Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ -06-






XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA

TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA

============================


HÀN SĨ NGUYÊN




TRUYỆN THƠ


THỪA TƯỚNG

ỨNG HẦU

PHẠM THƯ



BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH

-2002-



================


...............................................


Đàn ru réo rắt bên tai

Dạt dào quân tử ngủ say bao giờ

Kỳ hương, dị thảo, bách hoa,

Chiêm bao duy chỉ mộng mơ hoa Quỳnh


-6-


ÂN TÌNH RỪNG MAI


Râm ran gà gáy bình minh (501)

Oang oang có tiếng An Bình ngoài sân :

-“Nhân sâm kiếm được vài cân

Bấy nhiêu cũng đủ dăm tuần phục đan

Trời xanh thương kẻ ức oan

Khiến cho cây cỏ những toan tìm người”

Quỳnh Hoa kể vội mấy lời

Người trong nhổm dậy, kẻ ngoài mừng rơn

Nắm tay thuật rõ nguồn cơn

Những ngày ngậm tủi nuốt hờn đã qua

Tránh xa nanh vuốt ác tà (511)

Trở về đất tổ quê cha nương nhờ

Trương lão vốn bậc y sư

Giàu lòng nhân đức, ẩn cư núi này

Quỳnh Hoa em gái mát tay

Khiến nên tráng sĩ có ngày tái sinh

Thư rằng :-“Tình đã trọn tình

Nghĩa đà vẹn nghĩa, tử sinh ghi lòng

Vụng suy, suýt nữa thân vong

Một thân cái thế mắc vòng đào sanh

Trăm khôn một dại đã đành (521)

Biết vầy ở lại đáp tình Tề vương”

Bình rằng:-“Chớ vội lo lường

Bây giờ trước phải tìm phương phục hồi

Mai này khoẻ mạnh lại rồi

Bấy giờ ta sẽ liệu bài sang Đông

Tề vương nghĩa khí, uy hùng

Vua tôi nước ấy thực lòng mến ta

Rồng mây cá nước duyên ưa

Gặp thời khanh tướng, phải cơ vương hầu

Lẽ đời hung trước cát sau (531)

Kinh luân đầy bụng, âu sầu mà chi”

Thư rằng :-“Ám muội bất vi,

Kẻ kia buộc tội thông Tề bội quân

Bây giờ sang đó tiến thân

Mười phần xác nhận gian nhân đủ mười

Tiểu nhân đắc chí cả cười

Tự hào ngậm máu phun người không dơ

Đau đòn rồi lại thấp cơ

Truyền lưu hậu thế tiếng nhơ muôn đời

Ngày nay cơ sự đã rồi (541)

Xét trong năm nước ai người dung ta ?

Triệu, Hàn, Yên, Sở quá xa

Ngẫm đi nghĩ lại phải qua Tây Tần

Dễ dàng khởi nghiệp, tiến thân

Thuận thiên đắc địa, quốc quân oai hùng

Sang Tề, ở Ngụy không xong

Lẽ nào bó gối đợi trông Tử thần

Có thân phải sớm liệu thân

Một lần vụng tính, muôn phần đắng cay

Đổi tên Trương Lộc từ nay (551)

Phạm Thư đã chết dưới tay Ngụy Tề

Kể như dụng tốt, thí xe

Ẩn thân xó núi, đợi khi sang Tần”

An Bình vâng dạ dời chân

Trong lòng cảm phục trí nhân hơn người

Vó câu song cửa thoảng trôi

Thẹn thùa hoa trổ, bồi hồi mộng ươm

Lửa nồng tất phải bén rơm

Gạo ninh thủy hỏa thành cơm lẽ thường

Y sư Trương lão mến thương (561)

Gả cho con gái, vẹn đường thất gia

Quỳnh Hoa e ấp chúc hoa

Tàng long Trương Lộc thoắt đà thừa long

Nửa năm tình mặn nghĩa nồng

Tài cao chí lớn vẫn mong vẫy vùng

Vai kề má tựa ung dung

Bề ngoài nhàn nhã, bề trong não nề.



[Còn tiếp]


========
Truyện thơ

THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Giản chú

by NGU PHU

(Nguyễn Phú)

========


GIẢN CHÚ đoạn 6

ÂN TÌNH RỪNG MAI



1-NHÂN SÂM : Một loại cây mọc ở xứ lạnh giá, nơi băng tuyết, củ của nó có hình dạng giống như người, được Đông y xem như một vị thuốc quý có giá trị cải tử hoàn sinh.

2-PHỤC ĐAN : Uống thuốc, cho người uống thuốc. Thuốc Đông y, ngoài thuốc nước dưới dạng thang được sắc (nấu ninh trên lửa nhỏ), còn có 4 dạng khác là cao, đơn, hoàn, tán nữa :

-Cao : Thuốc dán

-Đơn (đan) : viên tròn nhỏ như hạt đậu xanh

-Hoàn : viên thuốc lớn cỡ đầu ngón tay cái, được bọc trong khối sáp tròn

-Tán : Thuốc dạng bột

Ý 2 câu

“Trời xanh thương kẻ ức oan,

Khiến nên cây cỏ những toan tìm người” :

Vì trời xanh cũng thương Phạm Thư vô tội phải chịu ức oan, nên khiến cho Trịnh An Bình dễ dàng tìm thấy nhân sâm, như thể nhân sâm tự đi tìm Trịnh An Bình mà dâng nộp vậy.

3-Y SƯ : Người giỏi nghề thuốc (Sư : người tài giỏi, bậc thầy)

4-ẨN CƯ : ở ẩn, không hơn thua, không tranh giành danh lợi với đời.

5-TỬ SINH GHI LÒNG : Dẫu sống hay chết vẫn luôn ghi nhớ trọn đời.

6-THÂN VONG : Mất mạng, chết.

7-CÁI THẾ : Anh hùng, tài giỏi bậc nhất trên đời.

8-ĐÀO SANH : Chạy trốn tìm đường sống.

9-TÌM PHƯƠNG PHỤC HỒI : Tìm cách chữa bệnh, dưỡng bệnh cho mạnh khỏe lại như trước.

10-NGHĨA KHÍ, UY HÙNG : Có đủ các đức tính “Trọng tình nghĩa, có chí khí, có oai phong, hào hùng”

11-RỒNG MÂY CÁ NƯỚC DUYÊN ƯA : “Rồng lên mây”, “cá gặp nước” là các hình ảnh chỉ người có tài gặp thời cơ thuận lợi để có thể dễ dàng tiến thân.

12-CÁT HUNG : Như “Kiết hung” nghĩa là may mắn, và hung hiểm.

-Tiền hung hậu kiết : Trước gặp hiểm nghèo, sau lại hóa ra may mắn.

13-KINH LUÂN : Nghĩa theo từ nguyên :

-Kinh : sợi tơ

-Luân : chập các sợi to thành từng bó riêng rẽ

-Kinh luân : Công việc quản lý, cắt đặt, sắp đặt mọi sự thành từng mục riêng biệt cho dễ quản lý. Nghĩa tổng quát là “tài tổ chức, sắp đặt về mặt chính trị”.

-Kinh bang tế thế (nói tắt “Kinh tế”) : quản lý, sắp đặt trông coi việc nước cốt để giúp đời

14-ÁM MUỘI BẤT VI : Việc lén lút quyết không làm

15-THÔNG TỀ BỘI QUÂN : Lén lút tư thông với nước Tề, phản bội lại vua Ngụy

16-THUẬN THIÊN ĐẮC ĐỊA : Thuận theo, xuôi theo ý trời (tức ý dân), được lợi thế về đất đai phì nhiêu nhưng hiểm yếu.

17-GẠO NINH THUỶ HỎA : Gạo bỏ vào nồi nước nấu ninh lâu trên lửa (tất sẽ thành ... cơm).

Ý 2 câu

“Lửa nồng tất phải bén rơm

Gạo ninh thủy hỏa thành cơm lẽ thường”

“Gạo đã thành cơm”, “Lửa gần rơm lâu ngày phải bén”, “Ván đã đóng thuyền”, đều có chung một ý là “Trai gái gần nhau lâu ngày tất phải bén duyên, sinh lòng yêu thương, gần gũi với nhau”, đó là lẽ thường tình ở đời.

18-CHÚC HOA : Đuốc hoa, ngọn đuốc đốt lên trong đêm tân hôn.

19-TÀNG LONG : Con rồng ẩn (nơi đáy giếng), chỉ người có tài chưa gặp thời, còn lăn lóc trong chốn hàn vi, không ai biết đến.

20-THỪA LONG : cưỡi rồng, ý nói cưới được vợ danh giá, quý phái. Từ này xuất xứ từ điển tích “Tiêu Sử thừa long”. Tiêu Sử người thời Xuân thu, vốn nghèo khổ, có tài thổi sáo, được Lộng Ngọc, con gái Tần Mục Công (Nhâm Hiếu) yêu mến. Sau Tiêu Sử cưới được Lộng Ngọc, 2 vợ chồng cưỡi rồng bay lên trời vĩnh hưởng tiên phúc.


==================



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả