Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ -05-
XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA
TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA
======================
HÀN SĨ NGUYÊN
TRUYỆN THƠ
THỪA TƯỚNG
ỨNG HẦU
PHẠM THƯ
BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH
-2002-
=====================
.........................
Lê thân một quãng đường dài
Máu ra lai láng, khắp người mỏi mê
Kêu to ba tiếng não nề
Phách rời thể xác, hồn lìa nhân gian.
-5-
TIẾNG ĐÀN RỪNG MAI
Bấy giờ hồn phách chưa tan (401)
Phiêu du vất vưởng giữa ngàn ánh sao
Xót mình tuổi trẻ tài cao
Công danh như thể hoa dâu xuôi dòng
Ơn vua lộc chúa chẳng mong
Tình nhà nợ nước há không báo đền ?
Lại còn vương mối oan khiên
Làm sao mắt trả, răng đền mới ưng !
Hồn bay quanh quất nửa lừng
Nát thân bao quản, thẹn thùng nhơ danh
Giã từ nhân thế chẳng đành (411)
Thôi thì lối cũ quẩn quanh tìm về
Phiêu phiêu nửa tỉnh nửa mê
Tai nghe thánh thót tỉ tê tiếng đàn
Đó đây như khóc như than
Ru hồn lãng tử, xóa tan muộn phiền
Lâng lâng thân xác dịu êm
Chìm vào giấc ngủ, vơi niềm xót xa
Chập chờn, gió thoảng hương hoa
Tiêu thiều réo rắt, tiên nga giáng trần
Dịu dàng an ủi ân cần (421)
Cam lồ rửa sạch mọi phần thương đau
Nâng niu bát cháo hớp rau
Khéo tay chăm sóc, ngọt ngào thuốc thang
Hai tuần cửa mả mở toang
Tử thần lảng vảng, khó phương sinh tồn
Bấy giờ mất biến thành còn
Tái hồi dương thế, quỷ môn giã từ
Mở to đôi mắt ưu tư
Vẫn còn văng vẳng ôn nhu tiếng đàn
Sương mơ hư ảo chưa tan (431)
Khói trầm vương vất, mơn man phím ngà
Ngoài song dáng liễu thướt tha
Giật mình còn tưởng tiên nga hôm nào
Hoa đồng cỏ nội thanh tao
Quần bô áo vải má đào vẫn xinh
Rõ ràng ngọc khiết băng thanh
Môi hồng tươi thắm, long lanh mắt huyền
Bờ vai tóc xỏa duyên duyên
Vóc mai lả lướt, gót sen hững hờ
Hỏi rằng :-“Ta tỉnh hay mơ (441)
Cớ sao trôi dạt cậy nhờ nơi đây ?”
Nàng rằng :-“Trải đã bao ngày
Tưởng đâu không thoát khỏi tay tử thần
Xót người tứ cố vô thân
Anh tôi chẳng quản nhọc nhằn cưu mang
Đem về từ cánh đồng hoang
Một lòng chăm sóc, thuốc thang tận tình
Cứu người, công Trịnh An Bình
Nơi đây cách biệt kinh thành rất xa
Gian nhân khó nỗi dò la (451)
Yên lòng tịnh dưỡng ắt là khang ninh
Trước sau một chữ đệ huynh
Giúp nhau cho trọn ân tình mà thôi
Đâu cần cảm tạ đầu môi
Miễn là bằng hữu trọn đời thuỷ chung
Đạo trời bĩ thái, cùng thông
Bây giờ trước hãy an lòng nghỉ ngơi”
Dứt lời dâng thuốc tận nơi
Phạm Thư uống cạn, ngậm ngùi lòng đau
-“An Bình trí rộng tài cao (461)
Việc xưa đã tỏ, việc sau cũng tường
Bởi ta khinh xuất xem thường
Mới lâm họa hoạn đau thương chuyến này
Bỏ Tề về Ngụy thảm thay
Hết còn khoe giỏi khoe hay dối đời
Làm ơn gọi Trịnh giùm tôi”
Thưa rằng :-“Dạ sắt chưa nguôi nỗi sầu
Nhọc nhằn rừng thẳm khe sâu
Dốc lòng tìm kiếm bới đào nhân sâm
Bôn ba hổ huyệt long đầm (471)
Kể chi khổ trí lao tâm tháng ngày
Buồn vui sướng khổ chia hai
Non cao lầm lũi, miệt mài đường xa
Ở đây còn có cha già
Cần gì cứ gọi Quỳnh Hoa chớ phiền
Bây giờ hãy nghỉ cho yên”
Lời còn thánh thót, gót tiên khuất rồi
Phạm Thư xao xuyến bồi hồi
Bước vào cửa mả, gặp người ôn nhu
Tây hiên lại vẳng tiếng tơ (481)
Khi cao khi thấp, hững hờ nhặt khoan
Khuyên người gặp bước gian nan
Đừng lo, đừng nghĩ, chớ than, chớ sầu
Những người trung nghĩa dãi dầu
Trải bao cực khổ gian lao sá gì
Nhớ chăng gương Bá Lý Hề
Bảy mươi chăn ngựa nuôi dê xứ người
Nhớ chăng Câu Tiễn nằm gai
Phơi sương nếm mật, có ngày nên công
Tấn Văn mười bảy năm ròng (491)
Nắm cơm chẳng có, lưu vong bơ thờ
Ngũ Viên khi mới sang Ngô
Làm người quân tử thập thò bụi lau
Lòng trời nhìn lại cũng mau
Nên vương nên tướng, công hầu kém ai
Đàn ru réo rắt bên tai
Dạt dào quân tử ngủ say bao giờ
Kỳ hương, dị thảo, bách hoa,
Chiêm bao duy chỉ mộng mơ hoa Quỳnh.
[Còn tiếp]
==========
Truyện thơ
THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ
Giản chú
by NGU PHU
(Nguyễn Phú)
========
GIẢN CHÚ đoạn 5
TIẾNG ĐÀN RỪNG MAI
1-PHIÊU DU : Nhẹ bồng bềnh dạo chơi đây đó. Bay là đà nơi này nơi khác.
2-HOA DÂU : Bèo hoa dâu, một loại bèo nhỏ bé, khác với lục bình là một loại bèo lớn.
3-MẮT TRẢ RĂNG ĐỀN : Do câu tục ngữ “Mắt trả mắt, răng đền răng”, ý nói trả thù rửa hận tương xứng với những gì kẻ thù đã gây ra cho mình.
4-PHIÊU PHIÊU : nhe tênh, bay lơ lửng, nổi bồng bềnh.
5-LÃNG TỬ : Người lãng mạn, thích ngao du đây đó.
6-TIÊU THIỀU : Tiếng sáo và tiếng đàn.
7-CAM LỒ : (tức “Cam lộ” = giọt sương ngọt) Một loại nước phép của Phật bà Quan Thế Âm Bồ tát, hình thành từ những giọt sương ngọt ngào lúc ban mai được hứng lấy và tích chứa trong “Tịnh bình” (bầu nước tinh khiết), có tác dụng cứu khổ cứu nạn, giải tai giải ách, chữa lành mọi vết thương, lại có thể cải tử hồi sinh (cứu sống được cả người đã chết)
8-CỬA MẢ MỞ TOANG : (sẵn sàng chờ người ta bước vào) ý nói mong manh giữa cái sống và cái chết, suýt chết.
9-NGOÀI SONG DÁNG LIỄU THƯỚT THA : (Song = cửa sổ - Dáng liễu : dáng người con gái gầy gầy, mảnh mai như cây liễu) : Có một người con gái dáng mảnh mai thướt tha lướt qua ngoài cửa sổ.
10-HOA ĐỒNG CỎ NỘI : Người thiếu nữ đẹp ở nơi thôn dã, chốn ruộng đồng.
11-QUẦN BÔ ÁO VẢI : Người mặc áo may từ vải bông, quần dệt từ đay gai = Người mặc những quần áo tầm thường, không sang trọng = Người bình dân, Người nghèo.
12-NGỌC KHIẾT BĂNG THANH : Viên ngọc thuần khiết (không một vết trầy sước), tảng băng trong vắt (không lẫn tạp chất).
13-XOẢ : Rủ xuống, lả xuống
– XOÃ : Rũ ra, tung ra, xoè ra.
14-VÓC MAI : Thân hình gầy như cây mai
16-GÓT SEN : Gót chân đỏ hồng của người thiếu nữ xinh đẹp, không phải lao động cực nhọc.
17-TỨ CỐ VÔ THÂN : Đơn độc, trơ trọi một mình, không có ai là người thân cả.
18-CƯU MANG : Gánh đỡ, bảo bọc, nâng đỡ cho ai đó qua khỏi lúc khó khăn, hoạn nạn
19-THUỐC THANG : cũng như “thuốc men”
-Thuốc : chất trị bệnh
-Thang : chất dẫn thuốc, làm men xúc tác cho thuốc đạt hiệu quả nhanh hơn, cao hơn
20-TỊNH DƯỠNG : Nghỉ ngơi yên tĩnh
21-KHANG NINH : Mạnh khoẻ, an toàn
22-ĐỆ HUYNH : cũng như “huynh đệ” nghĩa là anh em.
Các tục ngữ thành ngữ liên quan :
-Tứ hải giai huynh đệ : [Người khắp] bốn biển đều là anh em
-Huynh đệ như thủ túc / Phu thê như y phục : Anh em như tay chân trong cùng một cơ thể (không thể chia lìa) / Vợ chồng như áo quần (có thể bỏ đi, thay bộ khác được). Ý vế sau của câu này chỉ muốn nói “vợ chồng ăn ở với nhau không phải đạo” có thể bỏ nhau tỷ như thay bộ quần áo khác, chứ không có ý nói chung tất cả các cặp “vợ chồng”.
23-BẰNG HỮU : Bạn bè thân thuộc
24-THUỶ CHUNG : Trước sau như một, không thay lòng đổi dạ
25-BĨ THÁI : Từ câu “Bĩ cực thái lai” nghĩa là khổ hết mức, khổ đến cùng cực rồi thì cái ung dung, thư thái, nhẹ nhàng lại đến.
26-CÙNG THÔNG : Từ câu “Cùng tắc bĩ, bĩ tắc biến, biến tắc thông” nghĩa là “Khổ ắt là sẽ khổ thêm đến cùng cực - Khổ đến cùng cực rồi thì sẽ có thay đổi - Thay đổi ắt là sẽ thông, sẽ hết bế tắc”.
Ý cả 2 cụm từ “Bĩ thái”, “Cùng thông” cũng giống hệt như câu “Khổ tận cam lai” (Đắng đã hết mức đắng rồi thì cái ngọt sẽ đến).
27-KHINH XUẤT : Sơ xuất (sơ ý) xem thường (coi nhẹ, đánh giá thấp) một điều gì đó hoặc một người nào đó.
28-LÂM HỌA HOẠN : Vướng vào tai nạn, mắc nạn.
29-NHÂN SÂM : Một loại cây mọc ở xứ lạnh giá, nơi băng tuyết, củ của nó có hình dạng giống như người, được Đông y xem như một vị thuốc quý có giá trị cải tử hoàn sinh.
30-BÔN BA : Nay đây mai đó, long đong trôi nổi khắp chốn.
31-HỔ HUYỆT LONG ĐẦM : Hang cọp, đầm rồng , ý nói những nơi nguy hiểm, dễ mất mạng.
32-KHỔ TRÍ LAO TÂM : cả tim lẫn óc đều cực nhọc vất vả vì lo nghĩ, tính toán, sắp đặt công việc
33-LẦM LŨI : cắm cúi đi, chăm chú làm một việc nào đó, không chú ý gì đến chung quanh.
34-MIỆT MÀI : mê mải, mải miết, cố làm cho xong.
35-GÓT TIÊN : gót nàng tiên, gót chân người đẹp
36-BƯỚC VÀO CỬA MẢ : Sắp chết, gần chết
37-ÔN NHU : Hiền hoà, dịu dàng
38-TÂY HIÊN : nhà phía tây, căn phòng phía tây, chái nhà phía tây, mái hiên của căn nhà bên tay trái ngôi nhà chính
39-TIẾNG TƠ : tiếng đàn (dây đàn làm bằng tơ, hoặc lông đuôi ngựa kết lại)
40-NHẶT KHOAN : lúc thì gấp rút dồn dập (nhặt) ; lúc thì thong thả chậm rãi (khoan).
41-BÁ LÝ HỀ : Nhân tài kiệt xuất thời Xuân thu. Xuất thân cực kỳ nghèo khổ. Bôn ba qua nhiều nước Ngu, Tấn, Sở nhưng ở đâu cũng ba chìm bảy nổi, thậm chí còn nhiều lần bị tù tội, giam cầm, đày ải. Đến năm 70 tuổi vẫn còn phải chăn dê chăn ngựa ở Sở. Vua Tần là Tần Mục Công (Nhâm Hiếu) biết là người hiền, sai người đem 5 cỗ da dê sang Sở xin chuộc Bá Lý Hề về để vua Tần ... trị tội. Sở vương không biết mưu ấy, cho Bá Lý Hề về Tần. Vua Tần lập tức phong Bá Lý Hề làm thừa tướng, người đời sau nhân sự tích ấy gọi Bá Lý Hề là “Ngũ Cổ đại phu” (vị quan 5 cỗ da dê). Ông có công khuếch trương nước Tần từ vị trí là một nước nhỏ yếu trở thành một chư hầu hùng mạnh, giúp Tần Mục công trở thành vị bá chủ thứ ba trong Ngũ bá sau Tề Hoàn công và Tấn Văn công.
42-CÂU TIỄN : vua nước Việt (nước Việt này là nước Việt cổ, ở tại lưu vực sông Dương Tử, phía nam nước Ngô). Câu Tiễn thua trận bị vua Ngô Phù Sai bắt cầm tù nhiều năm. Câu Tiễn phải nén lòng chịu nhục, bề ngoài tỏ ý khuất phục đầu hàng Phù Sai, bề trong âm thầm tính kế phục quốc. Những năm tháng bị giam giữ ở Cô Tô thành (kinh đô nước Ngô), Câu Tiễn phải trải qua muôn ngàn cực nhục : phơi sương (ngủ ngoài trời), nằm gai (nằm trên đống gai nhọn để nhắc nhở mình không được quên nỗi nhục mất nước), nếm mật (nếm phân vua Ngô). Phù Sai thấy thế khinh thường, cho rằng Câu Tiễn là kẻ hèn kém, không có gì đáng quan ngại, bèn cho phép trở về nước Việt. Sau Câu Tiễn theo kế sách của đại phu Văn Chủng, đem Tây Thi hiến dâng Phù Sai, khiến cho vua này mê đắm nữ sắc, lơ là việc quân, việc nước. Cuối cùng, Câu Tiễn bất ngờ hạ thành Cô Tô, giết chết Phù Sai, diệt được nước Ngô.
43-NẾM MẬT : Nếm chất đắng = nếm phân vua Ngô, để bày tỏ lòng trung thành với Phù Sai, lừa cho vua Ngô khinh thường.
44-TẤN VĂN : Công tử Trùng Nhĩ nước Tấn. Khi Tấn có loạn, Trùng Nhĩ phải lưu vong qua nhiều nước suốt 17 năm trường, cực khổ gian lao đủ kiểu đủ cách, có lúc đến một nắm cơm ăn cũng không có. Bề tôi trung là Giới Tử Thôi phải cắt bắp chân mình lấy thịt cho vua ăn. Sau về nước cải cách nhiều việc, dùng Khước Khuyết, Tiên Trẩn làm tướng, lần lượt đánh bại đại quân Sở và Tần, trở thành bá chủ chư hầu. Đó là Tấn Văn công, vị bá chủ thứ nhì sau Tề Hoàn công.
45-LƯU VONG : chạy sang nước khác lánh nạn, sau khi mất nước.
46-NGŨ VIÊN : tức Ngũ Tử Tư người nước Sở. Cha và anh của Ngũ Viên bị vua Sở Bình vương nghi kỵ, vô cớ giết chết. Ngũ Viên đau lòng quá chỉ trong một đêm mà đầu tóc đều bạc trắng, ôm mối căm hờn chạy trốn sang nước Ngô. Quân Sở truy đuổi đến bờ sông, Ngũ Viên phải ẩn mình trong khóm lau ven sông, may nhờ một lão thuyền chài cứu giúp đưa sang sông mới thoát nạn. Ngũ Viên được gọi là “người quân tử trong bụi lau” là vì tích ấy. Sau Ngũ Viên làm quan tướng quốc nước Ngô, cùng với Tôn Vũ diệt được nước Sở. Ngũ Viên sai đào mồ Sở Bình vương lên, lấy roi đánh vào xác vua Sở để trả thù cho cha và anh.
Lúc cuối đời, vua Ngô Phù Sai không tin dùng nữa, Ngũ Tử Tư ôm hận mà chết.
47-KỲ HƯƠNG : những mùi hương thơm kỳ lạ
48-DỊ THẢO : Cỏ lạ
49-BÁCH HOA : Trăm hoa
50-Ý 2 CÂU CUỐI : Giữa tất cả những mùi hương thơm, những loài cỏ lạ, những giống hoa quý trên khắp thế gian này, Phạm Thư trong giấc mơ chỉ duy nhất mơ thấy hoa ... Quỳnh mà thôi ! Ý ngầm là chỉ yêu mến có một mình Trương Quỳnh Hoa mà thôi !
=========================
Ngày tháng đong đưa đời gió bụi
Mặc ai xa mã chốn gian trần