Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ -07-





XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA

TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA

============================


HÀN SĨ NGUYÊN




TRUYỆN THƠ


THỪA TƯỚNG

ỨNG HẦU

PHẠM THƯ



BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH

-2002-



================


...............................................


Nửa năm tình mặn nghĩa nồng

Tài cao chí lớn vẫn mong vẫy vùng

Vai kề má tựa ung dung

Bề ngoài nhàn nhã, bề trong não nề.


-7-


VƯƠNG KÊ CẦU HIỀN


Nói về yết giả Vương Kê

Cầm đầu sứ bộ tiến về Ngụy đô

Tần vương sớm đã mưu mô (571)

Giả vờ đòi đất, thăm dò phân minh

Quân cơ, chính sự, giáp binh

Thử xem chuẩn bị chiến tranh thế nào

May ra gặp kẻ tài cao

Mau mau tiến dẫn về đầu Tần vương

Ngụy mà khinh xuất xem thường

Thừa cơ mở rộng biên cương nước Tần

Vương Kê ở lại vài tuần

Tỏ tường trong đục, giả chân rạch ròi

Bao nhiêu đường sá sông ngòi (581)

Kho tàng doanh trại gộp nơi dư đồ

Lắng nghe nghịch đảng mưu mô

Cười thầm nước Ngụy cơ đồ tất vong

Bấy giờ mọi việc đã xong

Sứ đoàn Tần quốc ung dung ra về

Vượt qua muôn dặm sơn khê

Bỗng dưng thấy giữa đường đi có người

Nón mê, hài cỏ, áo tơi

Chắn ngang chính lộ, ngả người thong dong

Quan quân quát tháo mặc lòng (591)

Giả vờ mê ngủ, tịnh không ngó ngàng

Tam Đình cương, tiếng ngáy vang

Vương Kê thấy lạ vội vàng xuống xe

Chắc là kẻ sĩ dị kỳ

Khoanh tay lễ độ, trọn bề khiêm cung

Chốn này phục hổ tàng long

Cao nhân ẩn sĩ thử lòng khách du ?

Ba lần hỏi, giả làm ngơ

Trước sau vờ vĩnh pho pho ngáy đều

Gió đưa râu bạc phiêu phiêu (601)

Phơ phơ tóc trắng, ra chiều tiên nhân

Bất ngờ sải cánh duỗi chân

Than rằng :-“Một lũ quân thần không ngươi,

Để cho lá mục chôn vùi

Hiền tài mai một, đất trời ủ ê

Khắp trong hai cõi Ngụy, Tề

Chẳng ai đáng mặt một vì minh quân !”

Vương Kê xao xuyến phân vân

Chắp tay ra mắt cao nhân, ngỏ lời :

-“Thành tâm cung kính rước mời (611)

Sang Tần trị quốc, cứu đời, an dân”

Người cười :-“Khéo nói dần lân

Lão đây nào phải hiền thần mà mong

Mai Lâm, thủy tận sơn cùng,

Nếu quan biệt giá sẵn lòng đến chơi

Cũng xin ra sức với người

Dẫn đi cho gặp nhân tài họ Trương

Dễ dàng tranh bá đồ vương

Tận trung báo quốc, danh dương muôn đời

Cầm bằng chẳng muốn thì thôi !” (621)

Nói xong quay gót, nhất thời toan đi

Vương Kê vội vã nằn nì

Lệnh cho quân sĩ dừng xe bên đàng

Xá nhân vội vã gióng hàng

Lòng thành lễ trọng bái trang hiền tài

Băng rừng, vượt suối, qua đồi

Thoắt đà đến trước rừng mai bạt ngàn

Suối khe róc rách miên man

Đó đây vang vọng tiếng đàn chơi vơi

Rừng hoa thoảng tiếng ai cười (631)

Lão nhân dừng bước trước đài liên hoa :

-“Hiền thần vốn thực rể ta,

Họ Trương tên Lộc, ấy là kỳ nhân

Xin quan biệt giá dừng chân

Trà sen rượu cúc tẩy trần đường xa

Xem như huynh đệ một nhà”

Dứt lời Trương lão mời qua thạch bàn

Quỳnh Hoa lo liệu cỗ bàn

An Bình tiếp xá, rượu tràn Tây hiên

Vương Kê thực dạ cầu hiền (641)

Ngồi cùng Trương Lộc huyên thiên chuyện trò

Mấy lời vàng đá phân phô

Trí mưu xuất chúng, tâm cơ hơn người

Ba tuần rượu ngọt nếm môi

Mới quen, sao thấy như người cựu giao

Pháp binh quỉ khấp thần sầu

Kinh bang, chính trị, ngoại giao gồm tài

Tây Tần dễ có mấy ai

Khắp trong thiên hạ bao người dám so

Kém gì Ngũ cổ đại phu (651)

Hàm Dương chung đỉnh chẳng lo thiếu phần

Trương rằng :-“Cũng muốn sang Tần

Đem tài ra giúp thánh quân phen này

Chỉ e cô nhạn lẻ bầy

Một thân đơn độc, trói tay trăm chiều

Vua Tần nếu thực mến yêu

Xin cho họ Trịnh cùng theo về Tần

Người này sức địch vạn quân

Lại thêm mưu lược, trí nhân hơn đời”

Vương rằng:-“Cầu một được hai, (661)

Lẽ nào còn dám vật nài kêu ca

Phu nhân cùng với lão gia

Cùng đi một chuyến, cả nhà thêm vui”

Trương lão cất tiếng cả cười :

-“Có đâu gần đất xa trời tội vương,

Lẽ nào rời bỏ quê hương ?

Thân tàn chẳng muốn vùi xương xứ người !

Mai Lâm vinh nhục cả đời

Một mai nhắm mắt rừng mai là mồ

Tiền đồ con hãy gắng lo (671)

Cố hương mỏi mắt đợi chờ vinh quy

Bao năm theo nghiệp lương y

Chắt chiu công đức ngại gì ngày sau

Hương lân sớm tối có nhau

Chẳng lo đói rét, chẳng sầu đơn côi”

Quỳnh Hoa nước mắt tuôn rơi

Lấy chồng tất phải trọn đời tòng phu

Quản chi cơ cực đói no

Chỉ thương thân phụ bơ vơ dãi dầu

Cha con nương tựa bấy lâu (681)

Nỡ nào ngoảnh mặt quay đầu mà đi ?

Trương Lộc lặng lẽ tính suy :

-“Ngày nay hiếu nghĩa khó bề vẹn hai

Thôi nàng ở lại rừng mai

Còn ta rong ruổi đường dài xa quê

Nhớ nhau trông ánh trăng thề

Người đi vạn dặm vẫn kề đầu song

Bao giờ đại sự thành công

Bấy giờ võng tía kiệu hồng đón đưa

Viễn quy thỏa nỗi mong chờ” (691)

Quỳnh Hoa cảm tạ, gấp lo đăng trình

Đêm tàn, dưới mái nhà tranh

Vợ chồng thủ thỉ ân tình keo sơn :

-“Còn trời còn nước còn non

Trước sau suối lại về nguồn mà thôi

Đừng buồn bã nữa em ơi

Chẳng bao lâu sẽ nối lời ái ân !”

Chia ly phút đã tới gần

Luyến lưu ruột xót, tần ngần lòng đau

Thiên cơ huyền bí nhiệm mầu (701)

Sinh ly tử biệt biết đâu ý trời ?

Giọt sầu tầm tã tuôn rơi

Yêu thương nói chẳng cạn lời yêu thương !

Trời vừa rạng sáng tinh sương

Quỳnh Hoa khép nép ven đường tiễn đưa

Nói bao nhiêu cũng chưa vừa

Bao nhiêu nước mắt cũng chưa thỏa lòng

Một ngày nên nghĩa vợ chồng

Ngàn thu ghi tạc thuỷ chung xứ này

Tạ ơn cha đã an bài (711)

Tạ ơn nương tử những ngày bên nhau

Mai sau đoạt ấn vương hầu

Quyết không nỡ để ngậm sầu riêng ai

Người đi, người đã đi rồi

Sao còn đứng đó ngậm ngùi mà chi ?



[Còn tiếp]


========
Truyện thơ

THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Giản chú

by NGU PHU

(Nguyễn Phú)

========


GIẢN CHÚ đoạn 7

VƯƠNG KÊ CẦU HIỀN



1-CẦU HIỀN : Dùng lễ trọng để thỉnh mời người hiền tài ra giúp nước.

2-YIẾT GIẢ : một chức quan trong nội cung, phụ trách việc tiếp tân (tiếp khách)

3-DƯ ĐỒ : Tấm bản đồ

4-SƠN KHÊ : Núi và khe

5-NÓN MÊM HÀI CỎ, ÁO TƠI : Các trang phục của người nghèo, người bình dân

-Nón mê : Nón có chóp tròn nhỏ, rộng vành, đan bằng tre trúc.

-Hài cỏ : Giày bện bằng cỏ (loại cỏ bền dai như cỏ bàng chuyên đan bao đệm ở nước ta)

-Áo tơi : Áo kết bằng rơm hoặc cỏ tranh thành tấm, để khoác ngoài che mưa gió, sương tuyết.

6-CHÍNH LỘ : Đường chính.

7-THONG DONG : Ung dung, thoải mái

8-TỊNH KHÔNG NGÓ NGÀNG : Tuyệt nhiên không để ý, không ngó ngàng gì đến mọi việc xảy ra ở chung quanh.

9-TAM ĐÌNH CƯƠNG : Gò Tam Đình.

10-KHIÊM CUNG : Cung kính, nhã nhặn, khiêm tốn.

11-PHỤC HỔ TÀNG LONG : Rồng ẩn cọp nấp. Ý nói “Có nhiều nhân tài không ra mặt, giấu mình trong bóng tối”

12-KHÁCH DU : Khách qua đường, khách đi dạo chơi.

13-PHIÊU PHIÊU : Nhẹ hều, bay lơ lửng, nổi bồng bềnh.

14-SẢI CÁNH : Dang rộng đôi cánh, duỗi thẳng hai tay.

15-QUÂN THẦN KHÔNG NGƯƠI : Vua quan đều có mắt không tròng, có mắt như mù.

16-HIỀN TÀI MAI MỘT : Người có tài có đức phải chịu chôn vùi (mai), mất đi (một).

17-MINH QUÂN : Vua sáng, vua hiền, vua tốt.

18-HIỀN THẦN : Bầy tôi giỏi, có tài có đức.

19-THUỶ TẬN SƠN CÙNG : Ở chốn xa xôi, cùng trời cuối đất.

20-QUAN BIỆT GIÁ : Viên quan được vua sai phái đi làm nhiệm vụ đặc biệt (Như “Khâm sai”)

22-TRANH BÁ ĐỒ VƯƠNG : Tranh giành chức vị bá chủ chư hầu, mưu toan việc giành giật ngôi vua.

23-TẬN TRUNG BÁO QUỐC :Hết lòng trung báo đền ơn nước

24-XÁ NHÂN : Thời xưa, trong nhà những quan to, các nhà giàu, các quý tộc thường có nuôi ăn ở 3 lọai người khác nhau :

-Gia nhân : Người giúp việc, làm những công việc lao động chân tay thường nhật trong nhà. Được trả công.

-Xá nhân : Người khách được nuôi ăn và cho trú ngụ thường trực ở trong nhà, tùy sức mình mà tự nguyện giúp việc cho chủ. Không bị đòi hỏi phải làm gì, cũng không được trả công. Địa vị vẫn là khách, cao hơn gia nhân.

-Môn khách : Xá nhân cấp cao.

Mạnh Thường quân nước Tề, Bình Nguyên quân nước Triệu, Tín Lăng quân nước Ngụy, Xuân Thân quân nước Sở v.v ... trong nhà thường có đến 3000 tân khách (Xá nhân + Môn khách).

25-BÁI TRANG HIỀN TÀI : Đến viếng trang trại, vái chào bậc hiền tài.

26-BẠT NGÀN : Mênh mông.

27-ĐÀI LIÊN HOA : Đài hoa sen, tháp nhỏ thờ Phật hoặc các vị Bồ tát.

28-KỲ NHÂN : Người có tài kỳ lạ, khác thường.

29-TẨY TRẦN : Rũ sạch bụi, Phủi sạch bụi, Rửa sạch bụi (do phải đi đường xa lâu ngày).

30-THẠCH BÀN : Bàn làm bằng đá.

31-TÂY HIÊN : Mái hiên phía Tây, chái nhà phía Tây, căn nhà phía Tây.

32-TRÍ MƯU XUẤT CHÚNG, TÂM CƠ HƠN NGƯỜI : Mưu trí, kế sách, cách sắp đặt, xử lý công việc đều trội hơn mọi người.

33-CỰU GIAO : người quen biết cũ.

34-KKINH BANG, “Kinh bang tế thế”, “Kinh tế” : Quản lý coi sóc

việc nước (cốt để cứu đời)

35-PHÁP BINH QUỶ KHẤP THẦN SẦU : Tài năng chính trị, quân sự đều giỏi đến mức quỷ phải than khóc, thần phải buồn bực, (vì không thể sánh bằng, không thể chống lại được).

36-NGŨ CỔ ĐẠI PHU : Đại phu 5 cỗ da dê, tức Bá Lý Hề, thừa tướng nước Tần thời thịnh trị của Tần Mục công.

37-CHUNG ĐỈNH : Cái đỉnh (nồi) và cái vạc, chuyên dùng để nấu thịt trong sân đình vua chúa. Chỉ những miếng mồi ngon, những lợi lộc do quan trường đem lại.

38-THÁNH QUÂN : Vua thánh, vua giỏi có tài và có đức độ

39-CÔ NHẠN : Con nhạn lẻ, tách ra khỏi đàn.

40-SỨC ĐỊCH VẠN QUÂN : Sức chống lại được cả vạn người.

41-TIỀN ĐỒ : Con đường công danh sự nghiệp trước mặt.

42-VINH QUY : Về làng, về quê trong sự vinh hiển.

43-LƯƠNG Y : Thầy thuốc giỏi, thầy thuốc tốt.

44-HƯƠNG LÂN : Hàng xóm láng giềng nơi quê nhà.

45-TÒNG PHU : Theo chồng

46-ĐẠI SỰ THÀNH CÔNG : Việc lớn (việc kiến công dựng nghiệp) thành công.

47-VIỄN QUY THOẢ NỖI MONG CHỜ : Người đi xa về, là một nỗi mừng lớn lao, cũng thỏa lòng chờ mong.

Tục ngữ có câu “Tân thú bất như viễn quy”, nghĩa là “ Vợ chồng mới cưới hạnh phúc chẳng bằng một người đi xa về”

48-CẢM TẠ : Cám ơn

49-ÂN TÌNH KEO SƠN : Tình nghĩa vợ chồng quyến luyến nhau, dính chặt như keo, như sơn, khó nỗi chặt đứt được.

50-THIÊN CƠ HUYỀN BÍ NHIỆM MẦU : Lẽ trời bí mật, con người không thể biết trước được điều gì sẽ xảy đến trong tương lai.

51-SINH LY TỬ BIỆT : Xa nhau lúc sống, chia lìa nhau vì cái chết.

52-NGÀN THU : ngàn năm, mãi mãi.

53-THUỶ CHUNG : Trước sau như một, không thay đổi lòng dạ.

54-AN BÀI : Sắp đặt chu đáo mọi việc.

55-NƯƠNG TỬ : Tiếng gọi “vợ”

56-ĐOẠT ẤN VƯƠNG HẦU : Giành được ấn (con dấu) vương hầu, tức là được phong tước “vương, hầu”


=========================



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả