Truyện Thơ THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ -08-






XUÂN THU CỐ SỰ TINH HOA

TỦ SÁCH TRUNG HIẾU TIẾT NGHĨA

============================


HÀN SĨ NGUYÊN




TRUYỆN THƠ


THỪA TƯỚNG

ỨNG HẦU

PHẠM THƯ



BẢN CHÍNH THỨC ĐÃ HIỆU ĐÍNH

-2002-



================


...............................................


Mai sau đoạt ấn vương hầu

Quyết không nỡ để ngậm sầu riêng ai

Người đi, người đã đi rồi

Sao còn đứng đó ngậm ngùi mà chi ?


-8-


PHẠM THƯ SANG TẦN


Băng ngàn vượt suối mải mê

Vầng dương le lói, trăng khuya la đà

Gióng cương trực chỉ Tây Hà

Tần kề một bước, Ngụy xa ngàn trùng

Rừng mai khuất đám bụi hồng (721)

Lửa hương se thắt chạnh lòng mà đau

Băng băng xe lướt ngàn dâu

Ngàn dâu xanh ngắt khơi sầu chinh nhân

Xa xa thấp thoáng non Tần

Biết bao gian khổ khó khăn sẵn chờ :

-“Mảng nghe, Tần chẳng có vua !

Thái hậu nhiếp chính, ầu ơ điện tiền

Nhương hầu tung hứng nghịch thiên

Hoa Dương thế lớn đảo điên cung đình

Gian nhân kết đảng lộng hành (731)

Dối trên lừa dưới, chông chênh miếu đường

Tam đầu oai trấn Hàm Dương

Đa nghi, chuyên chế, nhiễu nhương nước nhà

Đỉnh chung, chân vạc chia ba

Tần vương ngồi đó chỉ là hình nhân

Dẫu rằng chí muốn hưng Tần

Chẳng qua pho tượng nhận phần tung hô

Chuột bầy đục khoét của kho

Càng buồn, càng ngẫm, càng lo, càng sầu

Quyền rơm biết tính làm sao (741)

Ôm cằm, bó gối, cúi đầu, khoanh tay

Triều đường rặt những cáo cầy

Xương khô trong mả múa may cung đình

Thằng hề, con rối hiển vinh

Người rơm áo mão, bù nhìn cân đai

Đui mù ra dáng hiền tài

Giả câm giả điếc lộc trời đầy no

Chung quanh lục quốc rình chờ

Rõ ràng thế nước bên bờ vực sâu

Hỏi quan biệt giá nghĩ sao ?” (751)

Vương Kê hết vía, gục đầu thất kinh :

-“Cớ sao thông tỏ nội tình ?

Mọi điều phân tích rành rành chẳng sai !

Tinh thông thuật số mà hay

Hoặc là thần nhãn, có tài nhìn xa ?”

Lộc cười :-“Trong đạo binh gia

Việc đầu tiên, phải biết ta biết người

Thông tin quán triệt nơi nơi

Lão thông địa lý, thiên thời, nhân tâm,

Lược thao, cơ số, lục nhâm (761)

Nội tình liệt quốc thảy nằm trong tay !”

Vương rằng :-“Sự thể ngày nay

Làm sao thoát khỏi nạn tai gần kề ?

Rửa tai cung kính xin nghe”

Lộc rằng :-“Kế lớn khó bề giải phân

Vô mưu sao dám sang Tần

Thân vào hổ huyệt cam phần thịt tươi ?

Vua Tần nếu quyết dùng tôi

Ắt là trừ được ba ngôi lộng quyền

Dụng nhân mà dụng không chuyên (771)

Để cho kẻ xấu nói dèm, uổng công

Bao giờ đến trước ngai rồng

Bấy giờ sách lược mới mong tỏ bày !”

Xa xa mù mịt khói mây

Trống khua chuyển đất, cờ bay tung trời

Nhương hầu đang lúc rong chơi

Tiền hô hậu ủng ngời ngời dung quang

Kỵ binh mở lối dẹp đàng

Tàn hồng, tán tía, lọng vàng uy nghi

Lộc rằng:-“Kẻ ấy đa nghi (781)

Không ưa khách tướng cận kề long nhan

Tránh voi, tránh trước cho an

Tiểu tâm nhiễu sự, nghi nan lụy mình !”

Dứt lời cùng với An Bình

Chui vào bao bố, giấu mình trong xe

Loan xa thoắt đã cận kề

Nhương hầu gặng hỏi Vương Kê đủ điều :

-“Biện sĩ là lũ dân điêu

Mồm loa mép giải ra chiều thánh nhân

Chớ đem lũ ấy vào Tần (791)

Khua môi múa mép thêm phần rối ren !”

Vương Kê vâng dạ cho yên

Tạ từ lui gót, thẳng miền Hàm Dương

Một lòng kính phục họ Trương

Trăm điều tiên liệu, tinh tường đủ trăm

Bấy giờ Lộc lại bảo thầm :

-“Nhương hầu kế xảo, mưu thâm cả đời

Có điều tính chậm hơn người

Xe chưa khám xét, chưa thôi ý tà

Thế nào cũng đuổi theo ta (801)

Chi bằng gấp rút chia ra hai đường

Biệt giá đi thẳng Hàm Dương

Tôi tìm lối rẽ, tắt đường mà đi

Khám xe tất chẳng thấy gì

Bấy giờ tụ hội cùng về mới xong”

Vương Kê thực đã tin lòng

Chia tay đôi ngả, bụi hồng đôi nơi

Quả nhiên lốc xoáy mù trời

Kỵ binh thoắt đuổi đến nơi hét hò :

-“Khám xe ! Bắt kẻ cuồng đồ (811)

Chớ cho ngoại chủng lọt vô nước Tần !”

Khám đi xét lại mấy lần

Cuối cùng tưng hửng, tần ngần mà đi

Xá nhân cho chí Vương Kê

Thảy đều thán phục tài nghề họ Trương

Rõ là hào kiệt phi thường

Xét người tính việc tỏ tường tinh anh

Chờ nhau chưa quá nửa canh

Ung dung xe ngựa nhập thành Hàm Dương

Tạm về dinh thự họ Vương (821)

Bồ đào rũ sạch bụi đường bấy lâu

Của ngon vật lạ dâng hầu

Lại cho con cháu dập đầu bái sư

Vương Cung, Vương Kiếm bấy giờ

Phất phơ ba chỏm, thò lò mũi xanh

Ngày sau thiên cổ lưu danh

Gồm thâu lục quốc, tung hoành tài trai

Một tay Trương Lộc tài bồi

Gọi là trả nghĩa giúp người tri âm,

Ở Tần vẫn nhớ Mai Lâm (831)

Trúc tiêu réo rắt, hồ cầm nỉ non

Bao giờ về được cô thôn,

Thăm mồ cha mẹ, cho tròn thân danh

Bao giờ sự nghiệp tác thành,

Vinh thê ấm tử, sử xanh chói ngời

Bao giờ đôi bóng chung đôi,

Lau khô nước mắt cho người chờ mong

Trăng khuya lơ lửng đầu song

Quỳnh Hoa chắc hẳn nhớ nhung bên trời

Nửa vầng trăng sáng chơi vơi (841)

Nửa vầng kia đã khuất vời ngàn dâu

Trời làm dâu bể, bể dâu

Cạn dòng nước mắt, âu sầu trông trăng

Hồn nương mây ấm mấy tầng

Giãi lòng ra với chị Hằng không nguôi

Trời cao có xuống làm người,

May ra biết xót thương đời biệt ly !



[Còn tiếp]


========
Truyện thơ

THỪA TƯỚNG ỨNG HẦU PHẠM THƯ

Giản chú

by NGU PHU

(Nguyễn Phú)

========


GIẢN CHÚ đoạn 8

PHẠM THƯ SANG TẦN



1-NHIẾP CHÍNH : Tạm nắm quyền chính, xử lý mọi việc trong triều đình thay cho vua còn nhỏ tuổi

2-NGHỊCH THIÊN : làm trái ngược lại lẽ trời (Ý nói : Nhương hầu Ngụy Nhiễm là bề tôi nhưng lại lấn quyền, hiếp vua)

3-TAM ĐẦU : Chế độ chính trị do 3 người đứng đầu bộ máy nhà nước, có quyền hành ngang nhau.

4-HÌNH NHÂN : Hình người cắt bằng giấy, để phục vụ cho việc cúng bái diệt yêu trừ ma, đặc biệt là khi cúng cô hồn tháng bảy. Ý chỉ người không có sự sống thật sự, không có quyền hành.

5-QUYỀN RƠM : Tục ngữ “Quyền rơm, vạ đá”, quyền hành thì mỏng manh, nhẹ, yếu như cọng rơm; còn tội vạ, trách nhiệm thì nặng như đá tảng.

6-CÁO CẦY : Cáo chồn, chó hoang. Chỉ loại người sống theo bản năng, thấy lợi là chụp giật, tranh giành, cấu xé lẫn nhau.

7-XƯƠNG KHÔ TRONG MẢ : Ý nói những con người sống mà như đã chết, khô mục, rệu rã, không có sức sống.

8-THẰNG HỀ : Kẻ chuyên mua vui cho mọi người trong cung đình thuở xưa.

9-CON RỐI : Người hoặc vật giả, cử động được là do kẻ khác giật dây.

10-NGƯỜI RƠM, BÙ NHÌN : Hình người bằng rơm, đặt ở ruộng rẫy nhằm mục đích xua đuổi chim chóc, không cho phá lúa hoặc hoa màu sắp đến kỳ thu họach.

11-THUẬT SỐ : Thuật bói toán.

12-THẦN NHÃN : Mắt thần. Theo truyền thuyết, trên thiên đình có 2 vị thần, là “Thiên Lý Nhãn”, và “Thuận Phong Nhĩ”. Một người có mắt thần có thể nhìn thấy việc xảy ra cách xa ngàn dặm. Một người có tai thần, có thể đón luồng gió mà nghe được chuyện cách xa ngàn dặm.

13-ĐẠO BINH GIA : Phép cầm quân, thuật dùng binh.

14-QUÁN TRIỆT : Hiểu rõ đến tận cội rễ, ngọn nguồn.

15-ĐỊA LÝ : Hiểu thấu hình thế đất đai, chỗ nào có thể dàn trận, chỗ nào có thể phục binh, đâu là địa lợi, đâu là tử địa, hiểm địa, để phục vụ cho việc dùng binh.

16-THIÊN THỜI : Xem thiên tượng (gió, mây, trăng, sao) mà biết trước được thời tiết

17-NHÂN TÂM : Hiểu được lòng dân theo ai, chống ai. Hiểu được ý dân muốn gì, cần gì ...

18-LƯỢC THAO : Tài năng, mưu trí trong hành quân, đánh trận

19-CƠ SỐ : Các thuật toán, áp dụng vào việc tổ chức quân đội, sao cho các cánh quân phối hợp chính xác được với nhau.

20-LỤC NHÂM : Thuật bói toán dựa trên “Dịch lý” của vua Phục Hy (bói Tiên Thiên) và Chu Văn Vương (bói Hậu Thiên) để lại, có thể đoán biết được cả quá khứ, lẫn vị lai.

21-NỘI TÌNH LỤC QUỐC : Những chuyện thầm kín, bí mật, thâm cung bí sử của các nước.

22-GIẢI PHÂN : Giải thích và phân tích một vấn đề nào đó, giúp cho người khác có thể dễ dàng hiểu được.

23-HỔ HUYỆT : Hang cọp, cũng như “Long đàm” (đầm rồng), là những từ để chỉ các nơi nguy hiểm, dễ đến nhưng khó về, sa vào những nơi ấy khó lòng mà toàn mạng.

24-TIỀN HÔ HẬU ỦNG NGỜI NGỜI DUNG QUANG : Kẻ trước hét dọn đường, người sau la ủng hộ. Sắc mặt ,vũ khí, quần áo của quân sĩ đều sáng ngời.

25-KHÁCH TƯỚNG : Tướng vốn xuất thân từ nước khác, không phải là người bản xứ

26-LONG NHAN : Mặt rồng, tức là “Vua”.

27-TIỂU TÂM NHIỄU SỰ : Kẻ có lòng nhỏ nhen, hay gây ra lắm việc rắc rối, gây khó dễ cho người khác.

28-LOAN XA : Xe trang trí hình chim loan, chim phượng.

29-BIỆN SĨ : Kẻ giỏi tài miệng lưỡi, giỏi tranh luận.

30-MỒM LOA MÉP GIẢI : Như “Mồm năm miệng mười”, nghĩa là nói nhiều, nói lắm, hay đặt bày ra nhiều chuyện.

31-KẾ XẢO : Mưu kế tinh xảo, khéo léo lừa người mắc vào bẫy.

32-CUỒNG ĐỒ : Kẻ vừa ngu ngốc vừa cuồng ngông, làm bậy, nói bừa không cần biết gì đến lẽ phải.

33-NGOẠI CHỦNG : Kẻ thuộc về chủng tộc khác, không phải là người bản xứ.

34-BÁI SƯ : Vái lạy ai đó, để nhận người ấy làm thầy.

35-THIÊN CỔ LƯU DANH : Để lại tiếng tốt đến muôn đời.

36-TUNG HOÀNH : (Vẫy vùng) Ngang dọc

37-TÀI BỒI : Vun đắp cho ai nên người.

38-NGƯỜI TRI ÂM : Xuất xứ từ điển tích “Bá Nha, Tử Kỳ”. Bá Nha giỏi nghề gảy đàn, Chung Tử Kỳ lại có tài nghe tiếng đàn mà hiểu được tâm sự của Bá Nha.

-“Tri âm” nghĩa là “nghe tiếng đàn hiểu được tâm sự”.

Nghĩa rộng : Người tri âm là người bạn tốt có khả năng hiểu rõ nỗi lòng thầm kín của mình, và cũng sẵn sàng chia sẻ buồn vui với mình.

-“Tri kỷ” (từ tương tự) nghĩa là “hiểu mình”.

39-TRÚC TIÊU : Sáo trúc.

40-HỒ CẦM : Đàn tỳ bà.

41-CÔ THÔN : Xóm làng nhỏ bé, cô quạnh, vắng vẻ.

42-SỰ NGHIỆP TÁC THÀNH : Hoàn thành được sự nghiệp.

43-VINH THÊ ẤM TỬ : Làm vẻ vang cho vợ, giúp cho con được “tập ấm” (nối chức của cha khi cha chết).

44-KHUẤT VỜI : Khuất dạng ở mãi tận nơi xa vời vợi.

45-DÂU BỂ, BỂ DÂU : Cũng như “Tang thương” là các từ tắt do câu “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh hóa thành ruộng dâu) mà ra. Các từ này đều có ý nói “việc đời thay đổi”, mới vừa là biển cả, thoắt đã thành ruộng dâu.


=========================



Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả