Trần Trọng Minh
[ Thi Hữu | Nhắn Tin]


Đà Lạt va Tôi hay Ma soeur, Người Tôi Yêu

“ĐÀ-LẠT VÀ TÔI” hay “MA SOEUR - NGƯỜI TÔI YÊU!”


Buổi sáng hôm nay trời Dallas bỗng trở nên mát lạnh, cái lạnh phảng phất của mùa Hè Đà-Lạt khi mặt trời bắt đầu ló dạng ở cuối chân trời, tuy rằng nơi đây mới bắt đầu vào Thu. Âm vang của Dallas nếu xuống giọng ở vần cuối một tí thì nó “chài-chại” trở thành Đà-Lạt. Kể ra thì tôi cũng thường có nhũng suy nghĩ lẩm cẩm như vậy, chắc có lẽ tuổi cũng tới lúc xế bóng rồi chăng?

Đang miên man hướng về quá khứ một thời để thương, để nhớ, để nuối tiếc. Bỗng đâu đây văng vẳng tiếng nhạc réo rắc, hình như từ trong nhà vọng ra lúc trầm, lúc bổng, lúc thật chậm như đếm từng hơi thở - từng bước đi, lúc thì vội vã như tiếng nước chảy trong dòng suối nghe lăn tăn, róc rách. Đây là bản nhạc mà tôi thích nhất, tôi đã chọn trong những bản nhạc dự trù cho đứa con gái lớn của tôi, khi mà nó trình diễn cho riêng vị “Judge” chấm điểm với tên gọi “Fall Festival”, và cho mọi người nghe nhân dịp “Recital” cuối năm. Qủa thật, bản nhạc đươc một số người hôm đó tiến đến gần con gái của tôi với những lời chúc tụng nồng nhiệt nhất sau buổi trình diễn. Trong đời tôi đã có dịp nghe qua những bản nhạc được soạn cho đàn dương cầm của Mozart, của Beethoven, của Bach,…, nhưng tôi lại thích bản nhạc L’orage (The storm) của Friedrich Burgmuller với Op.109, No.13. Thiên thời, địa lợi, cảnh vật nhìn lên từ chót vót ngút ngàn không một gợn mây, chỉ thấy một màu xám ngắt cùng những tia nắng yếu ớt như cố trồi ra khỏi bầu trời, cho đến tận cùng của mặt đất dưới mắt của tôi là thảm cỏ xanh nhưng bắt đầu héo úa bởi cái lạnh đột ngột đang diễn ra nơi đây. Tất cả những dữ kiện đó như quyện trong tôi một cảm xúc đặc biệt về Đà-Lạt. Thành phố mà một lần tôi đã sống và gói trọn tình cảm đến một người con gái dù rằng sự hiện diện của tôi nơi đó chỉ vỏn vẹn ba tháng hơn. Thành phố của những chứng tích lịch sử được kể lại và thông qua sách vở, báo chí, để rồi chúng ta có được những mẫu chuyện mang tính chất huyền thoại, nhưng thật bi ai và đáng yêu như Hồ Than-Thở, Hồ Xuân-Hương, Suối Vàng, Rừng Ái-Ân, Thác Cam-Ly, Thác Prenn…
Nhớ Đà-Lạt với những buổi sáng tản bộ trên đường trong chiếc áo khoác ngoài của những người lính viễn chinh Hoa-Kỳ thường mặc để chống cái lạnh không quen của dân các tỉnh khác lên đây du lịch hoặc công tác như tôi. Đà-Lạt là thành phố của những loài hoa - hoa rừng, hoa dại và những hoa trưng ở trong nhà được người ta trồng trọt để đem bán khắp mọi nơi vì khí hậu thuận tiện của nó. Riêng tôi thật đặc biệt thích được ngắm hai bên đường những đóa hoa Dã-Qùy hoang dại. Thấy nó là thấy Đà-Lạt mà ít nơi nào có.được. Đà-Lạt của những đồi thông vi vút tiếng gió như mời gọi lữ khách một lần đi qua bên những hạt sương mai buổi sáng lấp lánh như những viên ngọc ngũ sắc và những buổi hoàng hôn nắng vàng buông nhẹ, len lỏi qua từng hàng cây, kẽ lá. Đà-Lạt có những con dốc để nhớ mà mỗi lần lái xe đi vào những con dốc ở Dallas với những căn nhà được xây cất theo kiểu Âu-Châu xen lẫn cùng những hàng cây rậm rạp bên đường, tôi lại nhớ tới thành phố sương mù như dốc Duy-Tân, dốc Tăng-Bạt-Hổ, dốc Minh-Mạng. Nói đến Đà-Lạt mà không nhắc đến phở Bằng, cà-phê Tùng là một điều thiếu sót, với những buổi sáng trước khi đến sở làm ghé vào quán vội vàng dùng một tô phở nóng hổi, rồi những buổi chiều nhàn rỗi bên ly cà-phê “phin” thơm phức dưới làn khói thuốc cuộn tròn lơ lửng và tan loãng vào khoảng không mang theo từng suy tưởng riêng tư của mỗi người. Đà-Lạt của những cặp tình nhân, những đôi uyên ương hưởng tuần trăng mật, Cứ như thế họ lặng lẽ từng bước chậm rãi kéo lê những giây phút mặn nồng, họ quàng tay nhau, họ cầm tay nhau trong gió lạnh cùng những cái hôn phớt nhẹ như sợ có ai nhìn thấy. Đà-Lạt của những cô nữ sinh Couvent des Oiseaux hay Lycée Yersin mà tôi có một vài lần đi qua nhưng không chú ý cho lắm. Với tôi điểm thú vị nhất là được ngắm nhìn những cô gái Bùi Thị Xuân vào những buổi sáng từ mọi phía đi vào và những buổi chiều bên dốc Bồ-Đề tràn ra đường khi tan trường; đó là những cô nữ sinh với chiếc áo dài xanh “bleu noir” đậm hiền hòa nhưng chan hòa sức sống của thời con gái tuổi dậy thì, những gương mặt rạng rỡ trước ngưỡng cửa của cuộc đời, cộng với những ước mơ về một tương lai. Cảnh và người như hòa lẫn vào nhau trông thật dễ thương và quyến rũ những tâm hồn tha nhân khi đặt chân đến thành phố này. Đà-Lạt có những cô gái má đỏ hây hây, có những cô đỏ đậm cả khuôn mặt, lại có những cô chỉ thấy thoang thoảng màu đỏ nhạt trên đôi gò má. Đà-Lạt có những bước chân bản xứ mà ta gọi họ là người Thượng mỗi sáng sớm quẩy những chiếc gùi đầy ắp những thứ có thể bán được cho người Kinh. Bên cạnh đó ta còn thấy hình ảnh những người đàn bà hoăc con gái Thượng ngực để trần một cách tự nhiên theo bước chân thoăn thoắt của họ trên đường ra chợ. Ai đó có dịp đến Đà-Lạt cũng đều phải ghé qua Trại Hầm để thưởng thức trái mận bản địa ngọt ngào chan chát. Ta có thể nhìn Đà-Lạt ở nhiều cao độ khác nhau, đó là đặc điểm hữu tình của xứ sương mù. Nói về người Đà-Lạt thì không sao kể cho hết, dân tứ xứ lên đây lập nghiệp, phần lớn là từ miền Bắc đi vào khai khẩn đát hoang để trồng trọt. Ngày nay sinh hoạt giữa người Kinh và người Thượng trở nên gần gũi hơn nhiều. Họ học hỏi lẫn nhau, người Kinh mang những ánh sáng văn minh tiện nghi trong cuộc sống cùng văn hóa của mình để khai hóa người Thượng, ngược lại người Kinh học được rất nhiều kinh nghiệm sống ở núi rừng cao nguyên và những nét văn hóa đặc thù, vũ điệu dân gian của họ. Có những vũ điệu được người Kinh vun đắp thêm bởi nhạc cụ Tây Phương đã dược cổ võ và đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. Ngoài ra, Đà-Lạt còn là nơi đào tạo những vị chỉ huy và sĩ quan cốt cán của quân lực miền Nam trong suốt cuộc chiến như Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, Trường Chiến Tranh Chính Trị, luôn tô điểm thêm cho vẻ đẹp Đà-Lạt trong những ngày cuối tuần được ra phép, với những bộ quân phục vô cùng đẹp thẳng nếp, gương mặt nghiêm nghị xạm nắng sánh bước cùng những em gái hậu phương tươi như hoa…
Kể từ khi nền Đệ Nhị Cộng Hòa sụp đổ đến nay đã 28 năm. Mọi thứ tưởng chừng như rơi vào quên lãng, nhưng không hôm nay mọi hình ảnh từ từ hiện ra từ trong ý thức để tôi có thể kể về Đà-Lạt, để nhớ về một mối tình câm, một mối tình tuyệt đẹp như trong tiểu thuyết, không khi nào trước đó tôi nghĩ có thể xảy đến đối với tôi. Nói cho cùng thì tất cả những gì trên cõi đời này cũng đều có thể xảy ra trong khía cạnh này, hoặc trong lãnh vực khác. Thật là một hạnh ngộ đến với tôi, bởi vì với kiếp lính chiến giầy đây mai đó có bao giờ tôi nghĩ rằng có ngày tôi được thong dong, nhàn rỗi ba tháng hơn trên thành phố Đà-Lạt. Thế mà chuyện đó lại đến nhân dịp vị tướng tư lệnh cũ của sư đoàn thuyên chuyển đi nhậm chức Chỉ Huy Trưởng Trường Võ Bi Quốc Gia Việt Nam yêu cầu đơn vị trưởng của tôi và cho phép tôi lên Đà-Lạt để nói chuyện và truyền đạt những kinh nghiệm chiến trường về mìn bẫy, chất nổ cho quân nhân cơ hữu các cấp của quân trường và toàn thể sinh viên sĩ quan hiện đang thụ huấn cho việc phòng thủ vòng đai của đơn vị. Từ đây, tôi có cơ may để thấy rõ Đà-Lạt trước mắt tôi, thành phố mà bao lần ao ước được sống với nó một thời gian đủ dài, thưởng thức những gì mình muốn, tìm hiểu những gì mình chưa rõ qua sách vở, báo chí.
Chiếc xe Jeep “díp” lùn lăn bánh chậm rãi chạy dọc trên sườn ngọn đồi, một ngôi nhà thờ đang xây cất dở dang, từ điểm cao này trước mắt tôi bên dưới là một thung lũng với những căn nhà nằm san sát nhau. Lâu quá rồi, tôi không còn nhớ tên những con đường ở đó, lần theo sườn đồi một đỗi và hướng mắt lên cao là một tu viện. Tò mò, tôi dừng xe bên lề, đẩy nhẹ cánh cửa và rảo bước vào bên trong, một vài nữ tu xa xa, thì ra đây là nhà tu của các soeur áo trắng, Domaine de Marie, tôi đã có dịp nghe qua báo chí và một vài thằng bạn kể lại. Bất chợt một nữ tu trên tay cầm sô nước có vòi bông sen dừng lại chỗ tôi và xin phép được tưới cây hoa lan sau lưng của tôi. Trời ơi, thần kinh tôi như cứng hẳn lại, đôi chân tôi như ghìm sâu xuống đất không nhúc nhích, và rồi với nụ cười nhẹ hé mở trên đôi môi, người nữ tu trẻ một lần nữa xin phép tôi. Lúc này tôi mới hoàn hồn và lui ra xa vài bước nhưng đôi mắt không rời người nữ tu. Cũng vẫn nụ cười nhẹ, nữ tu gật đầu chào tôi trước khi bước đi vào bên trong bởi một hồi chuông rộn rã. Có lẽ đấy là hồi chuông hết giờ công tác để vào bên trong làm việc khác. Chung quanh tôi moi vật trở nên im vắng, một vài áng mây trắng lãng đãng trôi, tôi ngước mắt nhìn lên Đức Mẹ Maria, bức tượng trông thật uy nghi nhưng hiền diu bao dung, đôi tay Người dang ra sẵn sàng đón nhận những tình thương, những uẩn khúc ngang trái, những phẫn nộ…, để rồi cùng Người hóa giải đi những điều sai trái và kết nạp những điều hay lẽ phải cho con chiên. Tôi quay gót ra xe trở về tư dinh của vị Tướng mà lòng vẫn còn bàng hoàng rung động. Tôi thức trắng đêm không thể ru giấc ngủ bởi hình ảnh Nàng, người nữ tu trẻ với gương mặt trái soan, đôi mắt mỏng nhưng hàng mi cong vút, cánh mũi cao và thon nhỏ, gò má như điểm tô nhẹ một lớp phấn hồng, nụ cười tươi với hàm răng trắng nõn như ngà và đều đặn bên đôi môi mộng đỏ một cách tự nhiên bởi khí hậu lạnh của miền cao. Nàng đẹp như một thiên thần, một tiên nữ giáng trần. Vẻ đẹp của nàng thật là thanh tao, thánh thiện mang sắc thái bức tượng Mẹ Maria như hai giọt nước. Hôm sau, tôi lại gặp Nàng cũng cùmg một nơi chốn đó, cũng với nụ cười hiền dịu, cũng với gương mặt và dáng dấp đó. Tôi chỉ trở về nhà khi bóng Nàng đã khuất hẳn sau khung cửa kín. Cứ như thế và đến ngày thứ tư thì tôi không còn thấy Nàng nữa, mặc dầu tôi thay đổi giờ đến đó, chỉ thấy một nữ tu già đi qua đi lại liếc mắt nghiêm nghị nhìn tôi và tôi đã đọc được trong ánh mắt của bà với cái nhìn không được thiện cảm cho lắm. Vài lần tôi định hỏi thăm vị nữ tu già về Nàng nhưng ngặt một cái là tôi có bao giờ hé môi nói chuyện với Nàng bao giờ đâu, do đó đâu biết tên Nàng là gì. Dù rằng có biết tên nhưng một điều chắc chắn là họ không bao giờ cho tôi gặp Nàng, bởi họ biết rằng tôi có thể làm cản trở bước đường tu hoc của Nàng. Mới có hơn một tuần trôi qua, thế mà tôi trông gầy và bơ phờ hẳn ra, tôi không thấy nhưng thằng bạn mới quen là Tùy viên quân sự cho ông Tướng nhận xét về tôi. Nó có biết đâu tôi đang tương tư, tôi đang bị mất ngủ bởi Nàng, tôi nghĩ thầm như vậy. Có những buổi tối trở về trung tâm thành phố thất vọng vì không còn nhìn thấy dáng dấp người mình thương, mình mến, tôi cuộn mình trong khói thuốc, trong hơi men chếnh choáng. Trong cơn say, tôi lờ mờ thấy đôi mắt quầng thâm vì mất ngủ ở đáy ly bia đang uống. Tôi xoay ly qua lại nghe lanh canh bởi những viên đá lạnh chạm vào thành ly và suy nghĩ mông lung. Tôi thương Nàng thật rồi chăng? Tôi tự vấn mình đừng nên có ý nghĩ ngông cuồng đó, nhưng hình ảnh Nàng lúc nào cũng chờn vờn trước mắt tôi như thách thức. Lạy Chúa, lạy Mẹ Maria tha thứ và cứu rỗi cho kẻ ngoại đạo nhưng lúc nào cũng tin có Chúa và Mẹ ngự ở trên cao, cho con dừng vướng mắc trong tội lỗi quyến rũ Nàng xa lìa Thiên Chúa mà Nàng đang nguyện hiến dâng cuộc đời mình.
Tôi vẫn tuần tự dừng lại năm mười phút trước cửa tu viện mỗi buổi chiều và bất chợt một buổi sáng rảnh rỗi trong hai ngày cuối cùng chuẩn bị hành trang để trở về đơn vị cũ, tôi đến thăm tu viện, có lẽ là lần sau cùng, tôi thầm nghĩ. Vừa bước xuống xe trước cổng, hình như có một thần giao cách cảm, tôi và Nàng cùng một lúc ngẩng mặt lên, hai ánh mắt nhận ra nhau dù là khoảng cách khá xa. Khựng lai, tôi hình dung được trong tâm tư và khóe mắt Nàng một sư hờn trách xa xăm. Nàng không mỉm cười như mọi khi và trong khoảng mấy chục giây ngắn ngủi đó, tôi và Nàng đứng như trời trồng không thể thốt lên lời. Chúng tôi cùng im lặng và cùng lắng nghe những gì đang tràn ngập trong không gian. Không biết Nàng đang nghĩ gì, riêng tôi niềm xúc động và nỗi mừng vui khôn xiết dâng lên tột cùng. Như sực nhớ điều gì đó, Nàng vội vã quay gót bước đi và tôi bước thật nhanh đến bên cánh cửa. Tôi định dơ tay và thét gọi Nàng thật to, nhưng lưỡi như líu lại và hai tay nặng như chì không thể nhấc bổng lên được. Tay vịn cửa, lặng lẽ nhìn Nàng khuất dần, lòng buồn xót xa. Một lúc sau vị nữ tu già lại hiện ra, tôi cúi đầu lễ phép chào nhưng chỉ nghe tiếng “hừ” từ trong cổ họng của bà và quay ngoắt vào trong. Vi nữ tu già đã không tha thứ cho tôi như Chúa và Mẹ Maria đã ban ân phước cho tôi đươc thấy Nàng lần cuối. Tôi cũng không oán trách vị nữ tu già đó bởi vì dẫu sao bà cũng còn là người phàm, vả lại đây là nhiệm vụ của bà để bảo quản quy luật của tu viện.
Trở lại đơn vị dù rằng rất ư là bận rộn nhiệm vụ hành quân, nhưng có một giây phút rảnh rỗi nào đó là nhớ đến Nàng, nhất là về đêm một mình im lặng ngồi trên võng với những cơn mưa rừng rả rích rơi lộp độp trên chiếc poncho. Tôi hớp nhẹ miếng cà phê đắng mà thằng em tốt bụng pha cho tôi hằng đêm. Tôi rít những hơi khói sâu lắng vào miệng, nín thở, tôi có cảm giác hơi khói đang chan hòa trên bộ não, lăn tăn xuyên qua từng tế bào, từng những mạch máu li ti, tất cả làm tôi ngây ngất. Tôi nhắm nghiền mắt lại, nàng tiên áo trắng với đôi cánh đang bay lượn chung quanh tôi. Tôi thiếp đi trong mộng mị cho đến khi điếu thuốc rớt xuống người, xuyên thủng qua lớp áo trellis và chiếc áo thung ở bên trong, rồi cháy rát trên bụng mùi da thịt khét lẹt nóng bỏng, tôi mới giật nẩy người lên, miệng thầm văng tục. Ngoài trời, mưa vẫn rơi, tiếng con ễnh ương, tiếng côn trùng, cùng hòa lẫn trong tiếng gió rít thổi lên những cành lá kêu xột xạt. Đầu nhức như búa bổ, tôi cảm thấy trống vắng một cách lạ kỳ. Tôi cố xua đuổi đi những suy nghĩ không tưởng. Tiếng nổ lớn của đạn pháo bởi đơn vị pháo binh bạn bắt đầu rót vào những vị trí tình nghi do tin tức tình báo hàng ngày mang lại đã đưa tôi trở về thực tại. Cầm ống liên hợp, tôi gọi cho những “thằng em” cẩn thận canh gác và đích thân tôi khoác chiếc áo mưa đi dạo một vòng quanh khu vực phòng thủ. Rồi một đêm yên bình trôi qua, núi rừng lại bắt đầu tiếp nhận những bước chân âm thầm người chiến binh rong ruổi cho những ngày tháng kế tiếp trên những vòng cao độ thấp và cao mà tôi thấy trong bản đồ hành quân.
Bên ly cà phê thói quen mỗi buổi sáng khi thức dậy, từng cơn gió lạnh thổi qua làm tôi rùng mình. Màn mưa bụi mỏng lất phất bay dưới bầu trời trĩu nặng một màu u ám. Tôi đang hình dung lại một chút Đà-Lạt xưa. Tôi mong rằng thời gian rồi cũng sẽ quên đi và nguyện cầu ơn trên cho tôi sự sáng suốt, cho tôi yêu, cho tôi mến, cho tôi nhớ về một cái đẹp bình thường như mọi người được quyền chiêm ngưỡng một vẻ đẹp thiên nhiên nào đó. Tôi mong rằng đó chỉ là sự nuối tiếc thoáng qua mà thôi. Nhưng dù sao đi nữa theo tôi nghĩ đời sống có khác gì sự chết nếu con người sống thụ động, nhàm chán hơn khi không có những ước mơ, không có những đòi hỏi, không có những rung động trước những khung cảnh và vẻ đẹp thiên nhiên mà Thượng Đế đã ban cho.Tôi không muốn mắc nợ. Tôi không muốn mang trong người một cái nghiệp phải trả ở kiếp lai sinh.

Viết xong vào buổi sáng mùa Thu Dallas.





Trang Chính
Văn | Thơ | Nhạc | Tác Giả