giống như chúng ta khi đọc hoặc nghe Phúc Âm. Tuy nhiên nếu để ý, chúng ta sẽ nhận được rõ ràng một điều đó là lời Phúc Âm bao gồm những câu nói và những câu truyện nghịch thường với mục đích thách đố cũng như khuyến khích chúng ta suy nghiệm hầu từ sự suy nghiệm này chúng ta đạt tới thức ngộ, đạt tới thực thể trạng thái được gọi Nước Thiên Chúa hay Nước Trời. Thần Trí hay Thần Khí cũng chính là Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mỗi người chúng ta. Bởi thế, Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói vừa được công bố, “Chính thần trí mới làm cho sống, chứ xác thịt nào có ích gì! Những lời Ta nói với các ngươi là thần trí và là sự sống. Bởi đó Ta bảo các ngươi rằng: “Không ai có thể đến với Ta, nếu không được Cha Ta ban cho.” Suy nghĩ, nghiệm chứng bất cứ điều gì chính là hoạt động của Thần Khí nơi mỗi người chúng ta. Chúng ta mở rộng lòng để Thiên Chúa làm việc nơi mình hay không tùy thuộc mỗi người.

Tóm lại, chỉ cần dồn tâm trí, để ý suy tư một câu Phúc Âm, đặt vấn đề về mọi khía cạnh cho đến tận cùng của lý luận và nhận định sao cho hợp lý, hợp tình; đây là phương cách độc nhất để tìm kiếm Nước Thiên Chúa. Đây cũng là hành trình đức tin, hòa nhập nơi sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nói cách khác, suy tư, nghiệm chứng Phúc Âm, là phương tiện tối cần thiết để đạt tới thực thể Nước Trời. Không suy tư, nghiệm chứng, được gọi là kẻ chết, dẫu thân xác vẫn đang mang cuộc đời vất vưởng nơi cõi dương gian này. Amen.

CHỦ NHẬT 21 B version1 (Hỏi ý kiến, được trả lời, sao họ hiểu)

Đọc Phúc Âm, chúng ta thường gặp phải những câu nói chẳng những khó hiểu mà nhiều khi không biết thế nào để có thể áp dụng nơi cuộc sống hằng ngày nếu không để ý suy nghiệm. Chẳng hạn, nơi Phúc Âm được viết, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; kẻ yêu con trai con gái hơn ta không đáng là môn đệ ta.” Thử hỏi nếu những người thân thiết trong gia đình mà chúng ta không yêu thương, sao có thể yêu Chúa là Đấng vô hình không cách nào đụng chạm tới được dù chỉ là lời nói hay ý nghĩ. Hoặc câu nói, “Nếu mắt các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, móc mà quăng chúng đi; nếu tay các ngươi làm cớ cho ngươi vấp phạm, chặt mà quăng chúng đi.” Ai trong chúng ta không là người, mà đã là người, chúng ta luôn luôn lầm lỗi, nhưng xét theo nghĩa từ chương có thể nói, chúng ta đã từ chối thực hiện Lời Chúa nơi cuộc đời vì ai cũng lành lặn, đẹp đẽ không vì những lỗi lầm của mình mà hủy hoại thân thể.

Sống nơi đất nước này, dẫu người nghèo nhất cũng có cuộc sống thoải mái hơn biết bao người nghèo khổ khác như chúng ta được biết qua những phương tiện truyền thông trong khi Phúc Âm nhắc nhở, “Người giầu có khó vào nước Thiên Chúa hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.” Xét thế, phỏng những người tỵ nạn kinh tế bỏ trốn cảnh nghèo khổ đang từ chối cơ hội được hưởng Nước Trời? Như vậy, chẳng lạ gì, hơn hai ngàn năm trước các môn đệ của Chúa Giêsu kêu ca về những lời dạy dỗ của Ngài không thể chấp nhận được để rồi bỏ đi chắc chắn cũng chỉ vì không suy nghĩ, không suy nghiệm Lời dạy của Ngài.

Chúng ta không dám kêu ca, thắc mắc, hoặc phớt lờ không cần tìm hiểu, không suy nghiệm gì về Lời Chúa hay e sợ nếu nói lên điều thắc mắc sẽ bị gán cho danh hiệu rối đạo hoặc chống đạo thì cũng là điều dĩ nhiên. Tuy nhiên, ai cũng nhận biết rõ ràng đó là thà suy nghĩ cả ngàn lần lỡ sai, đến lần thứ ngàn lẻ một suy nghĩ được coi là đúng thì đã nhận biết được ngàn lẻ một sự khôn ngoan vì mỗi lần nhận biết sai lầm là một lần học được điều không ngoan do thực tế chứng minh, “Ai nên khôn không khốn một lần.” Đọc Phúc Âm, chúng ta thấy, năm nàng trinh nữ bị gọi là ngu ngốc vì đã không suy nghĩ, chỉ đem dầu đèn theo thói quen, thiếu cân nhắc, hoặc người đầy tớ mang tiền đi chôn đã bị kết án là lười biếng và ngu xuẩn. Những môn đệ được Chúa Giêsu dạy dỗ trực tiếp cũng không thể am tường lời Ngài giảng dạy cũng vì đã không suy tư, phương chi chúng ta, coi chừng lối sống không suy tư kiến tạo tâm tình, thôi thì Lời Chúa để Chúa nghe và đành chấp nhận sống như dân ngoại đạo, đôi khi còn bết bát hơn kẻ vô thần.

Qua bao lời kêu gọi của Giáo Hội, nào là canh tân Phúc Âm, nào là Phúc Âm hóa đời sống, nào là đem đạo vào đời, nhưng những lời được ghi chép nơi Phúc Âm vẫn còn khó chấp nhận đối với tâm trí chúng ta chẳng khác gì đối với các môn đệ hai ngàn năm trước. Theo chân Chúa Giêsu, dĩ nhiên chúng ta cần nhận biết, am hiểu, và chân thành áp dụng những lời Ngài giảng dạy nơi cuộc đời mỗi người. Như vậy, vấn đề cần được giải quyết đó là bằng cách nào, phương pháp nào để chúng ta nhận biết Lời Chúa hầu áp dụng nơi cuộc đời mỗi người để hoàn thành lời mời gọi của Giáo Hội, canh tân Phúc Âm và Phúc Âm hóa đời sống.

Muốn canh tân một sự kiện, lối sống, chúng ta cần đặt lại vấn đề. Muốn xây ngôi nhà mới, chúng ta cần phá bỏ ngôi nhà cũ hoặc xây ngôi nhà mới trên miếng đất mới. Ngôi nhà cũ là chính bản thân mỗi người, từ tư tưởng, lối suy nghĩ, cách sống, lời ăn tiếng nói, phong tục, tập quán… tựu chung mọi phong cách của một người. Phúc Âm dạy chúng ta, “Người ta không thể đổ rượu mới vào bì cũ, cũng không ai lấy vải mới vá áo cũ;” hoặc “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại …. Thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa.” Lối sống, không suy tư hoặc hành động theo thói quen từ xưa tới nay chẳng khác gì căn nhà cũ, nếu muốn canh tân, nếu muốn xây căn nhà mới cần phải thay đổi tất cả, từ ý nghĩ, hiểu biết, quan niệm. Nơi Phúc Âm thánh Marcô, Chúa Giêsu chỉ dạy, “Thời điểm đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần đến, hãy ăn năn hối cải và tin vào Phúc Âm. Phúc Âm là lời dạy của Chúa Giêsu, Nước Thiên Chúa là chính Ngài, là chính Thiên Chúa vì Thiên Chúa ở khắp mọi nơi. Nơi bản dịch tiếng Anh được viết, “The time is fulfillment, the Kingdom of Godis at hand…” có nghĩa, thời giờ đã mãn, Nước Thiên Chúa hiện diện nơi chúng ta. Thêm vào đó, động từ ăn năn hối cải được dịch từ ngôn ngữ Hy Lạp Metanoia. Nghĩa chính của động từ này là hãy thay đổi chiều hướng, cải tạo tâm tư, hoặc suy nghĩ khác thường.

Như vậy, muốn theo chân Chúa Giêsu, muốn canh tân, muốn Phúc Âm hóa đời sống, chúng ta cần suy nghiệm, nghiệm chứng, thực chứng những câu nói nơi Phúc Âm. Điều này có nghĩa, chúng ta cần suy nghĩ bất cứ câu nói nào nơi Phúc Âm bằng bất cứ kiểu cách nào, bất cứ phương diện nào sao cho Lời của Chúa thấm nhập vào tâm tư, vào đời sống của mình; đồng thời hồi tưởng để nhận biết Lời Chúa nói về trường hợp nào đó nơi quá khứ cuộc đời của mình.

Là người Việt, ai trong chúng ta cũng biết Tục Ngữ, Ca Dao, hay Phong Dao v.v… Ai không biết ý nghĩa câu, “Trâu ta ăn cỏ đồng ta, tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm.” Câu ca dao này dùng ngôn từ trâu, đồng cỏ, nhưng ý nghĩa không dính dáng gì đến trâu bò hoặc cây cỏ. Hoặc nơi lối nói thường ngày, chúng ta nói, “Đi khám bác sĩ, hay đi sửa sắc đẹp.” Ai cũng hiểu hai câu này mang ý nghĩa ngược lại lối phát biểu bởi vì bác sĩ nào để chúng ta khám hoặc đã đẹp chẳng lẽ sửa cho xấu! Điều này nói lên, ngôn từ, lối phát biểu tùy thời đại, ngôn ngữ, sắc tộc v.v… mang ý nghĩa khác hẳn với lối phát biểu từ chương. Phúc Âm được viết theo lối ám định chẳng khác gì tục ngữ, ca dao.

Từ kinh nghiệm bản thân, không ai có thể ăn dùm cho ai; không ai có thể uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ dùm cho mình. Muốn nhận thức để am hiểu Lời Chúa, muốn canh tân, áp dụng Phúc Âm trong đời sống, chúng ta cần suy nghiệm từng câu nói, từng dụ ngôn được viết nơi Phúc Âm. Đa số trong chúng ta cho rằng Phúc Âm khó hiểu hoặc khó thể áp dụng trong cuộc đời. Xin thưa, nếu chúng ta suy nghĩ, đặt vấn đề đểcó thể hiểu được ý nghĩa những câu ca dao; chẳng hạn, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa,” tất nhiên chúng ta thừa khả năng suy nghĩ để nghiệm chứng Lời Chúa, lời Phúc Âm trong cuộc đời. Biết như thế, vấn đề chỉ là chúng ta có suy nghĩ về Lời Chúa hay không.

Xin Thánh Thần Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nơi hành trình nghiệm chứng Phúc Âm hầu hoàn thiện, canh tân Lời Chúa nơi cuộc đời mỗi người.

CHỦ NHẬT 21B2015 version 2

(Thiên hạ thích nhưng thế tục)

Đọc Phúc Âm chúng ta thường thấy khó hiểu chẳng hạn những câu,

-Người giầu có thì được cho thêm mà nên dư dật; kẻ không có thì dầu có ít cũng bị cất đi.

-Ai yêu cha mẹ hơn ta không đáng là môn đệ ta; ai yêu con trai, con gái hơn ta …

-Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim.

Bài Phúc Âm hôm nay nêu lên tình trạng hầu hết các môn đệ của Chúa Giê su thấy những lời ngài dạy không thể chấp nhận được nên bỏ đi; chỉ còn lại 12 tông đồ. Chúng ta thử đặt vấn đề tìm hiểu tại sao, lý do gì đa số các môn đệ không chấp nhận được lời dạy của Chúa Giê su và đồng thời chúng ta cũng tự xét thái độ của chúng ta với Lời Chúa thế nào và chúng ta phải làm gì để đón nhận Lời Chúa hữu hiệu hơn nơi cuộc đời.

Trước hết, một điều rõ ràng nhưng ít người để ý đó là Phúc Âm nói về hành trình tâm linh. Phúc Âm dùng những sự kiện, ngôn từ thế tục để dẫn dắt, chỉ đường cho chúng ta nhận biết chính mình và liên hệ của con người với Thiên Chúa. Tất cả các sách trong Cựu Ước đều qui về một điểm đó là có một quyền lực tối thượng là chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi tạo vật.

Phúc Âm trình bày điều kiện tâm trí con người phải làm thế nào để nhận biết thực thể Thiên Chúa đang hiện diện nơi mình và vị thế của mình trước mặt Thiên Chúa. Tất cả dụ ngôn, những câu nói khôn ngoan nơi Phúc Âm đều quy về Tin Mừng Nước Trời và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

Muốn hiểu Phúc Âm, chúng ta cần suy nghĩ về từng câu nói, từng dụ ngôn áp dụng nơi nhận thức. Một số môn đệ của Chúa Giê su chỉ nghe và hiểu lời dạy của Ngài theo nghĩa từ chương, nghĩa đen, nên đã không thể chấp nhận được lời ngài giảng dạy. Giả dụ câu, “Người giầu có thì được cho thêm mà nên dư dật; kẻ không có thì dầu có ít cũng bị cất đi.”

Chúng ta kinh nghiệm trong cuộc đời, bất cứ những gì chúng ta càng suy nghĩ, càng luyện tập thì càng giỏi giang, phát triển. Chẳng hạn may vá, thêu thùa hay đọc sách, viết lách, hoặc nghề nghiệp chúng ta quen làm. Tuy nhiên, nếu bỏ qua một thời gian không tiếp tục, chúng ta sẽ bị lụt nghề. Càng sử dụng khả năng, càng khéo; không sử dụng, khả năng càng ngày càng lụn bại. Nơi tục ngữ Việt Nam có câu, trăm hay không bằng tay quen là thế. Nhận định như vậy, các môn đệ từ bỏ Chúa Giê su vì đã không chịu suy nghĩ, chỉ hiểu theo nghĩa đen nên không chấp nhận được lời ngài dạy.

Thử xét nơi chúng ta; chúng ta có suy nghĩ về Phúc Âm hay không? Chúng ta theo đạo thế nào?

Có đôi lần tôi nghe được người nào đó đọc ngắm thứ năm, năm sự thương. Thứ năm thì ngắm Đức Chúa Giê su chịu chết trên cây thánh giá, ta hãy xin cho được đóng đanh thánh xác thịt vào thánh giá Chúa. Đúng ra câu này phải đọc, ta hãy xin cho được đóng đanh tánh hay tính xác thịt vào thánh giá Chúa.

Lại có lần khác tôi nghe được một người đọc kinh Lạy Cha; xin cứ để chúng con sa chước cám dỗ. Thực ra phải đọc, xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Lại có nơi đọc “Chớ để chúng con xa chước cám dỗ” trong khi chính thức phải là “Chớ để chúng con sa chước cám dỗ.”

Một điều rõ ràng, ngay nơi Kinh Ngày Chủ Nhật, sách kinh Địa Phận Hà Nội, trang… chúng ta đọc rang rang nơi nhà thờ mỗi ngày chủ nhật, “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy thì chẳng được rỗi linh hồn.” Câu này hoàn toàn ngược lại nếu không nói là chống phá giáo hội. Nếu những ai còn quan niệm như ý nghĩa câu nói này thì được gọi là rối đạo. Công Đồng Vatican 2 tuyên bố, Giáo hội là dân Chúa. Ai không là dân Chúa. Ai không có linh hồn thế nên mọi người đều là dân Chúa. Thiên Chúa ngự trị nơi mọi người. Thiên Chúa là quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu nơi mỗi người, thế mà dám nói “Ai chẳng thông công cùng hội thánh ấy, ai chẳng thông công cùng hội thánh công giáo, thì không được rỗi linh hồn.” Quả là nghịch với giáo hội.

Chúng ta đã đang đọc kinh theo thói quen, không suy nghĩ, không suy niệm. Các môn đồ bỏ Chúa cũng chỉ vì không suy nghĩ lời ngài giảng dạy. Coi chừng, chỉ vì không suy nghĩ Lời Chúa, lời Phúc Âm, chúng ta đang xa lìa Chúa, đang chống phá giáo hội mà không nhận biết dẫu chúng ta đi nhà thờ.

Như vậy, bài Phúc Âm tuần này nhắc nhở chúng ta nên suy nghĩ về Lời Chúa để áp dụng trong cuộc đời. Chúng ta cũng nên suy nghĩ, suy niệm từng câu kinh chúng ta đọc để tránh cảnh trống đánh xuôi, kèn thổi ngược nơi niềm tin vào Chúa, vào giáo hội của chúng ta. Xin Chúa chúc lành nơi quý ông bà, anh chị em.

CHỦ NHẬT 22B (Mc. 7:1-8, 14-15, 21-232015)

1 Có Biệt phái và ít ký lục; tụ họp quanh Ngài từ Yêrusalem đến. 2 Họ thấy có những môn đồ của Ngài, cứ để tay tục, nghĩa là không rửa, mà dùng bữa; - 3 là vì Biệt phái, và người Do thái hết thảy không hề ăn uống mà lại không rửa tay "bằng một vốc nước" cố thủ lệ truyền của tiền nhân, 4 và đồ gì đem từ chợ về, nếu không rảy nước thì họ không ăn; và họ còn giữ nhiều điều khác nữa theo lệ truyền: rửa ráy chén bát, bình ché, và các đồ đồng. - 5 Vậy Biệt phái và ký lục chất vấn Ngài: "Vì lẽ gì mà môn đồ Ngài không noi theo lệ truyền của tiền nhân, nhưng cứ để tay tục mà dùng bữa?" 6 Nhưng Ngài nói với họ: "Chí lý thay điều Ysaya đã tuyên sấm về các ngươi, bọn giả hình, như đã viết: Dân này tôn kính Ta ngoài môi Còn lòng chúng thì xa Ta một vời, 7 Thật hư luống, kiểu chúng thờ Ta, Mệnh lệnh của phàm nhân dạy làm thánh giáo. 8 Các ông gạt bên lịnh truyền của Thiên Chúa, mà cố thủ lấy lệ truyền của loài người

14 Rồi kêu dân chúng lại, Ngài nói với họ: "Hết thảy hãy nghe Ta mà hiểu lấy! 15 Không có gì ở ngoài người ta mà vào mình có thể làm cho người ta ra nhơ uế được; nhưng chính các điều tự người ta ra là những điều làm cho người ta ra nhơ uế.

21 Vì nó tự bên trong, tự lòng người ta, mà xuất ra những suy tính xấu xa: những dâm bôn, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, giảo quyệt, phóng đảng, phân bì, gièm pha, kiêu hãnh, vô lương tri. 23 Các điều xấu xa đó thay thảy đều tự bên trong mà xuất ra, và làm cho người ta ra nhơ uế".

Bài Phúc Âm vừa được công bố dùng dụ ngôn nói lên nhận định sự thực hành những nghi thức tôn giáo áp dụng nơi đời sống thường ngày của giới Biệt Phái thời hai ngàn năm trước. Nghi thức rửa tay mục đích để thanh tẩy đôi bàn tay khỏi những gì nhơ uế trước khi ăn như được diễn giải qua bài Phúc Âm vừa được công bố. Nếu xét nơi hình thức bên ngoài theo truyền thống Do Thái, trước khi ăn không rửa tay chẳng khác gì chúng ta trước khi ăn không làm dấu thánh giá và đọc lời nguyện trước bữa ăn.

Như chúng ta vừa nghe, một nhóm Biệt Phái và ký lục đến từ Jerusalem chê trách môn đồ của Chúa Giêsu không giữ nghi thức truyền thống rửa tay của người Do Thái trước khi ăn uống. Chúa Giêsu mượn câu nói của tiên tri Isaiah trả lời rằng,

"Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” Người còn nói: "Các ông thật khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa để nắm giữ truyền thống của các ông.” (Mc. 7:6-9).

Nơi Phúc Âm Matthêu, Chúa Giêsu còn dùng những lời lẽ nặng nề hơn về lòng dạ người Biệt Phát và ký lục đối với những nghi thức phụng thờ, “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt. 23:27-28).

Qua Phúc Âm, chúng ta thấy Chúa Giêsu cực lực lên án thái độ vô ý thức và giả hình, chỉ làm lấy lệ khi thực hành những nghi thức theo luật lệ của những người Biệt Phái và Ký Lục thời ấy. Chúng ta thử dùng đôi giây phút hồi tâm nhận xét về lòng dạ của chúng ta thế nào đối với những nghi thức tôn thờ Chúa. Thử hỏi, khi đọc kinh, khi tham dự thánh lễ, tâm tình của chúng ta thế nào? Nơi bữa ăn, chúng ta có nghiêm chỉnh đọc lời nguyện cảm tạ Chúa trước khi ăn không; chúng ta có dạy dỗ và thực tập cho con cái biết cám ơn Chúa trước khi ăn chăng, hay khi vô tiệm ăn chúng ta có dám làm dấu Thánh Giá nơi công cộng không?

Và rồi khi đọc kinh hoặc tham dự thánh lễ, lòng dạ của chúng ta ở đâu? Thử hỏi sau khi tham dự thánh lễ, chúng ta có còn nhớ được câu nào nơi các bài đọc, đặc biệt nơi bài Phúc Âm. Chúng ta có nhớ được lời giảng giải về Phúc Âm nào không? Chúng ta có đặt vấn đề làm sao để áp dụng, để thực hành Lời Chúa trong cuộc sống hay miệng thì cứ đọc kinh theo thói quen nhưng lòng trí mãi tận nơi đâu. Hay đi nhà thờ cho qua bổn phận người có đạo và thế là Lời Chúa để Chúa nghe, chưa bước ra khỏi nhà thờ lòng ruột đã sôi sục vì chuyện gì đó không vừa ý hoặc bực bội do gặp ai đó vô tình làm mất lòng mình.

Một thực thể cuộc sống mà chúng ta đang đối diện, đó là ngày xưa chúng ta được sinh trưởng từ các địa phận khác nhau bên Việt Nam. Dẫu cũng là người Việt nhưng chúng ta thấy rõ, lối ăn nói, lối phát biểu địa phương có một số khác biệt; chẳng hạn ngôn từ chỉ vềngó khoai mà tên gọi nơi dân chúng địa phận Bùi Chu quả là đối nghịch với tên gọi cũng chỉ về ngó khoai của dân chúng nơi địa phận Phát Diệm như thế nào, và cho đến ngay cả kinh bổn của các địa phận cũng có không nhiều thì ít điều được dùng ngôn từ khác nhau. Thế mà nếu tôi không lầm, đã có lần phát sinh ẩu đả cũng chỉ vì một đôi ngôn từ nơi lời kinh khác nhau theo địa phận cũ của mình ngay tại nhà thờ này. Thử hỏi nơi trường hợp như thế, chúng ta dùng kinh sách nói lên tâm tình tôn thờ Chúa hay chúng ta chỉ muốn chứng minh mình đúng hoặc người khác sai hay phải thế này mới hợp nghi thức, thế kia là lỗi luật, phạm lệ gìống những người Biệt Phái và ký lục được Phúc Âm nhắc tới.

Nhận biết được những sự vô tình chúng ta đã bao lâu nay không để ý nơi tâm tình thờ phượng Thiên Chúa hoặc thờ ơ với Lời Chúa, với Phúc Âm, tôi đề nghị quý ông bà anh chị em từ nay mỗi lần tham dự thánh lễ, làm ơn ghi nhớ trong lòng một câu Phúc Âm và một câu trong bài giảng, câu nào cũng được. Đồng thời khi làm dấu Thánh Giá, xin quý vị thực hiện với cử điệu nghiêm trang, chân thành. Bởi khi chúng ta tuyên xưng, “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần,” chúng ta thực sự dùng quyền lực của chính Thiên Chúa Ba Ngôi để thực hiện điều gì đó. Điều này Chúa Giêsu dạy rõ ràng qua Phúc Âm Gioan đoạn 14, câu 14, “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.” Hoặc cũng nơi Phúc âm Gioan đoạn 16, câu 24 Chúa Giêsu đoan chắc, “Chođến nay, anh em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy. Cứ xin đi, anh em sẽ được.”

Thưa quý ông bà, anh chị em, tin theo Chúa Giêsu, phỏng chúng ta có thực sự tin lời ngài giảng dạy qua Phúc Âm không? Nếu còn nghi ngờ, làm ơn thử nghiệm và chúng ta sẽ thấy thành sự. Xin Ba Ngôi Thiên Chúa chúc lành nơi quý ông bà, anh chị em.

CHỦ NHẬT 22B (Mc. 7:1-8a, 14-15, 21-23)

Chúng ta đều nhận thức được tất cả mọi truyền thống, tập quán, phong tục, thói quen, nghi thức đều được bắt nguồn tự tâm hồn con người, tự chất chứa động lựcđược thể hiện qua ý niệm, quan niệm, chủ trương, ước muốn, ý định, và được bày tỏ bằng hành động của tập thể quần chúng cùng chung một chí hướng. Lẽ đương nhiên, những tập tục hay truyền thống của một nhóm người hay một dân tộc này nhiều khi không phù hợp mà có thể trở thành điều tối kỵ đối với một nhóm người hay dân tộc khác. Xét về tính chất, truyền thống, phong tục, tập quán hay nghi thức nói lên nhận thức và cá tính nơi nội tâm của những con người thực hiện. Như vậy, những phong tục, truyền thống, thói quen, nghi thức, bày tỏ tâm thức của chúng ta nơi cuộc sống thường nhật. Bởi thế, bất cứ truyền thống hoặc phong tục nào không đem lại lợi ích hoặc trở thành gánh nặng nếu không muốn nói là làm phiền hà tới con người đều dần trở thành quên lãng. Điều này ai trong chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy nơi chính cuộc đời của mình.

Phúc Âm được viết để dẫn dắt chúng ta nơi hành trình tâm linh. Bởi thế Phúc Âm trình bày cũng như khuyến khích con người suy nghiệm về những lời khôn ngoan được ghi lại dưới hình thức ngụ ngôn hoặc những lời khôn ngoan qua dạng thức những câu nói nghịch thường. Phúc Âm nhấn mạnh về trạng thái tâm thức đòi hỏi sự nhận thức qua nghiệm chứng. Sự nhận thức qua nghiệm chứng đòi hỏi chú tâm suy nghĩ để đạt tới cảm nghiệm thường được gọi tắt là định tâm. Định tâm có nghĩa dồn hết tâm trí để suy nghĩ về một sự thể hay một câu nói qua mọi khía cạnh nếu có thể. Dĩ nhiên, khi một người đã để tâm suy nghĩ và nghiệm chứng một điều gì cho tới tận cùng theo khả năng nhận thức, họ sẽ dám sống chết với lẽ khôn ngoan đã đạt tới và được hướng dẫn bởi sự khôn ngoan này cho dù những lý thuyết hay quan niệm hoặc chủ trương nào đó được tuyên truyền, phổ biến cách nào cũng không đánh đổ được kết quả nhận thức do thực chứng của chính họ. Sự nghiệm chứng những lời khôn ngoan, chúng ta thường mệnh danh là lời Chúa, chính là điều kiện ắt có và đủ Phúc Âm đòi hỏi. Từ nhận thức này chúng ta hiểu tại sao Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Không phải mọi kẻ nói với Ta: 'Lạy Chúa, lạy Chúa,' là sẽ vào được Nước Trời, nhưng là kẻ thi hành ý Cha Ta, Đấng ngự trên trời” (Mt. 7:21). Phúc Âm cũng đặt nơi miệng Đức Giêsu lời giải thích, "Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, người ta sẽ không nói được 'này ở đây' hay 'ở đó', vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:21). Như vậy, sự tìm kiếm hay hoạt động đạt tới Nước Trời chính là sự nhận thức nơi tâm hồn mình. Thêm vào đó, thi hành ý Chúa cũng chỉ là “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa,” và như thế tức là suy nghiệm nơi tâm hồn. Đây là ý nghĩa lời khuyên của thư thánh Giacôbê nơi bài đọc II, “Anh em hãy ngoan ngoãn nhận lãnh lời đã gieo trong lòng anh em, lời có sức cứu độ linh hồn anh em.”

Nếu ai đã từng có thói quen dùng đôi giây phút nào đó tự nhận thức về chính mình sẽ nhận ra kẻ thù kinh khủng nhất của mình lại là chính mình xét về cả hai phương diện tâm linh và thế tục. Nơi phương diện thế tục, chính mình đã nhiều lần ngu dại giơ lưng chịu đòn bằng cách vô tình hoặc huênh hoang để lộ hoặc nói những điều không nên cho người khác biết. Nơi phương diện tâm linh, chính mình mới là kẻ bất trị về mọi phương diện dưới nhãn quan thánh thiện mình ước mơ. Lời Phúc Âm thánh Luca giải thích rõ ràng đặc tính này nơi mỗi người chúng ta nhưng ít được để ý, “Người lành tự kho lành lòng mình mà đem ra sự lành, và người ác tự tính ác mà đem ra sự ác: vì lòng ứa đầy những gì thì miệng nó nói ra” (Lc. 6:45). Suy như thế, Phúc Âm khuyên nhủ chúng ta trở nên công chính tự tâm hồn và suy nghiệm Lời Chúa để đạt tới nhận thức khôn ngoan được gọi là Nước Thiên Chúa ở trong các ông.

Bài Phúc Âm vừa được công bố nêu lên điều quan trọng thiết yếu đó là thực thể trạng thái tâm hồn chứ không phải sự thực hiện nghi thức hay truyền thống theo hình thức bên ngoài. Tất cả những sự thực hành nghi thức hay truyền thống chỉ theo hình thức mà không chất chứa ý định chân thành cũng như thiếu nhận thức đều trở thành chướng ngại và làm khổ những người tuân theo. Nói cách khác, bất cứ ai thực hiện những nghi thức hay truyền thống một cách thiếu hiểu biết chỉ thuộc loại cầu phước điền, mong bỏ ra một đôi giờ hay một số vốn nhỏ nhoi bằng cách ép mình ép xác chịu khổ, thực hiện những điều mình không muốn, cố chịu trận để những lời mình không chủ tâm muốn nghe giết chết thời giờ hòng có món lợi lớn hơn tức là được vào nước thiên đàng mộng tưởng sau khi chết. Quả là vô ích, chỉ làm khổ chính mình mà không hiểu mình đang làm gì! Lời Phúc Âm chúng ta vừa nghe nhắc nhở, “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: 'Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa Ta.””

Lời Phúc Âm hôm nay nhắc nhở và khuyến khích chúng ta để ý về nội tâm, về tâm hồn của mình nơi cuộc sống thường ngày cũng như khi cùng với cộng đồng tôn thờ Thiên Chúa. Mỗi người chúng ta chính là sự thể hiện của Thiên Chúa nơi thế giới hữu hình vì Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu, quyền lực sự sống nơi mỗi người. Không có sự hiện hữu của Thiên Chúa, không thể nào có chúng ta; chúng ta không hiện hữu và như vậy chúng ta không thể nào hiện diện nơi nhà thờ lúc này. Đây là lý do tại sao Phúc Âm khuyên nhủ, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33). Tìm kiếm Nước Thiên Chúa tức là nghiệm chứng sự hiện hữu của Ngài nơi mình. Thế nên, mọi hoạt động, tất cả sự thực hiện các nghi thức, truyền thống, nếu không phát xuất từ sự nhận thức nội tâm về sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình, nơi mọi người, mọi sự, đều chỉ là những thói quen làm khổ con người và đều vô ích. Xin Đức Giêsu sai Thần Khí của Ngài mở rộng lòng trí chúng ta nhận chân sự hiện diện của Thiên Chúa nơi mình. Amen.

CHỦ NHẬT 23B (Mc. 7:31-37)

31 Ngài lại ra khỏi vùng Tyrô; ngang qua sông Siđôn, Ngài đến biển Galilê, băng giữa xứ Ðêcapoli. 32 Người ta đem dến cho Ngài một người vừa điếc vừa ngọng và nài xin Ngài đặt tay cho. 33 Kéo người ấy ra xa dân chúng, riêng một mình, Ngài tra ngón tay vào tai, và nhổ nước miếng Ngài đụng vào lưỡi người ấy, 34 đoạn nhìn lên trời, Ngài rên lên và nói với người ấy: "Ephphatha", nghĩa là: "Ngươi hãy mở ra!" 35 Tai người ấy đã mở ra, nút cột lưỡi liền tan rã, và người ấy nói được rành rọt. 36 Rồi Ngài căn dặn họ không được nói cho ai biết; nhưng Ngài càng căn dặn, thì nọ càng cao rao hơn nữa. 37Kinh ngạc đếm cực diểm. họ nói: "Mọi sự, Ngài đã làm cách hoàn hảo; Ngài làm cho những kẻ điếc dược nghe, và những người câm được nói".

Bài Phúc Âm hôm nay rất khó cho chúng ta suy nghiệm. Chúng ta đều biết, Phúc Âm được viết bao gồm những ngụ ngôn và những lời nói khôn ngoan đồng thời được thêm vào những đoạn chuyển tiếp nối kết lại tạo thành những câu truyện về cuộc đời Đức Giêsu. Nếu ai để ý khi đọc Phúc Âm, sau khi trở về Nazaréth từ Ai Cập tới lúc chịu nghi thức thanh tẩy của thánh Gioan Tiền Hô trước khi công bố Tin Mừng Nước Trời cho dân chúng, cuộc đời của Đức Giêsu chỉ được nhắc đến một lần khi lên đền thờ Jêrusalem và ở lại đối đáp với các vị trưởng lão của đạo Do Thái. Thêm vào đó, chúng ta thường được nghe nói và biết qua kinh cầu Chịu Nạn rằng Ngài rao giảng chỉ ba năm và bị kết án tử hình đóng đanh trên thập giá vào tuổi 33. Tuy nhiên, nơi Phúc Âm Gioan ghi lại khi Ngài nói với người Do Thái, “Abraham, cha các ngươi đã hân hoan được thấy ngày của Ta; ông đã thấy và đã mừng rỡ” thì họ lên tiếng chất vấn, “Ông chưa được năm mươi tuổi mà ông đã thấy Abraham sao” (Gn. 8:57). Theo các học giả Kinh Thánh, câu này chứng tỏ Đức Giêsu lúc ấy cỡ chừng bốn mươi mấy tuổi. Và như vậy theo Phúc Âm, không ai có thể đoan chắc được Đức Giêsu bao nhiêu tuổi khi Ngài chết.

Dùng dữ kiện Phúc Âm để nghiệm chứng về những lời giảng dạy được đặt nơi miệng Đức Giêsu chúng ta sẽ nhận định được những phần liên kết được viết thêm tạo thành kết cấu những ngụ ngôn dưới hình thức hồi ký cuộc đời rao giảng của Ngài, sự diễn tả thái độ cũng như phản ứng của Đức Giêsu trước những sự kiện và sự việc, đều mang ý nghĩa thâm trầm dẫn giải tiến trình con người phải thực hiện hoặc trải qua được gọi là hành trình đức tin. Tuy nhiên, không hiểu do tam sao thất bổn hoặc vô ý, cố tình đề cao Đức Giêsu theo quan niệm thế tục, đoạn Phúc Âm vừa được công bố nêu lên điểm vô lý khó thể chấp nhận đối với sự nhận định và suy nghĩ bình thường. Định cư nơi đất nước người một cách muộn màng nơi thời điểm bóng xế của cuộc đời, hoặc còn trẻ chăng nữa nhưng vì nhiệm vụ đối với gia đình và cuộc sống đè nặng đôi vai không còn cơ hội tới trường lớp học ngôn ngữ mới, nên dù không điếc, không câm, chúng ta cũng không thể nào có khả năng sử dụng tiếng ngoại quốc một cách trôi chảy nếu không muốn nói là vung chân múa tay, sử dụng ngôn ngữ quốc tế, mỗi khi chẳng đặng đừng phải liên hệ với dân bản xứ.

Tất nhiên, chúng ta không được học, thêm vào đó trước khi tới đất định cư, chưa bao giờ được nghe những loại ngôn ngữ viết một đàng, nói một nẻo và cũng không có giờ thực tập theo giọng đúng với người nhưng ngọng đối với mình. Vì chưa học, chưa tập, chúng ta không thể nói được ngôn ngữ ngoại quốc, đơn giản chỉ có thế. Đoạn Phúc Âm đưa lên điều lạ lùng đó là người bị câm điếc vừa được chữa lành đã có thể nói ngay lập tức một cách bình thường. Nếu nói rằng đó là phép lạ nên nói được không cần tập tành thì chúng ta tự ngăn cản mình suy nghiệm về Phúc Âm. Đồng thời, cho rằng đó là phép lạ cũng phản nghịch lại Phúc Âm. Đọc nơi Phúc Âm, Đức Giêsu chỉcông bố đức tin con chữa con, cứu con, và là ơn cứu độ của con chứ không nói Ngài chữa hay Chúa cứu. Nói cách khác, mục đích và cũng là nhiệm vụ chính yếu công việc của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng Nước Trời (Lc. 4:43). Hơn nữa, hành động đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi người câm điếc xét ra không cần thiết mà vấn đề chỉ là đức tin mà thôi.

Như vậy, bình tâm nhận định, có thể vì cố tình dùng cách diễn tả với chủ đích tôn vinh Đức Giêsu thiếu sáng suốt, người ta đã lạm dụng Đức Giêsu và vô tình biến Ngài thành nhân vật không tưởng, cách biệt đối với mọi kẻ tin nơi Ngài, và như vậy phần nào đó đã làm tê liệt lòng tin của dân Chúa cho hợp với câu Phúc Âm, "Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào, mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52).

Điểm khúc mắc còn lại nơi đoạn Phúc Âm đó là việc Đức Giêsu cấm người ta loan truyền sự chữa lành nơi người câm điếc. Nếu để tâm nghiệm chứng Phúc Âm, lời rao truyền của dân chúng về việc Đức Giêsu làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được hoàn toàn đối nghịch với đức tin hay lòng tin do chính Ngài rao giảng. Thêm vào đó sự cấm đoán dân chúng tuyên xưng cũng một phần nào nói lên hình như Đức Giêsu mang tâm tình e dè những người tại vị nơi Do Thái giáo. Những lời giảng dạy của Ngài chống lại tất cả những lề luật và phong tục, tập quán cũng như hình thức tôn sùng của tất cả các tôn giáo.

Ngài rao giảng về thực thể quyền lực tối thượng là Thiên Chúa đang hiện diện, ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi vật, mọi loài. Tất nhiên, sự rao giảng này đem lại kết quả làm lung lay chức vị của những tổ chức nhân sinh được gọi là tôn giáo. Như vậy, càng tuyên xưng điều Ngài giảng dạy, càng công bố những sự việc lạ lùng về Ngài bao nhiêu chỉ làm khó khăn cho công cuộc rao giảng của Ngài bấy nhiêu. Suy nghĩ thâm sâu hơn, cũng có thể rằng tuyên truyền về sự lạ lùng là lối đả phá tuyệt vời nhất về Tin Mừng Ngài rao giảng. Thay vì giúp dân Chúa nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời, quảng bá phép lạ, những sự lạ lùng tự trời rơi xuống đã không giúp ích gì mà chỉ làm dân Chúa không để ý những điều Ngài rao giảng. Không lạ gì dân gian có câu, “Nhiệt thành, hăng say hoạt động, nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại.”

Tóm lại, đoạn Phúc Âm hôm nay nhắc nhở chúng ta để tâm suy nghiệm về những lời giảng dạy nơi Phúc Âm và nhận biết những sự lạ lùng Thiên Chúa đang thực hiện nơi chính mình từng giây từng phút. Xin Đức Giêsu sai Thánh Thần của Ngài soi sáng lòng trí mỗi người chúng ta nơi hành trình nghiệm chứng Nước Trời. Amen.

CHỦ NHẬT 24B (Mc. 8:27-35)

27 Ðức Yêsu đi ra với môn đồ đến những làng mạc giáp Caisaria của Philip. Trên đàng Ngài nói với môn đồ Ngài rằng: "Theo như người ta nói thì Ta là ai?" 28 Họ thưa Ngài rằng: "Yoan Tẩy giả; nhóm khác: là Êlya; nhóm khác nữa: là một vị nào trong các tiên tri". 29 Rồi Ngài hỏi họ: "Còn các ngươi, các ngươi nói Ta là ai? "Ðáp lại, Phêrô nói với Ngài: "Nhài là Ðức Kitô!" 30Và Ngài căn dặn họ không dược nói với ai về Ngài.

31 Và Ngài bắt đầu giảng dạy nọ rằng: "Con người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại. 32 Ðiều đó, Ngài đã nói trống ra. Và Phêrô kéo Ngài lại với mình và lên tiếng trách Ngài. 33Nhưng quay lại, và nhìn các môn đồ, Ngài mắng Phêrô: "Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người".

34 Gọi dân chúng lại làm một với các môn đồ, Ngài nói với họ: "Nếu ai muốn đi sau Ta, thì hãy chối bỏ chính mình, hãy vác lấy khổ giá của mình và hãy theo Ta. 35 Vì kẻ nào muốn cứu lấy sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ nào mất sự sống mình vì Ta, và vì tin mừng, thì sẽ cứu nó.

Ba điểm chúng ta cần để ý nơi bài Phúc Âm đó là lời Đức Giêsu hỏi các môn đồ, “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Đức Giêsu quởthánh Phêrô rằng “Satan, hãy lui đi, vì ngươi không biết việc Thiên Chúa, mà chỉbiết việc loài người.” Sau cùng đó là câu nói nghịch thường, “Ai muốn cứu mạng mình thì sẽmất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽcứu được mạng sống mình.”

Là người Công Giáo chúng ta tuyên xưng tin vào Thiên Chúa, tin vào Đức Kitô, tin vào Giáo Hội. Tuy nhiên, khi hỏi Chúa là ai và thếnào, chúng ta chỉtheo thói quen lặp lại lời kinh bổn dạy, “Thưa Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên trời đất muôn vật cùng hằng gìn giữcai trịmọi sự.” Nếu hỏi rằng làm sao nhận biết có Chúa thì lại cũng câu bổn được đọc như lời vè,“”Thưa phải suy phép tắc thứtựtrên trời dưới đất liền biết có đấng dựng nên làm đầu cai trịmọi sự.” Nếu ai đó giảđò ngây thơ hỏi vậy cách nào cho chúng ta tiến tới Thiên Chúa hoặc cách nào đểchúng ta gặp gỡđược Thiên Chúa thì mọi người Công Giáo đều trảlời loanh quanh, viện dẫn lý này, lẽnọ, đủmọi thứlý lẽcao siêu nhưng kết quảchẳng thấy Chúa đâu, không thểnào nói lên được chéo áo Ngài dài hay ngắn. Thường thì đa sốchúng ta chấp nhận ngậm hạt thị, cảm thấy lòng mình tê tái, bực bội, và xót thương cho chính mình trong ý nghĩngười hỏi quảlà ngớngẩn.

Nói đến Đức Giêsu, chúng ta chỉđơn giản trảlời Ngài là Ngôi Hai, Con Thiên Chúa xuống thếlàm người chịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạ. Thánh Tôma Aquinas đểlại câu bất hủ, “Thiên Chúa là Đấng không thểdò thấu; chúng ta không nói được gì vềNgài. Tất cảnhững gì chúng ta nói vềChúa chỉlà sựtưởng tượng.” Thế nên, nếu ai thửđặt vấn đềrằng mình đã không biết gì vềThiên Chúa thì sao có thểbiết được Đức Giêsu là con một Thiên Chúa, có lẽchúng ta chỉcòn cách áp dụng theo kiểu cảvú lấp miệng em, nói lên lời khinh bỉkẻhỏi đểche lấp ngõ bí nên nói bừa rằng kẻhỏi là rối đạo hay ngoại đạo. Tất nhiên, thà chấp nhận mình là người thô lỗcòn hơn dám nói thật rằng không biết mình tin gì. Nói cho đúng, chúng ta có thểcũng không biết đức tin là gì; quảthật đáng tội nghiệp cho một đời giữđạo!

Ngày xưa, Đức Giêsu hỏi các môn đồ, “Còn các con, các con bảo Thầy là ai?” Câu hỏi này cũng trực tiếp thách đốmỗi người chúng ta cần tựtrảlời. Thánh Phêrô cho rằng “Ngài là Đức Kitô” và Đức Giêsu đã nghiêm cấm các môn đồkhông được nói vềNgài với bất cứai. Học giáo lý, chúng ta thuộc nằm lòng, “Thưa Kitô nghĩa là cứu thế.” Từđịnh nghĩa này chúng ta gọi Đức Giêsu là Chúa cứu thếhay Đấng cứu thế. Và như vậy, lý thuyết chủđiểm vềĐức Giêsu được tạo dựng, cho rằng, Đức Giêsu nhập thểlàmngười đểchịu nạn chịu chết mà chuộc tội cho thiên hạtrong khi Phúc Âm nói mục đích chính của Đức Giêsu là được sai đến đểrao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng cách đặt nơi miệng Ngài câu trảlời với những người muốn Ngài ởlại với họ, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thếmà Ta đãđược sai đến” (Lc. 4:43).

Cũng một thánh Phêrô, nơi Phúc Âm Mátthêu được khen rằng do Thiên Chúa linh ứng (16:17) vì nói lên Đức Giêsu là Đấng Kitô, đã bịNgài gọi là Satan bởi đã suy nghĩsựviệc theo lối loài người. Có lần tôi nói chuyện với một người bạn, anh ta tốt lành đạo đức. Tôi hỏi vậy anh có biết Đức Giêsu thiết lập Giáo Hội của Ngài trên nền tảng nào không. Chẳng cần suy nghĩ, anh ta trảlời, Giáo Hội được đặt nơi nền tảng Phêrô vì Chúa Giêsu phán, “Ta bảo ngươi, ngươi là đávà trên đá ấy Ta sẽxây Hội thánh của Ta và quyền môn âm phủsẽkhông thắng nổi. Ta sẽtrao cho ngươi chì khóa Nước Trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc thì cũng sẽbịcầm buộc trên trời” (Mt. 16:18-19). Tôi đềnghịanh ta vềlật thửPhúc Âm Mátthêu đoạn 16 câu 23. Lần sau gặp lại, anh ta nói, vậy tôi bảo Đức Giêsu thiết lập Giáo Hội trên nền tảng Satan hay sao. Tôi chỉtrảlời, Phúc Âm viết Đức Giêsu gọi Phêrô là Satan vì suy nghĩtheo quan điểm con người chứtôi nói chi đâu. Như vậy, thánh Phêrô bịgọi là Satan bởi suy nghĩtheo loài người. Điều này có nghĩa, bất cứnhững sựgì chúng ta suy tưởng đều được coi là Satan.

Có lẽkhông một ai trong chúng ta đủcan đảm đểchấp nhận câu nói nghịch thường, “Ai muốn cứu mạng mình thì sẽmất. Còn ai chịu mất mạng sống mình vì Ta và vì Phúc Âm thì sẽcứu được mạng sống mình.” Thực tếchứng minh, cho dẫu muốn cứu mạng mình thì cuối cùng ai cũng phải chết và thân xác sẽđược đem chôn vùi đểrồi bịmục nát tiêu tan thành bụi đất. Mấy chữcuối,“”cứu được mạng sống mình” nơi phần còn lại của câu nói mang nghĩa linh hồn, sựsống vĩnh cửu, bất diệt, được giải thoát khỏi sựu mê theo đuổi làm nô lệcho những ước muốn thếtục. Điều này có nghĩa, bất cứai để tâm trí suy nghiệm những lời rao giảng của Đức Giêsu nơi Phúc Âm sẽđạt tới sựgiải thoát tâm linh, không bịlệthuộc ý nghĩ, ước muốn bình thường thếtục được gọi là Satan.

Tóm lại, bài Phúc Âm hôm nay khuyến khích chúng ta đểtâm nhận biết vềĐức Giêsu, mục đích cuộc đời và thực thểnhững lời rao giảng của Ngài. Muốn biết Đức Giêsu, chúng ta cần đọc, tìm hiểu, và suy nghiệm Phúc Âm. Satan chính là tất cảnhững suy tư của con người vì không ai có thểsuy luận vềThiên Chúa. Thếnên, nếu không biết được ý Chúa thì tất cả ý nghĩ, mưu mô toan tính, quan điểm, nhận định, đều được gọi là Satan. Đường lối nhanh nhất cho chúng ta thăng tiến nơi hành trình tâm linh đó là suy nghiệm, tìm hiểu những lời khôn ngoan nơi Phúc Âm. Đây chính là phương cách tìm kiếm Nước Trời, đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Xin Thánh Thần soi sáng cho chúng ta mởrộng lòng trí thực hiện quyền lực linh ứng của Ngài đang hoạt động nơi mình. Amen.

CHỦ NHẬT 25B (Mc. 9:29-36)

30 Ra khỏi đó, họ đi băng qua Galilê, và Ngài không muốn cho ai biết, 31 vì Ngài chuyên dạy dỗ các môn đồ; Ngài nói với họ: "Con Người sẽ bị nộp trong tay người đời, và họ sẽ giết Ngài, và bị giết rồi, sau ba ngày Ngài sẽ sống lại". 32 Nhưng họ đã không hiểu lời ấy, và họ sợ không dám hỏi Ngài.

33 Họ đến Capharnaum. Vào nhà, Ngài hỏi họ: "Dọc đường, các ngươi đã tranh luận gì với nhau?" 34 Họ làm thinh, vì dọc đường, họ đã tranh luận với nhau: ai lớn hơn. 35 Ngồi xuống Ngài gọi nhóm mười hai lại và nói vơí họ: "Ai muốn làm đầu, thì hãy ở cuối hết thảy mọi người, và làm tôi tớ mọi người". 36 Rồi Ngài đem đứa trẻ đặt ở giữa họ; Ngài bồng nó mà nói với họ: 37 "Kẻ nào tiếp đón một đứa trẻ nhỏ thế này vì danh Ta, tức là tiếp đón Ta; kẻ tiếp đón Ta, thì không phải người ấy tiếp đón Ta, mà là Ðấng đã sai Ta".

Dẫu bài Phúc Âm hôm nay đưa lên mấy điểm lạ lùng và đối nghịch với lối suy nghĩ thường tình nhưng xét kỹ lại không có gì khác biệt đối với chúng ta. Trước hết đó là các tông đồ dù không hiểu Đức Giêsu nói gì nhưng sợ và không dám hỏi Ngài. Thứ đến câu nói quá ư thâm trầm, u mặc được đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” Và sau cùng là lời Ngài tuyên bố thường bị hiểu lầm, “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế nầy vì danh Thầy tức là đón tiếp chính mình thầy.” Có lẽ vì chúng ta quá tốt lành, thánh thiện và đã thực hiện được đức khiêm nhường, nhịn nhục, nên nhiều khi ai muốn nói gì thì nói, chúng ta chấp nhận im hơi lặng tiếng bởi “Một câu nhịn là chín câu lành.” Hoặc là chúng ta vì lòng tôn sùng Chúa nên cố thực tập trong cuộc sống câu nói thường được các đấng ngày xưa rao giảng, “Vâng lời trọng hơn của lễ.”

Bởi thế, Phúc Âm được viết như thế nào, chúng ta chấp nhận thế ấy, giỏi lắm thì lập lại đôi câu trong những cơ hội vô tình trùng hợp theo nghĩa luân lý, đạo đức hay tâm lý nhân sinh. Ngoài ra, Lời Chúa để Chúa nghe; các linh mục muốn giải thích thế nào thì tùy các ngài; chấp nhận được cũng thế mà đôi khi thấy chướng tai cũng vậy, chúng ta không cần đặt vấn đề, và cùng lắm thì lặp lại câu “Mỗi cha một lý đoán.” Tôi không thể hiểu được câu này phát xuất từ đâu nhưng có lẽ do sự phản đối, khôn ngoan, thâm trầm của bậc thức giả nào đó đối với câu vâng lời trọng hơn của lễ đã bị lạm dụng cách quá đáng thời xưa. Chúng ta đã có thái độ không khác gì mười hai tông đồ của Đức Giêsu. Các ngài đã không dám suy tư, đặt vấn đề tại sao Đức Giêsu nói đến sự sống lại mà chỉ khiêm nhường im lặng như chúng ta.

Cứ theo cách Phúc Âm diễn giải, vào thời đó người ta cho rằng chết là hết. Về sau, có lẽ cũng chính bởi quan niệm chết là hết, con người không còn cơ hội, hoặc là lên thiên đàng hoặc xuống hỏa ngục, cộng thêm sự suy diễn đoạn Phúc Âm về chiên và dê qua sự tưởng tượng theo nghĩa đen đã tạo thành giai đoạn dân Chúa quá sợ hãi sự công thẳng của Đức Giêsu nên chạy đến Đức Mẹ chẳng khác gì đi cửa hậu và từ đó phát sinh ra truyền thống lòng tôn sùng Đức Mẹ.

Tuy tốt lành và vâng lời, nhưng chúng ta không bao giờ thực hành lời Phúc Âm, “Ai muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm người rốt hết và làm đầy tớ mọi người.” Đôi khi chúng ta nghe thấy câu nói chỉ về ngôi vị giáo hoàng, “Đầy tớ của các tôi tớ,” hoặc lời một cha già nào đó ngày xưa đã giảng, “Tôi là con chó của nhà Đức Chúa Giời nên phải sủa, ai nghe hay không mặc ai.” Theo lối nhìn thế tục, vị đầy tới của các tôi tớ của dân Chúa là đức giáo hoàng, đi đến đâu phải cần đến “Pope mobile” và thêm công an chìm, nổi, cảnh sát vây bọc và muôn thứ người hộ tống thì có muốn làm tôi tớ cũng không được. Quả là đối nghịch với lời Phúc Âm.

Tuy nhiên, nếu suy gẫm lời Chúa theo quan niệm tâm linh, người theo đuổi hành trình đức tin, hành trình tâm linh, tất nhiên không tha thiết gì đến quyền hành, chức tước, hoặc những bề thế, thái độ cao sang thế tục thì lại bị chúng ta coi thường vì họ không tỏ ra oai vọng của người đáng có oai, họ không bị những hình thức rởm làm phiền hà. Nếu ai thực sự đã bước vào con đường tâm linh, lời Phúc Âm diễn giải rất đúng về họ, “Không ai có thể làm tôi hai chủ vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ” (Mt. 6:24). Những cao sang, uy quyền thế tục tất nhiên không phải là phương tiện và cũng không là ước mơ của họ mà mục đích chính là tâm thành tìm kiếm Nước Thiên Chúa (Mt. 6:33). Và như vậy đối với nhãn quan thế tục họ là những người hèn mọn, không có bề thế, và thường bị chúng ta thiếu nể nang.

Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều kinh nghiệm, nếu thực sự muốn cho con cái nên người tử tế, có cuộc sống vươn lên tránh khỏi phiền hà, tai tiếng cho gia đình, chúng ta chẳng những thực tâm ước mơ mà còn sử dụng bất cứ cơ hội nào để giáo dục, giúp đỡ, và khuyến khích chúng đạt được điều mình ước mơ. Đồng một tâm trạng như thế, những ai đã nhận biết và đang tiếp tục nơi hành trình tâm linh đều ước mơ cho mọi người khác thức ngộ được trạng thái tâm linh họ đang theo đuổi. Ước mơ này tự chúng mang quyền lực giúp đỡ người khác thăng tiến nếu khát khao tìm kiếm. Làm đầy tớ cho mọi người chính là trạng thái ước mơ này như đã được Phúc Âm khuyến khích, “Và các ngươi muốn được người ta làm cho các ngươi thế nào thì các ngươi cũng hãy làm cho người ta như vậy” (Lc. 6:31). Xét như thế, lời Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu, “Ai đón nhận một trong những trẻ nhỏ như thế nầy vì danh Thầy tức là đón tiếp chính mình thầy,” khuyến khích chúng ta nhận ra sự cao trọng của những tâm hồn đơn sơ, chất phác nơi cuộc sống bon chen thế tục. Bình thường, ai không ham danh! Ai không muốn giầu có! Ai không thích uy quyền, tiền hô, hậu ủng! Thế nên, bất cứ ai an phận, không đua đòi, hoặc sau những ngày tháng cuộc đời bon chen vất vả, thăng trầm, đã nhận chân được điều quan trọng đó là sự an bình nội tâm chỉ có được khi mình biết chấp nhận cuộc đời, người đó đã tới ngưỡng cửa tâm linh. Vấn đề còn lại chỉ là có thực sự ước muốn tìm kiếm Nước Thiên Chúa hay không.

Tóm lại, bài Phúc Âm diễn giải về trạng thái thực thể nội tâm của người nơi hành trình đức tin; hành trình đạt tới sự nhận biết thâm sâu về Tin Mừng Nước Trời, thực thể Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

CHỦ NHẬT 26B (Mc. 9:37-42; 46-47)

38 Yoan nói với Ngài: "Thưa Thầy, chùng tôi đã thấy người kia lấy danh Thầy trừ quỉ, nhưng hắn lại không theo chúng tôi; và chúng tôi đã cố ngăn cản, vì hắn không theo chúng tôi". 39 Ðức Yêsu nói: "Chớ ngăn cản người ấy, vì không có ai nhân danh Ta làm phép lạ, rồi lại có thể vội nói xấu Ta. 40 Vì không ai chống lại chúng ta là ủng hộ chúng ta."

41 "Kẻ nào cho ngươi uống một bát nước, vì danh nghĩa là ác ngươi thuộc về Ðức Kitô, thì quả thật Ta bảo các ngươi: nó sẽ không mất phần thưởng của nó". 42 "Kẻ nào nên cớ vấp phạm cho một người nào trong các kẻ nhỏ đã tin cậy, thì thà kẻ ấy bị khoanh cối lừa kéo tròng vào cổ và quăng xuống biển còn hơn.

Xưa nay, mọi người chúng ta đều tôn trọng về quyền hành tùy thuộc chức vụ của những người làm việc. Đối với một quốc gia, thời xưa có vua đứng đầu và quyền hành của vua được coi là tối thượng đến nỗi người Trung Hoa thời cổ gọi là thiên tử có nghĩa con trời. Nơi gia đình, người cha là chủ và mọi quyền hành, quyết định đều tùy thuộc người cha. Quý cụ theo nho học đều thuộc nằm lòng câu nơi Khổng học, Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử tử, tử bất tử bất hiếu. Câu này có nghĩa, vua bảo bề tôi chết mà bề tôi không chết tức là không trung thành; cha bảo con chết mà con không chết tất nhiên bất hiếu. Tương tự như thế, nơi Giáo Hội, chúng ta tôn trọng quyền hành của hàng giáo phẩm. Chẳng những thế, từ tâm tình kính tin Chúa chúng ta tôn trọng tất cả những ai theo đuổi ơn gọi làm tu sĩ, tiếng bình dân nói là đi tu. Chúng ta tôn trọng những bậc tu trì vì nghĩ rằng họ không phải tranh đấu với cuộc đời thế tục nên sống mật thiết, gần gũi Chúa hơn hoặc hiểu biết về những lời dạy dỗ nơi Thánh Kinh nhiều hơn chúng ta. Thế nên, chúng ta chẳng những tin nơi Chúa mà còn tin nơi các vị tu trì…dành cho họ tất cả những quyền hành giảng dạy và chúng ta chỉ việc nghe sao biết vậy, không khác gì câu dân gian thường lặp đi lặp lại, Nghe mõ xỏ tiền, mỗi khi có những chuyện cần bàn hỏi ý kiến. Đại ý câu này muốn nói, ai sao tôi vậy, thà rằng chấp nhận thiệt thòi cho giống những người chung quanh còn hơn bị bận rộn đầu óc suy tư những việc rắc rối, phiền hà.

Tuy nhiên, theo một số kết quả thống kê nhận định nơi những công ty thương mại lớn ngày nay, người ta nhận thấy từ hai mươi năm qua, những quyết định về điều hành của các đại công ty đang dần dần phát triển theo khuynh hướng ngược lại. Thuở ban đầu, mọi quyết định đều tùy thuộc các chủ công ty, sau chuyển thành quyết định chung của ban điều hành, và nơi thời đại này, quyết định điều hành công ty hay tổ chức lại có khuynh hướng tùy thuộc những nhân viên làm việc cho công ty hay tổ chức. Nhận định nơi thực tại sự việc phần nào làm sáng tỏ về sự kiện được ghi lại nơi Phúc Âm đã hai ngàn năm qua đặt nơi miệng Đức Giêsu lời khuyên các môn đồ, Đừng ngăn cấm y vì chẳng ai có thể nhân danh Thầy mà làm phép lạ rồi liền đó lại nói xấu Thầy.

Suy nghĩ thâm trầm hơn, lời khuyên này chứng tỏ cho chúng ta biết một thực thể hiển nhiên đó là chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người. Giáo lý Công Giáo dạy rằng, khi chúng ta chịu phép Rửa Tội, chúng ta được thông phần vương quyền, tư tế, và tiên tri của Đức Giêsu. Nhưng có lẽ vì không để ý nên chúng ta đã không nhận ra địa vị cao trọng của Kitô hữu,…và cũng bởi đó, chúng ta không hiểu thế nào là vương quyền, tư tế, tiên tri nơi Đức Giêsu dẫu chúng ta thừa nhận Thiên Chúa tạo dựng con người và cho quyền làm chủ mọi loài; dẫu chúng ta tâm thành tham dự thánh lễ; và dẫu chúng ta cố gắng sống đức độ, lo lắng cho gia đình, sao cho đẹp lòng Chúa và hòa thuận với mọi người. Mọi người, mọi tạo vật chính là sự hiện thể của Thiên Chúa, sự hiện thể của quyền lực tối cao đang hoạt động để tiếp tục công việc tạo dựng. Bởi vậy, bất cứ ai nhận chân được giá trị thực thể hiện hữu tối cao nơi mình cũng chính là quyền lực tối cao hiện thân nơi Đức Giêsu, người đó sẽ hiểu được ý nghĩa thông phần vương quyền của Đức Kitô.

Hơn nữa, mọi hành động, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ nơi một người cũng chính là sự hoạt động của Thiên Chúa. Nói cách khác, bất cứ sự hiện hữu nào cũng đều là biến chuyển của sự thánh thiện trong hành trình tạo dựng tiếp diễn. Thế nên, tất cả mọi hành động, thái độ, lối sống đều chứng tỏ quyền lực tối thượng đang diễn biến. Nói theo khía cạnh tâm linh, những hoạt động, diễn biến này là công cụ dâng hiến, công cụ hiến tế để quyền lực tối thượng, chính là Thiên Chúa, thực hiện công việc tiếp tục tạo dựng. Đây là ý nghĩa tư tế nơi mỗi con người.

Chúng ta thường hiểu lầm ý nghĩa hai chữ “Tiên tri nơi Thánh Kinh. Ngôn ngữ Việt Nam dẫu được viết theo mẫu tự Latinh nhưng bao gồm nhiều phát âm tiếng Hán, tiếng Nôm, đọc thành tiếng Việt. Nơi tiếng Hán đọc theo ngôn ngữ Việt, tiên hay tiền có nghĩa là trước, nghịch lại với hậu là sau. Chẳng hạn tiên nhân là ông bà, cha mẹ đã sinh sống trước mình. Tri nơi tiếng Hán có nghĩa là biết, hiểu chẳng hạn nơi câu, Tri bỉ, tri kỷ, bách chiến bách thắng.Đem ráp hai chữ tiên tri lại với nhau, chúng ta thường hiểu đó là lời tiên đoán hay lời nói trước về sự việc nào đó. Nơi Kinh Thánh, Tiên tri có nghĩa rao giảng chứ không có nghĩa tiên đoán. Người Công Giáo khi chịu phép rửa tội thông phần ân sủng tiên tri của Đức Giêsu có nghĩa mang nhiệm vụ rao giảng về Thiên Chúa, rao giảng Tin Mừng Nước Trời như Đức Giêsu đã thực hiện. Xét thế, mỗi người chúng ta mang đầy đủ ân sủng của hàng giáo phẩm nơi Giáo Hội Công Giáo, ngay cả những người không thuộc về Công Giáo cũng mang những ân sủng này. Chúng ta cần thực thi những ân sủng nơi chính mình. Ý nghĩ đã có các đấng các bậc trong Hội Thánh giảng dạy giúp chúng ta phần rỗi đã quá xưa rồi, giống như bình rượu cũ, giống như tay, chân, mắt, làm dịp tội, không thể dùng được nữa vì chỉ ngăn cản sự phát triển của hồng ân nhận thức nơi chúng ta.

Mấy tiếng Dịp tội” hay Cớ vấp phạm nơi bài Phúc Âm đều có nghĩa những gì, hoặc hành động, lời nói, hay bất cứ phương cách nào ngăn cản con người nhận biết về nhận thức Thiên Chúa đang hoạt động và ngự trị nơi mọi người, nơi tạo vật. Những gì nên dịp tội cho chúng ta có nghĩa những gì ngăn cản chúng ta nhận biết Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình đều cần phải được chấm dứt.

Tóm lại, bài Phúc Âm hôm nay chứng tỏ cho chúng ta một điều hiển nhiên; đó là Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, không cần biết họ có đạo hay không có đạo. Chẳng những thế, Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi tạo vật.Đây là lý do tại sao Phúc Âm đặt nơi miệng Gioan câu nói đđược trả lời, Lạy Thầy, chúng con thấy có kẻ nhân danh Thầy mà trừ quỷ, kẻ đó không theo chúng ta, và chúng con đã ngăn cấm y.Điều đáng buồn đó là Phúc Âm cho rằng chính Đức Giêsu trả lời Đừng ngăn cấm y trong khi chúng ta bày ra ngôn từ “Ngoại đạo.”

Thêm vào đó, Phúc Âm cũng nhắc nhở mọi người hãy để ý suy tư vì tất cả những gì ngăn cản chúng ta nhận thức Tin Mừng Nước Trời đều cần được chỉnh đốn lại. Phúc Âm dùng tay, chân, mắt để ám chỉ quan niệm, ý nghĩ, kiến thức đã sẵn có nơi mỗi người cũng được gọi là satan. Chúng ta cần mở rộng lòng và suy nghĩ một cách khác thường theo mọi khía cạnh về mỗi câu nói nơi Phúc Âm. Chỉ đường lối độc nhất này mới giúp chúng ta nhận thức thực thể Tin Mừng nơi chính mình. Amen.

CHỦ NHẬT 27B (Mc. 10:2-16)

2 Và Biệt phái đến gặp Ngài và hỏi: "Có được phép rẫy vợ không?" mục đích là để thử Ngài. 3 Ðáp lại, Ngài nói với họ: "Môsê đã truyền sao cho các ông?" 4 Họ đáp: "Môseê đã cho phép viết ly thư mà rẫy vợ". 5 Nhưng Ðức Yêsu nói với họ: "Vì lòng lì lợm của các ngươi, mà Môsê đã viết giới luật đó cho các ngươi. 6 Nhưng từ khởi nguyên tạo thành: Là nam là nữ Ngươì đã dựng nên chúng. 7 Bởi thế mà đàn ông sẽ bỏ cả cha mẹ mình, 8và cả hai, chúng sẽ nên một thân xác. 9 Vậy điều Thiên Chúa đã phối hợp thì ngươi ta chớ có phân ly!" 10 Về nhà, môn đồ hỏi Ngài lại về điều đó. 11 Ngài nói với họ: "Ai rẫy vợ mình mà cưới vợ khác, tức là ngoại tình đối với vợ mình; 12 và nếu vợ bỏ chồng mà đi lấy chồng khác, thì nó phạm tội ngoại tình".

13 Người ta đem các em nhỏ đến với Ngài để Ngài đụng đến chúng. Nhưng môn đồ quát rầy chúng. 14 Thấy vậy, Ðức Yêsu phật ý và nói với họ: "Hãy để các trẻ nhỏ đến với Ta đừng ngăn cản chúng, vì Nước Thiên Chúa thuộc về những người như thế. 15 Quả thật, Ta bảo các ngươi: ai không đón nhận lấy Nước Thiên Chúa như một trẻ nhỏ, thì sẽ không được vào trong đó!" 16 Rồi Ngài bồng ẵm chúng, đoạn đặt tay mà chúc lành cho chúng.

Ngay câu đầu tiên của bài trích sách Sáng Thế, “Đàn ông ở một mình không tốt” (Kn. 2:18) đã khiến tôi cảm thấy bối rối vì không hiểu thực sự ý của câu nói thế nào, hoặc là không tốt cho đàn ông ở một mình, hay bất cứ người đàn ông nào sống một mình cũng đều là người không tốt. Phỏng vì tự họ đã không tốt nên không ai muốn gom gạo nấu cơm chung hay phỏng bởi nhận thấy nếu có vợ sẽ trở nên tệ hại hơn, do đó chấp nhận không tốt một cách vừa phải cho đỡ phiền? Chính vì suy nghĩ như vậy, câu hỏi được nêu lên, thế nào là một người đàn ông tốt? Và người đàn ông không ở một mình thì họ tốt ra sao? Tốt cho họ hay tốt cho người khác hoặc cả hai. Nói rằng tốt cho cả hai tại sao Ca Dao có câu, “Chồng giận thì vợ bớt nhời; cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê?” Nói rằng tốt cho người đàn ông trong thời buổi “Nhất vợ nhì trời” bây giờ, quả là không phù hợp với thực tế, nếu không muốn nói lời Kinh Thánh không còn hợp với thời đại lúc này.

Bài Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời giải thích thâm trầm, khó hiểu, nên thường chỉ được lặp đi lặp lại như họ hàng nhà vẹt… ngay những người sống nơi bậc đôi bạn cũng khó chấp nhận nếu không để ý suy nghiệm, “Hai người sẽ nên một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly.” Nếu xét theo khoa học sinh thể thực nghiệm, câu nói, “Hai người sẽ nên một huyết nhục” không thể áp dụng cho mọi trường hợp; vì nếu một trong hai người cần được chuyền máu, chưa chắc người phối ngẫu đã có loại máu phù hợp để truyền sang. Thêm vào đó, hình như sự đối nghịch về thể chất cũng như cá tính của vợ chồng một phần nào cũng giúp cho sự liên kết vợ chồng thắm thiết hơn.

Đàng khác, câu “Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly,” nếu đem so sánh với nghi thức bí tích hôn nhân lại cần phải được nhận định và am hiểu một cách sáng suốt. Ngoài thái độ rộng mở tâm hồn, rộng mở lòng trí để nhận thức thực thể thánh thiện là chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người, bất cứ ai, dù thông thái đến đâu, hoặc dùng bất cứ luận lý hay sự uyên bác nào cũng không thể minh chứng một cách hợp tình hợp lý về sự kết hợp hôn nhân là do chính Thiên Chúa trực tiếp tác thành. Tất cả những luận lý thông thái của con người dùng để giải thích sự kết hợp thân xác vợ chồng nên một đều chỉ là sự gượng ép, ý sau phản ý trước. Tôi muốn nói ngay cả quý ông bà anh chị em đang hiện diện nơi nhà thờ lúc này, dẫu đã có quá nhiều kinh nghiệm nơi bậc đôi bạn, cũng đành chấp nhận một điều rõ ràng đó là mình biết, hiểu, cảm nghiệm được sự hợp nhất vợ chồng nhưng không thể nói cho người khác hiểu được.

Đơn thuần nhận định câu, “Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly” trong sự so sánh với nghi thức bí tích hôn phối, chúng ta có thể nhận thức được một cách rõ ràng sự thể hiện ý định của Thiên Chúa liên hệ nơi cuộc đời con người. Nơi bí tích hôn nhân Công Giáo, đôi tân hôn thực hiện bí tích, thề hứa chung thủy với nhau khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, yêu thương và tôn trọng nhau suốt cuộc đời. Vị tu sĩ và cộng đồng dân Chúa hiện diện nơi nhà thờ chỉ chứng giám cho lời thề hứa của họ mà thôi. Xét như thế, sự kết hợp của Thiên Chúa cho đôi tân hôn được thực hiện nơi chính ý định chân thành, thực sự ước muốn được thể hiện nơi lời thề hứa theo nghi thức của bí tích hôn phối.

Thử nghiệm chứng lại thời điểm hứa hôn của quý ông bà anh chị em sống nơi bậc đôi bạn, chúng ta nhận được rõ ràng đó là vào thời điểm ấy, tất cả ý nghĩ, ước muốn, ước mơ của mình chỉ sao cho cưới được, có được, và gần kề người bạn đời mà thôi, chứ không phải ai khác. Ý định, ước muốn, ước mơ chân thành này chính là ý định của Thiên Chúa được thể hiện nơi mỗi người. Bởi thế, tất cả những mưu toan hoặc những ép buộc sự kết hợp của đôi tân hôn đều làm cho bí tích hôn phối không thành dẫu vì không biết hoặc mọi người đều công nhận hai người thành thân qua nghi thức hôn nhân Công Giáo. Nói cách khác, sự hiện hữu vô hình và hữu hình được liên kết nơi mỗi người chúng ta đều phát xuất từ Thiên Chúa. Chúng ta khởi nguồn từ gốc thánh thiện là chính Thiên Chúa; chúng ta là ân sủng của Thiên Chúa. Chúng ta là bí tích, là sự thể hiện của sự thánh thiện đang hoạt động.

Bởi vậy Giáo Hội cũng được gọi là bí tích, ân sủng để thánh hóa nhân loại. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu tối thượng đang hoạt động nơi mỗi người chúng ta. Thiên Chúa cũng chính là sự sống nơi chúng ta, và như vậy, chúng ta là bí tích, là ân sủng công bố sự thánh thiện của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người, nơi tạo vật. Thiên Chúa là quyền lực hiện hữu, sự sống nơi mọi người vì không có sự sống này, chúng ta không thể hiện diện nơi nhà thờ ở đây hay nơi khác. Nhìn theo khía cạnh này, hôn nhân chính là phương tiện để Thiên Chúa tiếp tục phát triển sự thánh thiện của Ngài nơi tạo vật. Ý định, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ chân thành của chúng ta phát xuất tự linh hồn, tâm trí, tâm hồn, Thiên Chúa nội tại.

Bởi đó, hôn nhân là sự kết hợp của hai linh hồn để chung xây cuộc sống và đồng thời là phương tiện cũng như cơ hội để cùng nhau phát triển và đạt tới sự toàn hảo. Thế nên, bất cứ những phiền hà, rắc rối nào nơi cuộc sống hôn nhân đều là những cơ hội cho con người phát triển, hoàn thành những gì còn thiếu sót nơi hành trình đức tin, hành trình tiến tới thiện toàn. Theo lối nhìn tâm linh, sự kết hợp hôn nhân phần nào đó biểu chứng sự kết hợp bất khả phân ly của linh hồn và thân xác con người. Khi linh hồn lìa thân xác, chúng ta gọi là sự chết. Thế nên, bất cứ ai không nhận thức được sự hiệp nhất này để rồi chạy theo tham vọng, ước muốn thế tục, người đó đã vô tình, nếu không muốn nói là thiếu nhận thức, toan tính ly dị linh hồn mình nơi cuộc sống hữu hình. Đây chính là tội lỗi phát sinh bởi sự thiếu nhận thức.

Tóm lại, Lời Chúa dạy chúng ta, ý định của Thiên Chúa đang được thể hiện nơi ý định, ước muốn, ước mơ nơi mỗi người. Sự kết hợp của cuộc sống hôn nhân không khác gì sự kết hợp của linh hồn nơi thân xác một người. Bất cứ ai không nhận thức được sự kết hợp này đều vô tình kiến tạo nên những chướng ngại cho hành trình trở nên thiện hảo của mình. Không lạ gì, đã biết bao nhiêu tội lỗi xưa nay được phát sinh từ cội nguồn thiếu nhận thức nơi con người. Amen.

CHỦ NHẬT 28B (Mc. 10:17-30)

17 Nhằm lúc Ngài ra đi lên đàng, thì có người chạy lại qùi xuống bái lạy Ngài: "Lạy Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đòi làm cơ nghiệp?" 18 Nhưng Ðức Yêsu nói với người ấy: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa. 19 Ngươi biết các giới răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ quịt của người, hãy thảo kính cha mẹ". 20 Người ấy nói với Ngài: "Thưa Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". 21 Ðức Yêsu nhìn người ấy đem lòng yêu mến, mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! có gì thì đem bán mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta!" 22Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều của.

23 Nhìn quanh Ngài, Ðức Yêsu nói với môn đồ: "Những người có của khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao!" 24Môn đồ ngẩn người ra vì những lời của Ngài. Nhưng Ðức Yêsu lại lên tiếng nói: "Này các con, khó vào được Nước Thiên Chúa biết bao! 25 Lạc đà qua lỗ kim còn dễ hơn là người giàu có vào được Nước Thiên Chúa". 26Họ hết sức kinh ngạc mà nói với nhau: "Thế thì ai còn có thể được cứu?" 27 Ðức Yêsu nhìn thẳng họ mà nói: "Nơi loài người, một điều không thể được, nhưng không thế nơi Thiên Chúa, vì mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa!"

28 Phêrô lên tiếng thưa Ngài: "Này chúng tôi từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy". 29 Ðức Yêsu nói: "Quả thật Ta bảo các ngươi: không ai bỏ nhà cửa, hay anh em chị em, hay cha mẹ, hay con cái, hay ruộng nương vì Ta và vì tin mừng, 30 mà lại không lĩnh lấy gấp trăm bây giờ ở đòi này về nhà cửa, anh em và chị em, mẹ và con cái cùng ruộng nương, làm một với cấm cách bắt bớ, và sự sống đời đời trong thời sẽ đến.

Bài Phúc Âm vừa được công bố có nhiều vấn đề cho chúng ta suy tư. Trước hết theo nghĩa đen, người giầu có dù cả đời tuân giữ đúng mức các giới răn, không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt, biết thảo kính cha mẹ vẫn chưa đáng được hưởng nước trời. Vấn đề thứ nhì đó là câu nói, “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.” Thêm vào đó, lời hứa cho những người từ bỏ mọi sự sẽ được gấp trăm ở đời này nhưng kèm theo sự bắt bớ mới hy vọng được sự sống vĩnh cửu. Cuối cùng là câu nói nghịch thường, “Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất.” Tôi không hiểu có ai dám ước mơ được cả và thế giới này và chấp nhận bị bắt bớ hay không? Tuy nhiên, nếu ai đã trải qua những ngày tháng ở lại miền Bắc Việt Nam sau năm 54, có lẽ họ sẽ am hiểu tường tận câu nói, “Làm giầu thì dễ nhưng làm nghèo mới khó.” Tôi nghĩ, khá nhiều người ngày nay, qua kinh nghiệm bất trắc xảy đến nơi cuộc đời dẫn tới sự thực nghiệm về câu sấm Trạng Trình, “Người khôn chạy trốn, thằng ngu dạy đời” sẽ phần nào nhận thức rõ ràng hơn câu Phúc Âm, “Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất.” Riêng phần chia sẻ Lời Chúa hôm nay, tôi mời quý ông bà anh chị em cùng tôi thực tập sử dụng hồng ân suy tư nơi mỗi người để nghiệm chứng câu Phúc Âm nghịch thường, “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.””

Nếu đem cuộc sống hiện tại của chúng ta so sánh với những người bản xứ, ai cũng phải chấp nhận mình vẫn còn được coi là nghèo, nghèo hơn khá nhiều người chung quanh dẫu nhận thức được, “Trông lên mình chẳng bằng ai và trông xuống không ai bằng mình.” Tuy nhiên, nếu đem lối sống của chúng ta lúc này so sánh với đại đa số người bên quê nhà hoặc ở Trung Hoa, Ethiopia, Mexico, Ấn Độ, Cambodia, Lào, Phi Châu, hoặc một số dân tộc ở vùng Trung Đông, chúng ta thực sự phải công nhận mình thuộc hạng giầu có. Như vậy nếu xét theo nghĩa đen của câu Kinh Thánh, bao nhiêu công lao giữ đạo của chúng ta đã chẳng khác gì đem muối đổ xuống đại dương hoặc “Dã tràng xe cát biển Đông, nhọc nhằn mà chẳng nên công trạng gì,””không cách nào vào được Nước Thiên Chúa, không hy vọng gì được cứu độ. Hơn nữa nếu hiểu theo ý nghĩa con người đã bị định sẵn không được ơn cứu độ, câu Phúc Âm phần nào ám chỉ sự khuyến khích con người sống bê tha, tội lỗi vì cho dù sống thế nào, tuân giữ giới răn Chúa và lề luật Giáo Hội hay không, cuối cùng cũng đều bị kết án như nhau; đó là không thể vào được Nước Trời, không được cứu độ.

Tôi không hiểu quý vị cảm thấy thế nào khi suy tư về câu Phúc Âm này. Riêng tôi, nếu không chịu suy nghiệm mà vì lười lĩnh, thiếu nhận thức, thiếu lương tâm trách nhiệm để rồi qua loa nhắc lại Lời Chúa bày tỏ tâm tình hùa theo nguyên văn lời Kinh Thánh mà lên án người giàu là chính chúng ta, chắc chắn rằng quý vị sẽ lo sợ và cảm thấy bực bội vì sự bất công của định mệnh khắc nghiệt tưởng tượng: chúng ta được sinh ra để cuối cùng bị kết án. Như vậy nếu chỉ hời hợt lặp lại lời Phúc Âm theo văn tự, điều dễ hiểu đó là chúng ta dẫu cố gắng ăn ở ngay lành đến đâu cũng mang nỗi thất vọng lớn lao dẫn đến quyết định không đi nhà thờ, không cho tiền nhà thờ. Lẽ đương nhiên, nhà thờ chẳng sớm thìchầy sẽ bị đóng cửa, và tôi sẽ bị thất nghiệp.

Tuy nhiên, Lời Chúa đã rõ ràng công bố nơi Phúc Âm Gioan, “Kẻ thảy bỏ Ta đi và không lĩnh chịu các lời của Ta thì có người xét xử nó; ấy là lời Ta đã nói, chính lời ấy sẽ xét xử nó trong ngày sau hết” (Gn. 12:48). Lĩnh chịu Lời Chúa có nghĩa nghiền ngẫm, suy tư, suy nghiệm lời Phúc Âm. Và như thế, những ai không chịu suy tư lời Phúc Âm mà chỉ đọc sao, nghe sao hiểu vậy, tất nhiên đã bị kết án sống trong sự mù tối dù học hành đến đâu hay đãđọc thiên kinh, vạn quyển những sách vở khôn ngoan thế tục.

Lật nơi Phúc Âm chúng ta thấy có câu, “Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng dạ ngươi ở đó”(Mt. 6:21; Lc. 12:33). Tôi thử hỏi, ngay lúc này, lòng dạ chúng ta đang ở đâu? Ở mái nhà nơi chúng ta trú ngụ hay ở nơi chiếc xe lái đến nhà thờ? Ở con tàu đánh tôm cá hay ở những cửa tiệm buôn bán nuôi sống gia đình? Ở nhà băng nơi giữ tiền tài hay nơi hãng sở làm việc kiếm kế sinh nhai? Xin thưa, lòng dạ chúng ta đang đặt nơi sự khúc mắc của câu Phúc Âm, “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa.” Nhận thực được lòng mình như thế, hai tiếng “Kho tàng” được dùng nơi Phúc Âm trong trường hợp này mang nghĩa ý định, ước muốn, ước mơ. Suy như vậy câu Phúc Âm có nghĩa, ý định, ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó. Đem ráp sự nhận thức này vào câu nói, “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa,” chúng ta sẽ có được một nhận thức hợp lý hợp tình cho mọi trường hợp; và đó là, lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người ước muốn giàu có vào Nước Thiên Chúa vì ước muốn của người ta ở đâu thì lòng dạ của họ ở đó.

Dẫu Tục Ngữ có câu, “Có chí làm quan, có gan làm giầu,” nhưng biết bao người có gan đã chẳng có thể làm giầu. Ngược lại, câu “Làm giầu có số, ăn cỗ có phần” chỉ những người giầu có mới nghiệm chứng được. Kinh nghiệm sống chứng minh, chỉ những người được sinh ra để có cuộc đời giầu có mới có thể giầu có bởi ai không muốn giầu có mà tại sao chỉ một số người giầu có vượt hẳn lên. Như thế, giầu có đâu phải là cái tội dẫu có những trường hợp đã trở thành cái tội. Tuy nhiên, chỉ những người nghèo hèn về vật chất mới mơ ước trở thành giầu có. Bởi thế, nếu suy nghiệm thâm trầm, Lời Chúa lên án những kẻ chạy theo ước mơ giầu có của cải, tăm tiếng trần gian và như thế lòng dạ họ đeo đuổi tham vọng thế tục đâu để ý tới Tin Mừng Nước Trời; trong khi Phúc Âm khuyên nhủ, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người” (Mt. 6:33).

Tóm lại, dẫu cho lỗ kim được hiểu thế nào chăng nữa, câu Phúc Âm “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa” mang ý nghĩa những ai theo đuổi ước muốn giầu có của cải, tăm tiếng trần gian này thì khó nhận ra thực thể Nước Trời hơn con lạc đà chui qua lỗ kim; vì ước muốn của người ta ở đâu thì lòng dạ họ ở đó. Suy như thế, dù giầu hay nghèo, nếu không để tâm nghiệm chứng Phúc Âm, con người không thể nào nhận biết thực thể Nước Trời. Có thể từ nhận thức này đã phát sinh câu nói, “Kẻ có thì được cho thêm mà nên dư dật; còn kẻ không có thì điều có cũng bị giựt mất” (Mt. 13:12,15). Tiền nhân chúng ta để lại câu nói quá thâm trầm: “Nghèo là một cái tội;” thật cũng đáng tội cho người nghèo. Chỉngười nghèo mới ham làm giầu chứ người đã nhận biết mình giầu có đâu ai ham muốn làm giầu.

CHỦ NHẬT 29B (Mc. 10:35-45)

35 Yacôbê và Yoan, những người con của ông Zêbêđê, đến với Ngài và nói với Ngài: "Thưa Thầy, chúng tôi ước chớ gì Thầy làm cho chúng tôi điều chúng tôi xin Thầy". 36 Ngài nói với họ: "Các ngươi muốn ta làm gì cho các ngươi?" 37 Họ thưa Ngài: "Xin cho chúng tôi được ngồi, một người bên hữu, một người bên tả, trong vinh quang của Thầy". 38 Ðức Yêsu nói với họ: "Các ngươi không biết các ngươi xin gì! Các ngươi có thể uống chén Ta uống, và chịu thanh tẩy thứ thanh tẩy Ta phải chịu không?" 39 Họ nói với Ngài: "Thưa được". Ðức Yêsu bảo họ: "Chén Ta uống, các ngươi sẽ uống, thanh tẩy Ta chịu, các ngươi sẽ chịu: 40 còn việc ngồi bên hữu hay là bên tả Ta, Ta không có quyền ban, nhưng là dành cho ai điều ấy đã được dọn cho".

41 Nghe được, thì mười hai người kia đâm phẩn uất với Yacôbê và Yoan. 42 Ðức Yêsu gọi họ lại mà bảo họ: "Các ngươi biết: các kẻ được coi là thủ lãnh các dân tộc thì làm Chúa trên họ, và những người làm lớn nơi họ thì bắt họ phục quyền. 43 Nơi các ngươi thì không như thế! Ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi. 44 và ai muốn cầm đầu giữa các ngươi, thì hãy làm tôi tớ mọi người. 45 Vì chưng Con Người không đến để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ, và thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người".

Kinh nghiệm cuộc sống chứng minh, chúng ta đều tìm kiếm những phương cách để có được những phương tiện thăng tiến cuộc sống dù tinh thần hay vật chất. Những phương tiện rõ ràng nơi cuộc sống hữu hình chúng ta có thể nhận thấy đó là quyền lợi, danh vọng, tiếng tăm, tiền bạc. Cũng như chúng ta, Giacôbê và Gioan nghĩ rằng, tin rằng Chúa Giêsu thực hiện được mọi sự nên xin Ngài ân huệ cho ngồi bên hữu và bên tả khi Ngài đạt tới địa vị tối cao theo nhãn quan thế tục bởi vào thời đó dân Do Thái mong đợi vị vua giải thoát họ khỏi ánh thống trị của người Rôma. Tuy nhiên, Chúa Giêsu trả lời: “Các con không biết các con xin gì.”

Điểm đặc biệt chúng ta cần để ý đó là Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời giải thích về những gì Giacôbê và Gioan xin, ngồi bên hữu và bên tả, đã được dành sẵn cho những ai được sinh ra để lãnh nhận chức vụ ấy. Lối nói ám chỉ ngồi bên tả, bên hữu chỉ về quyền hành nơi một tập thể cũng giống như quan cửu phẩm hàng văn và cửu phẩm hàng võ, hoặc ngày nay, tổng trưởng nội vụ, tổng trưởng ngoại vụ của một nước, hay nơi cộng đồng thì được gọi là phó nội vụ và phó ngoại vụ, nhưng chúng ta bầu. Ai trong chúng ta không biết câu nói nơi ngôn ngữ Việt, “Một người làm quan cả họ được nhờ.” Không những vậy, địa vị của một người nơi xã hội còn mang lại tiếng tăm cho ông bà cha mẹ như nơi Ca Dao ghi lại, “Ông cha kiếp trước khéo tu, nên sanh con cháu võng dù nghênh ngang.” Bởi thế chẳng lạ gì mười tông đồ khác của Đức Giêsu đã có những thái độ bất bình với Giacôbê và Gioan.

Nếu xét theo phương diện tâm linh, con người được sinh ra để thực hiện sao cho hoàn thành ơn gọi, hoàn thành sứ mạng của mình… Thế nên chức vụ, nghề nghiệp hoặc vai trò nơi xã hội chỉ là phương tiện cho con người thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình trở nên toàn hảo, thiện toàn như lời Phúc Âm nhắc nhở, “Vậy, các ngươi hãy trở nên thiện toàn như Cha các ngươi trên trời là Đấng thiện toàn” (Mt. 5:48).

Như vậy, quyền lực, chức vị, đều là cơ hội hoặc phương tiện thăng tiến con người chẳng những cho mình mà mục đích chính lại là phục vụ cho những người khác dưới quyền của mình. Thế nên, người nào càng có khả năng, thì trách nhiệm của họ càng nặng nề… Riêng nơi trường hợp người được ban cho chức vụ mà thiếu trách nhiệm hoặc thiếu khả năng, chính chức vụ trở thành phương tiện hình phạt và chỉ người trong cuộc mới hiểu rõ ngọn ngành.

Phúc Âm nêu rõ câu trả lờivề mục đích cuộc đời đối với mỗi người: “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa cùng sự công chính của Người và những điều khác sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:33). Bởi thế, chính cuộc sống của mỗi người chúng ta cũng chỉ là phương tiện hay cơ hội cho tâm hồn chúng ta đạt tới nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời mà thôi.

Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói nghịch thường với nhận thức của mọi người chúng ta về vấn đề quyền hành đó là muốn làm lớn thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Điều này có nghĩa, những ai đã được thăng tiến nơi hành trình đức tin, đã đạt tới nghiệm chứng thực thể Nước Trời, đều có ước muốn cho mọi người khác cũng nhận ra được thực thể Tin Mừng Nước Trời nên bằng mọi cách, mọi cơ hội, họ đều có thái độ dẫn dắt, khai hóa những người còn chưa cảm nghiệm Tin Mừng. Tuy nhiên, bông hồng nào mà chẳng có gai; chưa chắc thực hiện những điều tốt lành cho người khác đã được chấp nhận, mà ngược lại, thường thì những người với ý hướng tốt lành đều gặp phải những trường hợp nghịch lý, muốn giải thích cũng không có cơ hội và cũng không thể giải thích được.

Thử nghiệm chứng trong cuộc đời mỗi người, chúng ta chỉ gặp phiền hà vì những điều tốt lành chúng ta thực hiện. Tất cả những ý đồ, mưu mô bất chính, chúng ta đều đạt được một cách dễ dàng nhưng thật khó mà người khác có thể biết được. Thân phận những người mang ơn gọi và có ý hướng muốn giúp người khác thăng tiến tâm linh đều chẳng khác gì trường hợp nơi sách tiên tri Jêrêmia đã được viết, “Người đã dụ dỗ tôi, lạy Yavê, và tôi đã để mình bị dụ. Người đã uy hiếp tôi và đã thắng: suốt ngày tôi đã nên trò cười, cả lũ chúng nhạo báng tôi... Tôi những tự nhủ: tôi sẽ không nghĩ đến nữa, tôi sẽ không nói nhân danh Người nữa! Nhưng nơi lòng tôi như lửa bừng bừng, bị dồn ép trong xương cốt tôi. Tôi hết sức nén lại, nhưng không tài nào nén được..." (Jer. 20: 7-9). Thân phận của những người tôi tớ nơi hành trình đức tin mà Phúc Âm nói đến chính là cuộc chiến nội tâm này, và chỉ những ai đã cảm nghiệm Lời Chúa mới có thể nhận biết được.

Tuy nhiên, Phúc Âm cũng căn dặn rõ ràng đối với những ai đã để tâm cảm nghiệm khi đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, "Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói, hãy ở khôn như con rắn và chân thực như chim câu” (Mt. 10:16). Điều này có nghĩa, nếu những ai vì lòng sốt mến, tha thiết với Tin Mừng Nước Trời nhưng đối diện với những người chỉ biết chạy theo danh vọng và tiền của thế tục thì chẳng nên giúp họ. Lời Chúa còn khuyên bảo rõ ràng hơn nơi Phúc Âm thánh Mátthêu, “Của thánh đừng cho chó; châu ngọc chớ quăng trước miệng heo, kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Lời Chúa xếp loại những ai không chịu suy nghiệm Phúc Âm ngang hàng với chó và heo và nêu rõ ràng hậu quả sẽ đến với những ai có ước muốn tốt lành giúp những loại người này. Như vậy, nếu gặp những người coi thường hoặc không muốn suy nghiệm Phúc Âm, chúng ta không nên giúp họ vì sẽ bị khốn mà thôi.

Nói theo nhận thức thế tục, làm đầy tớ rao giảng Phúc Âm chẳng khác gì chiên vào giữa sói, chẳng sớm thì chầy, sẽ bị khốn khổ, ngoại trừ những ai sử dụng Lời Chúa với ý đồ tìm sự cả sáng thế tục cho chính mình. Người thực sự rao giảng Lời Chúa không thể không chứng nghiệm Phúc Âm và lẽ tất nhiên sẽ tận tường am hiểu câu Kinh Thánh, “Phàm ai không vác khổ giá mình mà đi sau Ta, ắt không thể làm môn đồ của Ta” (Lc. 14:27). Cũng vì mục đích rao giảng Tin Mừng Nước Trời mà Đức Giêsu phải chấp nhận chịu khổ hình. Nỗi đau lòng do khao khát truyền bá Tin Mừng Nước Trời chỉ những ai thực sự theo Đức Kitô mới có thể nghiệm chứng được. Amen.

CHỦ NHẬT 30B (Mc. 10:46-52)

46 Và họ đến Yêricô. Lúc Ngài ra khỏi Yêricô cùng với môn đồ và dân chúng nhiều lắm, thì có con của Timê và Batrimê, một người mù ăn xin, ngồi ở vệ đàng. 47 Nghe biết là Ðức Yêsu Nazaret đó, thì hắn lên tiếng kêu rằng: "Yêsu con Ðavít, xin thương xót tôi!" 48Nhiều người quát bảo hắn im đi, nhưng hắn càng kêu hơn nữa: "Lạy con Ðavít, xin thương xót tôi!" 49 Ðứng lại, Ðức Yêsu nói: "Gọi người ấy!" Người ta gọi người mù mà bảo hắn: "Hãy vững lòng! Dậy đi, Ngài gọi anh đó". 50 Hắn vất áo choàng một bên, nhảy chồm dậy mà đến cùng Ðức Yêsu. 51 Ðức Yêsu lên tiếng nói với hắn: "Ngươi muốn Ta làm gì cho ngươi?" Người mù đáp lại Ngài:" Rabbuni! xin cho tôi thấy được!" 52 Và Ðức Yêsu bảo hắn: "Hãy đi, lòng tin của ngươi đã cứu ngươi". Và lập tức hắn đã thấy được, và theo Ngài lên đường.

Bài Phúc Âm vừa được công bố nêu lên hai tính chất đặc biệt về lòng ước muốn phát sinh thái độ của người mù ăn xin và lời giải thích nguyên nhân sự chữa lành đã được đặt nơi miệng Đức Giêsu với câu nói, “Đức tin của anh đã chữa anh.” Ngày xưa, dưới chế độ quân chủ và trình độ hiểu biết về kỹ thuật của con người còn thấp kém, đa số cuộc sống dân chúng gắn liền với nông nghiệp nên công nghiệp không phát triển và ngành nghề thương mại bị coi rẻ bởi không mang tính cách sản xuất. Thế nên, phương tiện chính yếu để đạt danh phận là sự học hành, đỗ đạt. Dẫu dân quê có câu, “Nhàn nhất đứa đi học, nhọc nhất đứa bế em, nhịn thèm là đứa chăn trâu,” nhưng những ai đã có cơ hội thăng tiến nơi học vấn mới có thể hiểu được những nỗi gian truân của các tầng lớp học trò đã bị mệnh danh, “Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm.”

Chữ “Nằm” ở đây không có nghĩa lười biếng nhưng vì không có bàn ghế nên phải nằm bò nơi phản mà viết chữ Nho hay đọc kinh sách hoặc bài vở. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy, ý chí và ước muốn đóng vai trò tối quan trọng nếu muốn thành công nơi bất cứ việc gì. Có lẽ cũng vì sự học hành cần nhiều cố gắng và kiên trì qua những năm thángtiếp nối, thế nên dẫu đỗ đạt hay không, ít nhất người theo đuổi học vấn đã tự tạo cho mình tính chất chăm chuyên cần mẫn hầu áp dụng nơi mọi khía cạnh cuộc sống. Đại khái, những người theo đuổi sự học hành lâu năm tất nhiên tạo nơi mình sự bền chí thực hiện bất cứ ước muốn nào của họ. Có lẽ bởi nhận ra được lợi điểm này, cộng thêm ước mơ được chia sẻ danh phận của kẻ đỗ đạt, “Ngựa anh đi trước, võng nàng theo sau,” tiền nhân chúng ta đã đặt nơi miệng nữ giới lời bày tỏ nơi Ca Dao, “Chẳng ham ruộng cả, ao liền; chỉ ham cái bút cái nghiên anh đồ.””

Ngày nay, dẫu còn nhiều nơi trên thế giới, viễn ảnh trẻ em được cắp sách tới trường lớp vẫn còn là mộng tưởng. Chúng ta đang được sống nơi môi trường quá ư đầy đủ phương tiện thăng tiến về học vấn nếu thực sự mơ ước và dùng mọi cơ hội cũng như dồn hết năng lực để thực hiện. Tuy nhiên sống nơi đất nước này, đa số chúng ta đã lầm tưởng để rồi cho rằng học vấn chỉ là phương tiện kiếm tiền cho có cuộc sống đỡ vất vả. Thực ra, học vấn chỉ là phương tiện giúp con người sống ý thức hơn dẫu học vấn giúp con người phát triển những khả năng chuyên biệt tùy theo nhu cầu của thời đại. Chẳng thế mà có những người có bằng cấp lại sống bằng nghề làm nông trại hoặc đánh tôm, bắt cá dẫu tiền nhân chúng ta đã để lại câu, “Nhất đâm hà bá,nhì phá sơn lâm” bởi hai thứ ngành nghề này bạo phát cũng bạo tàn.

Qua những nhận định đơn thuần về đặc tính cần mẫn, chuyên chăm của những người theo đuổi học hành, tôi muốn nói đến sức mạnh của ý định, ước muốn nơi mỗi người chúng ta. Kinh nghiệm cuộc sống giúp chúng ta nhận biết một điều quá hiển nhiên nhưng ít khi được để ý đó là bất cứ thành quả nào đều chỉ đáng giá một phần nhỏ của lòng thực sự ước muốn. Nói cách khác, lòng thực sự ước muốn mang quyền lực thúc đẩy con người dồn hết năng lực thực hiện điều mình mơ ước. Hơn nữa, ước muốn tự nó mang quyền lực kiến tạo thành quả lòng ước mơ. Lòng thực sự, chân thành ước ao điều gì có thể được gọi là quyền lực đức tin nơi một người. Bài Phúc Âm diễn tả về thái độ của người mù, bất chấp những lời la mắng của những người chung quanh và dồn hết năng lực diễn tả lòng khát khao của anh ta. Và khi thời điểm tới, anh ta quăng luôn cả áo choàng để vội vàng chụp cơ hội.

Bình thường, khi đọc hoặc nghe đoạn Phúc Âm này, chúng ta đóng vai bàng quang, khen người mù là may mắn được Đức Giêsu chữa lành, và thế là hết. Tốt lành và sùng tín hơn một chút, chúng ta ca tụng Đức Giêsu đã làm phép lạ cứu chữa người mù, để rồi ngậm ngùi vì Chúa chữa những ai đâu, Chúa thương những kẻ nào đó nên làm phép lạ này, phép lạ kia, ban ơn nọ cho muôn người ngoại trừ chính mình. Thiển nghĩ, nếu để chút thời giờ suy tư, chúng ta sẽ nhận ra mình mang đầy tính chất bất công vì hình như lòng ước muốn của chúng ta về điều gì đó chỉ thuộc loại cầu may, ước mơ sơ sơ, được cũng tốt mà chẳng được thì cũng không đến nỗi nào, không cần thiết.

Thử nghiệm lại nơi cuộc đời mỗi người, bất cứ điều gì chúng ta thực sự ước muốn, tất nhiên chúng ta dành mọi nỗ lực để thực hiện điều đó dẫu thành công hay chẳng may thất bại. Thêm vào đó, chúng ta cũng thường có thói quen thuận gió phất cờ cho giống mọi người vì nhiều lý do; thế nên, chúng ta chỉ sơ sơ mơ ước đủ mọi sự, may được chút gì chăng chẳng khác gì có rế đỡ nóng tay cho cuộc đời dễ thở nếu không muốn nói là nên mày nên mặt với người chung quanh. Nói cho đúng, chúng ta chỉ ước mơ những gì không cần thiết nên không dồn hết năng lực cho điều mình mơ ước.

Bài Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói, “Đức tin của anh đã chữa anh;” trong khi ai cũng nói Đức Giêsu làm phép lạ, hay Đức Giêsu chữa lành, hoặc Đức Giêsu làm cho người mù được sáng. Chúng ta nói theo người khác không cần suy nghĩ. Chúng ta tốt lành đến độ nói sai cả Lời Chúa mà vẫn tin tưởng rằng mình ca tụng Đức Giêsu, ca tụng Thiên Chúa đã bày tỏ quyền năng nơi Đức Giêsu. Phúc Âm chép rõ ràng lời Đức Giêsu nói với người mù, “Đức tin của anh đã chữa anh,” chứ Ngài không nói Ngài chữa hay Chúa cứu. Xét như thế, đức tin chính là lòng thực sự ước muốn nơi người mù bất chấp mọi sự xảy đến chung quanh, bất chấp những đe dọa ngăn cấm của những người hùa nhau phản đối lời kêu gào của anh ta. Đức tin chính là sự ước muốn cùng cực nơi con người. Hiểu như vậy, bất cứ ai trong chúng ta cũng có đức tin và phép lạ đã xảy đến rất nhiều lần trong cuộc đời mỗi người mà chúng ta không nhận biết.

Xét theo phương diện tâm linh, ý định, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ nơi mỗi người đều mang quyền lực tác thành thực thể nào đó vì ý định, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ là những sự hiện hữu vô hình nên mang quyền lực của Thiên Chúa. Bởi vậy, khi chúng ta thực sự ước muốn điều gì không cần biết cho mình hay cho ai, chẳng sớm thì chầy, điều đó sẽ xảy đến với chúng ta. Đây chính là ý nghĩa câu Phúc Âm, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12; Lc. 6:31).

Tóm lại, bài Phúc Âm dùng câu truyện người mù được chữa lành để nhắc nhở cho chúng ta biết quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mỗi người được gọi là đức tin. Và như vậy, bất cứ điều gì, sự gì chúng ta thực sự ước muốn dù cho mình hay cho người khác, chắc chắn điều đó sẽ xảy đến nơi chính chúng ta.

CHỦ NHẬT 31B (Mk. 12:28-34)

28 Một ký lục đã nghe họ biện luận và thấy Ngài đã đáp lại họ cách chí lý, thì tiến lại hỏi Ngài: "Giới răn thứ nhứt trên hết là giới răn nào?" 29 Ðức Yêsu đáp lại: "Giới răn thứ nhứt là: Hãy lắng tai nghe, hỡi Israel, Chúa Thiên Chúa chúng ta là Chúa độc nhất, 30và ngươi phải yêu mến Chúa, Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết linh hồn ngươi, hết trí khôn ngươi và hết cả sức lực ngươi. 31 Thứ đến là: Ngươi phải yêu mến đồng loại ngươi như chính mình. Hẳn không có giới răn nào khác lớn hơn các điều ấy". 32 Người ký lục nói với Ngài: "Phải lắm! Thưa Thầy, Thầy đã nói rất thật: chỉ có Người là Ðộc nhất, không còn có Ðấng nào khác ngoài Người; 33 còn yêu mến Người hết lòng, và hết trí hiểu, hết sức lực và yêu mến đồng loại như chính mình ắt vượt quá các toàn thiêu và tế lễ thay thảy". 34 Thấy người ấy đáp lại cách xác đáng, nên Ðức Yêsu bảo: "Ông không xa nước Thiên Chúa đâu!" Và không ai còn dám chất vấn Ngài nữa.

Bình thường khi đọc hoặc nghe công bố bài Phúc Âm chúng ta vừa để tâm trí cảm nhận, chúng ta chỉ để ý đến giới răn trọng nhất đó là chấp nhận một Thiên Chúa duy nhất và kính mến hoặc yêu mến Ngài hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, hết năng lực, và yêu mến tha nhân như chính mình. Câu Phúc Âm quan trọng đó là sự trả lời của Đức Giêsu, “Ông không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu.” Câu trả lời này nói lên nhận định của Phúc Âm được đặt nơi miệng Đức Giêsu về giá trị của sự nhận thức của vị luật sĩ đã nêu câu hỏi. Xét như thế, sự nhận thức hoặc sự hiểu biết về Thiên Chúa cũng như hiểu biết về thái độ hoặc tâm tình nên sống liên kết với Thiên Chúa như thế nào vẫn chỉ được gọi là “Không còn xa Nước Thiên Chúa” chứ chưa có thể thuộc về hoặc đạt tới hay thực sự cảm nghiệm được Nước Thiên Chúa. Cũng như chúng ta; chúng ta nhận biết, hiểu biết, tin tưởng về một Thiên Chúa duy nhất hay độc nhất, cội nguồn của mọi sự hiện hữu, đang hoạt động mọi loài, mọi vật. Chúng ta tuyên xưng tin kính Ngài, khẩn cầu Ngài che chở và giúp đỡ những điều thiết yếu nơi cuộc đời. Chúng ta cố gắng sống ngay lành vì sợ bị Ngài phạt; nói cách khác, e những điều không nên sẽ xảy đến.

Chúng ta thuộc kinh bổn, siêng năng tham dự những nghi thức phụng thờ, tôn vinh và sùng tín, vẫn chỉ,“”Không còn xa Nước Thiên Chúa bao nhiêu.” Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu câu nói rõ ràng, “Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền. Người ta sẽ không nói được ‘Này ở đây’ hay“”Ở đó;’” vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông” (Lc. 17:21). Như vậy, chỉ có một cách duy nhất để gia nhập Nước Thiên Chúa đó là cảm nghiệm, suy nghiệm, hay thực chứng. Biết, hiểu, nhận thức về Nước Trời cũng chỉ như biết, hiểu, và nhận thức về sự ích lợi của thực phẩm hay thức uống. Cảm nghiệm, suy nghiệm, hay thực chứng là hành động ăn thực phẩm hay uống nước.

Muốn yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết sức, hết trí khôn, hết linh hồn mà chỉ chấp nhận rằng có một Thiên Chúa duy nhất thì không thể nào mà yêu mến được. Thử nghiệm nơi tâm tình mỗi người, khi chúng ta nghĩ đến ông bà, cha mẹ, con cái, hoặc ai đó đã thực hiện những điều tốt lành cho mình hay người nào mình thực sự để ý, chúng ta đều cảm nhận được tâm tình nào đó nẩy sinh nơi lòng mình. Kiểm điểm lại lòng trí, chúng ta đã cảm thấy gì khi tưởng nhớ đến Chúa? Hoặc khi cầu nguyện phỏng chúng ta có cảm nhận được lòng mình ra sao hay cứ trơ trơ nhưsỏi đá? Xét thế, điều kiện để có thể yêu mến Chúa chính là nhận biết và cảm nghiệm Chúa như thế nào và liên hệ với mình ra sao.

Ai cũng có thể trả lời ngay được, “Đức Chúa Trời là Đấng dựng nên trời đất muôn vật cùng hằng gìn giữ cai trị mọi sự” (Bổn đồng ấu). Đồng thời suy luận dựa trên tâm tình thị dục con người, chúng ta quan niệm rằng Thiên Chúa thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ… chẳng khác gì quan niệm của người Do Thái nơi Cựu Ước. Họ cho rằng Thiên Chúa đứng về phe họ để trừng phạt tất cả những ai chống nghịch lại họ; đồng thời với lẽ Thiên Chúa công thẳng một cách thiên vị ấy, chúng ta gán ép thêm cho Ngài lòng thương yêu vô bờ bến. Quả thực lạ kỳ! Chẳng lẽ Thiên Chúa chỉ yêu thương chúng ta vô bờ bến còn kẻ khác thì Ngài không thương. Và nếu đã là một Đấng yêu thương vô bờ bến sao lại có thể công thẳng hoặc trừng phạt bất cứ ai được?

Qua Phúc Âm, Đức Giêsu trình bày một Thiên Chúa toàn hảo và dạy chúng ta sống sao cho trở nên như thế, “Vậy các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt. 5:48) “Vì Người cho mặt trời mọc lên trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa trên người ngay và kẻ ác” (Mt. 5:45). Đức Giêsu trình bày cho chúng ta một Thiên Chúa không thiên vị, không phe phái, không chỉ yêu riêng người lành mà lại cũng yêu luôn kẻ dữ, và nhưthế được gọi là trọn lành. Đọc nơi Phúc Âm Mátthêu chúng ta thấy lời dạy, “Khi người ta nộp các ngươi thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao hay nói gì; vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói, mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽnói trong các ngươi” (Mt. 10:20). Chính Thiên Chúa trọn lành đang ngự trị nơi chúng ta vì Thần Khí của Thiên Chúa hoạt động nơi chúng ta.

Suy như thế, vấn đề còn lại chính là sự nghiệm chứng, thực chứng, suy nghiệm, cảm nghiệm những lời Phúc Âm trong chính cuộc đời của mỗi người để có được tâm tình thực sự cảm thấy chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình như lời thánh Phaolô phát biểu, “Tôi sống nhưng không phải tôi sống mà chính Đức Kitô sống trong tôi.” Như vậy, yêu mến Thiên Chúa hết tâm hồn, hết trí khôn, hết lòng hết sức chính là nhận thực, cảm nghiệm, và có tâm tình sống thực thể,“”Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23). Thiên Chúa ngự trị nơi mọi người, mọi tạo vật. Thế nên, bất cứ hành động, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ nào nơi mình cũng đều là sự thể hiện của Thiên Chúa. Bất cứ thái độ hoặc tâm tình nào đối với người khác đều là sự đối xử của chúng ta với chính Thiên Chúa ngự trị nơi người đó. Và như vậy, làm gì, thực hiện bất cứ điều gì cho người khác cũng chính là thực hiện cho mình mà thôi.

Đây là ý nghĩa của lời dạy “Yêu tha nhân như chính mình.” Nếu ai vẫn còn nghi ngờ, xin làm ơn nghiệm chứng nơi cuộc đời của mình. Bất cứ những điều gì không nên mình đã thực hiện cho người khác, hiển nhiên đã xảy đến với mình nhưng vì không để ý nhận định nên mình đã cho là số xui hay Chúa phạt. Xét theo nghĩa này, nói rằng Chúa phạt cũng chẳng oan chút nào bởi mình đã dùng quyền lực của Thiên Chúa để phạt chính mình bằng cách đã thực hiện những điều không nên cho người khác. Amen.

LỄ CÁC THÁNH(Mt. 5:1-12a) abc

1 Thấy dân chúng thì Ngài lên núi. Ngài ngồi xuống và môn đồ đến bên Ngài. 2 Ngài mở miệng dạy họ rằng:

3 Phúc cho những kẻ có tin thần khó nghèo, vì nước trời là của họ.

4 Phúc cho những kẻ hiền lành, vì họ sẽ được đất làm cơ nghiệp.

5 Phúc cho những kẻ ưu phiền, vì họ sẽ được an ủi.

6 Phúc cho những kẻ đói khát công chính, vì họ sẽ được no đầy.

7 Phúc cho những kẻ biết thương xót, vì họ sẽ được thương xót.

8 Phúc cho những tinh sạch trong lòng, vì họ sẽ thấy Thiên Chúa.

9 Phúc cho những kẻ tác tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.

10 Phúc cho những kẻ bị bắt bớ vì sự công chính, vì Nước Trời là của họ.

11 Phúc cho các ngươi khi người ta sỉ mạ các ngươi, và bắt bớ, đặt điều nói xấu đủ điều về các ngươi một cách lếu láo vì cớ Ta. 12Hãy vui xướng và hân hoan, vì phần thưởng các ngươi lớn thật ở trên trời :vì cũng như thế, chúng đã bắt bớ các tiên tri, tiền bối của các ngươi.

Một ông kia tuy nhà nghèo nhưng nuôi được con trâu cui rất mạnh khoẻ để cày ruộng và cày thuê cho những người trong làng làm nghề nông. Một buổi sáng sau khi sửa soạn phần cơm trưa và vác cày ra đến chuồng trâu thì con trâu đã biến mất. Qua cả tuần lễ đi đây đó tìm trâu mà không thấy ông tin chắc trâu đã bị mất trộm bởi nghĩ rằng “Lạc đàng theo chó, lạc ngõ theo trâu”,cho dù nó bỏ đi theo con trâu cái nào đó thì cũng nhớ đường về chuồng. Vừa tiếc trâu vừa lâm vào cảnh túng quẫn bởi không còn cách nào kiếm tiền chi tiêu trong gia đình, ông chỉ còn cách trình làng may ra cụ tiên chỉ và ban chỉ đạo làng giúp thêm ý kiến nào chăng. Tuy nhiên, khi gặp cụ tiên chỉ định nhờ cụ chỉ bảo phải trình báo theo thủ tục ra sao, vừa dợm tỏ bày nỗi đau xót mất trâu thì cụ tiên chỉ nói một câu khiến ông chưng hửng, “Thì từnay bác sẽ không bị phiền vì mất trâu nữa.”

Bình thường nếu có ai trình bày về một vấn đề nào đó khác với lối nhận thức của những người đồng thời, chúng ta đều cho rằng người đó nói ngang hoặc coi rẻ những điều họ phát biểu. Thời kỳ Mỹ dự định phóng phi thuyền lên mặt trăng đã có những người mới nghe tin tức đã kết luận dự án đó chứng minh con người đòi cướp quyền của Thiên Chúa! Ngày xưa, Galileo sau khi đã tìm tòi, thí nghiệm, để rồi công bố thành quả nghiên cứu của ông đó là trái đất quay quanh mặt trời! và lời tuyên bố của ông không những đã bị bác bỏ mà ông còn bị cưỡng ép phải nói lên những lời phủ nhận thành quả nghiên cứu của mình. Suy đi, nghĩ lại, chúng ta hình như có đồng một tính chất giống như thánh Phaolô trước khi bị quật ngã ngựa trên đường Damascus. Bất cứ điều gì không phù hợp với quan niệm đã ăn sâu nơi tâm não, chúng ta đều đóng tai, bịt mắt không chấp nhận! trong khi quên rằng nếu không chịu mở rộng lòng để suy tư, nhận định những gì khác với quan niệm của mình thì ánh sáng chân lý dù chói lọi đến mấy chúng ta cũng không thể nào nhìn thấy.

Bài Phúc Âm được gọi là “Bài Giảng Trên Núi” đã hai ngàn năm qua vẫn bị coi thường, dẫu khi được nhắc đến, bất cứ ai cũng đều tỏ lòng thán phục theo kiểu a dua. A dua bởi thấy sách vở ca tụng, bởi mọi người ca tụng, và bởi không ca tụng thì e sợ có kẻ cho rằng mình không hiểu, không tin vào Lời Chúa, không tin vào Đức Giêsu, không tin nơi lời dạy dỗ của Ngài. Nói cho đúng, Bài Giảng Trên Núi nghịch lại với tất cả mọi lối sống, nghịch lại với tất cả những suy luận cũng như tâm lý thông thái bình thường của bất cứ ai. Nếu nói rằng chúng ta ca tụng Bài Giảng Trên Núi để học theo hay mơ ước học theo, lẽ tất nhiên chúng ta đã không theo, vì nếu đã áp dụng trong cuộc sống, chúng ta không cần phải ca tụng bởi chẳng lẽ sống theo Phúc Âm chúng ta lại áp dụng lối “Mèo khen mèo dài đuôi” dẫu rằng mèo có đuôi dài!

Cho dù nơi đầu mỗi câu đều được viết “Phúc cho kẻ!” nhưng bất cứ thực thể lối sống nào được đề nghị nơi Bài Giảng Trên Núi đều ngược lại với mong muốn bình thường của mọi người nếu chúng ta chỉ nghe sao biết vậy hoặc hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen.

1/ Dùng tâm lý để suy luận mối phúc thật thứ nhất, “Những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ.” Nếu hiểu theo nghĩa đen, ai không ham tiền? Dẫu cho ai đó đã khá giả nhưng, “Nhà giầu ham việc, thất nghiệp ham ăn.” Và lẽ dĩ nhiên, càng nghèo càng ham tiền! do nào ai lạ gì, “Có tiền mua tiên cũng được.” Thế nên, người có tinh thần nghèo khó phải là kẻ giầu có nứt đố đổ vách bởi chúng ta chỉ mơ ước những gì chưa có hoặc có chưa đủ! Người giầu phải đối diện với quá nhiều sự phiền hà của sự giàu có nên mới có thể mơ ước niềm vui đơn thuần của người nghèo. Tuy nhiên, Phúc Âm dùng chữ nghèo để chỉ những ai theo đuổi cuộc sống tâm linh. Kinh nghiệm cuộc sống minh chứng, chỉ những người được sinh ra để giầu có mới có thể giầu có. Những ai, dù giầu hay nghèo nơi cuộc sống vật chất nhưng chú tâm suy nghiệm ý nghĩa, giá trị, và mục đích cuộc đời một người đều được gọi là người có tinh thần nghèo khó bởi chẳng kíp thì chầy học sẽ nhận ra được thực thể Nước Trời.

2/ Người nào nhận được thực thể Nước Trời sẽ nhận biết và nghiệm chứng được chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật. Vì vậy, đối xử với người, sử dụng tạo vật, họ đang trực tiếp đối diện với Thiên Chúa do đó tâm họ chất chứa đầy sự kính ngưỡng tạo nên thái độ hiền lành, khiêm nhu.

3/ Những ai đã nhận chân được sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi mình, nơi mọi người đều cảm thấy đau lòng bởi sự vô minh đang đày ải con người. Tuy nhiên, sẽ đến thời điểm Tin Mừng Nước Trời được Thần Khí bày tỏ nơi mọi tâm hồn, khi ngày đó đến, những ai đã sớm thức ngộ sẽ được hưởng niền ủi an, vì ước mơ thánh thiện của họ đã thành đạt.

4/ Tất nhiên, nơi cuộc đời tranh sống, người công chính thường bị đau khổ khi đối diện với những nỗi bất công, nhưng vì nhận thực được bất cứ thành quả nào cũng phải trả giá, những nỗi bất công lại trở thành cơ may cho những ai sống đời công chính. Không có những cơ may là những điều bất công này, cuộc sống công chính của họ sẽ cũng không mang giá trị nào đáng kể.

5/ Bất cứ ai đã thức ngộ, lòng thương xót sẽ là điều khổ ải lớn lao đối với họ vì muốn không nghĩ tới cũng không được mà thực hiện giúp người khác nhận chân Tin Mừng Nước Trời sẽ bị phản kháng. Con người vô minh chạy theo thế tục làm tổn thương hành trình tâm linh, hành trình đức tin của họ nhưng muốn nói cho họ nhận biết, họ chẳng những không để ý mà còn nhạo cười vì những điều nên nhận thức đều chống nghịch lại tham vọng thế tục, hoặc những quan niệm nhận thức về Phúc Âm theo lối thị dục đã ám ảnh người đời quá nặng nề chẳng khác gì chiếc bì cũ bao bọc nhận thức của con người khiến tâm trí khó lòng vượt thoát. Nỗi đau của người thức ngộ khi nhận thấy con người vẫn còn chìm đắm nơi nhận thức hữu vi nhưng không cách nào giúp họ, được gọi là lòng thương xót.

6/ Chỉ những người nhận chân được thực thể Tin Mừng Nước Trời mới có thể có được lòng trong sạch bởi họ nhận biết được quyền lực của ý định, ước muốn, ước mơ chính là quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động! quyền lực đức tin. Nhận thức được Thiên Chúa ngự trị nơi mọi vật, mọi loài được gọi là nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật.

7/ Cũng thế, vì chúng ta đang đối diện với quyền lực hiện hữu tối thượng là chính Thiên Chúa nơi mọi vật, mọi loài nên sự ăn ở thuận hòa là lẽ tất nhiên cho những ai nghiệm chứng được thực thể Tin Mừng Nước Trời.

8/ Bất cứ ai đã nhận thức được thực thể Tin Mừng, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23), cuộc đời hữu hình chẳng những là cơ hội cho họ thăng tiến nơi hành trình đức tin mà đồng thời cũng là công cuộc bách hại trường kỳ đối với họ. Dĩ nhiên, con người thì lầm lỗi do tinh thần thì sáng suốt nhưng thân xác lại nặng nề. Nhà tù thân xác không những giam hãm linh hồn mà luôn là cớ vấp phạm cho linh hồn.

9/ Đức Giêsu đã là đích điểm cho người ta ghen ghét vì đã không nói thuận chiều với ham muốn thị dục của con người. Chính chúng ta cũng không dễ chi nhận thức được những lời Ngài giảng dạy nơi Phúc Âm. Kinh nghiệm minh chứng, bất cứ ai dám chuyên chăm nghiệm chứng về Phúc Âm đều bị những tôn giáo lấy Phúc Âm làm chuẩn chẳng sớm thì chầy lên án. Điều này có thể minh chứng tại sao Phúc Âm có những câu khuyên răn lạ kỳ, “Hãy ở khôn như con rắn và đơn thuần như chim câu,” hoặc “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi,” dẫu Phúc Âm đã nêu lên câu nói nghịch thường, “Ai có tai thì nghe.”

Tóm lại, ai muốn nghiệm chứng Bài Giảng Trên Núi nên nhập tâm và cần kiên trì thực hành lời khuyên của thánh Phaolô như kết quả thực chứng của ngài, “Đừng dập tắt thần khí. Đừng khinh thị các ơn tiên tri. Hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ dưới mọi hình thức” (1Thes. 5:19-21), và rõ ràng hơn, ngài nhắc nhở, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Có điều, dẫu nơi Kitô giáo không ai có công trạng và nhận thức nghiệm chứng hơn Phaolô, nếu ai thực sự cố theo Đức Giêsu áp dụng phương pháp thực chứng Phaolô đề nghị để được thức ngộ nhờ Phúc Âm, người đó chắc chắn sẽ đạt tới lời khẳng định Đức Giêsu đã công bố, và đó là, sẽ bị khốn khổ vì theo Ngài. Phaolô bị bắt bớ đâu phải vì người vô thần nhưng do chính những người tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu đã kết án ngài! chẳng khác gì Đức Kitô đã bị kết án bởi những người nhân danh Thiên Chúa! Amen.

CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM(Mt. 10:17-22)

17 Hãy coi chừng người đời: họ sẽ nộp các ngươi cho công nghị và họ đánh đòn các ngươi trong các hội đường của họ. 18 Vì Ta, các ngươi sẽ bị điệu đến trước quan quyền và vua chúa, để làm chứng trước mặt họ và các dân ngoại.

19 Khi người ta nộp các ngươi, thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao, hay nói gì: vì ngay giờ đó, sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, 20 vì không phải các ngươi nói, mà là Thần khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi.

21 Anh em sẽ nộp nhau để bị giết; cha nộp con; con cái đối địch với cha mẹ trước tòa, và ra tử hình cho họ. 22 Và các ngươi sẽ bị mọi người ghét vì danh Ta; nhưng ai bền vững đến cùng, người ấy sẽ được cứu.

Nếu để tâm nhận xét nơi lòng mình, kinh nghiệm sống đạo nơi mỗi người chúng ta minh chứng một thực thể hơi lạ lùng. Chúng ta theo đạo, chịu khó tham dự những công việc và nghi thức thờ phượng, nghe giảng giải, đọc kinh sách, nhưng hình như nỗi khát khao nào đó về Thiên Chúa hay về một viễn tượng mơ hồ, như gần, như xa, đôi lúc cảm thấy quay quắt, tha thiết, thúc dục chúng ta cần phải thực hiện điều gì đó để thăng tiến tâm linh nhưng rất khó tìm được đầu mối để bắt đầu;đôi lúc chúng ta lại cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, tự hỏi tại sao mình hiện hữu và sự hiện hữu nơi cõi dương gian này sẽ dẫn dắt chúng ta về đâu, hoặc chẳng lẽ bao công lao gầy dựng cuộc sống, làm lụng vất vả chỉ là phương tiện nối tiếp kéo dài sự hiện hữu của mình nơi mặt đất được thêm ngày nào hay ngày ấy để rồi tất cả sẽ chìm vào lãng quên khi xuôi tay nhắm mắt? Đã bao nhiêu lần nhìn đến những người chung quanh nhất là những bạn trẻ, sao họ vui tươi thoải mái trong khi lòng mình chất chồng muôn nỗi ưu tưbởi chẳng những gánh nặng sống còn nơi cuộc đời mà nỗi ước mơ thầm kín nào đó vẫn dai dẳng níu kéo và hối thúc.

Nhiều khi kiếm tìm nơi sách vở, kinh nọ, truyện kia, người ta chỉ viết về những vấn đề nào đó chứ điều mình thực sự mong mỏi sao chẳng bao giờ thấy được bất cứ tác giả nào đó nhắc đến. Những chủ thuyết, lý thuyết kiến tạo cuộc đời thoải mái hơn hoặc những kết quả thực nghiệm của phát minh khoa học cũng không giải đáp được dẫu chỉ một phần nhỏ nỗi khát khao nơi nội tâm mình đang dằn vặt. Thế nên, nhiều khi con người càng cố gắng tìm kiếm phương cách kiện toàn nỗi khát khao qua nhận thức từ các sách vở thì lại chỉ càng cảm thấy khoảng trống tâm tư thêm diệu vợi. Nói cho đúng, không sách vở nào, không sự khôn ngoan nào có thể giải đáp cho con người những nỗi thắc mắc đơn sơ nhất, chẳng hạn tại sao mình có cuộc đời, và cuối cùng mình sẽ đi về đâu! Bao nhiêu lý thuyết, bao nhiên giải đáp được trình bày cũng chẳng khác gì lời quảng cáo thuốc lào, chồng hút, vợ say, và thằng bé lăn quay! Chúng chỉ nhưnhững lời hoa mỹ nhai đi nhai lại, giải thích về nước trong khi mình đang khát bỏng cổ, không thể nào giúp cho hết khát. Nỗi thao thức, khát vọng thâm sâu ẩn hiện nơi tâm hồn mỗi người không thể giải quyết được bằng bất cứ phương tiện ngoại tại nào mà cần được suy tư, nghiệm chứng bởi chính con người mang nỗi thao thức.

Bài Phúc Âm vừa được công bố đặt nơi miệng Đức Giêsu lời nhắn nhủ đối với những ai theo lời dạy dỗ của Ngài kiếm tìm về thực thể nội tại của mình. Bất cứ ai suy nghiệm Phúc Âm để sống theo những lời Ngài dạy sẽ bị chống đối không những bởi người chung quanh mà ngay cả những người thân thiết nhất nơi gia đình của mình, “Anh sẽ nộp em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết.” Chúng ta sẽ không kiếm đâu ra được những lời chân thành và hiện thực đến độ mới nghe hay đọc đã cảm thấy đáng ngại ngùng như những lời ghi chép nơi Phúc Âm. Có lẽ chính vì thế, cho dù bỏ công sức, hao tiền tổn của để lục lọi, tìm kiếm sự khôn ngoan thực thiễn hầu có giải đáp cho nỗi khát khao nội tâm nơi kho tàng kinh sách, và cho dù đã nhiều lần vô tình hay hữu ý đọc Phúc Âm, chúng ta cũng không dám để ý nghiệm xét những lời có vẻ không êm tai và nghịch thường này. Lý do thật đơn giản, ai không muốn sẵn cỗ ngồi vào; ai chẳng thích ngồi mát ăn bát vàng! Chính vì thế chúng ta đã vội để cho những lý thuyết dễ dãi lừa dụ và ám ảnh, bịt kín tâm trí, theo năm tháng giết lần mòn hoặc che mờ nỗi thao thức thánh thiện đã được đặt nơi lòng trí tự thuở đời đời, nỗi khát khao nhận biết chính mình, nhận biết mình là ai, và mình liên hệ với Thiên Chúa ra sao!

Mượn giây phút này, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em để tâm suy nghiệm câu Phúc Âm, “Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy để làm chứng cho họ và cho dân ngoại biết. Nhưng khi người ta bắt nộp chúng con thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì, vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì. Vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.” Chúng ta đã quá dễ dãi chấp nhận những lý thuyết hoặc nhận thức đầy thị dục của loài người tưởng tượng theo nhãn quan thế tục rằng Thiên Chúa chẳng khác gì ông vua nơi gian trần, nhưng linh thiêng, ngự trên chín tầng trời! mặc dầu con người văn minh ngày nay đã gửi vệ tinh ra ngoài không gian mà mãi chưa nghe nói gì về dẫu chỉ tầng trời thứ nhất. Rồi cũng một Thiên Chúa tưởng tượng ấy, chúng ta gán ép cho ngài đầy đủ tính chất tham sân si giống như mình để rồi cố gắng đày đọa cuộc đời mình với ước vọng thỏa mãn hoặc mua chuộc vị thiên chúa tưởng tượng ấy. Đồng thời cũng từ sự tưởng tượng, chúng ta tạo thêm một thiên đàng theo thị dục và rồi lại cũng tạo thêm mối hy vọng to lớn hầu được thiên chúa tưởng tượng của chúng ta sẽ ban cho phần thưởng sau khi chết là chính cái thiên đàng con đẻ từ tưởng tượng của chúng ta. Tất cả chỉ là bánh vẽ! Tất cả chỉ là sản phẩm đầy thị dục nơi lối nhìn thế tục về Thiên Chúa. Thật là đau thương cho kiếp người, quá uổng phí những ngày tháng đã qua; cũng chỉ vì coi thường lời dạy của Đức Giêsu nơi Phúc Âm, chúng ta đã tự đày đọa, dằn vặt mình, và dùng tưởng tượng để biến mình thành mù tối.

Đức Giêsu rõ ràng công bố đã hai ngàn năm qua, “Vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.” Thánh Thần của Thiên Chúa là chính Thiên Chúa. Thánh Thần của Thiên Chúa nói trong chúng ta tất nhiên Thiên Chúa ở trong chúng ta. Nơi câu Phúc Âm khác, Đức Giêsu đã trả lời khi có người hỏi về ngày giờ xuất hiện của Nước Thiên Chúa, “Người ta sẽ không nói được: 'Này ở đây' hay 'ở đó,' vì này Nước Thiên Chúa ở trong các ông.” Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Nước Thiên Chúa ở trong các ông có nghĩa Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người chúng ta. Đây chính là Tin Mừng Nước Trời (Mt. 1:23). Thêm vào đó, vì Thiên Chúa ở nơi mỗi người nên đức tin chính là quyền lực của Thiên Chúa nơi con người. Đây là lý do, căn nguyên giải thích tại sao nơi những câu chuyện Phúc Âm mà chúng ta gọi là phép lạ, Đức Giêsu đều tuyên bố, đức tin con chữa con, đức tin con cứu con, đức tin con là ơn cứu độ của con.

Nhận thức như thế, suy tư để nghiệm chứng thực thể quyền lực tối thượng là chính Thiên Chúa đang ngự trị nơi mỗi người, chúng ta phải và chúng ta có bổn phận tuyên dương cho mọi tạo vật nhận biết chúng ta đã được xuất phát từ gốc thánh thiện là chính Thiên Chúa và Ngài đang ngự trị nơi mình. Bởi thế, bất cứ ai sống trong ơn nghĩa của Chúa phải được gọi là thánh. Chúng ta là thánh vì Thiên Chúa, Đấng vô cùng thánh thiện đang ngự trị nơi mình. Tuy nhiên, điều đáng buồn đó là chúng ta đã vô tình vì tôn phục và tin kính Chúa nên rộng mở lòng tự biến mình thành thùng rác để chứa đựng những điều không nên, những tưởng tượng thế tục về Chúa, che lấp sự cả sáng thánh thiện của Chúa đang chiếu soi nơi mình. Thay vì nhận ra quyền lực tối thượng của Chúa đang hoạt động nơi mình, chúng ta đã nhắm mắt, bịt tai, che mờ tâm trí để tin tưởng rằng, cho rằng mình không xứng đáng.

Hôm nay, nhân ngày lễ kính các thánh Tử Đạo Việt Nam, tôi mời gọi mọi người, từ nay về sau, để tâm nhận chân sự thánh thiện nơi mình. Mừng kính các thánh Tử Đạo, chúng ta tuyên dương sự tử đạo nơi chính mình. Thử đặt câu hỏi, còn gì đau thương hơn, còn gì khốn khổ hơn trạng thái vô tình bởi không để ý suy nghiệm, chúng ta đã không nhận biết quyền lực cả thể của Thiên Chúa nơi mình để sử dụng mà đày đọa tấm thân thánh thiện hòa nhập với những nỗi cơ cực hàng ngày? Không có tội lỗi nào lớn lao và tệ hại hơn sự dồn ép do thiếu hiểu biết, nói cách khác, bắt Thiên Chúa nơi mình qui phục sự vô minh. Tôi nghĩ, tội tổ tông chính là trạng thái vô minh của con người, không nhận biết chính Thiên Chúa đang ngự trị nơi mình.

Tóm lại, chúng ta đang bắt Chúa tử đạo nơi cuộc đời cũng chỉ vì không suy nghiệm sự hiện hữu quyền lực thánh thiện là chính Thiên Chúa nơi mình. Sự tử đạo của các thánh tử đạo Việt Nam do chính Chúa hiện thân nơi các ngài thực hiện. Vì Thiên Chúa ngự trị nơi mình, do đó sống trong ân nghĩa của Chúa, chúng ta là thánh. Nhận thức như thế, xin quý ông bà anh chị em từ nay để ý, đừng làm phiền Thiên Chúa nơi mình mà sống tuyên dương quyền lực thánh thiện của Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình. Amen.

CHỦ NHẬT 32B (Mc. 12:38-44)

38 Trong khi giảng dạy Ngài có nói: "Hãy coi chừng các ký lục, họ ưa dạo quanh, áo chùng xúng xính, và được bái chào ngoài công trường, 39 chỗ nhất nơi hội đường và cỗ nhất trong tiệc tùng. 40Họ ngốn các nhà cửa của bà góa, và làm bộ cầu nguyện lâu dài: những kẻ ấy sẽ lĩnh án phạt nặng hơn".

41 Ngồi đối diện với hòm tiền, Ngài xem dân chúng bỏ tiền vào hòm tiền thế nào. Lắm người giàu có bỏ nhiều. 42 Bà góa nghèo khó nọ cũng đến bỏ vào hai trinh, tức là một xu. 43 Ngài gọi môn đồ của Ngài lại mà nói với họ: "Quả thật, Ta bảo các ngươi, bà góa nghèo khó ấy đã bỏ nhiều hơn những người bỏ vào hòm tiền hết thảy. 44vì mọi người đều lấy của dư bỏ vào, còn bà ấy lấy túng thiếu mà bỏ vào mọi sự mình có, tất cả của độ thân".

Đọc Phúc Âm, suy nghiệm thâm sâu, và thực chứng những lời dạy khôn ngoan nơi cuộc đời mỗi người, chúng ta sẽ nhận thức được Lời Chúa dẫn dắt con người nơi hành trình đức tin. Phúc Âm chỉ vẽ cho chúng ta những mẫu mực khôn ngoan để áp dụng từng bước một hầu tiến tới sự trọn lành như lời Đức Giêsu khuyến khích, “Hãy trở nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời là Đấng trọn lành” (Mt. 5:48). Sự trọn lành có thể đạt tới nơi cuộc sống hữu hình của con người chính là trạng thái tâm hồn thánh Phaolô đã tuyên xưng nơi thư gửi tín hữu Galat, “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi” (Gal. 2:20).

Bài Phúc Âm vừa được công bố trình bày về ba nhận thức: Đầu tiên, bài Phúc Âm đưa lên lời kết án những hình thức tỏ vẻ cao trọng bề ngoài để ám chỉ sự nhấn mạnh về giá trị ý định nơi tâm hồn con người. Lời Chúa khuyến khích chúng ta để ý đến tâm tình của mình đối với Ngài. Chính tâm tình này hướng dẫn và điều khiển thái độ cũng như hành động của con người. Ai trong chúng ta không quá quen thuộc với câu nói, “Trâu chết để da, người ta chết để tiếng.” Tuy nhiên, danh tiếng ở đây có nghĩa thực tài, thực lực, những công danh do kết quả của những công việc đem lại lợi ích cho con người; chứ không phải danh tiếng lệ thuộc hình thức mua quan bán tước hoặc do mưu mô tham vọng bất chính đánh lừa những người chân thành chất phác. Bất cứ những sự giả hình giả chước nào đều cũng làm tổn hại đến hành trình đức tin, hành trình trở nên thiện hảo của con người.

Thứ đến, bài Phúc Âm nói về trách nhiệm của một người cũng như hậu quả của hành vi giả hình bất chính mà người đó thực hiện nơi câu, “Họ giả bộ đọc những kinh dài để nuốt hết tài sản của các bà góa. Họ sẽ bị kết án nghiêm nhặt hơn.” Đâu phải vô lý mà tiền nhân chúng ta để lại câu, “Miệng bồ tát lòng lạt buộc,” hoặc “Khẩu Phật, tâm xà.” Lời Chúa nói rõ, những người giả hình làm hại người khác dưới bất cứ hình thức nào đều lãnh những hậu quả được gọi là nghiêm nhặt chẳng khác gì nơi quan niệm nhân gian, “Gieo gió gặt bão.”

Điểm thứ ba đó là Phúc Âm đặt nơi miệng Đức Giêsu lời ca tụng sự đóng góp nhỏ nhặt, hai đồng tiền chỉ đáng một phần tư xu, cho đền thờ của bà góa vì bà đã đóng góp với tất cả lòng chân thành của mình.

Thử nhìn lại chính mình, chúng ta cần nhận định về thái độ theo đạo của mỗi người. Lý do gì khiến chúng ta tới nhà thờ tham dự thánh lễ? Chúng ta đi nhà thờ vì luật buộc hay vì mục đích thờ phượng, tôn vinh Chúa? Phỏng chúng ta có cảm thấy cần thiết sự thăng tiến trên hành trình đức tin hay không? Hoặc chúng ta có thực sự cảm thấy nên dành thời giờ để tâm nhận thức về sự hiện hữu và hoạt động của Thiên Chúa nơi cuộc đời mình hay không? Có bao giờ chúng ta đặt vấn đề về cách ăn mặc của mình khi tham dự thánh lễ? Hoặc so sánh cách ăn mặc của chúng ta khi tới nhà thờ tôn vinh Chúa với những khi tham dự tiệc tùng, đám cưới, an táng, hay khi cần phải gặp những nhân vật quan trọng có thế giá nơi cuộc đời? Phỏng chúng ta suy nghĩ đến thái độ nên sòng phẳng đóng góp của mình đối với giáo xứ khi so sánh với những hồng ân đã được lãnh nhận nơi cuộc sống? Chúng ta đã giúp được gì nơi những công việc giáo dục và dạy dỗ con em của chúng ta nhận biết Chúa?

Thiên Chúa không cần chúng ta nhưng chúng ta cần Chúa. Thiên Chúa không cần nhà thờ nhưng chúng ta cần ngôi nhà to lớn này và những vật dụng thiết yếu cho việc thờ phượng tôn vinh Ngài. Lẽ đương nhiên, chúng ta chịu trách nhiệm về ý định, ước mơ, thái độ của mình và lãnh những hậu quả mình đã ước mơ. Ơn lành, hồng ân, và sự thánh thiện của Chúa luôn tràn đổ nơi mọi người chúng ta. Tuy nhiên, sự lãnh nhận của mỗi người tùy thuộc tâm tình rộng mở của mình đối với Thiên Chúa. Tất cả những việc, sự vật bao quanh đều là cơ hội dẫn dắt chúng ta trên hành trình đức tin, hành trình trở nên thiện hảo, hành trình nhận biết và hòa nhập vào quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động nơi chính mình. Vấn đề còn lại chỉ là chúng ta có thực sự mở rộng lòng và ước ao nhận biết hay không. Sự đóng góp khiêm tốn của bà góa được Đức Giêsu nhận định lớn lao hơn sự đóng góp của những người giầu có khác vì bà dâng cúng với tất cả lòng thành và khả năng bà có thể.

Tóm lại, bài Phúc Âm khuyến khích mọi người chúng ta tự nhận định lại tâm thành theo đạo và giữ đạo của mình. Nói cách khác, sự lãnh nhận của chúng ta chính là lòng thành của mình đối với Chúa qua bất cứ phương diện nào nơi cuộc sống. Amen.

CHỦ NHẬT 33B (Mc. 13:24-32)

Khi ấy Chúa Giêsu nói với các môn đồ:“Trong những ngày sau cơn khốn quẫn ấy, mặt trời sẽ tối sầm; mặt trăng sẽ mất sáng; tinh tú tự trời sa xuống. Và bấy giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Và bấy giờ, Ngài sẽ sai các thiên thần mà thâu họp những kẻ được chọn tự bốn phương, từ mút cùng mặt đất đến mút cùng chân trời.“Nghiệm xem cây vả, các ngươi hãy hội lấy làm ví dụ: Khi cành nó uốn mềm và lá trổ sinh thì các ngươi biết mùa hè gần bên. Cũng vậy, khi các ngươi thấy các điều ấy xảy ra, các ngươi cũng hãy biết là: Ngài đã gần bên cửa!“Quả thật, Ta bảo các ngươi: Thế hệ này sẽ không qua cho đến khi mọi điều ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi nhưng lời Ta nói sẽ không bao giờ qua đi! Về ngày ấy hay giờ ấy thì chẳng ai biết được, cả thiên thần trên trời, cả Con nữa, trừ phi là Cha!”

Đọc hoặc nghe bài Phúc Âm vừa được công bố, bất cứ ai cũng đều cảm thấy sợ hãi vì chúng ta thường quan niệm rằng ngày Chúa đến sẽ là ngày kinh khủng chưa từng thấy. Phỏng ai không cảm thấy bàng hoàng khi nghĩ về cảnh tượng mặt trời trở nên tối tăm, các vì sao khổng lồ sẽ bay thẳng vào để tiêu hủy trái đất cỏn con này và đồng thời mọi quyền lực vô cùng nơi vũ trụ đều bị lay chuyển!

Đồng thời bài Phúc Âm nói đến cảnh tượng huy hoàng khi Đức Giêsu trở lại với quyền năng vinh quang cao cả để thâu họp những người đã được chọn lựa từ mọi nơi mọi thời.

Tuy nhiên, nói đến những người đã được chọn lựa không có nghĩa họ thoạt mới sinh ra hoặc ngay từ trước khi sinh ra hay nói theo ngôn từ nhà đạo, tự thuở đời đời đã được sắp xếp và được sinh ra để được đặc biệt ân thưởng, được biệt đãi hơn mọi người chung quanh. Thực ra, nói đến những người được chọn lựa tất nhiên đã ngầm hiểu có những điều kiện nào đó làm mẫu mực hay tiêu chuẩn. Ngay nơi dân gian người Việt đã có câu, “Trời nào có phụ ai đâu; hay làm thời giầu, có chí thời nên,” thế mà vẫn đâu thiếu gì những người chăm chuyên, chân chỉ hạt bột, khổ cực làm lụng mà cuộc sống nghèo nàn suốt đời đến nỗi qua bao năm tháng thi gan xoay xở thử thời vận để rồi cuối cùng cũng đành phải chấp nhận, “Số khó làm chẳng nên giầu.” Mỗi con người là một kho tàng bí ẩn không những đối với mọi người mà có thể nói ngay người đó cũng khó có thể hiểu nổi hoặc nhận thức đầy đủ rõ ràng mình là ai. Nếu đã không tự biết về chính mình sao con người có thể hiểu nổi mình tự đâu đến và chết rồi sẽ đi về đâu. Thêm vào đó, tất cả những lý thuyết, giả thuyết, hoặc quan niệm đều chỉ là sản phẩm phát xuất từ sự suy tư của con người và nói cho cùng, họ cũng như chính mình, không biết họ tự đâu, lý do gì được sinh ra và sau cuộc đời trôi nổi thăng trầm này họ sẽ đi về đâu ngoài nấm mồ chôn sâu nơi lòng đất.

Tuy nhiên xét về mặt tâm linh, những ai đã để tâm nghiệm chứng sẽ nhận chân được sự thể quá thường, thường đến nỗi ít ai để ý, đó là mọi hoàn cảnh sống, mọi sự việc dù lớn hay nhỏ xảy đến nơi cuộc đời một người đều là những phương tiện hay cơ hội cho người đó trở nên thánh thiện, hầu hoàn thành sứ mạng huyền nhiệm đã dẫn dắt mình từ cõi vô hình vào cuộc đời hữu hình muôn màu muôn vẻ này. Nói theo ngôn từ Công Giáo, đó là kiện toàn hành trình đức tin, hành trình nhận chân thực thể quyền lực tối thượng là chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình, và mình chỉ là công cụ cho Ngài tiếp tục công việc tạo dựng.

Nếu ai đã nhận chân thực thể này, câu hỏi cần thiết được nêu lên, Đức Giêsu mang kỳ vọng nào nơi mỗi người chúng ta? Phúc Âm Mátthêu đặt nơi miệng Ngài lời công bố rõ ràng, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài, mà mọi điều khác sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:33). Như chúng ta hiểu biết, Nước Thiên Chúa là chính Ngài thế nên tìm kiếm Nước Thiên Chúa chính là tâm tình nhận chân Tin Mừng Nước Trời, nhận chân thực thể Thiên Chúa ở cùng chúng ta; Thiên Chúa đang hoạt động nơi mọi người, mọi loài, mọi tạo vật. Và như vậy, đức tin là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người. Bởi thế, nếu ai đã suy nghiệm để đạt đến sự nhận thức thâm sâu thực thể Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình, tất nhiên sẽ sử dụng được quyền năng đức tin, quyền năng của chính Thiên Chúa ngự trị nơi mình. Đây có thể là lý do tại sao nơi Phúc Âm Mác Cô có câu: "Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự" (Mc. 11:22).

Nhận định như thế, hiểu như vậy thực ra chẳng khác gì múa gậy vườn hoang, cũng chỉ là đấm gió mà thôi, nếu đối chứng sự hiểu biết, nhận định của chúng ta với Phúc Âm. Vấn đề thực tiễn không phải chỉ nói suông, cũng không phải thừa giờ nên tán hươu tán vượn, mà đòi hỏi sự thực nghiệm như nơi câu hát nào đó, “Không phải là lúc ta ngồi đặt vấn đề, phải dùng bàn tay mà làm cho tươi mới. Hàng chục năm qua, ta ngồi ngó nhau, khinh thường nhau, trách móc nhau cho cay cho sâu cho thật đau.” Hiểu Phúc Âm, được ăn học, có bằng cấp này, chứng chỉ kia, nhưng không nghiệm chứng để nhận chân Nước Trời cũng chỉ là đánh võ miệng, hô phong hoán vũ lòe thiên hạ chứ không thể nào bảo ngọn đồi nhỏ xê đi đâu được chứ đừng nói chi tới những ngọn núi to lớn. Bởi đó, giả sử Đức Giêsu gặp mỗi người chúng ta, phỏng chúng ta có được gì để trình diện với Ngài? Chúng ta sẽ trả lời với Ngài về cuộc sống của mình ra sao nếu đem so sánh với những lời Ngài dạy nơi Phúc Âm? Chúng ta sẽ dùng những gì để minh chứng mình đã tìm kiếm Nước Thiên Chúa? Mình đã tôn vinh Thiên Chúa thế nào? Đã thực hiện chi nơi hành trình đức tin? Nếu ai đã có lần tự hỏi tất nhiên sẽ có câu trả lời vì ước muốn, ý định của chúng ta ở đâu thì lòng dạ chúng ta chuyên chú về nơi đó. Thế nên vấn đề đơn thuần chỉ là nhận biết chúng ta đang mơ ước gì!

Tuy nhiên thực tại nội tâm minh chứng, dẫu cố gắng tự ủi an, dẫu chăm chuyên tìm kiếm, lục lọi nơi Phúc Âm hầu có được nỗi an bình tâm tưởng chúng ta vẫn luôn luôn cảm thấy sợ hãi cho thân phận mình nơi thế giới bên kia. Mặc dầu ép mình ép xác ăn ngay ở lành đến thế nào, chúng ta vẫn chưa thể nào nắm chắc được kết quả rồi mình sẽ ra sao sau khi chết. Thế nên chúng ta đành phải giả đò vênh vang tuyên xưng niềm hy vọng để tự trấn an. Dĩ nhiên, tự vấn lương tâm chúng ta sẽ nhận thực được lẽ đương nhiên, và đó là khi chúng ta còn đang hy vọng nơi điều gì hay vấn đề nào đó, chúng ta thực sự chưa biết chắc về điều mình hy vọng. Nói đến điểm này, nỗi thắc mắc bao năm luẩn quẩn nơi suy tư chợt trở lại với tôi. Tôi tự hỏi, phỏng chúng ta có phương cách nào giải đáp hợp lý hợp tình cho sự liên hợp hài hòa của hai thực thể đối nghịch được nhắc đến nơi Phúc Âm. Đó là ngày công thẳng của Thiên Chúa và lòng thương xót, yêu thương vô bờ bến của cũng một Thiên Chúa công thẳng ấy!

Nếu thành tâm suy nghiệm, bài Phúc Âm diễn giảng cho chúng ta thực trạng của những ai đã nghiệm chứng được thực thể Nước Trời. Bất cứ ai khi đã nhận chân được quyền lực tối thượng là chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mình, không còn quyền lực thế tục hoặc quyền lực vũ trụ nào có thể đe dọa họ được nữa. Đối với họ, sống hoặc chết cũng như nhau. Mỗi giây phút sống chẳng khác gì cuộc đời họ đã qua đi; thế nên dầu mặt trời có chiếu sáng nữa hay không chẳng thành vấn đề. Thực trạng này chỉ những ai đã đạt tới mới có thể nhận thức rõ ràng và chỉ người đó biết. Chúng ta thử nghiệm chứng câu, “Quả thật Ta bảo các ngươi: Thế hệ này sẽ không qua cho đến khi mọi điều ấy xảy đến.” Hai mươi thế kỷ trôi qua từ ngày Đức Giêsu nhập thể làm người tất nhiên ít nhất phải hơn trăm thế hệ của con người đi vào quá khứ. Nếu những lời Phúc Âm nói đến thực tại vật chất tất nhiên sự kiện này đã xảy ra nơi cuối thế hệ thứ nhất của loài người tính từ ngày sinh nhật của Ngài. Chúng ta nên để ý, chúng ta chỉ có thể suy nghĩ theo chiều hướng suy tư hay quan niệm của loài người và chúng ta không thể nào biết được Thiên Chúa ra sao, thế nên càng không thể hiểu được ý Ngài. Những gì chúng ta nghĩ hay quan niệm về Chúa đều là sự tưởng tượng của loài người. Một điều quan trọng khác, đó là Lời Chúa, lời Phúc Âm đòi hỏi chúng ta nghiệm chứng và thực chứng chứ không diễn tả sự vật theo quan niệm thế tục.

Tóm lại, đối với một người, ngày giờ Đức Giêsu ngự đến chính là thời điểm người đó nhận chân được thực thể Nước Trời, nhận chân được chính Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình. Bất cứ ai thực tâm và theo đuổi hành trình tìm kiếm Nước Trời, sẽ có ngày nào đó thực chứng được Thiên Chúa nơi mình vì ước muốn của chúng ta ở đâu, chắc chắn lòng dạ và tâm trí của chúng ta cũng ở đó.

THÁNH LỄ ĐẦU NĂM (Mc. 6: 30-34)

30 Các tông đồ tụ hợp lại bên Ðức Yêsu, và tin lại cho Ngài tất cả những gì họ đã làm và đã dạy. 31 Ngài mới bảo họ: "Cả các ngươi nữa cũng hãy đi riêng ra, vào chỗ nào hiu quạnh, mà nghỉ ngơi đôi chút". Vì người ta lui tới nhiều, và họ không rảnh được mà ăn nữa. 32 Vậy nên họ lên đò ra đi đến một chỗ hiu quạnh, biệt riêng ra. 33 Thấy họ ra đi, thì nhiều người đã biết và từ hết các thành, người ta rảo bộ mà đổ dồn đến nơi ấy, và đã đến trước họ. 34 Vừa ra, Ngài đã thấy dân chúng đông đảo, và Ngài chạnh lòng thương xót họ vì họ như cừu chiên không có người chăn giữ, và Ngài lên tiếng giảng dạy cho họ nhiều điều.

Vào thời điểm này, chúng ta dành đôi giây phút đặc biệt cảm tạ Chúa đã ban cho chúng ta một năm qua an bình để giờ đây chúng ta đang ở những giây phút đầu tiên của một năm mới. Vì thế, chúng ta dùng thời giờ đặc biệt, nâng tâm hồn lên hòa nhập cùng muôn thần thánh chúc tụng Chúa Tể Càn Khôn với tất cả sự hiện hữu của mình. Nơi tâm tình chia sẻ Lời Chúa, tôi mời gọi quý ông bà anh chị em, chúng ta thử đặt lại đôi vấn đề cuộc sống hầu có được nhận định rõ ràng hơn về hồng ân được sinh ra làm người và những giá trị của những sinh hoạt nơi cuộc đời mỗi người.

Nhận xét một cách tổng quát về cuộc đời mỗi người, biết bao công sức đã được sử dụng đắc lực cũng như biết bao điều chẳng nên chúng ta đã thực hiện dù vô tình hay hữu ý, và chính những kinh nghiệm cuộc sống nơi quá khứ, phần nào đó tạo thành mỗi con người của ngày hôm nay. Những công sức này dù dưới bất cứ hình thức và trạng thái nào, hoặc người khác nhận biết hay không, những ai trong chúng ta đã để tâm và nhiệt tình thực hiện hay không, tự mỗi người nhận thấy rõ ràng nơi lòng mình. Thế nên, dẫu không ai hay biết thì ít nhất mình biết và Chúa biết. Cho dù hăng say, nhiệt thành đến độ dám hy sinh, dùng cuộc đời như một hồng ân thăng tiến chính mình, nhận ra thực thể Thiên Chúa đang hoạt động nơi mình và đồng thời quảng đại giúp người khác thăng tiến, hoặc ngược lại, sống ích kỷ, tưởng rằng cuộc đời này đã bị sinh ra thì phải sống và sống cho qua đến độ không dám nghĩ đến sự chết, tất cả chúng ta, đến thời điểm nào đó, lương tâm mỗi người sẽ là quan tòa khắc nghiệt nhất dẫn dắt và bắt ép mình phải sống sao cho đúng ơn gọi làm người. Chúng ta đều biết rõ, lửa nóng tự nó chứ không phải tại bất cứ lý do nào mà nó bị nóng hay phải nóng. Tâm hồn tốt lành sẽ hướng dẫn lời nói thái độ chân thành. Bởi vậy, thái độ, lối sống của chúng ta là bằng chứng đích thực bày tỏ tâm hồn của mình. Đem nhận định này áp dụng vào lời dạy của thánh Phaolô nơi thư thứ nhất Côrintô, "Thân mình anh em là đền thờ của Thánh Thần" thì lối sống, thái độ chúng ta đang quảng bá Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ như thế nào qua cuộc đời của mình.

Nếu tôi không lầm, chúng ta đã nghe qua quá nhiều nên đã quá quen với câu Kinh Thánh diễn tả lời Chúa phán với vua Salômôn, "Vì ngươi đã xin điều đó, mà không xin sống lâu, được giàu có, của cải, mạng sống quân thù, thì đây Ta ban cho người điều ngươi xin, và ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi không có ai giống như ngươi, và sau ngươi không có ai bằng ngươi." Nhiều lần đọc những lời này khiến tôi đặt vấn đề so sánh những lời khôn ngoan được cho rằng của vua Salômôn và lời Phúc Âm. Tôi thử nêu lên một trường hợp. Chẳng hạn ba câu nơi sách Cách Ngôn thường được cho rằng do vua Salômôn viết, đại ý nói về cách cư xử với những người không chịu hiểu biết. Câu thứ nhất nơi đoạn 23, câu 9, "Đừng nói vào tai kẻ ngu xuẩn, bởi nó sẽ khinh dể nét tinh tế của lời con nói." Câu thứ hai nơi đoạn 26, câu 4, "Đừng trả lời kẻ ngu xuẩn theo sự điên dại của nó, kẻo cả con nữa, con cũng nên giống nó." Câu số ba, nơi câu 11 của đoạn 26, "Như con chó trở lại đống nó vừa mửa, cũng vậy, kẻ ngu xuẩn trở về với sự điên dại của nó." Chúng ta thấy, nếu đem cả ba câu này gom lại cũng không thể nào so sánh với câu Phúc Âm Matthêu, đoạn 7, câu 6, "Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi." Tôi nhận thấy, chúng ta đã bao nhiêu lần nghe, đọc Kinh Thánh nhưng không dám suy tư bởi e rằng phạm thượng nên đã vô tình để lỡ ngày giờ có được cơ hội sống nơi dương gian trong thân phận con người, không dám sử dụng khả năng suy tư sẵn có để thăng tiến trên đường tâm linh.

Bài Phúc Âm vừa được công bố nhắc lại lời khuyên của Đức Giêsu cho các tông đồ mà cũng là lời khuyên cho mọi người chúng ta, "Các con hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút." Nơi vắng vẻ chính là sự suy tư ở tâm hồn chúng ta. Chúng ta cần nghiệm chứng lời Phúc Âm nơi cuộc đời, suy tư thế nào để áp dụng Lời Chúa thành chính thái độ sống của mình.

Năm cũ đã qua, năm mới đến với những giây phút đầu tiên... Chúng ta không thể sửa đổi quá khứ. Chúng ta chỉ có thể sống cho lúc này và chuẩn bị đối diện với tương lai bởi những gì đã rơi vào quá khứ tất nhiên đã chết, không còn gì đáng tha thiết. Không phải những lề luật hoặc hình thức bên ngoài có thể biến chúng ta thành thánh thiện hay tốt lành mà chính là tâm hồn rộng mở nhận định giá trị hồng ân làm người mới là bước khởi đầu dẫn dắt chúng ta trên đường thiện hảo. Chúng ta được ban cho cuộc đời, ai cũng được sinh ra với những hồng ân, đặc biệt là khả năng suy tư. Tất nhiên, dẫu cuộc hành trình vạn dặm thì cũng cần được bắt đầu bằng một bước chân. Bước vào năm mới, tôi mời gọi quý ông bà, anh chị em dứt khoát giã từ quá khứ để suy tư, suy nghiệm, kiến tạo một tâm hồn mới rộng mở cho hành trình tâm linh sắp tới. Xin Thiên Chúa ban cho mọi người một mùa xuân an lành và một năm thăng tiến đức tin qua sự suy nghiệm Lời Chúa. Amen.

THANHSGIVINGDAY(Mc. 5:18-20)

5:18 Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người.

5:19 Nhưng Người không cho phép, Người bảo: "Anh cứ về nhà với thân nhân, và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào."

5:20 Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.

Nơi dân gian người Việt có câu “Ơn ai một chút khó quên; phiền ai một chút để bên dạ này” (Ca Dao). Lời Chúa hôm nay đến với chúng ta dụ ngôn người bị quỷ ám được chữa lành và xin đi theo Chúa Giêsu để được ở với Ngài, nhưng Ngài đã trả lời, "Anh cứ về nhà với thân nhân, và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào." Thế rồi, “Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.”

Xét về ngôn từ được dùng trong phúc âm, chúng ta thấy không bao giờ Chúa Giêsu xưng mình là Chúa. Ngay nơi những sự kiện chữa lành, Chúa Giêsu đều cho rằng đức tin chữa, đức tin cứu. Đức tin là quyền lực của Thiên Chúa nơi mỗi người, quyền lực sự sống, quyền lực hiện hữu vì Thiên Chúa là sự sống nơi mỗi người; Thiên Chúa ở cùng chúng ta, Emmanuel. Nơi đoạn phúc âm này, câu, “Anh cứ về nhà với thân nhân, và loan tin cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào," ngôn từ Chúa nơi các sách tiếng Anh được dùng là “Lord.” Thế nên, câu này có nghĩa, “Anh cứ về nhà với than nhân, và loan tin cho họ biết mọi điều Thiên Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.” Điều này có nghĩa loan truyền sự hoạt động của Thiên Chúa nơi mọi người.

Nhìn người lại nghĩ đến ta, chúng ta có nhìn thấy, có nhận biết những sự thể và sự việc Thiên Chúa hiện diện và hoạt động nơi mỗi người không? Chúng ta để tâm loan truyền mọi điều tốt lành Thiên Chúa thực hiện nơi mình không? Chúng ta có nhận biết điều được goi là sự sống nơi mình chính là Thiên Chúa không? Chúng ta có bao giờ nghĩ đến câu phúc âm, “Đàng, sự thật, và sự sống chính là Ta?” Chúng ta có bao giờ suy nghĩ về câu, “Ai có tai thì nghe;” câu này được nhắc đi nhắc lại những tám lần nơi ba phúc âm Matthêu, Marcô, và Luca? Chúng ta có bao giờ thử đặt vấn đề, tại sao phúc âm nói, “Kẻ yêu cha mẹ, con cái hơn Ta không đáng là môn đệ Ta”? Một điều có lẽ chúng ta ít để tâm khi đọc phúc âm; đó là phúc âm bao gồm những câu nói khôn ngoan, những dụ ngôn khuyến khích, thách đố chúng ta suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét để thức ngộ, để thực sự nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa nơi mỗi người. Phúc âm là phương tiện hay cơ hội cho chúng ta suy nghĩ. Bởi đó, thức ngộ hay không tùy thuộc vào chính mỗi người; vì không ai ăn uống dùm được cho bất cứ ai thì cũng không ai suy nghĩ để thức ngộ được dùm cho bất cứ ai.

Tóm lại, lời Chúa hôm nay khuyến khích chúng ta để tâm nhận biết những sự tốt lành của Chúa nơi mỗi người. Tất nhiên, khi đã nhận biết, chúng ta sẽ biết mình phải thế nào. Xin Thần Linh Thiên Chúa soi sáng và dẫn dắt chúng ta nơi hành trình suy tư, nghiệm xét về những hồng ân của Chúa nơi cuộc đời mỗi người. Amen.

KITÔ VUA (Gioan 18:33-37)

33 Philatô lại vào Phủ đường và ông cho gọi Ðức Yêsu mà nói với Ngài: "Ông mà lại là Vua dân Do Thái?" 34 Ðức Yêsu đáp lại: "Tự mình ông, ông nói thế, hay có ai khác đã nói với ông về tôi?" 35 Philatô nói lại: "Tôi là Do Thái hay sao? Dân tộc ông và các thượng tế đã nộp ông cho tôi. Ông đã làm gì?" 36 Ðức Yêsu đáp: "Nước tôi không thuộc về thế gian này, Nếu Nước tôi thuộc về thế gian này, thì bộ hạ của tôi đã cố chiến đấu, không để tôi bị nộp cho người Do Thái. Ấy vậy Nước tôi không thuộc chốn này".

37 Philatô nói với Ngài: "Vậy thì ông là Vua sao?" Ðức Yêsu đáp: "Ông nói đó: Tôi là Vua! chính vì lẽ này mà tôi đã sinh ra, và chính vì lẽ này mà tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, thì nghe được tiếng tôi".

Hôm nay, chúng ta họp nhau dâng thánh lễ mừng kính Chúa Giêsu Kitô vua. Danh hiệu “Vua” được dùng theo nghĩa ngôn từ cổ xưa để chỉ về người đứng đầu của một nước, người dẫn dắt toàn dân hầu phát triển đất nước trên đà thịnh vượng. Riêng đối với danh hiệu “Chúa Kitô Vua,” danh hiệu này chỉ về sự hướng dẫn cuộc sống tâm linh; chỉ đường chỉ lối cho dân Chúa thực hiện lời phúc âm, “Tiên vàn, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Ngài” (Mt. 6:33).

Cho tới ngày nay, các học giả Kinh Thánh vẫn còn cho rằng phúc âm, theo truyền khẩu, ghi lại cuộc đời của Chúa Giêsu. Tuy nhiên, nếu để tâm đọc phúc âm, chúng ta thấy có những lời khôn ngoan tự ngàn xưa được ráp vào dưới hình thức những câu nói bất thường hoặc những dụ ngôn coi bộ có lý theo nghĩa từ chương, luân lý, và đạo đức thế tục, nhưng không hợp tình, và chẳng thể nào thực hiện nơi cuộc sống nhân sinh. Chẳng hạn, “Kẻ nào cầm cày mà quay trở lại thì bất kham với Nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62). Tự ngàn xưa, thành ngữ “To put o­ne’s hand to a plow” (Được dịch theo nghĩa đen là “Kẻ cầm cày), ám chỉ đặc biệt về người chịu trách nhiệm một thương phẩm, hay đối chứng với thương trường. Ai đã từng làm ăn buôn bán đều biết, nếu những sản phẩm, thương phẩm mới không có đặc điểm mới mà chỉ lặp lại giống như những sản phẩm đã có sẵn thì không thể nào phát triển sinh lợi lộc được, mà chỉ có lỗ, nếu không muốn nói theo Ca Dao, “Chưa buôn vốn hãy còn dài; buôn thì vốn đã theo ai mất rồi.”

Thử xét thêm dụ ngôn con chiên lạc. phỏng rằng có ai trong chúng ta để 99 con chiên bơ vơ nơi đồng hoang, lắm hổ, sói, để đi kiếm con chiên lạc. Thực tế minh chứng, chưa chắc gì đã kiếm được con chiên lạc bởi coi chừng nó đã lạc vào bụng đám lang sói để rồi sau thời gian kiếm tìm, lỡ lại thêm vài con lạc vào bụng đám lang sói đói khát. Hơn nữa, dẫu kiếm được con chiên lạc mà về nhà lại mở tiệc mời hàng xóm ăn mừng thì phải thịt mấy con chiên để đãi khách? Những sự kiện ám định được nhắc đến nơi những câu khôn ngoan, nơi những dụ ngôn chỉ là những hình ảnh nơi tâm tưởng khi chúng ta suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét, không phải là thực tại hữu vi, mà là thực tại nơi diễn trình tâm tưởng.

Để tâm suy tư, phúc âm khuyến khích, thách đố, kêu gọi chúng ta suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét mục đích chính yếu của đời người, và đó là, “Tìm kiến Nước Thiên Chúa.” Muốn biết Nước Thiên Chúa, chúng ta cần biết Thiên Chúa là gì, liên hệ với cuộc đời, với sự sống của mình ra sao. Muốn biết Thiên Chúa, chúng ta cần suy tư, nghiệm xét, đặt vấn đề để biết mình là gì; linh hồn mình là chi, liên hệ với thân xác và cuộc đời của mình thế nào. Đọc phúc âm, nếu để tâm nghiệm xét từng câu, từng chữ, chúng ta sẽ thấy phúc âm được viết rất thâm trầm, dùng những sự kiện, sự việc nhân sinh thế tục để ám định về diễn trình suy tư, nghiệm xét nơi tâm trí của mỗi người hầu thực hiện sự tìm kiếm Nước Thiên Chúa, mục đích tối thượng của cuộc sống nhân sinh.

Tôi thử nêu lên một câu đơn giản nơi phúc âm; đừng vội cho tôi là ngớ ngẩn, nhưng hãy đặt vấn đề tại sao hay lý do gì ba phúc âm Matthêu, Luca, và Marcô lặp đi lặp lại tám lần, nghe đến rát cả tai. Câu phúc âm đơn giản đó là, “Ai có tai thì nghe.” Quý vị mới thoạt nghe đã thấy câu nói đơn sơ, nếu không muốn nói là tầm thường, ngờ nghệch chưa? Tai không để nghe thì để làm gì mà phải nhắc đi, nhắc lại chẳng những hai hoặc ba lần mà những tám lần (Mt. 11:15; 13:9,43; Mc. 4:9,23; 7:16; Lc. 8:8; 14:35). Không cần phải là những học giả Kinh Thánh, những nhà thông thái, khoa học gia; chẳng cần ai vạch vòi dạy bảo, bất cứ ai, ngay đến những người “Chữ nhất bẻ đôi không biết,” cũng đang nghiệm chứng được tai thì dùng để nghe; mắc mớ gì phúc âm phải nói đến? Thế mà phúc âm nhắc đến những tám lần. Đã nhiều người dám cả gan hô lên, không tin những gì khoa học không chứng mình được. Lẽ đương nhiên, chẳng những khoa học mà mọi người đều đang thực nghiệm, đang sử dụng tai để nghe, dẫu tin hay không!

Chúng ta thử đặt vấn đề; cái tai tự nó có nghe được không? Tại sao tai người chết không nghe được. Đặt vấn đề như thế quý ông bà, anh chị em đã cảm nhận được sự đơn sơ, ngờ nghệch, tầm thường của câu nói trong phúc âm thâm trầm thế nào chưa. Đừng vội giật mình vì đã bao lâu nay mình đã chưa bao giờ để tâm đặt vấn đề; nói cách khác là chưa để tâm suy nghĩ những câu nói và dụ ngôn nơi phúc âm. Tôi chỉ xin, tôi tha thiết yêu cầu mọi người, từ nay, để tâm suy nghĩ, suy tư chỉ cần một câu, bất cứ câu nào nơi phúc âm mà câu ấy khiến mình cảm thấy phi lý, như chọc vào lỗ tai, luôn thường làm phiền hà tâm tưởng. Chẳng cần suy nghĩ nhiều, cứ thử giả sử thế nọ, thế kia để giải đáp, để xem câu phúc âm đó nói về trường hợp hay trạng thái nào nơi cuộc đời mình, rồi quý vị sẽ biết, nhưng chắc chắn tôi không biết; bởi Thần Khí của Chúa tìm kiếm và dẫn đưa quý vị tùy theo suy tư của quý vị chứ không theo tôi.

Tôi muốn chia sẻ với mọi người bằng cách đặt vấn đề về câu nói, “Ai có tai thì nghe.” Chúng ta đã nhận ra cái tai không thể nghe tự nó. Vậy cái gì nghe, và cái tai giữ nhiệm vụ gì trong cuộc đời một người. Xin thưa, khi linh hồn thoát ra khỏi xác thì tai hết nghe. Sự kiện này chứng tỏ tai chỉ là công cụ cho linh hồn nghe; cũng như mắt, miệng, bộ óc, chúng chỉ là công cụ cho linh hồn nhìn, phát biểu, và suy nghĩ. Tôi muốn nhấn mạnh, linh hồn suy nghĩ và dùng bộ óc phối hợp, diễn dịch, diễn tả. Vậy linh hồn là gì, liên hệ với thân xác và cuộc đời của mỗi người thế nào?

Phúc âm dùng những câu khôn ngoan, những dụ ngôn từ ngàn xưa được ráp nối lại để diễn tả và khuyến khích con người suy tư, suy nghĩ, nghiệm xét hầu thăng tiến nơi hành trình đức tin, hành trình nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mỗi người. Là người Việt, chúng ta quá quen thuộc với Tục Ngữ, Ca Dao. Tục Ngữ, Ca Dao, dùng sự việc, sự kiện thế tục, hữu vi để ám định về cung cách, luân lý, đạo đức sống của dân Việt. Cũng một cách ám định ấy, phúc âm dùng những câu khôn ngoan, ngạn ngữ ngàn xưa để ám định diễn trình tâm tưởng khi suy tư, suy nghĩ hầu con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh, hành trình đức tin.

Theo phúc âm, Chúa Giêsu công bố cho chúng ta sự thể tối thượng và đó là Tin Mừng Nước Trời, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, danh hiệu của Ngài, Emmanuel. Chúng ta suy nghĩ, suy tư, nghiệm xét để chân thực nhận biết thực thể của chính mình hay không tùy thuộc mỗi người. Một điều cần để tâm; đó là không ai có thể ăn dùm hay uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ, suy tư dùm cho mình. Phương cách nào để suy tư, nghiệm xét, chính là những câu nói khôn ngoan, những dụ ngôn nơi phúc âm.

Tuyên xưng đức Giêsu là vua, chúng ta cần suy tư, suy nghĩ về phúc âm. Xin Thần Khí của đức Giêsu soi sáng và hướng dẫn chúng ta nơi hành trình suy nghĩ để nhận biết sự hiện diện và hoạt động của Chúa nơi mỗi người. Amen.

SỰ LIÊN HỆ GIÁO DÂN VÀ LINH MỤC (1988) B

Lễ tạ ơn Lm. Phêrô Nguyễn Tiến Đắc (2 Côrintô 12:5)

Quí cha, quí tu sĩ, quí vị chức sắc tân, cựu, quí đoàn thể, quí ông bà anh chị em trong Chúa Kitô.

Tục ngữ Việt Nam có câu: "Đẹp tốt phô ra, xấu xa đậy lại." Mọi người chúng ta thực hành đúng mức ý nghĩa câu tục ngữ này. Có lẽ không ai muốn nói đến bất cứ những điều gì không nên không phải của mình. Chẳng những thế, chúng ta lại càng không muốn nghe bất cứ ai nói tới những sự yếu hèn của chúng ta. Tuy nhiên, bài đọc hôm nay, trong thư thứ hai gửi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô lại nhấn mạnh rằng: "Vậy tôi rất vui sướng khoe mình về những sự yếu hèn của tôi," và đồng thời ngài thêm, "Vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ." Thử dành vài giây để suy gẫm những lời này, mọi người chúng ta đều nhận ra câu nói, "Vì khi tôi yếu đuối, chính là lúc tôi mạnh mẽ" mang một ý nghĩa, và ý nghĩa đó là: vì khi tôi nhận thức được mình yếu đuối, lúc đó tôi nhận thức được sức mạnh của Chúa trong tôi, và đó cũng chính là lúc tôi thực sự mạnh mẽ.

Thưa quí cha, quí ông bà anh chị em. Nhận thức được mình yếu đuối để rồi nhận ra sức mạnh của Chúa nơi mình là một hồng ân mà Chúa ban cho mỗi người chúng ta. Vấn đề còn lại là chúng ta có dám khiêm nhượng, chân thành nhìn ngay thẳng, không thiên vị về con người và cuộc đời của mình hay không! Với sự nhận thức lời của Thánh Phaolô nhân dịp thánh lễ tạ ơn của cha Phêrô Nguyễn-tiến-Đắc, tôi muốn chia sẻ cùng quí vị tâm tình của tôi về sự liên hệ giữa linh mục và giáo dân.

Mọi người đều biết rằng linh mục được gọi và chọn nơi hàng giáo dân. Điều này nói lên, trước tiên, linh mục là một con người như mọi người. Chúng ta đều kinh nghiệm rằng, đã là người, chúng ta được Chúa ban cho những hồng ân, những sự tốt lành, thánh thiện. Ngay từ khi chịu phép rửa tội, chúng ta được thông phần tư tế, tiên tri, và vương quyền của Chúa Kitô bởi Thánh Thần Thiên Chúa, chúng ta đã được gọi vào hàng linh mục. Cho nên, linh mục là những người dùng cuộc đời mình để trả lời ơn gọi khi chịu phép rửa tội. Lẽ dĩ nhiên, muốn được chọn phải dùng cuộc đời mình trả lời ơn gọi dâng mình cho Chúa trước, bởi không theo, làm sao được chọn.

Đã là người, không ai trong chúng ta tránh khỏi những yếu hèn trong cuộc sống. Hơn nữa, lầm lỗi là chuyện bình thường của con người. Ai không chấp nhận mình lầm lỗi, người đó không chấp nhận Thiên Chúa là đấng thiện toàn. Ai không chấp nhận mình lầm lỗi, người đó không chấp nhận người khác lầm lỗi. Nói cách khác, người nào càng nhận ra và chấp nhận lỗi lầm của mình bao nhiêu, người đó càng thánh thiện bấy nhiêu. Vì thực ra, người nào càng tốt lành, thánh thiện bao nhiêu, càng nhận ra sự tốt lành của người khác bấy nhiêu.

Bởi linh mục được chọn từ con người, linh mục mang tất cả những tính chất của con người. Linh mục cũng phải có những sự yếu hèn của con người. Không có những yếu hèn của một con người, không phải là linh mục. Tuy nhiên, qua kinh nghiệm trong sự liên hệ giữa giáo dân và linh mục, chúng ta thường không chấp nhận linh mục là một con người. Thánh Phaolô đã rất vui sướng khoe về những sự yếu hèn của ngài, chúng ta kính ngài là thánh trong khi linh mục là một con người, mà chúng ta không chấp nhận những yếu hèn của con người nơi linh mục; có lẽ chúng ta đang muốn cho linh mục trở thành giả hình. Bởi vì chỉ có Chúa mới là đấng thiện toàn, đã là người mà không ai nhận thấy người đó có lầm lỗi, người đó chỉ là người giả hình.

Đọc trong hạnh các thánh, chúng ta chỉ thấy kể lại những chuyện một linh mục thánh thiện giữa đám chiên hiền lành, chứ chưa bao giờ có một linh mục hiền lành giữa đám chiên dữ. Qua những suy luận như thế, thưa quí ông bà anh chị em, chúng ta là những người đang tiếp tay đào tạo linh mục trong cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đang chia sẻ với linh mục đời sống tông đồ của ngài. Chúng ta vui, linh mục vui; chúng ta buồn, linh mục không sung sướng gì. Cuộc sống, tâm tình của chúng ta thế nào, chúng ta đang góp phần cho linh mục của chúng ta thế ấy. Xét như vậy, chúng ta cũng đang cùng với linh mục thi hành chức vụ linh mục trong cuộc sống của chúng ta. Linh mục cần được chúng ta chân thành thông cảm, am hiểu, và chia sẻ những gánh nặng của chủ chăn chứ đừng lồng ngài vô khung kính, lau chùi láng bóng bên ngoài, và để ngài bị mục nát phía trong. Tóm lại, chúng ta có thể nói, linh mục là bộ mặt và là thực trạng biểu hiệu cho tính chất cộng đồng ngài đang coi sóc.

Với tâm tình liên kết cùng linh mục trong việc phụng sự Chúa và dân Ngài, chúng ta dùng một phút thinh lặng - cảm tạ Chúa vì những hồng ân Ngài đã ban cho chúng ta và dùng tâm tình này hợp với thánh lễ - cầu nguyện cho ơn kêu gọi dâng mình cho Chúa. Xin Chúa chúc lành nơi quí ông bà anh chị em.

1988



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả